Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

TIỂU LUẬN: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.17 KB, 25 trang )












TIỂU LUẬN:

Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu
chè của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc










LỜI MỞ ĐẦU


Xu hướng mở cửa nền kinh tế , cùng với sự hội nhập ngày càng sâu hơn vào
các tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới và trong năm 2007 vừa qua Việt


Nam đã chính thức là thành viên của tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO ) . Điều
đó đã mở ra cho nền kinh tế nước ta nhiều cơ hội lớn và cũng không ít khó khăn .
Đặc biệt đối với các mặt hàng là nông sản hay nông sản chế biến.
Chè được coi là sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ yếu của nước ta từ trước tới
nay . Do nước ta có điều kiện khí hậu và đất đai thuận lợi cho cây chè phát triển.
Tuy vậy, chè xuất khẩu của Việt Nam vấn chủ yếu dưới dạng nguyên liệu và chè có
chất lượng chưa cao. Đứng trước thực trạng này, cơ quan các cấp cùng với ngành
chè đã có những biện pháp gì để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè, đặc biệt là sang
thị trường Trung Quốc, một thị trường được coi là thịt rường xuất khẩu trọng điểm
của Việt Nam trong những năm tới.
Từ đó em đã lựa chọn: “ Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của Việt Nam
sang thị trường Trung Quốc” làm đề tài nghiên cứu.
















Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU CHÈ VIỆT NAM SANG

THỊ TRƯỜNG
TRUNG QUỐC
1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA SẢN PHẨM CHÈ VIỆT NAM
1.1.1. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CHÈ Ở VIỆT NAM.
Hiện nay nước ta có 35 tỉnh thành trồng chè tổng diện tích khoảng 125000 ha,
nhưng phần nhiều được trồng ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây
Nguyên. Trong đó các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc chiếm khoảng 74.8% diện
tích chè toàn quốc.
Theo thống kê cho thấy, chỉ tính riêng các doanh nghiệp chế biến chè, hiện
nay nước ta có hơn 650 cơ sở công nghiệp với tổng công suất trên 3100 tấn búp
tươi/ngày. Nhưng với sản lượng 546000 tấn chè búp tươi năm 2005 thì mới chỉ đáp
ứng được khoảng 88% nhu cầu nguyên liệu chè búp cho các cơ sở chế biến này.
Ngoài ra còn có hàng trăm cơ sở chế biến chè thủ công bán chuyên nghiệp
cùng tham gia thu mua nguyên liệu để sơ chế và nhiều cơ sở đấu trộn ướp hương
đóng gói chè. Sản phẩm hiện nay chủ yếu bao gồm các loại chè đen, chè xanh, chè
dược thảo, các loại chè Suối Giàng, Tân Cương, chè Lục, chè Thái và các loại chè
hương sen, nhài, ngâu, sói, chè ướp hương tổng hợp.
Tuy là nước đứng thứ 5 thế giới về diện tích trồng chè nhưng thị trường tiêu
thụ của sản phẩm chè Việt Nam còn rất hạn chế. Do nhiều nguyên nhân một trong
số đó là kỹ thuật sản xuất chế biến còn lạc hậu cho nên chưa phát huy hết tiềm năng
của ngành. Do việc thuê nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong năm trước đây đã
đẩy giá chè nguyên liệu lên cao ở mức kỷ lục. Giá chè tươi đã có lúc lên tới
9000đồng / kg. Theo điều tra cũng cho thấy các doanh nghiệp chỉ tự sản xuất được
gần một nửa nguyên liệu, còn lại phải mua ngoài. Tính bình quân, các doanh nghiệp
thành viên của tổng công ty chè có nguồn nguyên liệu tại chỗ chỉ chiếm 37.2% sản
lượng còn 62.8% thu mua trôi nổi trên thị trường. Chính việc các công ty, doanh
nghiệp không chủ động được nguyên liệu đầu vào đã làm cho việc sản xuất chế biến
chè ở Việt Nam ở tình trạng bất ổn định nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu của
thị trường.



Mặt khác, ở không ít vùng miền việc đầu tư chăm sóc, phát triển cây chè chưa
đúng mức cũng làm cho năng suất cây trồng kém hiệu quả. Hiện nay năng suất chè
bình quân cả nước chỉ đạt 5.7 tấn /ha trong khi đó nếu được chăm sóc tốt vườn chè
và chăm sóc đúng quy cách thì năng suất có thể đạt tới 20-25 tấn/ha. Vì không được
chăm sóc tốt nên chất lượng chè của Việt Nam cũng chưa cao, trong tương lai khó
có thể giữ vững và phát triển được thị trường.
Tóm lại, việc sản xuất chế biến chè ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn đọng
nhiều vẫn đề cấn giải quyết như về cải tiến trang thiết bị công nghệ chế biến, nâng
cao năng suất trồng chè từ đó nâng cao sản lượng chè cũng như chất lượng chè sau
chế biến.
1.1.1. năng suất và chất lượng chè xuất khẩu của Việt Nam.
Mặc dù nước ta có khoảng 122 500 ha chè, đứng thứ 5 thế giới về diện tích
trồng chè nhưng chè của Việt Nam vẫn chiếm một thị phần khá khiêm tốn trong
xuất khẩu chè thế giới do chất lượng thấp. Theo đánh giá của các chuyên gia thì các
tỉnh miền núi phía Bắc tuy có “ lịch sử” phát triển chè sớm nhất với 91.6 nghìn ha
chiếm 74.8 diện tích chè toàn quốc nhưng bình quân giá trị sản xuất chè mới chỉ đạt
từ 13-14 triệu đồng/ha / năm, năng suất chè búp tươi khoảng 60 tạ / ha bằng 60-70
% các nước trên khu vực. Do sản phẩm chè búp tươi không đáp ứng đủ nhu cầu
nguyên liệu cho các cơ sở chế biến làm cho đa phần các doanh nghiệp sản xuất chế
biến chè của Việt Nam đang hoạt động dưới công suất. Bên cạnh đó, do công nghệ
chế biến lạc hậu, trong khoảng 650 nhà máy thì số doanh nghiệp có công nghệ hiện
đại chỉ chiếm khoảng 30%, còn lại 70% các cơ sở chế biến quy mô vừa và nhỏ,
chưa có được sản phẩm chè có chất lượng. Chính vì vậy hầu hết chè xuất khẩu của
Việt Nam dưới dạng nguyên liệu, chè thành phẩm chỉ chiếm 7%.
Một nguyên nhân quan trọng nữa làm cho chất lượng chè xuất khẩu của Việt
Nam có chất lượng thấp. Đó là việc nguyên liệu đầu vào không đủ cho các doanh
nghiệp sản xuất chế biến nên việc các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu mà không
hề quan tâm tới chất lượng càng làm cho chất lượng chè xuất khẩu của Việt Nam
thấp kém hơn các nước khác.

