Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.15 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu .
Hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hoá thương mại vừa là cơ hội, vừa là
thách thức cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang ở
thời kỳ đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá như Việt Nam. Vấn đề là phải
khai thác những yếu tố môi trường thuận lợi để lựa chọn một mô hình tăng
trưởng kinh tế dựa vào thúc đẩy xuất khẩu phù hợp nhất nhằm khai thác nội
lực và tận dụng triệt để những ngoại lực. Phát triển thị trường xuất khẩu
hàng hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược xuất khẩu hàng
hóa cùa Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, đối với từng quốc gia thì vấn đề xuất khẩu hàng hóa đang phải
chịu sức ép cạnh tranh ngày càng lớn. Vì vậy làm thế nào để phát triển
được thị trường xuất khẩu hàng hóa trong xu thế thương mại hóa toàn cầu
ngày càng trở nên cấp thiết. Đẩy mạnh xuất khẩu là hoạt động không thể
thiếu được đối với mỗi quốc gia. Xuất khẩu tạo cơ hội cho nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển. Nhận thức được vai trò to lớn đó của xuất khẩu hàng
hoá trong việc phát triển kinh tế, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến
mở rộng quan hệ thương mại với các nước. Từ nhiều năm nay Đảng ta chủ
trương “làm bạn với tất cả các nước”, tăng cường hợp tác kinh tế - thương
mại với tất cả các quốc gia ở mọi Châu lục, đặc biệt những nước láng giềng
với Việt Nam. Thực hiện chủ trương trên, hơn 10 năm qua Việt Nam đã
không ngừng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang Trung Quốc. Để thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc và nâng cao
hơn nữa hiệu quả của hoạt động thương mại giữa hai nước. Trên thực tế,
với kim ngạch xuất khẩu liên tục vượt xa dự kiến trong những năm gần
đây, năm 2005 Trung Quốc đã lần thứ hai vượt qua tất cả đối tác để trở
thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Hơn thế, trong bối cảnh
người khổng lồ này sẽ còn tiếp tục giữ vai trò nguồn động lực lớn thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu của nước ta.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


I. Đặc điểm và nhu cầu nhập khẩu của thị trường Trung
Quốc.
1. Đặc điểm thị trường Trung Quốc.
Trung Quốc là nước phát triển lớn trên thế giới với dân số 1,3 tỷ
người - một lợi thế trội hơn nhiều quốc gia và khu vực khác về nguồn nhân
lực.Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng là vùng đất tương đối giàu có về tài
nguyên thiên nhiên, tạo thêm tiềm năng vật chất cho công cuộc xây dựng
kinh tế. Với diện tích 9,6 triệu km
2
, chiếm 7% diện tích đất trên thế giới,
chiều dài bờ biển 1,8 triệu km
2
, là nhân tố có ý nghĩa chiến lược và thuận
lợi trong công cuộc xây dựng kinh tế, mở rộng giao lưu quốc tế, và cũng là
quốc gia có nguồn lao động dồi dào. Thêm vào đó Trung Quốc lại nằm ở
trung tâm Đông Bắc Á rất thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán hàng hóa.
Với nhiều chính sách thương mại quốc tế ưu đãi cho các nước đối tác. Đặc
biệt, ngày 11-11-2001 Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của tổ
chức Thương mại thế giới WTO, từ đây mở ra một thời kỳ mới cho Trung
Quốc, Trung Quốc sẽ được hưởng những chính sách ưu đãi trong hoạt động
thương mại với các nước thành viên WTO theo quy định đã được xác định.
Đồng thời , Trung Quốc cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt mọi quy định
trong quan hệ thương mại với các nước đã xác lập để Trung Quốc trở thành
thành viên. Thêm vào đó , Trung Quốc sẽ phải cắt giảm hang loạt nhiều thứ
thuế, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam có thể thâm nhập được
vào thị trường Trung Quốc.
Có thể nói xét về mặt hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Trung Quốc
hiện vẫn đang nổi lên là một thị trường tiêu thụ hàng hóa đầu tư hấp dẫn.
Trong những năm qua, Trung Quốc luôn có tốc độ tăng trưởng cao. Năm
2004 tổng sản phẩm quốc nội tăng 9%, các khoản thu của Trung Quốc đạt

