Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp phục vụ công tác cổ phần hóa.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.04 KB, 93 trang )






1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………………………………………………………………. 1
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LUẬN CỦA SỰ HÌNH THÀNH VÀ SỬ DỤNG NGUỒN
VỐN NHÀN RỖI TRONG CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ.
1.1. Cơ sở luận về bảo hiểm……………………………………………………4
1.1.1. Các đònh nghóa về bảo hiểm……………………………………….. 4
1.1.2. Bản chất của bảo hiểm……………………………………………..5
1.1.3. Tác dụng của bảo hiểm…………………………………………… 5
1.1.4. Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm…………………………. 6
1.1.5. Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm…………………………………….. 8
1.2. Cơ sở luận về bảo hiểm nhân thọ………………………………………… 10
1.2.1. Đặc trưng bảo hiểm nhân thọ……………………………………… 11
1.2.2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ…………………………………. 12
1.2.3. Một số cơ sở kỹ thuật quan trọng trong bảo hiểm nhân thọ……… 14
1.2.3.1. Phí bảo hiểm và căn cứ tính phí…………………………...14
1.2.3.2. Dự phòng nghiệp vụ………………………………………. 17
1.2.3.3. Giá trò giải ước……………………………………………. 19
1.3. Cơ sở luận về sự hình thành nguồn vốn nhàn rỗi trong các DNBHNT….. 20
1.3.1. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và việc tạo ra nguồn
vốn nhàn rỗi trong các DNBH nhân thọ…………………………... 20
1.3.2. Quỹ dự phòng nghiệp vụ - nguồn vốn nhàn rỗi
cơ bản của DNBHNT……………………………………………… 22
1.4. Cơ sở luận về việc sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong các DNBHNT…... 23
1.4.1. Tính tất yếu khách quan của việc đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi







2
trong các DNBH nhân thọ…………………………………………. 23
1.4.2. Nguyên tắc sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong các DNBHNT…... 24
1.4.3. Danh mục đầu tư trong các DNBH nhân thọ……………………... 25
1.5. Kinh nghiệm sử dụng vốn nhàn rỗi bảo hiểm nhân thọ các nước……….. 29
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HÌNH THÀNH VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN
NHÀN RỖI TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ BẢO VIỆT.
2.1. Khái quát về Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Việt……………………… 33
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của CTBH nhân thọ Bảo Việt..33
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của CTBH nhân thọ Bảo Việt…. 35
2.2. Thực trạng đầu tư tại thò trường bảo hiểm nhân thọViệt Nam…………... 36
2.2.1. Sự phát triển……………………………………………………….. 37
2.2.2. Khả năng huy động và sử dụng vốn………………………………. 39
2.3. Thực trạng hình thành và sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi tại
CTBH nhân thọ Bảo Việt………………………………………………… 41
2.3.1. Các quy đònh pháp lý liên quan đến đầu tư vốn của
các DNBHNT 41
2.3.2. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi tại
Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Việt…………………………….. 47
2.3.2.1. Nguồn vốn nhàn rỗi có thể sử dụng đầu tư tại
CTBHNT Bảo Việt……………………………………….. 47
2.3.2.2. Phân bổ cơ cấu đầu tư……………………………………. 49
2.3.2.3. Hiệu quả đầu tư…………………………………………... 51









3
CHƯƠNG III : NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
NGUỒN VỐN NHÀN RỖI TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ BẢO
VIỆT.
3.1. Mục tiêu phát triển…………………………………………………………... 56
3.2. Những cơ hội và thách thức…………………………………………………. 57
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi tại
Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Việt………………………………………. 60
3.3.1.Nhóm giải pháp về phía Nhà nước…………………………………. 60
3.3.2. Nhóm giải pháp về phía CTBHNTBV…………………………….. 70
3.3.3. Nhóm giải pháp hỗ trợ khác……………………………………….. 77
KẾT LUẬN………………………………………………………………………………………………………………………. 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC























4


MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Kinh doanh bảo hiểm (BH) là một hoạt động kinh doanh mang tính đặc
thù. Đó là một trong những lónh vực đã có từ lâu trên thế giới nhưng thực sự chỉ
mới phát triển mạnh mẽ ở VN trong 10 năm trở lại đây.
Cùng với quá trình phát triển và hội nhập của nền kinh tế, tiềm năng thò
trường bảo hiểm vẫn còn rộng lớn và có nhiều cơ hội phát triển. Doanh thu phí
bảo hiểm trên toàn thò trường luôn có tốc độ tăng trưởng cao trên 25% trong
vòng 5 năm gần đây. Tổng doanh thu phí bảo hiểm trên toàn thò trường năm
2004 ước chiếm khoảng 1,9% của GDP, trong khi tỷ lệ này tại các nước trong
khu vực là từ 4% đến 6%. Tốc độ tăng trưởng cao và tỷ lệ doanh thu phí trên
GDP của VN còn thấp cho thấy tiềm năng phát triển thò trường còn lớn. Tuy
nhiên trên thò trường bảo hiểm VN hiện nay mà đặc biệt là thò trường bảo hiểm
nhân thọ (TTBHNT) được đánh giá là khá sôi động với sự cạnh tranh ngày càng

gay gắt và toàn diện do sự góp mặt từ cuối năm 1999 của 4 doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ (DNBHNT) có vốn đầu tư nước ngoài là Công ty liên doanh trách
nhiệm hữu hạn (TNHH) bảo hiểm Bảo Minh-CMG, Công ty TNHH bảo hiểm
Manulife, Công ty TNHH bảo hiểm Prudential VN và Công ty TNHH bảo hiểm
quốc tế Mỹ (AIA) cùng với Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Việt (CTBHNTBV)
đã bước vào giai đoạn mới – giai đoạn cạnh tranh quyết liệt và phát triển với tốc
độ cao.
Tính cạnh tranh mạnh mẽ thể hiện trên tất cả các mặt như thu hút khách
hàng, tuyển dụng đại lý, đưa ra sản phẩm mới, mở rộng đòa bàn hoạt động,
khuyếch trương quảng cáo,…Chính nhờ hoạt động cạnh tranh mà công chúng