Theo thống kê sơ bộ, 4 tháng đầu năm 2007 , xuất khẩu chè các loại của Việt
Nam đạt 27000 tấn, trị giá 26 triệu USD, tăng 8% về lượng và 4% về giá trị so với


cùng kì 2006. Tuy nhiên, các chuyên gia cảnh báo, nếu chất lượng chè và các tiêu
chuẩn không được cải thiện thì mục tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu cảu ngành trong
năm nay sẽ khó thực hiện được.
Theo đánh giá của Hiệp Hội Chè Việt Nam thì giá chè xuất khẩu của Việt
Nam những năm gần đây đang có xu hướng giảm mà nguyên nhân sâu xa đó là do
chất lượng chè của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường chè cấp cao
cả về giống, phương pháp canh tác và chế biến. Hiện nay , Việt Nam đang mất dần
thị trường tiêu thụ do chất lượng chè không đáp ứng được yêu cầu của các thị
trường quen thuộc, vì vậy ngành chè Việt Nam cần có những giải pháp nhằm đưa
ngành chè Việt Nam đứng vững trên thị trường thế giới. Mà trước tiên phải tạo mối
quan hệ vững chắc giữa người sản xuất và các doanh nghiệp chế biến, tạo sự ổn
định cho sản xuất và đầu ra ổn đinh cho người trồng chè . Và ngay từ bây giờ chúng
ta phải sản xuất chè an toàn, chất lượng phải đáp ứng được yêu cầu tiêu thụ nội địa
cũng như xuất khẩu. Mặt khác, cũng cần xây dựng hệ thống tiêu chuẩn , cũng như
hành lang pháp lý đảm bảo chè Việt Nam sản xuất ra đúng chất lượng . Ngành chè
cũng nên kết hợp với các tổ chức quốc tế để chứng nhận chất lượng cho chè Việt
Nam, có chứng nhận đó thì chè Việt Nam sẽ tạo được thị trường ổn định và bán
được với giá cao.
1.1.2. Thói quen dùng trà thể hiện nét văn hoá của người Việt Nam cũng
như nhiều quốc gia khác.
Theo thư tịch cổ Việt Nam, cây chè đã có từ xa xưa. Và người Việt Nam
trồng chè dưới 2 loại hình đó là : chè vườn hộ gia đình uống lá chè tươi, tại vùng
chè đồng bằng Sông Hồng; còn ở vùng núi phía Bắc, người dân ở đó uống chè mạn,
lên men một nửa như vùng Hà Giang, Bắc Hà,… Điều đó chứng tỏ người Việt Nam
có thói quen dùng trà từ rất lâu đời. Ngày nay, đó còn thể hiện nét đẹp trong văn
hoá của người Việt.

Để giới thiệu với thế giới về chè Việt Nam, những năm gần đây các vùng
trồng chè trên cả nước, cùng với doanh nghiệp và Hiệp hội chè Việt Nam liên tục tổ
chức các lễ hội văn hoá trà Việt . Mới đây, ngày 26/2/2007 tỉnh Thái Nguyên là một
tỉnh nổi tiềng với chè Tân Cương đã tổ chức lễ hội văn hoá trà Thái Nguyên nhằm
tôn vinh nghề làm chè truyền thống và quảng bá thương hiệu chè Thái Nguyên. Lễ


hội còn giới thiệu với du khách về nghệ thuật pha trà đặc sắc và được thưởng thức
hương vị đặc trưng của chè Thái Nguyên.
Trong năm 2007 này kết hợp với các tỉnh, Hiệp hội chè Việt Nam sẽ tổ chức
lễ hội văn hoá trà ở một số tỉnh khác như: Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ.
Bên cạnh đó, Hiệp hội chè Việt Nam cũng dự định sẽ tổ chức hội nghị quôc tế và lễ
hội quốc gia về chè vào 2008. Trong lễ hội này, tất cả các quốc gia nhập khẩu chè
của Việt Nam đều là khách mời, lễ hội nhằm quảng bá thương hiệu quốc gia chè
Việt Nam, nâng cao vị thế của chè Việt Nam trên thương trường và tiếp tục nâng
cao chất lượng , an toàn sản phẩm vì sức khoẻ người tiêu dùng.
Các lễ hội nhằm tôn vinh , giới thiệu sản phẩm trà Việt Nam, bên cạnh đó còn
giới thiệu với mọi người về kĩ thuật sao tẩm, pha chế và giới thiệu nét văn hoá uống
trà của người Việt Nam,…Lễ hội cũng tạo ra nét văn hoá uống trà của người Việt.
Trong những năm tới, để thúc đẩy ngành chè trong nước phát triển và đẩy
mạnh xuất khẩu chè của Việt Nam thì chúng ta cần phải đưa chè của Việt Nam đến
với thế giới không chỉ với sản phẩm có chất lượng cao mà còn làm cho mọi người
biết đến nét văn hoá uống trà của người Việt Nam.
1.2. vị trí, vai trò của sản xuất và xuất khẩu chè Việt
Nam.
Rất nhiều các học thuyết của các nhà kinh tế cổ điển, tân cổ điển cũng như nhà
kinh tế học hiện đại đều khẳng định thương mại quốc tế đem lại nhiều lợi ích về
kinh tế, xã hội cho các quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế và trong xu hướng
toàn cầu hoá thì nó trở thành hoạt động không thể thiếu đối với mỗi quốc gia trong
việc phát triển kinh tế xã hội. Đối với từng ngành sản xuất, từng mặt hàng cũng vậy

thương mại quốc tế góp phần mở rộng thih trường tiêu thụ, tăng năng suất, sản
lượng sản xuất ra. Xuất khẩu có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân vì
vậy xuất khẩu chè cũng đóng vai trò quan trọng trong họat động xuất khẩu của Việt
Nam.
1.2.1. Sản xuất, xuất khẩu chè mang lại lợi ích kinh tế.
Sản xuất, xuất khẩu chè góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ các loại sản
phẩm từ chè giúp cho quá trình sản xuất diễn ra một cách hiệu quả với năng suất
cao. Nhờ có xuất khẩu các nước trên thế giới có thể biết tới chè Việt Nam. Nếu các


doanh nghiệp làm tốt công tác thị trường, hậu cần, công tác Marketing quốc tế thì
đây là cơ hội để các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cụ thể,
xuất khẩu chè góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc gia, tăng thu từ ngoại tệ,
tăng dự trữ ngoại tệ, từ đó tạo điều kiện mua sắm máy móc thiết bị sản xuất tiên tiến
để cải tiến kỹ thuật sản xuất lạc hậu nhằm góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá của đất nước.
Bên cạnh đó xuất khẩu chè còn góp phần mở rộng liên doanh, liên kết giữa
trong và ngoài nước, mở rộng các quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh doanh,
khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực hiện có.
Xuất khẩu chè đặt ngành chè Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt với
các sản phẩm chè của các quốc gia khác, vì vậy để giữ vững và phát triển được thị
trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng chè, đổi mới công nghệ
chế biến nhằm đưa ra thị trường sản phẩm tốt nhất, từ đó tạo động lực thúc đẩy sản
xuất kinh doanh phát triển.
Nhờ đổi mới công nghệ sản xuất chế biến các doanh nghiệp không những
nâng cao chất lượng mà còn tăng năng suất lao động, tiết kiệm được chi phí sản
xuất kinh doanh giúp cho doanh nghiệp phát triển ổn định và bền vững.
Năm 2006 xuất khẩu chè của Việt Nam đã đạt tới mức kỷ lục là 106 116 tấn
với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 111.6 triệu USD, góp phần đáng kể vào GDP,
GNP của Việt Nam.

Như vậy, xuất khẩu chè mang lại lợi ích to lớn về kinh tế góp phần đẩy nhanh
sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
1.2.2. Lợi ích xã hội mà xuất khẩu chè mang lại.
Ta đã được biết xuất khẩu chè mang lại lợi ích kinh tế to lớn, nhưng bên cạnh
đó xuất khẩu chè cũng mang lại lợi ích cho xã hội. Chè được phân bổ trên 34 tỉnh
thành trên cả nước, với 640 cơ sở chế biến quy mô công nghiệp, 220 doanh nghiệp
xuất khẩu trực tiếp, giải quyết việc làm và an sinh xã hội cho hàng triệu người lao
động ở trung du và miền núi, tham gia tích cực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo,
công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng.
Xã hội vùng chè nhiều nơi đã thoát nghèo, hàng vạn nông hộ được hưởng lợi trở


nên giàu có nhờ tăng trưởng xuất khẩu chè và gia tăng giá nguyên liệu và hoạt động
mạnh mẽ của công nghiệp chế biến chè.
Vì lẽ đó, xuất khẩu chè càng phát triển cùng với sản xuất hiêu quả sẽ góp phần
giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân nơi vùng chè.
1.3. Thực trạng ngành chè Việt Nam.
1.3.1. Nguyên liệu cho chế biến chè xuất khẩu.
Hiện nay, sản xuất và trồng chè Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về
nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến trong nước. Phần lớn chè nguyên liệu
chưa đạt được chất lượng đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế.
Chè sản xuất ra chưa đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng về dư lượng kháng sinh,
an toàn thực phẩm,… Cây chè chưa được chăm sóc đúng quy trình chất lượng và
yêu cầu sản xuất chè an toànm, chất lượng cao.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia thì chè Việt Nam là một trong những loại
chè tốt nhất thế giới nhưng lại chưa được chăm sóc, bảo quản đúng cách và khó có
khả năng xuất khẩu được chè thành phẩm có chất lượng cao, do công nghệ, thiết bị
chế biến lạc hậu. Để hoạt động xuất khẩu chè phát triển và mở rộng trong tương lai
thì ngành chè cần chú trọng tới việc đầu tư phát triển vùng nguyên liệu cho sản xuất
và chế biến chè xuất khấu.

1.3.2. Vấn đề về thương hiệu cho chè của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Phát triển một thương hiệu và định vị hợp lý thương hiệu đó chiếm lĩnh thị trường
trong nước và quốc tế hiện đang là bài toán lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất
và xuất khẩu chè nói riêng cũng như đối với nhiều doang nghiệp Việt Nam nói
chung. Trên thực tế, thương hiệu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc cạnh
tranh khắc nghiệt thời kỳ hội nhập kinh tế.
Phát biểu tại hội thảo “ Phát triển và định vị thương hiệu” do Viện Phát triển doanh
nghiệp ( Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) tổ chức, vừa diễn ra ngày
24-7 tại Hà Nội, ông Phạm Thanh Hùng – Giám đốc Công ty Cổ phần EPIC Trí tuệ
kinh doanh, khẳng định: “Nếu chúng ta nắm trong tay một thương hiệu mạnh thì
cũng đồng nghĩa với việc có những khách hàng trung thành cũng như có được sự
hợp tác mạnh mẽ từ phía các đại lý”. Mặt khác, từ thương hiệu mạnh sẽ là cơ hội để
phát triển thương hiệu phụ dưới sự bảo trợ của thương hiệu chính. Như vậy là giá trị


gia tăng tỷ lệ thuận với sự nổi tiếng của một nhãn sản phâm nào đó. Ngày nay, tiêu
dùng một sản phẩm không đơn thuần là tiêu dùng giá trị sử dụng của hàng hoá đó
mà nó luôn đi cùng với tên tuổi, sự nổi tiếng của nhãn hiệu đó. Vì vậy, mỗi sản
phẩm khi đưa ra thị trường ngoài việc đảm bảo chất lường tốt còn phải tạo dựng cho
nó một tên tuổi, một thương hiêu của riêng sản phẩm đó. Xây dựng thương hiệu cho
sản phẩm trên thị trường cũng là tạo lòng tin cho khách hàng khi tiêu dùng sản
phẩm, nhằm giữ được khách hàng đến với doanh nghiệp, giữ vững và phát triển thị
trường tiêu thụ sản phẩm từ đó mở rộng quan hệ kinh doanh của doanh nghiệp.
Đi cùng với sự phát triển thương hiệu là vấn đề sở hữu trí tuệ với thương hiệu cũng
được các doanh nghiệp đang quan tâm, thậm trí rất nhiều doanh nghiệp vẫn còn
lúng túng trong việc sử lý vấn đề này. Đại diện công ty xuất nhập khẩu chè đã từng
bày tỏ: “Mỗi năm Vina Tea sản xuất khoảng 195 nghìn tấn chè, trong đó xuất ra
nước ngoài chủ yếu là chè thô. Vina Tea rất muốn chuyển hướng sang sản xuất chè
cao cấp hơn để xuất khẩu ra nước ngoài, nhưng để xây dựng một thương hiệu mạnh
của chè Việt Nam để cạnh tranh với các hãng chè nổi tiếng khác trên thế giới là rất

khó! Dường như chỉ cần nhắc đến Vina Tea là người ta định vị ngay đến một
thương hiệu chè thô, chè bình dân. Mặc dù chúng tôi đã cố gắng cải tiến phương
thức kinh doanh, sản xuất ra các loại chè chất lượng cao nhưng người ta vẫn chưa
chấp nhận. Hiện tại Vina Tea đang phải mượn lại nhãn mác của chè Nes – Tea
(nhưng sản xuất theo công nghệ chè Việt Nam) gắn vào sản phẩm của Vina Tea để
xuất khẩu”.
Thực tế cho thấy, việc tái định vị cho một loại sản phẩm là khó và tốn kém hơn rất
nhiều lần so với việc tạo ra một thương hiệu mới. Trong trường hợp này các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu chè nói riêng nên
tách ra một sản phẩm mũi nhọn, không gắn liền với thương hiệu gốc; hoặc sử dụng
thương hiệu gốc để bảo hộ nhẹ, bảo hộ từ xa cho sản phẩm mới; hoặc cũng có thể
liên kết với các thương hiệu mạnh để sản xuất, kinh doanh”.
Để định vị thương hiệu cho sản phẩm chè Việt Nam trên thị trường thế giới không
đơn giản là việc làm một sớm, một chiều. Vì vậy, các doanh nghiệp cần có kế
hoạch, chiến lược cụ thể, các doanh nghiệp nên chia ra thành các nhóm hàng cụ thể
như đưa ra đâu là mặt hàng mũi nhon của doanh nghiệp nhằm tập trung nguồn lực