5
nhận thức rõ hơn về bảo hiểm nhân thọ (BHNT), chất lượng dòch vụ, chất lượng
khai thác được nâng lên, sản phẩm thêm đa dạng đồng thời các doanh nghiệp
hoàn thiện thêm điều khoản, quy trình nghiệp vụ, bổ sung các nghiệp vụ gia
tăng giá trò, hoàn thiện mô hình tổ chức và quản lý, chế độ thù lao cho đại lý
theo hướng hiệu quả cao hơn, phù hợp hơn với đặc điểm của kinh doanh BHNT.
Trước thách thức cạnh tranh như thế thì hơn ai hết, Công ty bảo hiểm
nhân thọ Bảo Việt nhận thức được, nếu muốn tiếp tục tồn tại, mở rộng và phát
triển thì bên cạnh việc tập trung vào phát triển những sản phẩm mới có khả
năng sinh lời cao, độ rủi ro thấp thì Bảo Việt cần phải chú trọng đến việc sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi to lớn được tạo ra từ phí BH thu được của
khách hàng, nhằm bảo đảm lựa chọn được những danh mục đầu tư thích hợp, an
toàn cho nguồn vốn và mang lại hiệu quả kinh tế (KT) cao. Đây là vấn đề sống
còn đối với Bảo Việt trong giai đoạn hiện nay bởi thực tế cho thấy chính hoạt

động đầu tư tài chính sẽ hình thành phần lớn lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo
hiểm (DNBH) và trở thành xương sống nâng đỡ cho doanh nghiệp (DN). Do ảnh
hưởng to lớn của vấn đề sử dụng vốn nhàn rỗi đối với sự tồn tại của Bảo Việt
như thế đã thôi thúc tôi chọn đề tài “Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn vốn nhàn rỗi tại Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Việt”.
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI.
Những mục đích cơ bản của đề tài nghiên cứu là :
• Xác đònh bản chất của vốn nhàn rỗi trong DNBHNT.
• Cơ sở lý luận của việc đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi trong các DNBHNT.
• Sự cần thiết của việc đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi trong các DNBHNT.
• Đánh giá thực trạng hình thành và sử dụng vốn nhàn rỗi tại Công ty BHNT
Bảo Việt.
• Xây dựng các giải pháp và đề xuất một số kiến nghò nhằm hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhàn rỗi tại Công ty BHNT Bảo Việt.






6

3. ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong phạm vi sau đây :
• Nghiên cứu thực tiễn hoạt động của Công ty BHNT Bảo Việt từ khi thành lập
đến năm 2004.
• Các quy đònh pháp lý chi phối trực tiếp đến sự hình thành và sử dụng nguồn
vốn nhàn rỗi tại Công ty BHNT Bảo Việt.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
• Trong quá trình phân tích lý luận và thực tiễn các vấn đề về BH, luận văn đã

sử dụng phương pháp duy vật biện chứng.
• Trong quá trình đánh giá hoạt động BHNT trong thực tiễn, luận văn đã sử
dụng phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, đối chiếu và so sánh. Từ đó,
đưa ra các kiến giải về những vấn đề mà luận văn đặt ra.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, các bảng, biểu đồ, phụ lục và danh mục
các tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được trình bày trong ba
chương sau đây :
• Chương I : Cơ sở luận của sự hình thành và sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong
các DNBHNT.
• Chương II : Thực trạng hình thành và sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi tại Công ty
BHNT Bảo Việt.
• Chương III : Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi
tại Công ty BHNT Bảo Việt.









7
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LUẬN CỦA SỰ HÌNH THÀNH VÀ SỬ
DỤNG NGUỒN VỐN NHÀN RỖI TRONG CÁC DNBHNT.

1.1. CƠ SỞ LUẬN VỀ BẢO HIỂM.
1.1.1. Các đònh nghóa về bảo hiểm.
“Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng

trợ cấp nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ ba trong
trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả. Tổ chức này có
trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương
pháp của thống kê”â.
(1)
Bảo hiểm là hoạt động theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro
của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để
doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người
được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Hoặc có thể nói BH là sự đóng góp
của số đông vào sự bất hạnh của số ít.
Hiện nay hoạt động BH tồn tại dưới dạng 2 dạng : hoạt động BH không
mang tính kinh doanh và hoạt động BH mang tính kinh doanh. Khác với bảo
hiểm xã hội (XH) và BH y tế nhằm bảo đảm các quyền lợi XH tối thiểu cho
người lao động, BH mang tính kinh doanh bảo đảm sự ổn đònh tài chính cho nền
kinh tế chống lại các nguy cơ rủi ro, huy động nguồn lực tài chính đáp ứng nhu
cầu vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội như tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao nhận thức của người dân
về vai trò và ý nghóa của BH. Đối tượng tham gia BH mang tính kinh doanh là tổ
chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo nguyên tắc tự nguyện. Đối
tượng được BH là con người, tài sản và trách nhiệm dân sự; chủ thể thực hiện

(1)
Lý thuyết bảo hiểm – TS. Nguyễn Ngọc Đònh






8

hoạt động kinh doanh BH là các DNBH hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài
chính và nộp thuế cho nhà nước.
1.1.2. Bản chất của bảo hiểm :
• Mục đích chủ yếu của BH là góp phần ổn đònh kinh tế cho người tham gia từ
đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn vốn cho
phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
• Thực chất của hoạt động BH là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm trong
nước giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh
khi tai nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra gây tổn thất đối với người tham gia BH.
Phân phối trong BH là phân phối không đều, không bằng nhau nghóa là
không phải ai tham gia cũng được phân phối và phân phối với số tiền như
nhau. Phân phối trong BH là phân phối cho số ít người tham gia BH không
may gặp rủi ro bất ngờ gây thiệt hại đến sản xuất và đời sống trên cơ sở mức
thiệt hại thực tế và điều kiện BH. Điều đó cũng có nghóa, phân phối trong
BH không mang tính bồi hoàn, tức là dù có tham gia đóng góp vào quỹ BH
nhưng không tổn thất thì không được phân phối ( trừ một số sản phẩm
BHNT, BH hưu trí).
1.1.3. Tác dụng của bảo hiểm :
• Góp phần ổn đònh tài chính cho người tham gia trước tổn thất do rủi ro gây ra.
Tổn thất sẽ được BH trợ cấp hoặc bồi thường về tài chính để người tham gia
nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn đònh đời sống, sản xuất kinh doanh.
• Góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống con người an
toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp. Khi tham gia BH, công ty BH sẽ cùng với người tham gia thực hiện
các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất rủi ro xảy ra như đóng góp tài
chính để thực hiện tuyên truyền, hướng dẫn phòng tránh rủi ro.