tốt nhất cho sản xuất sản phẩm đó; sản phẩm chiến lược đòn bẩy (dùng thương hiệu
khác làm đòn bẩy cho sản phẩm của mình); thương hiệu “ bò sữa” (bán sản phẩm
mà mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho doanh nghiệp).
Việc định lại cho một thương hiêu trên thị trường là rất tốn kém và khó khăn vì vây
ngay từ ban đầu, ngay khi có ý tưởng phát triển một thương hiệu thì nhà kinh doanh
nên nghĩ ngay đến việc đăng ký bản quyền, tránh trường hợp bỏ ra nhiều công sức,
kinh phí để xây dựng ý tưởng, đến khi đi vào thực hiện thì đã bị người khác đăng ký
bản quyền.
Hiện nay, Vina Tea đã cho ra thị trường rất nhiều sản phẩm với những nhãn hiệu
chè đã được nhiều nước trên thế giới biết đến. Hàng năm xuất khẩu chè của Vina
Tea đạt khoảng 30 000 tấn/năm bao gồm các loại chè như: chè đen (Orthordox,
CTC), chè Ôlong, Pouchung, chè Gunpowder, chè xanh kiểu Nhật, các loại chè

dược thảo, chè ướp hương hoa quả,…Cho đến nay Vina Tea đã có quan hệ thương
mại với trên 120 công ty và tổ chức thương mại tại trên 50 quốc gia và vùng lãnh
thổ. Nói đến Vina Tea ta cũng không thể không nhắc tới sản phẩm chè Mộc Châu
do Công ty chè Mộc Châu sản xuất.Hiện nay, chè Mộc Châu là sản phẩm chè được
bảo hộ về nhãn mác, xuất sứ và được chứng nhận tiêu chuẩn quản lý chất lượng và
được nhiều nước biết đến với nhãn hiêu chè có chất lượng của Việt Nam.
Bên cạnh đó, phải kể đến chè Tân Cương – Hoàng Bình.Ngoài việc quảng bá
thương hiêu của mình chè Tân Cương còn khẳng định vị trí của mình trên thị trường
quốc tế bằng chất lượng chè. Trong 5 năm (2001- 2006) nhà máy chè Tân Cương đã
ra mắt khách hàng 26 loại chè mang thương hiệu Tân Cương – Hoàng Bình. Đó là
chè đen, chè xanh cao cấp làm quà biếu như Lan Đình trà, Trúc Lâm trà; chè
Qyeenli túi lọc ướp hương nhài, hương sen phục vụ văn phòng, hội họp; chè Vu
Quy dùng trong cưới hỏi; chè dùng cho lễ hội, chùa chiền…
Chính vì vậy hiện nay chè Tân Cương đã xuất sang Trung Quốc, Hoa Kỳ, Xin-ga-
po, Pa-ki-xtan, Xri Lan-Ka…
Tuy vậy, trong trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của WTO thì các doanh
nghiệp sản xuất và xuất khẩu chè Việt Nam cần có chiến lược phát triển thương
hiệu của mình trên thị trường nội địa cũng như trên thị trường quốc tế. Ý thức được
tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm chè xuất khẩu, các


công ty xuất khẩu chè và các công ty chế biến chè xuất khẩu của Việt Nam gần đây
đã chú trọng đầu tư xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình. Nhiều nhãn hiệu
chè của Việt Nam đã được đăng ký bản quyền sử dụng tại nhiều nước trên thế giới,
và chè xuất khẩu của Việt Nam đang dần được các nước trên thế giới biết đến với
thương hiệu của chè Việt.
1.4. Sự cần thiết phải thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè sang thị trường Trung
Quốc.
1.4.1. Một số điểm nổi bật về thị trường chè Trung Quốc.
Trung Quốc là một trong những quốc gia có số dân đông nhất thế giới, là thị

trường mơ ước của nhiều doanh nghiệp, nhiều quốc gia. Trong những năm gần đây
nền kinh tế Trung Quốc có những bước phát triển hết sức mạnh mẽ, mở ra cơ hội
kinh doanh cho rất nhiều ngành, lĩnh vực kinh doanh của Việt Nam. Trong đó phải
kể đến đó là mặt hàng chè của Việt Nam.
Xuất khẩu chè của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc có nhiều thuận lợi hơn so
với nhiêu nước khác trong khu vực và thế giới, do Trung Quốc có nhiều tập quán
văn hoá cũng như thói quen tiên dùng, sở thích giống với người Việt Nam, nhờ đó
khi chè của Việt Nam thâm nhập thị trường Trung Quốc sẽ thích nghi nhanh
hơn.Bên cạnh đó Trung Quốc có hai tỉnh biên giới tiếp giáp với Việt Nam là Vân
Nam và Quảng Tây. Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh quan hệ giao lưu kinh tế
với 2 tỉnh này của Trung Quốc, tạo cơ hội cho nhiều doanh nghiệp sản xuất xuất
khẩu chè trong nước có cơ hội mở rộng thị trường. Riêng tỉnh Vân Nam – Trung
Quốc với diện tích 384 nghìn km2, dân số 39,4 triệu người, là một tỉnh giàu đẹp của
Trung Quốc với 25 dân tộc sinh sống, với hầu hết người dân đã có thói quen uống
trà từ rất lâu, đó cũng là một thị trướng lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu chè của
Việt Nam.
Bên cạnh đó, thị trương chè Trung Quôc cũng là một thị trường dễ tính, nó cũng là
một thuận lợi lớn cho xuất khẩu chè của Việt Nam. Vì hiện nay chè xuất khẩu của
Việt Nam tuy đã có nhiều đổi mới trong sản xuất chế biến nhưng do kỹ thuật lạc
hậu nên chè sản xuất ra có chất lượng chưa cao. Tuy vậy, từ trước đến nay chè của
Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu vẫn là chè xanh, chè búp tươi hay


chè mới qua sơ chế và chủ yếu được đưa vào Trung Quốc qua cửa khẩu Thanh
Thuỷ (Hà Giang) và cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn).
Vì chè của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là mới qua sơ chế nên
tính ổn đinh của thị trường không cao. Ví như, những ngày đầu tháng 6 vừa qua là
những ngày sôi động của cơn sốt chè vàng tại các tỉnh biên giới giáp với Trung
Quốc của Việt Nam. Rất nhiều tư thương Trung Quốc tìm đến những vùng trồng
chè để tìm mua chè vàng. Mà loại chè vàng các thương nhân Trung Quốc mua được

chế biến rất đơn giản, từ nguyên liệu đưa vào luộc, vò, phơi năng, ủ lên men rồi lại
phơi nắng rồi sao lại bằng máy quay là đã có thể bán được với giá bán khoảng 20
000 đồng/kg chè vàng. Nhưng chỉ được 3 lô hàng đầu được bán đi thuận lợi, sau đó
giá chè vàng đột ngột giảm xống chỉ còn 17000 đồng/kg, có lúc xuống tới 13 000
đồng/kg làm cho nhiều người không bán được hàng và phải chịu thua lỗ. Với bài
học này, các doanh nghiệp chè Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc
cần phải nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu thị trường để có kế hoạch thu mua, sản xuất
hợp lý.
Là một thị trường lớn cho xuất khẩu chè của Việt Nam, nhưng nhu cầu có tính ổn
định thấp, đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu chè của Việt Nam cần có kế
hoạch, chiến lược cụ thể khi thâm nhập thị trường này. Cần nắm bắt được nhu cầu
tiêu thụ của thị trương nhằm đưa ra kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp.Bên cạnh
đó các doanh nghiệp xuất khẩu chè cần đổi mới kỹ thuật chế biến, tăng năng suất
sản xuất sản phẩm tăng tỷ trọng cũng như khối lượng chè thành phẩm xuất khẩu,
giảm tỷ trọng chè thô xuất khẩu. Từ đó tạo thị trường tiêu thụ ổn định cho chè Việt
Nam.