9
• Góp phần ổn đònh chi tiêu của ngân sách nhà nước. Với quỹ BH do các thành
viên tham gia đóng góp, công ty BH sẽ trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc
phạm vi BH cho người tham gia. Như vậy, ngân sách nhà nước không phải
chi ra để trợ cấp cho các thành viên khi gặp rủi ro. Mặt khác, BH còn làm
tăng thu cho ngân sách thông qua trách nhiệm đóng góp các loại thuế.
• Bảo hiểm là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế – xã hội.
Dưới hình thức phí BH, ngành BH đã huy động được một số lượng vốn khá
lớn từ các đối tượng tham gia. Số vốn đó ngoài chi trả trợ cấp hay bồi thường
thiệt hại còn là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế – xã hội. Đặc biệt đối
với BHNT, nguồn vốn huy động được tích luỹ qua thời gian dài mới sử dụng
để chi trả. Do đó, các công ty BH có thể sử dụng để kinh doanh bất động sản,
mua trái phiếu,…nghóa là dùng để đầu tư và hoạt động kinh tế nhằm sinh lời.
Và như vậy góp phần tăng nguồn vốn cho nền kinh tế, làm cho hệ thống tài
chính sôi động hơn.
• Góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế thông qua hoạt động tái BH.
Thò trường BH nội đòa và thò trường BH quốc tế có mối quan hệ qua lại, thúc
đẩy nhau phát triển thông qua hình thức phân tán và chấp nhận rủi ro – hình
thức tái BH giữa các công ty của các nước.
• Thu hút một số lượng lao động nhất đònh của xã hội, góp phần giảm bớt tình
trạng thất nghiệp cho xã hội.
1.1.4. Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm :
Cơ chế hoạt động của BH dựa trên các nguyên tắc sau :
• Nguyên tắc 1: Hoạt động theo quy luật số đông
Như đã biết, hoạt động bảo hiểm tạo ra được một "sự đóng góp của số
đông vào sự bất hạnh của số ít" trên cơ sở quy tụ nhiều người có cùng rủi ro
thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những vụ tổn thất. Số
người tham gia càng đông, tổn thất càng phân tán mỏng, rủi ro càng giảm thiểu







10
ở mức độ thấp nhất thể hiện ở mức phí bảo hiểm phải đóng là nhỏ nhất đủ để
mỗi người đó không ảnh hưởng gì quan trọng đến hoạt động sinh hoạt sản xuất
của mình.
* Hệ quả :
¾ Nguyên tắc dàn trải rủi ro : thể hiện ở việc dàn trải về không gian, thời gian
và về giá trò để phân tán rủi ro.
¾ Nguyên tắc lựa chọn : trong thực tế các rủi ro do mỗi khách hàng mang đến
là không giống nhau. Do đó, nhà BH sẽ không chấp nhận đảm bảo cho tất cả
các rủi ro đó mà phải lựa chọn và từ chối những trường hợp mà độ trầm trọng
của rủi ro quá lớn vì khi xảy ra tổn thất, phí BH thu được không đủ để bù đắp
và có thể đe dọa cả cộng đồng.
¾ Nguyên tắc phân chia rủi ro : để giảm nhẹ bớt trách nhiệm BH, DNBH cần
phải tìm cách chia sẽ rủi ro mà họ đã nhận cho các nhà BH khác, tránh tập
trung rủi ro quá mức bằng cách thực hiện các kỹ thuật phân chia rủi ro qua
hình thức đồng BH và tái BH.
 Đồng BH : là sự phân chia theo tỷ lệ cùng một rủi ro giữa nhiều nhà BH
với nhau. Mỗi nhà đồng BH chấp nhận một phần trăm nào đó của rủi ro,
đổi lại họ cũng chỉ nhận được một tỷ lệ tương ứng về phí và cũng phải chỉ
trả một tỷ lệ bồi thường như thế.
 Tái BH : là một nghiệp vụ mà qua đó một công ty BH gốc (người
nhượng) chuyển cho một công ty BH khác (người nhận tái) một phần rủi
ro mà công ty BH gốc chấp nhận đảm bảo. Người được BH chỉ cần biết
công ty BH gốc là ngươiø duy nhất chòu trách nhiệm đảm bảo cho rủi ro

của mình chứ họ không cần biết đến người nhận tái BH.
• Nguyên tắc 2 : trung thực tối đa.
Trong BH thương mại có sự hoán chuyển rủi ro từ người được BH sang
người BH trên cơ sở một hợp đồng BH. Điều này tạo ra rủi ro mới đe dọa mối






11
quan hệ giữa hai bên hợp đồng. Đó là khi sự kiện BH xảy ra, có thể người BH
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ cam kết của mình. Còn đối với
người được BH, có thể họ không trung thực khi kê khai trong giấy yêu cầu BH.
Do đó, mối quan hệ giữa hai bên trong hợp đồng BH cần phải được xây dựng
trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau, bảo đảm mọi thông tin phải được cung cấp cho
nhau đầy đủ, chính xác, kòp thời.
1.1.5. Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm :
Các nghiệp vụ bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp cho người
được bảo hiểm trên thò trường bảo hiểm thương mại có thể sắp xếp theo nhiều
tiêu thức khác nhau tùy thuộc vào mục đích quản lý của nhà lập pháp và của
doanh nghiệp bảo hiểm. Liên quan mật thiết đến đối tượng nghiên cứu của luận
văn này là cách phân loại theo kỹ thuật bảo hiểm và theo đối tượng bảo hiểm.
• Phân loại theo kỹ thuật bảo hiểm :
¾ Đây là cách phân loại của các chuyên gia bảo hiểm Pháp và châu Âu, có
nghóa là luôn thiên về mặt kỹ thuật. Theo cách phân loại này các loại hình
bảo hiểm được chia ra làm 2 loại: loại dựa trên kỹ thuật "phân bổ" và loại
dựa trên kỹ thuật “dồn tích vốn".
(1) Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật phân bổ: là các loại bảo hiểm đảm
bảo cho các rủi ro có tính chất ổn đònh (tương đối) theo thời gian và thường

độc lập với tuổi thọ con người (nên gọi là bảo hiểm phi nhân thọ). Hợp đồng
bảo hiểm loại này thường là ngắn hạn (một năm).
(2) Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật dồn tích vốn: là các loại bảo hiểm
đảm bảo cho các rủi ro có tính chất thay đổi (rõ rệt) theo thời gian và đối
tượng, thường gắn liền với tuổi thọ con người (nên gọi là bảo hiểm nhân thọ).
Các hợp đồng loại này thường là trung và dài hạn (10 năm, 20 năm...).