1.4.2. Sự cấn thiết phải thúc đẩy xuất khẩu chè Việt Nam sang thị trường Trung
Quốc.
Mặc dù Trung Quốc là một nước xuất khẩu nhiều chè trên thế giới . Hiện nay
nhu cầu của Trung Quốc đối với chè các loại là trên 50 triệu USD . Trong khi đó
Việt Nam chỉ mới đáp ứng được khoảng 7 triệu USD.
Trước đây , do đặc thù về vị trí địa lý nên hình thức buôn bán biên mậu rất
phát triển và sôi động giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ngày nay với chính sách thuế


quan thay đổi việc xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc cũng trở nên khó khăn
hơn. Vì vậy ngành chè Việt Nam cũng như sản phẩm chè Việt Nam muốn thâm
nhập vào thị trường Trung Quốc thì cần có sự chuẩn bị và tìm hiểu kỹ lưỡng về
chính sách buôn bán của Trung Quốc để có biện pháp hỗ trợ kịp thời.

Tuy vậy, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc những năm gần
đây cũng có nhiều bước phát triển mới và Trung Quốc được coi là thị trường trọng
điểm của Việt Nam. Điều này được thể hiện bằng tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập
khẩu hai chiều giữa Việt Nam – Trung Quốc trong thời gian qua. Năm 1991 thương
mại hai bên mới chỉ đạt 37.7 triệu USD . Nhưng năm 2003, Trung Quốc trở thành
bạn hàng thứ 3 sau Hoa Kỳ, Nhật Bản. Đến 2004, Trung Quốc đã trở thành đối tác
thương mại số 1 của Việt Nam với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt
7.91 tỷ USD tăng 190 lần trong 13 năm . Còn về xuất khẩu thì Trung Quốc trở
thành thị trường xuất khẩu đứng thứ 3 của Việt Nam với kim ngạch 2004 đạt 2.735
tỷ USD. Tính bình quân trong giai đoạn 2000-2004, tốc độ tăng trưởng bình quân
hàng năm là 29.6%.
Trước xu thế đó ngành chè Việt Nam cần có những biện pháp thiết thực hơn
nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè vào thị trường Trung Quốc. Chè của Việt
Nam xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc ngoài những khó khăn về hàng rào thuế
quan , hàng rào tiêu chuẩn chất lượng ,… thì mặt hàng chè xuất khẩu vào Trung
Quốc cũng có rất nhiều thuận lợi . Đó là thị trường Trung Quốc có yêu cầu về chè
gần giống với Việt Nam. Bên cạnh đó, nếu xuất khẩu chè sang Trung Quốc thì Việt
Nam sẽ giảm được chi phí vận chuyển so với xuất khẩu chè sang các thi trường
khác. Mặt khác, thịt rường chè Trung Quốc cũng là một thị trường dễ tính với nhu
cầu lớn, có tiềm năng lớn nếu các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập được.
Với những yếu tố trên thì việc Việt Nam cần có những biên pháp hỗ trợ, thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu chè sang Trung Quốc là hết sức cần thiết.
1.5. Hiệp hội chè Việt Nam và vai trò của Hiệp hội trong việc thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu chè của Việt Nam.
Hiệp hội chè Việt Nam (VITAS) được thành lập từ ngày 25/1/1988 là một
trong những hiệp hội ngành hàng đầu tiên ở Việt Nam.Kể từ khi thành lập đến nay


hiệp hội đã góp phần không nhỏ vào công tác định hướng, đưa ra những kiến nghị
giúp cho họat động xuất khẩu chè của Việt Nam.

Trải qua các giai đoạn phát triển của ngành chè, VITAS luôn là cơ quan đầu
não đối mặt với thực trạng kinh tế, đại diện cho lợi ích và quyền lợi của người làm
chè. VITAS đóng vai trò như một nhạc trưởng hướng dẫn các hội viên thực hiện
cam kết của mình về sản xuất và xuất khẩu chè. VITAS cũng tham gia vào hệ thống
tiêu chuẩn quốc tế về quản lý chất lượng, cam kết mục tiêu phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, Hiệp hội còn góp phần thúc đẩy thực hiện các dịch vụ khuyến
nông, các dịch vụ về giống, xúc tiến thương mại, đào tạo… từ đó tạo nguồn nguyên
liệu đầu vào ổn định cho sản xuất chè xuất khẩu. Một mặt Hiệp hội còn tư vấn cho
Chính phủ về chế độ chính sách phát triển chè, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
xuất khẩu chè. Hiệp hội có vai trò thiết lập mạng thông tin toàn ngành, trong nước
và quốc tế, giúp các doanh nghiệp nắm bắt được thông tin kịp thời, tânj dụng được
cơ hội trên thị trường quốc tế, tạo lợi thế trong cạnh tranh.
Trong bối cảnh hiên nay Việt Nam đã là thành viên của tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) làm thay đổi vai trò của các hiệp hội nói chung và Hiệp hội chè Việt
Nam nói riêng. Những trợ cấp cho nông nghiệp sẽ dần mất đi, gây khó khăn về
nguyên liệu cho sản xuất chế biến chè, vì vậy Hiệp hội càng phải tích cực hoạt đông
hơn nữa, giúp cho các doanh nghiệp có thế kinh doanh tốt trong điều kiện hiện nay.
Một vai trò nưa của Hiệp hội mà không thể thiếu trong bối cảnh hiện nay, đó là
Hiệp hội là người đứng ra là trung gian liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước
với thị trương nước ngoài. Là trung gian thay mặt các doanh nghiệp giải quyết các
tranh chấp thương mại với nước ngoài. Vì các doanh nghiệp của ta hầu hết là chưa
có kinh nghiệm trong xử lý các vấn đề khi xảy ra tranh chấp.
Một mặt, Hiệp hội đóng vai trò tăng cường liên kết các doanh nghiệp. Rõ ràng
trên sân chơi thương mại toàn cầu, vai trò của hiệp hội là hết sức quan trọng. Chè
của Việt Nam hiện nay chưa có thương hiệu mạnh trên thị trương quốc tế, vì vậy
cần thiết phải có sự liên kết giữa các doanh nghiệp nhằm tạo sức mạnh tổng hợp,
tăng sức cạnh tranh của chè Việt Nam. Hiệp hội hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển
xuất khẩu và mở rộng thị trường nội địa; cung cấp thông tin thị trường và khách
hàng cho doanh nghiệp hội viên; phổ biến cho các thành viên những tiến bộ khoa