12
¾ Cũng dựa trên kỹ thuật, nghiệp vụ bảo hiểm, nhưng các nhà bảo hiểm Anh -
Mỹ lại nhìn ở khía cạnh khác: Tính chất của khoản bồi thường, theo đó, các
loại hình bảo hiểm được chia ra làm 2 loại:
(1) Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc bồi thường:
Theo nguyên tắc này, số tiền mà người bảo hiểm trả cho người được bảo
hiểm không bao giờ vượt quá giá trò thiệt hại thực tế mà anh ta đã phải gánh
chòu. Các loại bảo hiểm này gồm có: bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách
nhiệm dân sự (gọi chung là bảo hiểm thiệt hại). Tuy nhiên, ngày nay người ta
có xu hướng đưa cả bảo hiểm tai nạn và bệnh tật vào loại này.
(2) Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc khoán: Người
được bảo hiểm sẽ nhận được số tiền khoán theo đúng mức mà họ đã thỏa
thuận trước trên hợp đồng bảo hiểm với người bảo hiểm tùy thuộc và phù
hợp với nhu cầu cũng như khả năng đóng phí. Đây chính là các loại bảo hiểm
nhân thọ và một số trường hợp của bảo hiểm tai nạn, bệnh tật.
• Phân loại theo đối tượng bảo hiểm : Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm thì toàn
bộ các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm được chia thành ba nhóm: bảo hiểm tài
sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con người.

(1) Bảo hiểm tài sản: Là loại bảo hiểm lấy tài sản làm đối tượng bảo hiểm.
Khi xảy ra rủi ro tổn thất về tài sản như mất mát, hủy hoại về vật chất, người
bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm căn cứ vào giá
trò thiệt hại thực tế và mức độ đảm bảo thoả thuận trên hợp đồng. Ví dụ như:
bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm cây trồng, bảo hiểm thiệt
hại máy móc,….
(2) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự : Đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm phát
sinh do ràng buộc của các quy đònh trong luật dân sự, theo đó, người được






13
bảo hiểm phải bồi thường bằng tiền cho người thứ 3 những thiệt hại gây ra do
hành vi của mình hoặc do sự vận hành của tài sản thuộc sở hữu của chính
mình. Ví dụ như: bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe, bảo hiểm trách nhiệm
dân sự chủ tàu, bảo hiểm trách nhiệm người sử dụng lao động,…
(3) Bảo hiểm con người : đối tượng của các loại hình này, chính là tính mạng,
thân thể, sức khỏe của con người. Người ký kết hợp đồng bảo hiểm, nộp phí
bảo hiểm để thực hiện mong muốn nếu như rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng tính
mạng, sức khỏe của người được bảo hiểm thì họ hoặc một người thụ hưởng
hợp pháp khác sẽ nhận được khoản tiền do người bảo hiểm trả. Bảo hiểm con
người bao gồm bảo hiểm tai nạn cá nhân, bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm
nhân thọ.
1.2. CƠ SỞ LUẬN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học – công nghệ, đời sống con người ngày càng được quan tâm và nâng cao hơn
thì bảo hiểm nhân thọ thực sự đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu tại hầu

hết các nước trên thế giới trong đó có nước ta.
BHNT là một hợp đồng giữa người tham gia và công ty BH, theo đó người
tham gia đóng một khoản tiền (phí BH) còn nhà BH cam kết sẽ trả cho một hoặc
nhiều người được hưởng một khoản tiền ấn đònh (số tiền BH) trong trường hợp
người được BH chết, thương tật hoặc còn sống đến một thời điểm chỉ rõ trong
hợp đồng.
Trong khi các loại hình BH khác có mục đích đơn giản là bồi thường cho
các hậu quả xấu của một sự cố (rủi ro), thì BHNT không chỉ có chi trả khi có hậu
quả xấu mà còn có nhiều mục đích khác nhau như tích lũy tài chính.
1.2.1. Đặc trưng bảo hiểm nhân thọ :
• BHNT vừa mang tính tiết kiệm, vừa mang tính bảo vệ. Thật vậy, mỗi người
mua BHNT đònh kỳ sẽ nộp một khoản tiền gọi là phí BH cho công ty BH,






14
ngược lại công ty BH có trách nhiệm trả một số tiền gọi là số tiền BH cho
người được hưởng quyền lợi BH như đã thỏa thuận từ trước khi có các sự kiện
BH xảy ra. Số tiền BH được trả khi người được BH đạt đến một độ tuổi nhất
đònh và được ấn đònh trong hợp đồng. Hoặc số tiền này được trả cho thân
nhân và gia đình người được BH khi người này không may bò chết sớm ngay
cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ qua việc đóng phí BH.
Số tiền này giúp những người còn sống trang trải những khoản chi phí cần
thiết như thuốc men, mai táng, chi phí giáo dục con cái,…Chính vì vậy, BHNT
vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ.
• BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia BH.
Trong khi các nghiệp vụ BH phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục đích là

góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp sự cố, từ đó góp
phần ổn đònh tài chính cho người tham gia thì BHNT đã đáp ứng được nhiều
mục đích. Mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng loại hợp đồng.
Chẳng hạn, HĐBH hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của người tham gia những
khoản trợ cấp đều đặn hàng tháng, từ đó ổn đònh cuộc sống của họ khi già
yếu. HĐBH tử vong sẽ giúp người được BH để lại cho gia đình một số tiền
BH khi họ bò tử vong. Số tiền này đáp ứng được rất nhiều mục đích của người
quá cố như trang trải nợ nần, giáo dục con cái, phụng dưỡng bố mẹ
già,…HĐBHNT đôi khi còn có tác dụng như một vật thế chấp để vay vốn, bán
cho các đối tượng đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia đình hoặc dùng cho
các mục đích cá nhân khác,…
• Hợp đồng BHNT thể hiện tính chất đa dạng và phức tạp. Trong mỗi
HĐBHNT có thể có 4 bên tham gia gồm người BH, người được BH, người
tham gia BH và người thụ hưởng quyền lợi BH. HĐBHNT là một loại HĐ dài
hạn với mức phí không thay đổi trong suốt thời gian BH. Đặc điểm này khác
hoàn toàn với BH phi nhân thọ. Nếu như một khách hàng tham gia BH phi






15
nhân thọ, họ thường chỉ ký HĐ trong thời hạn một năm rồi sau đó lại tái tục
với mức phí sẽ thay đổi qua các năm. Ngïc lại, trong BHNT khách hàng vừa
ký kết một HĐ dài hạn đồng thời vừa có thể được hưởng lãi từ đầu tư cùng
với công ty BH trong thời hạn đó. Ngoài ra, trong HĐBHNT còn thể hiện :
¾ Mức độ rủi ro được BH tăng theo độ tuổi của người được BH.
¾ Khi người được BH không may gặp rủi ro chết, hợp đồng được giải quyết
quyền lợi và đồng thời chấm dứt luôn hiệu lực. Điều này khác với BH phi

nhân thọ, trong 1 năm HĐ được ký kết, người được BH có thể được bồi
thường nhiều lần khi các rủi ro được BH xảy ra gây tổn thất thiệt hại.
1.2.2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ.
• Bảo hiểm nhân thọ tử kỳ :
Bảo hiểm nhân thọ tử kỳ là những sản phẩm bảo hiểm mà trong điều
khoản của hợp đồng bảo hiểm quy đònh doanh nghiệp bảo hiểm có nghóa vụ
thanh toán số tiền bảo hiểm đã ghi trong hợp đồng cho người thụ hưởng khi
người được bảo hiểm bò tử vong.
• Bảo hiểm nhân thọ sinh kỳ :
Bảo hiểm nhân thọ sinh kỳ là loại hình bảo hiểm mà trong điều khoản
của hợp đồng bảo hiểm quy đònh công ty bảo hiểm phát sinh trách nhiệm thanh
toán số tiền bảo hiểm ghi trên hợp đồng cho người được bảo hiểm nếu người
được bảo hiểm còn sống đến khi hết hạn hợp đồng (đáo hạn hợp đồng). Ngược
lại, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực thì hợp
đồng sẽ chấm dứt hiệu lực mà công ty bảo hiểm không phát sinh bất kỳ trách
nhiệm thanh toán nào.Thực chất, hợp đồng bảo hiểm loại này không cung cấp
dòch vụ “bảo vệ” mà chỉ cung cấp một hình thức tiết kiệm cho người được bảo
hiểm để có được một khoản tiền lớn sau một thời gian nhất đònh đáp ứng việc
thực hiện một dự án cho nhu cầu riêng của bản thân họ.






16
• Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp :
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là loại hình kết hợp cả hai loại bảo hiểm tử
kỳ và sinh kỳ. Có nghóa là, trong hợp đồng bảo hiểm có quy đònh công ty bảo
hiểm có trách nhiệm thanh toán số tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc cho

người được bảo hiểm ngay cả khi người được bảo hiểm chết trong thời hạn hiệu
lực của hợp đồng lẫn khi người được bảo hiểm còn sống đến khi hợp đồng bảo
hiểm đáo hạn. Thông thường, các công ty bảo hiểm còn kết hợp trong hợp đồng
này các đảm bảo cho trường hợp thương tật và những chi phí chăm sóc y tế phát
sinh có liên quan đến bản thân người được bảo hiểm
• Niên kim nhân thọ :
Niên kim nhân thọ hay còn gọi là sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trả tiền
đònh kỳ là loại hình bảo hiểm mà công ty bảo hiểm cam kết sẽ thanh toán cho
người được bảo hiểm những khoản trợ cấp đònh kỳ đều đặn (hàng năm, có khi là
hàng tháng, hàng quý,...) kể từ khi người được bảo hiểm sống đến một độ tuổi
nhất đònh đã được hai bên thỏa thuận trên hợp đồng.
• Các nghiệp vụ tồn tích vốn :
Ngoài các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chính nói trên, các công ty bảo
hiểm nhân thọ ở châu u còn cung cấp cho khách hàng của mình những sản
phẩm có đặc tính tiết kiệm như một công ty quản lý quỹ. Đó là các nghiệp vụ
tồn tích vốn được coi như là nghiệp vụ bảo hiểm và bò điều chỉnh bởi pháp luật
về bảo hiểm. Nghiệp vụ tồn tích vốn là một bản hợp đồng, theo đó, người tham
gia đóng góp phí đònh kỳ cho một công ty bảo hiểm tiết kiệm, đổi lại việc công
ty này trên cơ sở đảm bảo cho người tham gia một lãi suất đầu tư ấn đònh, cam
kết sẽ trả cho người góp vốn một số tiền ấn đònh trên hợp đồng vào thời điểm
đáo hạn hợp đồng (có thể 20 hoặc 25 năm) hoặc thông qua việc rút lãi đònh kỳ.







17
1.2.3. Một số cơ sở kỹ thuật quan trọng trong bảo hiểm nhân thọ.

1.2.3.1. Phí bảo hiểm và căn cứ tính phí.
A. Khái niệm : phí bảo hiểm là khoản tiền mà người tham gia BH phải
trả để đổi lấy sự đảm bảo trước các rủi ro đã được người BH chấp nhận. Yêu cầu
chủ yếu đối với phí BH là phải đảm bảo tính thỏa đáng và công bằng. Mức phí
thoả đáng nghóa là phải đủ để công ty BH có thể trang trải các quyền lợi cho
khách hàng khi xảy ra sự kiện BH. Còn công bằng có nghóa là phí BH phải phản
ánh đúng mức độ rủi ro của khách hàng khi tham gia BH.
B. Căn cứ tính phí : trong quá trình tính phí cho HĐBHNT, chuyên viên
tính phí phải đánh giá được xác suất tử vong của người được BH trong thời hạn
hợp đồng (BH tử vong), hoặc xác suất sống đến hết hạn HĐ (BH sống). Bên
cạnh đó, nhà BH còn phải tính đến các khoản thu nhập có được từ việc đầu tư
phí BH cũng như các chi phí phát sinh khi phát hành HĐ mới và trong suốt thời
gian quản lý HĐ. Nói cách khác, phí BH được xây dựng trên những căn cứ chủ
yếu là tỷ lệ tử vong, tỷ lệ sinh tồn, thu nhập đầu tư và chi phí.
B1.Tỷ lệ tử vong và Bảng tỷ lệ tử vong.
• Tỷ lệ tử vong : là tỷ lệ giữa số người chết trong một khoản thời gian nhất
đònh trên tổng số người sống lúc khởi đầu thời gian đó (thông thường được
tính trong từng năm)
¾ Tỷ lệ sống là tỷ lệ giữa số người sống sau một khoản thời gian nhất đònh trên
tổng số người sống lúc khởi đầu thời gian đó.
¾ Mối quan hệ : Tỷ lệ tử vong + tỷ lệ sống = 1
• Bảng tỷ lệ tử vong : là bảng thống kê về nhân khẩu nói lên số lượng người
sống ở các lứa tuổi và số lượng người chết đi giữa các lứa tuổi.
¾ Độ tuổi đầu tiên được đưa vào Bảng tỷ lệ tử vong là 0 và số người khởi đầu
thường là một số chẵn lớn ( như 100.000 người hay 1.000.000 người). Độ tuổi