học – công nghệ trong sản xuất kinh doanh. Xác định phương hướng sản xuất kinh
doanh cho cả ngành chè, liên kết và hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên
cơ sở tự nguyện của các thành viên.
Hiệp hội cũng cần thiết lập mối quan hệ với các ngành nghề khác có liên quan,
nhằm hỗ trợ cho xuất khẩu chè của Vịêt Nam. Mở rộng quan hệ quốc tế nhằm
quảng bá thương hiệu chè Việt Nam với thị trường thế giới, tạo thị trường tiêu thụ
cho chè xuất khẩu của Việt Nam.
Hiệp hội chè dang dự định sẽ tổ chức lễ hội quốc gia về chè vào ngày kỷ niệm
20 năm ngày thánh lập Hiệp hội chè Vịêt Nam. Trong lễ hội Hiệp hội sẽ báo cáo
thành tựu của ngành chè trong 20 năm qua và mở cuộc trình diễn văn hoá
trà…nhằm giới thiệu cho thế giới biết đến chè của Việt Nam. Và trong năm nay
Hiệp hội còn dự định tiếp tổ chức các lễ hội về chè tai các tinh như : Hà Giang, Lào
cai, Yên Bái , Phú Thọ.
Nhận lời mời của hội thương mại xuất nhập khẩu thực phẩm – thổ sản –xúc
sản Trung Quốc, Hiệp hội chè Việt Nam sẽ tổ chức đoàn doanh nghiệp tham gia hội
nghị chè quốc tế và hội chợ chè – cà phê tại Hàng Châu ( tỉnh Triết Giang, Trung
Quốc) từ ngày 28 -30 tháng 9 năm 2005.
Tại hội nghị chè, ban tổ chức thảo luận về các vấn đề mà nhiều nước quan tâm
như các điều luật, quy định về thanh tra và kiểm dịch chè nhập khẩu theo tiêu chuẩn
của từng nước; vấn đề tiếp thị và công nghệ; các chiến lược xúc tiến và tiếp thị sản
phẩm mới; triển vọng chè đa quốc gia; trao giải thưởng cho các thương hiệu nổi
tiếng. Đây là cơ hội tốt cho các nhà sản xuất, xuất nhập khẩu chè gặp gỡ, trao đổi
thông tin chuyên ngành, tìm kiếm cơ hội đầu tư, ký kết hợp đồng và mở rộng các
mối quan hệ trong lĩnh vực thương mại.
Trong thời gian tới Hiệp hội cần làm tốt vai trò của mình nhằm giúp các doanh
nghiệp có cơ hội tiếp cận các thị trường trên thế giới, tăng khả năng canh tranh
trong bối cảnh hội nhập.






















CHƯƠNG II
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG
TRUNG QUỐC.
2.1. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA CHÈ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM
GẦN ĐÂY.
2.1.1 Những biến động của thị trường xuất khẩu chè Việt Nam.
Trong số những ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam chè được đánh giá là
ngành có nhiều tiềm năng. Hiện cả nước có khoảng 122500 ha chè, chè của Việt
Nam đã xuất sang 107 nước đứng thứ 7 về sản lượng , đứng thứ 6 về khối ; ượng
chè xuất khẩu.

Việt Nam đã chế biến được khoảng 15 loại chè khác nhau, tuy nhiên xuất khẩu
phần lớn vẫn là chè đen( 60%), còn lại là chè xanh và một số ít các loại chè khác.
Một số loại chè của Việt Nam được ưa chuộng trên thị trường thế giới là chè ô long,
chè đen , chè lài. Tuy nhiên, hiện giá chè xuất khẩu của Việt Nam vẫn ở mức thấp
so với sản phẩm cùng loại của các nước trên thế giới. Đơn giá xuất chè của Việt


Nam chỉ bằng 55-70% so với giá xuất của nhiều nước. Một trong những nguyên
nhân làm cho giá chè xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn so với các nước khác đó là
chè của Việt Nam chưa tạo được thương hiệu trên trường quốc tế. Mặt khác, cũng
do thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam chưa thật sự ổn định do chất lượng chè
không cao và được bán dưới dạng nguyên liệu là chính.
Tuy vậy, trong năm 2006 ngành chè Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn để
đạt được nhiều tiến bộ trong sản xuất kinh doanh và chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu
. Năm 2006 lần đầu tiên xuất khẩu chè của Việt Nam vượt qua mức 100 triệu USD
và đạt tới 110 triệu USD. Bước vào năm 2007 – năm đầu tiên Việt Nam chính thức
gia nhập WTO , mức thuế nhập khẩu chè có thể lên đến 150% theo quy dịnh của
WTO ( so với trước đây là 100%) , cộng với chính sách hỗ trợ của Nhà Nước đối
với cây chè dần phải cắt giảm. Tuy nhiên, tình hình xuất khẩu chè trong quý 1 năm
2007 của cả nước vẫn tương đối khả quan với kim ngạch xuất khẩu ước tính lên tới
19 triệu USD , sản lượng xấp xỉ 20 nghìn tấn, tăng 2% về giá trị và 4% về sản
lượng so với cùng kì năm 2006.
Theo số liệu của tổng cục Hải Quan thì kim ngạch xuất khẩu chè của cả nước
trong 20 ngày đầu tháng 3/2007 đạt xấp xỉ 3.8 triệu USD với sản lượng đạt 4.1
nghìn tấn , đưa kim ngạch xuất khẩu chè quý 1/2007 tăng lên đáng kể.
Tính riêng tháng 2/2007. Việt Nam xuất khẩu được 5000 tấn chè các loại đạt
kim ngạch xấp xỉ 5.1 triệu USD giảm so với tháng 1/2007 giảm 40% về lượng và 37
% về giá trị , tương đương với giảm 10% về lượng và 8% về giá trị so với tháng
2/2006.
Còn về cơ cấu xuất khẩu chè trong 2 tháng đầu năm 2007 không có thay đổi gì

nhiều . Pakistan, Đài Loan, và Nga tiếp tục là 3 thị trường xuất khẩu chè lớn nhất
của Việt Nam.
Dẫn đầu là thị trường Pakistan với kim ngạch xuất khẩu trong 2 tháng đầu
năm đạt 2.9 triệu USD với sản lượng đạt 2.67 nghìn tấn , tăng 5.9% về giá trị và
6.6% về lượng so với cùng kỳ 2006. Mặt hàng chè xuất khẩu chủ yếu sang thị
trường này là chè đen , chiếm 58% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tiếp đó là thị trường Đài Loan và Nga với mức tăng trưởng lần lượt đạt 1.3%
và 23.1% về kim ngạch xuất khẩu so với cùng kỳ năm ngoái . Bên cạnh đó , xuất


khẩu sang các thị trường Mỹ, EU và ASEAN cũng có tốc độ tăng trưởng khá . Đặc
biệt , xuất khẩu sang Mỹ với kim ngạch 608.000 USD với sản lượng 881 tấn , tăng
430% về giá trị và 523% về lượng so với cùng kỳ năm 2006. Trong đó chè đen vẫn
là mặt hàng xuất khẩu chính, chiếm tới 93% tổng kim ngạch .
Trong 2 tháng đầu năm 2007 thì chè đen vẫn là chủng loại chè được xuất khẩu
nhiều nhất chiếm 78% tổng sản lượng xuất khẩu , tiếp đến là chè xanh khoảng 15%
và 7% là các loại chè khác.
2.1.2. Tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong
những năm gần đây.
Mới đây Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, Đài Bắc Trung
Quốc hiện là thị trường xuất khẩu số 1 của sản phẩm chè Việt Nam.
Từ đầu năm 2007 đến nay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè trong cả
nước đã xuất khẩu trên 27000 tấn chè, đạt kim ngạch 25 triệu USD trong đó riêng
thị trường Đài Bắc –Trung Quốc chiếm tới trên 17% tổng sản lượng chè xuất khẩu
của Việt Nam. Theo đánh giá của các chuyên gia thì Đài Bắc –Trung Quốc là một
thị trường truyền thống khác của sản phẩm chè Việt Nam như Nga, Iraq, Pakistan,
Đức, Singapore….Tuy vậy , cũng như các thị trường khác chè Việt Nam xuất khẩu
sang Trung Quốc cũng chủ yếu là chè nguyên liệu , còn chề qua chế biến chỉ chiếm
tỷ lệ nhỏ, vì vậy giá thành chè xuất khẩu chưa cao do đó hiệu quả kinh tế do cây chè
mang lại còn hạn chế.