18
cuối cùng của bảng là độ tuổi mà sau tuổi này, không còn người nào sống
(thường là tuổi 99 hoặc 100).
¾ Bảng tỷ lệ tử vong được công ty BH dùng để tính toán phí thuần cho các
HĐBHNT.
B2. Thu nhập đầu tư : đây là khoản thu có được khi đầu tư các khoản tiền
nhàn rỗi tạm thời hình thành bởi phí thu của khách hàng. Nếu thu nhập đầu tư
cao thì nhà BH kinh doanh đạt hiệu quả cao, từ đó có cơ hội để giảm chí phí BH.
Ngïc lại nếu thu nhập đầu tư thấp thì phí BH phải nộp sẽ cao hơn. Thu nhập
đầu tư được hình thành trên cơ sở vốn đầu tư ban đầu và tỷ lệ lãi suất.
• Lãi và lãi suất.
¾ Lãi là khoản thu nhập có được từ việc đầu tư một khoản vốn trong một đơn vò
thời gian.
¾ Lãi suất là tỷ lệ giữa lãi thu được trong một khoảng thời gian nhất đònh so với
vốn gốc bỏ ra ban đầu, thường tính bằng tỷ lệ phần trăm.
¾ Trên cơ sở giả đònh một mức lãi suất xác đònh nào đó trong suốt thời gian
hiệu lực của hợp đồng, nhà BH sẽ có cơ sở để giảm phí BH so với việc chỉ
tính phí trên căn cứ duy nhất là tỷ lệ tử vong. Mức lãi suất giả đònh đó được
gọi là lãi suất kỹ thuật.
• Lãi suất kỹ thuật : là lãi suất đầu tư dự kiến được nhà BH dùng để tính toán
phí BH. Để đảm bảo nguyên tắc an toàn, nhà BH phải tính toán số phí trên cơ
sở nó chỉ được đầu tư với một mức lãi suất kỹ thuật nhỏ hơn so với lãi suất
chắc chắn của các khoản đầu tư.
¾ Lãi suất kỹ thuật có thể xác đònh bằng lãi suất bình quân của các danh mục
đầu tư mà DNBH đã và đang thực hiện. Hoặc xác đònh bằng lãi suất bình
quân các khoản vay của Nhà nước, lãi suất tiền gửi của các ngân hàng, lợi
nhuận bình quân của toàn xã hội.







19
¾ Trên cơ sở các yếu tố gồm tỷ lệ tử vong và thu nhập đầu tư được trình bày ở
trên đồng thời dựa vào các dữ liệu về tỷ lệ hủy hợp đồng, nhà BH sẽ tính
được một khoản phí gọi là phí thuần. Đây là bộ phận cấu thành quan trọng
nhất của phí BH.
Như vậy, phí thuần là khoản phí được DNBH sử dụng để chi trả tiền BH
cho các trách nhiệm trong hợp đồng.
B3. Chi phí : các chi phí phát sinh trong BHNT được phân thành hai loại
chủ yếu sau :
• Các chi phí về quản lý : đa số các chi phí quản lý tương đương với khoản chi
tiêu tương lai của nhà BH và thường dàn trải theo thời gian. Các chi phí về
quản lý bao gồm :
¾ Chi phí quản lý trong thời gian thu phí BH (cộng cả chi phí thu phí).
¾ Chi phí quản lý trong thời gian không thu phí.
¾ Chi phí thanh toán tiền BH.
• Các chi phí để có hợp đồng (chi phí ký kết hợp đồng)
¾ Đó là khoản chi phí phải trả cho người đem lại hợp đồng cho công ty BH (như
đại lý, cộng tác viên,…) hay chi quảng cáo. Khoản chi này phải trả ngay một
lần vào năm nghiệp vụ đầu tiên hoặc cũng có thể dàn trải theo thời gian tùy
theo từng đối tượng cụ thể. Vì thế việc xác đònh và phân bổ một cách chính
xác chi phí ký kết hợp đồng của công ty BH thường gặp nhiều khó khăn.
• Sau khi dự kiến được các yếu tố như tỷ lệ tử vong, thu nhập đầu tư, tỷ lệ hủy
hợp đồng và chi phí, nhà BH sẽ đưa ra mức phí thương mại (phí toàn phần)
đối với sản phẩm BH.

Phí thương

ma
ïi
Chi phí
quản lý
Phí
thuần
Chi phí ký kết
hợp đồng
= + +







20
Như vậy, phí thương mại hay phí toàn phần là khoản phí mà khách hàng
thực nộp cho công ty BH. Nói cách khác, đây chính là giá cả của sản phẩm BH.
C. Chia lãi : việc đònh phí của các chuyên viên tính phí bằng phương pháp
đưa ra các giả đònh như vừa nêu sẽ dẫn tới kết quả là có khoảng cách nhất đònh
giữa giả đònh và thực tế kinh doanh. Thông thường thực tế kinh doanh sẽ tốt hơn
so với dự kiến nghóa là các DNBH trong quá trình tính phí thường đưa ra một
biên an toàn để đảm bảo không bò thâm hụt ngân quỹ khi chi trả cho các trách
nhiệm trong HĐ. Trong trường hợp đó, DNBH sẽ tiến hành chia lãi cho các chủ
HĐ. Vậy, chia lãi là việc DNBH tăng khoản tiền BH cho những người tham gia
BH bằng cách chia các khoản lợi nhuận thu được.
• Nguồn của lãi chia :
¾ Từ sự thận trọng trong xác đònh lãi suất kỹ thuật và xác đònh xác suất tử
vong, xác suất sinh tồn.