Theo các chuyên gia ngành chè, hiện nay chè của Việt Nam tại thị trường
Trung Quốc chưa có được thị phần và thương hiệu, chủ yếu là xuất khẩu nguyên
liệu thô nên giá trị thấp, chưa được người tiêu dùng Trung Quốc biết đến nhiều. Để
tăng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này, các chuyên gia khuyến cáo , doanh nghiệp
xuất khẩu cần tìm kiếm đối tác nhập khẩu lớn nhằm kí kết hợp đồng cung ứng dài
hạn ; đồng thời, nghiên cứu kỹ khẩu vị và sở thích cũng như chủng loại chè mà
người Trung Quốc thường dùng thông qua việc mời các chuyên gia về chè của
Trung Quốc sang tư vấn để chế biến các loại chè có mùi vị tương tự như những loại
chè được ưa chuộng tại thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó, Hiệp hội chè cũng
khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tham gia hội chợ thực phẩm và đồ uống
của Trung Quốc và xây dựng , quảng bá thương hiệu chè Việt Nam tại thị trường


Trung Quốc. Hiên nay, các doanh nghiệp Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu nguyên
liệu các loại chè dây , chè đắng , chè khổ qua, chè xanh về chế biến và bán ra với
giá thành cao . Do vậy, đây là mặt hàng có mức tăng trưởng cao, các doanh nghiệp
cần tiép tục duy trì, phát triển. Hiện nay, mỗi năm kim ngạch xuất khẩu chè của cả
nước sang thị trường Trung Quốc đạt gần 10 triệu USD, chiếm khoảng 5% tổng kim
ngạch nhập khẩu chè của Trung Quốc.
Xuất khẩu chè sang thị trường Trung Quốc trong 2 tháng đầu năm 2007 giảm
đáng kể. Giảm tới 24% về giá trị và 20% về lượng so với 2 tháng đầu năm 2006.
Chỉ đạt kim ngạch 583000USD với sản lượng 575 tấn . Hiện nay , thị trường Trung
Quốc cần nhập khẩu khoảng 50 triệu USD chè các loại. Trong khi đó, Việt Nam
mới chỉ đáp ứng được xấp xỉ 8 triệu USD. Trong năm 2007, chính sách thay đổi về
thuế sẽ càng tạo ra nhiều bất lợi cho các nhà sản xuất, xuất khẩu chè Việt Nam và
đây cũng là năm Việt Nam gặp nhiều khó khăn để đẩy mạnh xuất khẩu chè nói
riêng và xuất khẩu các mặt hàng nông sản nói chung sang thị trường Trung Quốc.
Bên cạnh đó một số vùng của Việt Nam như Yên Bái , Lào Cai, Lai Châu, ở những
tỉnh này có trồng được loại chè vàng được đánh giá là loại chè đặc sản ngon nhất
thế giới . Đó cũng là loại chè shan tuyết được trồng trên vùng cao của Việt Nam. Do

sự quý hiếm đó mà nhu cầu nguyên liêu chè shan tuyết cho sản xuất 2 loại chè vàng
và chè phổ nhĩ của Trung Quốc tăng lên. Nguyên liệu trong nước không đáp ứng
được nhu cầu cho sản xuất nên các thương nhân Trung Quốc đã tìm tới thị trường
chè nguyên liệu của Việt Nam. Việc đó đã đẩy giá chè nguyên liệu của Việt Nam
tăng cao, đôi khi giá chè nguyên liệu xuất khẩu không phản ánh đúng chất lượng
của chè.
Tháng 6/2007, thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của Việt Nam vẫn là Trung
Quốc, đạt 2580 tấn chè các loại ( chiếm 23.45% lượng chè xuất khẩu) với trị giá gần
2.2 triệu USD , tăng 9.62% về lượng nhưng giảm 9.79 % về giá trị so với tháng
5/2007; nhưng so với tháng 6/2006 vẫn tăng mạnh , tăng 255.98 % về lượng và tăng
170.52% về giá trị . Trong đó xuất khẩu vào thị trường này chủ yếu là chè đen, đạt
1431 tấn ( tăng 24.98% so với tháng 5/2007) ; chè xanh đạt 747 tấn ( giảm 22% so
với tháng 5/2007) và chè vàng đạt 39 tấn ( giảm 69.95 % so với tháng 5/2007). Như
vậy, 6 tháng đầu năm 2007 lượng chè nước ta xuất khẩu sang Trung Quócc đạt


7756 tấn với trị giá gần 7 triệu USD, tăng 171.49 % về lượng , tăng 153.5% về giá
trị so với cùng kì năm 2006.
Thị trường Trung Quốc là một thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp xuất
khẩu chè của Việt Nam . Do đó Nhà Nước và Hiệp hội chè cũng như mỗi doanh
nghiệp cần có biện pháp thích hợp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè sang
Trung Quốc cũng như mở rộng thị trường xuất khẩu chè.
2.2. Những biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè Việt Nam sang
thị trường Trung Quốc.
Đứng trước thách thức của thời đại, chè Việt Nam vẫn chưa có tiếng nói quyết
định trên thị trường quốc tế vì : chưa có thương hiệu, chất lượng chưa ổn định ,
công nghiệp chế biến phát triển mạnh nhưng chưa đồng bộ . Vì vậy, Ngành chè
cũng như các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu chè cần có những biện pháp thúc
đẩy xuất khẩu chè ổn định, bền vững từ nay đến 2010.
2.2.1.Các biện pháp liên quan tới việc tổ chức nguồn hàng.

Trước tiên phải nói đến các biện pháp về đảm bảo nguyên liệu cho chế biến
bằng cách lựa chọn và nhân giống những giống chè có chất lượng tốt. Đồng thời cải
tiến trong khâu chăm sóc , thu hái nhằm tăng sản lượng chè cho ngành chế biến.
Không để dư lượng hoá chất độc hại trong búp chè tươi, không để chè ôi ngót trước
khi đưa vào chế biến.
Mặt khác, cần đầu tư đổi mới công nghệ, dây chuyền chế biến bảo đảm chất
lượng và sản xuấtđược các loại chè có phẩm cấp cao, tránh tình trạng xuất khẩu chè
nguyên liệu. Từ đó tăng hiệu quả trong sản xuất chè, tăng giá trị chè xuất khẩu của
Việt Nam. Các doanh nghiệp cũng cần đổi mới phương thức quản lý sản xuất, kinh
doanh nhằm tiết kiệm chi phí, giảm giá thành chè xuất khẩu để có thể cạnh tranh với
sản phẩm chè của các quốc gia xuất khẩu chè khác.
Bên cạnh đó cũng cần xây dựng một thương hiệu mạnh cho chè Việt Nam trên
thị trường chè quốc tế nhằm đảm bảo thị trường xuất khẩu chè ổn định và bền vững.
2.2.2. Các giải pháp liên quan tới thị trường xuất khẩu.
Để chè của Việt Nam có thể xuất khẩu sang Trung Quốc với số lượng cũng
như giá trị lớn hơn thì trước tiên các doanh nghiệp xuất khẩu chè cần chú ý tới vấn
đề đào tạo , lựa chọn cán bộ nghiên cứu kỹ thị trường. Tìm hiểu các chính sách của


Trung Quốc đối với hàng nhập khẩu nói chung và mặt hàng chè nói riêng như : các
hàng rào về thuế quan , các tiêu chuẩn về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm….
Bên cạnh đó phải tổ chức tốt hoạt động quảng cáo , marketing ngành hàng
nhằm quảng bá hình ảnh cũng như thương hiệu cho chè Việt nam. Giúp mọi người
biết đến chè Việt Nam là sản phẩm có chất lượng, có hương vị đặc trưng. Có thể tổ
chức các lễ hội văn hoá trà Việt nhằm giới thiệu về văn hoá cũng như sản phẩm chè
Việt Nam.
2.3. Các biện pháp chính sách của Nhà Nước nhằm thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu chè sang Trung Quốc.
Trong bối cảnh sản phẩm chè của Việt Nam phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt
với sản phẩm chè của các nước khác, cũng như chính sản phẩm chè của Trung Quốc

thì Nhà Nước cần tạo điều kiên cho các doanh nghiệp có thể phát triển ổn định và
giữ vững thị trường . Cần tổ chức hệ thống tài chính tín dụng thông thoáng hơn để
các doanh nghiệp có thể vay vốn đầu tư cho sản xuất và đổi mới công nghệ chế
biến.
Mặt khác, Nhà Nước cần có những hỗ trợ đối với người trồng chè, đảm bảo
cuộc sống cho những người dân vùng chè, tạo ra nguồn nguyên liệu tốt nhất cho sản
xuất, chế biến chè xuất khẩu .
Tiếp đó, cũng cần phải tổ chức hợp lý và giảm bớt các thủ tục hải quan tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp trong việc xuất khẩu chè ra nước ngoài đúng thời
điểm, tận dụng được cơ hội kinh doanh.
2.4. Các định hướng của Hiệp hội chè Việt Nam.
Trong những năm tới , để góp phần thúc đẩy xuất khẩu chè Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc, cũng như thị trường thế giới nói chung thì Hiệp hội cần làm tốt
vai trò của mình như tổ chức liên kết lại giữa các doanh nghiệp sản xuất và xuất
khẩu chè để cùng đưa ngành chè của Việt Nam phát triển.
Hiệp hội cũng có thể đưa ra những kiến nghị với chính phủ để có thể tạo điều
kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu chè sang thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó
cũng có thể tổ chức các lễ hội nhằm giới thiệu quảng bá thương hiệu chè Việt Nam.
Vậy , Hiệp hội có vai trò đáng kể trong việc thúc đẩy xuất khẩu chè của Việt
Nam nói chung và xuất khẩu chè sang Trung Quốc trong thời gian tới đây.


KẾT LUẬN


Qua quá trình nghiên cứu trên ta thấy Việt Nam có điều kiện khí hậu cũng như
đất đai rất thuận lợi cho cây chè phát triển. Xuất khẩu chè của Việt Nam đóng vai
trò rất lớn vào kim ngach xuất khẩu của nước ta. Tuy nhiên, do công nghệ kỹ thuật
lạc hậu , chè xuất khẩu của Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn do chất lượng chè
chưa cao.

Trong khi đó, Trung Quốc tuy là một nước xuất khẩu chè nhưng nhu cầu nhập
khẩu chè các loại của Trung quốc khoảng 50 triệu USD. Việt Nam là một nước có
nhiều đường biên giới với Trung Quốc, cùng với quan hệ thương mại được xây
dựng từ lâu giữa hai nước thì Trung Quốc chính là một thị trường đầy tiềm năng
cho sản phẩm chè của Việt Nam. Tuy vậy, chè Việt Nam xuất khẩu sang Trung
Quốc chủ yếu là chè đen và chè xanh. Do đó để trong những năm tới Việt Nam có
thể tăng số lượng chè có chất lượng cao xuất khẩu sang Trung Quốc thì cần có sự
hỗ trợ của các cơ quan quản lý, sự hỗ trợ từ phía Chính Phủ . Và bản thân ngành chè
cũng cần đưa ra những biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu chè sang thị trường
Trung Quốc. Góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong thời gian tới.















DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1 Giáo trình Kinh Tế Thương Mại ( tác giả : GS.TS Đặng Đình Đào- GS.TS
Hoàng Đức Thân. NXB Thống Kê )

2 Trang web : www.baothươngmai.com.vn.
3 Trang web : www.mot.gov.vn
4 Trang web: www.vnexpress.net
5 Trang web : www.thainguyen.gov.vn
6 Trang web : www.vietnamnet.com.vn
7 Báo thông tấn xã Việt Nam.






















MỤC LỤC


Lời mở đầu
CHƯƠNG I : Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu chè của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc
1.1 Đặc điểm của sản phẩm chè Việt Nam
1.1.1.Tình hình sản xuất chè ở Việt Nam
1.1.2. Nămg suất , chất lượng chè xuất khẩu của Việt Nam
1.1.3. Thói quen dùng trà thể hiện nét văn hoá của người Việt Nam cũng như
nhiều quốc gia khác
1.2. Vị trí, vai trò của sản xuất và xuất khẩu chè Việt Nam
1.2.1. Sản xuất, xuất khẩu chè mang lại lợi ích kinh tế
1.2.2. Lợi ích xã hội mà xuất khẩu chè mang lại.
1.3. Thực trạng ngành chè Việt Nam
1.3.1. Nguyên liệu cho chế biến chè xuất khẩu.
1.3.2. Vấn đề trhương hiệu cho chè Việt Nam trên thị trường thế giới.
1.4. Sự cần thiết phải thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè sang thị trường Trung
Quốc.
1.4.1. Một số điểm nổi bật của thị trường chè Trung Quốc.
1.4.2. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu chè Việt Nam sang thị trường Trung
Quốc.
1.5. Hiệp hội chè Việt Nam và vai trò của hiệp hội trong việc thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu chè của Việt Nam.

CHƯƠNG II : Thực tiễn hoạt động xuất khẩu chè của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc.
2.1. Tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam trong những năm gần đây.
2.1.1. Những biến động của thị trường xuất khẩu chè Việt Nam .
2.1.2. Tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong
những năm gần đây .



2.2. Những biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè sang thị trường
Trung Quốc.
2.2.1. Các biện pháp liên quan tới việc tổ chức nguồn hàng.
2.2.2. Các giải pháp liên quan tới thị trường xuất khẩu .
2.3. Các biện pháp chính sách của Nhà Nước nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
chè sang thị trường Trung Quốc.
2.4. Các định hướng của Hiệp hội chè Việt Nam.

Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.

×