¾ Từ hiệu quả kinh doanh của công ty.
¾ Từ tiết kiệm chi phí quản lý.

1.2.3.2. Dự phòng nghiệp vụ.
Trong kinh doanh BHNT, để đảm bảo nguyên tắc an toàn về mặt tài chính
cũng như đảm bảo khả năng chi trả cho khách hàng, nhà bảo hiểm cần phải lập
ra nhiều quỹ dự phòng khác nhau. Cụ thể, DNBHNT cần phải lập các quỹ sau :
A. Dự phòng toán học.
Chúng ta biết rằng ở mọi thời điểm trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng,
nhà bảo hiểm luôn là con nợ của những người được BH. Nhà BH thu phí BH
ngay từ lúc khách hàng tham gia nhưng chưa thực hiện ngay các cam kết của
mình. Phí BH mà nhà BH thu từ khách hàng thường là phí san bằng (một mức
phí được ấn đònh không đổi từ khi tham gia BH cho đến lúc kết thúc hợp đồng).
Do đó, nhà BH cần phải trích lập quỹ dự phòng để chi trả khi hợp đồng BH đến






21
kỳ hạn hoặc khi xảy ra rủi ro. Dự phòng này được tính toán trên cơ sở xác suất
tuổi thọ và toán tài chính nên gọi là dự phòng toán học.
• Khái niệm : dự phòng toán học là khoản chênh lệch giữa giá trò hiện tại của
số tiền BH và giá trò hiện tại của phí BH sẽ thu được trong tương lai, được sử
dụng để trả tiền BH đối với những trách nhiệm đã cam kết khi xảy ra sự kiện
BH.
• Cách tính :
¾ Đối với dự phòng phí thuần :


Dựï
phòng
phí
thuần
Giá trò hiện tại của
tổng trách nhiệm
bảo hiểm sẽ phải
trả trong tương lai
Giá trò hiện tại của
tổng số phí bảo
hiểm thuần sẽ thu
trong tương lai

= -


¾ Đối với dự phòng phí toàn phần :

Giá trò hiện
tại của tổng
chi phí dự
kiến trong
tương lai
Dựï
phòng
phí
toàn
phần
Giá trò hiện tại
của tổng trách

nhiệm bảo hiểm
sẽ phải trả trong
tương lai
Giá trò hiện tại
của tổng số phí
bảo hiểm toàn
phần sẽ thu
trong tương lai


= + -

B. Dự phòng phí chưa được hưởng : áp dụng đối với các HĐBHNT có
thời hạn dùi một năm, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm sẽ phát sinh trong thời
gian còn hiệu lực của hợp đồng BH trong năm tiếp theo. Dự phòng này chỉ áp
dụng đối với các hợp đồng đóng phí đònh kỳ và được tính theo công thức :

Thời gian còn lại
của đònh kỳ nộp phí
Tổng thời gian của
đònh k
ỳ nộp phí


Dựï phòng = Phí đònh kỳ X









22
C. Dự phòng bồi thường : được trích theo phương pháp từng hồ sơ với
mức trích lập được tính trên cơ sở thống kê số tiền BH phải trả cho từng hồ sơ đã
khiếu nại DNBH nhưng đến cuối năm tài chính chưa được giải quyết.
D. Dự phòng chia lãi : được sử dụng để trả lãi mà DNBH đã thỏa thuận
với bên mua BH trong hợp đồng BH. Chỉ áp dụng đối với những hợp đồng có lãi
chia được tích lũy qua các năm hợp đồng BH và được tính theo công thức sau :
Dựï
phòng
chia
lãi

Tổng lãi chia
cho chủ hợp
đồng trong
năm tài chính
Giá trò tích lũy của lãi đã
chia cho chủ hợp đồng
trong các năm tài chính
trước nhưng chưa chi trả
= +

E. Dự phòng bảo đảm cân đối : được sử dụng để trả tiền BH khi xảy ra
sự kiện BH do có biến động lớn về tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật. Dự phòng bảo
đảm cân đối được trích lập hàng năm cho đến khi khoản dự phòng này bằng 5%
phí bảo hiểm thu được trong năm tài chính của DNBH. Mức trích lập hàng năm
là 1% từ lợi nhuận trước thuế của DNBH.

1.2.3.3. Giá trò giải ước .
Khi khách hàng hủy bỏ hợp đồng, DNBH sẽ có thể thanh toán cho người
tham gia BH một khoản tiền gọi là giá trò giải ước hay còn gọi là giá trò hoàn lại.
Giá trò giải ước có thể là toàn bộ hoặc một phần của dự phòng toán học (thông
thường là bằng một phần của dự phòng toán học).
Giá trò giải ước = Dự phòng toán học – Phí giải ước
Phí giải ước thường được DNBH xác đònh bằng chi phí ký kết hợp đồng
mới hoặc tỷ lệ phần trăm trên số tiền BH.
Như vậy, hợp đồng chỉ có giá trò giải ước khi đã có dự phòng toán học và
dự phòng toán học lớn hơn phí giải ước. Do đó, ở những năm thứ nhất và thứ hai
của hợp đồng thường không có giá trò giải ước (trừ hợp đồng đóng phí một lần).
Nếu sau khi tính ra giá trò giải ước có giá trò âm thì được quy đònh là bằng 0.







23
1.3. CƠ SỞ LUẬN VỀ SỰ HÌNH THÀNH NGUỒN VỐN NHÀN RỖI TRONG
CÁC DNBHNT.
1.3.1. Hợp đồng BHNT và việc tạo ra nguồn vốn nhàn rỗi trong các
DNBHNT.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT) là một sự thỏa thuận bằng văn
bản giữa người mua bảo hiểm và DNBH ( hay người BH). Người mua BH sẽ
phải đóng phí BH cho người BH, còn người BH có nghóa vụ bồi thường hoặc chi
trả tiền BH khi xảy ra các sự kiện BH đã được qui đònh trước trong hợp đồng.
Tính chất may rủi thể hiện ở chỗ hợp đồng BH chỉ được thiết lập để BH cho
những sự kiện không chắc chắn. DNBH có thể sẽ phải chi trả nếu rủi ro xảy ra

hoặc cũng có thể không phải chi trả nếu rủi ra không xảy ra. Chính đặc trưng
này của hợp đồng BH đã làm cho thời điểm thực hiện nghóa vụ của hai bên
không đồng thời xảy ra. Người mua BH khi hợp đồng được ký kết sẽ phải đóng
ngay khoản phí BH, còn DNBH chỉ thực hiện việc chi trả tiền khi nào rủi ro xuất
hiện. Chu trình tài chính của BH là DNBH thu tiền trước trả tiền sau, gọi là chu
trình sản xuất nghòch đảo.
HĐBH nhân thọ là HĐBH không chỉ nhằm mục đích chống lại các sự cố
không may mà còn là một HĐ tiết kiệm. Khi một HĐ được ký kết sẽ tạo ra
nguồn phí BH cho DNBH. Nhưng do đặc thù của chu trình sản xuất nghòch đảo
như đã nói ở trên đã tạo ra tính chất nhàn rỗi của nguồn thu này. Do đó,
DNBHNT thu phí BH rồi tiến hành đầu tư chúng và thực hiện việc chi trả tiền
khi xảy ra sự cố BH hoặc đến kỳ hạn chi trả tiền tiết kiệm đã được thỏa thuận.
Như vậy, nếu không xảy ra sự cố đối với người đóng BH thì khoản tiền mà
DNBH trả cho họ chính là khoản tiền gửi, còn nếu xảy ra sự cố thì các khoản
tiền mà DNBH chi trả chính là khoản tiền BH. Ta có thể nói trong sự vận hành
của BHNT, cam kết bảo đảm của DNBH luôn luôn bao gồm 2 nghiệp vụ là BH
và đầu tư tài chính. Bây giờ ta hãy xét đến cấu trúc của phí BHNT. Phí BHNT






24
được xác đònh dựa trên 2 yếu tố là xác suất tuổi thọ và đầu tư. Mối tương quan
giữa hai yếu tố này được thể hiện qua công thức sau đây :

Phí BHNT = Số tiền BH x Xác suất tuổi thọ x Chiết khấu tài chính.
Đây chỉ là khoản phí thuần để đảm bảo chi trả cho các cam kết. Để xác
đònh toàn bộ khoản phí thì chúng ta phải cộng thêm vào khoản phí hoạt động

nhằm đảm bảo cho việc ký kết hợp đồng, quản lý HĐ và thu phí BH.

Phí BH thu được hàng năm được chia làm hai phần :
• Phí rủi ro dành để đảm bảo cho việc chi trả BH hàng năm.
• Phí tiết kiệm dành để đưa vào dự trữ và đầu tư tài chính. Nó sẽ được trả lại
cho người được BH cả vốn lẫn lãi theo lãi suất kỹ thuật của DNBH.
Với những gì phân tích ở trên, ta thấy các HĐBHNT thực hiện chức năng
tích tụ tài chính. Nhờ đó mà các DNBHNT trở thành một trong những tổ chức thu
hút tiết kiệm quan trọng và cạnh tranh mạnh với những trung gian tài chính khác
trong nền kinh tế. Ngoài ra, do các HĐBHNT là loại hợp đồng dài hạn nên đã
tạo ra nguồn vốn dài hạn cho DNBH đầu tư vào nền KT. Do đó, có thể nói rằng :
quá trình hình thành nguồn vốn nhàn rỗi của các DNBH được thực hiện thông
qua việc ký kết các HĐBH.
1.3.2. Quỹ dự phòng nghiệp vụ – nguồn vốn nhàn rỗi cơ bản của DNBHNT.
Do sự sai biệt về thời điểm thu phí BH và thời điểm chi trả khiếu nại nên
DNBH phải luôn duy trì các khoản dự phòng để thực hiện cam kết với người
đóng BH vào bất cứ thời điểm nào. Hằng năm, khi kết thúc năm tài chính, từ các
HĐ mà DNBH đã ký kết có thể xảy ra những sự kiện không thể biết trước một
cách chính xác như :
• Xảy ra rủi ro từ các HĐ mà thời hạn hiệu lực chưa kết thúc vào ngày cuối
năm tài chính.






25
• Các vụ tổn thất đã xảy ra từ các HĐ thuộc năm tài chính hiện hành và năm
tài chính trước nhưng chưa được DNBH chi trả.

• Ngoài ra, trong quá trình kinh doanh các nghiệp vụ BH, các DNBH còn phải
trích lập các dự phòng nảy sinh từ quy trình kỹ thuật nghiệp vụ BH. Đó là các
khoản tiền mà DNBH đã cam kết phải trả cho người đóng BH, khoản tiền
cho phép DNBH có thể đối mặt với những đột biến trong kinh doanh.
Chu trình sản xuất nghòch đảo của BH đã buộc các DNBH phải dự trữ các
khoản phí BH thu được từ các HĐBH để đảm bảo thực hiện các cam kết trong
tương lai với người đóng BH. Các khoản dự trữ BH được gọi là các quỹ dự phòng
nghiệp vụ.
Như vậy, vì mục đích bồi thường vào bất kỳ thời điểm nào cho những tổn
thất chưa xảy ra khi HĐ đang có hiệu lực, DNBH bắt buộc phải lập các quỹ dự
phòng nghiệp vụ. Mục đích của các quỹ dự phòng nghiệp vụ là để thực hiện cam
kết bồi thường và chi trả tiền BH của DNBH. Nhưng do tính chất vận hành đặc
thù của các DNBH đã tạo ra sự nhàn rỗi cho các khoản dự trữ này. Chúng trở
thành nguồn vốn nhàn rỗi quan trọng và có qui mô lớn nhất trong DNBH.
Trích lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ không chỉ là yêu cầu của nghiệp vụ
BH mà còn là sự bắt buộc của pháp luật. Hay có thể nói, DNBH phải thể hiện
được khả năng thanh toán của mình trước luậât pháp và DNBH được coi là đủ khả
năng thanh toán khi đã trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ. Các quỹ dự phòng
nghiệp vụ luôn là đối tượng kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với DNBH.
Kiểm tra việc trích lập đúng, đủ dự phòng nghiệp vụ sẽ cho thấy DNBH có tôn
trọng các cam kết với người đóng BH hay không? Giám sát chặt chẽ quá trình
lập và sử dụng các quỹ dự phòng nghiệp vụ là một biện pháp hữu hiệu nhằm
bảo vệ quyền lợi của người đóng BH đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy DNBH
tập trung nguồn vốn đầu tư tham gia tài trợ cho nền kinh tế.

×