hơn 2600 tỷ NDT, tăng 20%. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch
vụ xã hội đạt trên 5400 tỷ NDT tăng 13%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đạt kỷ lục hơn 1000 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người của Trung
Quốc năm 2003 là 1200 USD.
Sau cải cách, mở cửa đất nước này đã không ngừng nâng cao trình
độ trong việc tham gia vào phân công lao động quốc tế và vị thế trong hệ
thống kinh tế thế giới nhờ thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài. Đây là một
ưu thế nổi trội của Trung Quốc trong những năm gần đây. Trong năm 2003
kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc đạt 851,2 tỷ USD vươn lên
đứng thứ 3 thế giới, sau Mỹ và Đức. Trong một thời gian dài Trung Quốc
là nước thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn thứ 2 thế giới, sau Mỹ và đứng
đầu các nước đang phát triển. Với số dự trữ ngoại tệ lớn 711 tỷ USD vào
cuối tháng 6 năm 2005, một trong những nước dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế
giới, Trung Quốc có điều kiện thuận lợi hơn để ứng phó với những bất trắc
có thể xảy ra trên thị trường quốc tế.
Những tiềm năng và lợi thế nói trên là nhân tố thuận lợi giúp Trung
Quốc giành được nhiều thành tựu rực rỡ trên con đường xây dựng nền kinh
tế phồn vinh và hiện đại. Và đương nhiên, sự lớn mạnh kinh tế sẽ góp phần
quan trọng nâng cao vai trò vị thế của Trung Quốc trong các mối quan hệ
quốc tế và khu vực.
2.Nhu cầu nhập khẩu của thị trường Trung Quốc.
Nhu cầu về hàng hoá của Trung Quốc tương đối lớn, cơ cấu hàng
hóa sản phẩm của Trung Quốc tương đối giống các mặt hàng của Việt
Nam. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của Trung Quốc chủ yếu là khoáng sản,
cao su, nông sản, bong. Mức độ đồng đều của thị trường Trung Quốc
không cao. Có những khu vực thu nhập cao đòi hỏi chất lượng hàng hóa
cũng phải cao và chủng loại hàng hóa phải đa dạng nhưng cũng có những
khu vực thì ngược lại thu nhập thấp nên nhu cầu hàng hoá không lớn lắm

và cơ cấu hàng hóa chủ yếu ở khu vực này tương đối đơn giản.
Theo số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc, năm 2004 tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc đạt 1154,74 tỷ USD, tăng 35,7% so
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
với năm trước, trong đó nhập khẩu đạt 561,38 tỷ, tăng 36%.Với kết quả này
Trung Quốc là nước có giá trị ngoại thương lớn thứ ba trên thế giới. Từ
tháng 1 đến tháng 6 năm 2005, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung
Quốc là 645,03 tỷ USD tăng 23,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó
kim ngạch nhập khẩu đạt 302,69 tỷ USD, tăng 14%.
3.Cơ cấu xuất khẩu các sản phẩm chủ lực của Việt Nam giai đoạn vừa
qua.
3.1. Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng mạnh qua các năm. Với chính
sách phát triển nền kinh tế mở, hàng hoá Việt Nam không còn xa lạ với
người tiêu dùng trên thế giới. Trong những năm qua kim ngạch xuất nhập
khẩu của Việt Nam không ngừng tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu tính
trên đầu người năm 2001 đạt gần 200 USD/người, năm 2004 đạt 323 USD/
người và năm 2005 đạt 388 USD/ người. Về chỉ số kim ngạch xuất khẩu
bình quân đầu người, Việt Nam năm 2005 đứng thứ 5 trong các nước
thuộc khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 11 ở Châu Á và đứng thứ 84 trên
thế giới. Đặc biệt trong điều kiện cụ thể của nước ta, tăng kim ngạch xuất
khẩu có ý nghĩa to lớn trong việc tạo nguồn ngoại tệ để phục vụ cho các
nhu cầu đầu tư phát triển đang đặt ra rất bức xúc.
Mặt hàng xuất khẩu đa dạng và xuất nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt
kim ngạch trên 1 tỷ USD. Nhìn chung tất cả các mặt hàng đã tham gia xuất
khẩu đều có số lượng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước, đồng thời xuất
hiện một số mặt hàng mới. Trong một số mặt hàng chủ lực đã có 7 mặt
hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD/năm là giày dép , dệt may,
dầu thô, thuỷ sản, hàng điện tử, sản phẩm gỗ,gạo vào năm 2005. Tuy nhiên,

sự giảm giá một số mặt hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường thế
giới và các vụ kiện về bán phá giá đã làm cho kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam bị ảnh hưởng đáng kể. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự thay đổi
tích cực. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của hàng công nghiệp, dịch vụ , hàng chế biến, giảm tỷ trọng hàng xuất
khẩu thô sơ chế biến, nguyên liệu, khoáng sản. Hàng nguyên liệu thô đến
nay chỉ chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến và
chế tạo năm 1997 chiếm 40%so với tổng kim ngạch xuất khẩu, năm 2000
tỷ lệ này là 56% và năm 2005 là 68%. Cơ cấu nhóm hàng nông lâm thuỷ
sản năm 1997 chiếm 41% năm 2004 còn 17,17%, năm 2005 là 21,1 %,
nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năm 1997 64,74%, năm
2004 là 73,77%, năm 2005 là 63,2%.
Thị trường xuất khẩu cũng được mở rộng, ổn định và đã có những
chuyển dịch theo hướng đa dạng và định hình rõ thị trường trọng điểm.
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM
chỉ tiêu 2003 2004 2005
Tổng KNXK(tr. USD) 20.176 26.503 32.200
1.Châu Á(tr. USD) 9.644 13.100 16.383
tỷ trọng(%) 47,8 49,4 50,9
-ASEAN(tr. USD) 2.958 3.874 5.450
tỷ trọng (%) 14,7 14,6 16,9
- Nhật Bản(tr. USD) 2.909 3.500
tỷ trọng (%) 14,4 13,5
- Trung Quốc(tr. USD) 1.747 2.735
tỷ trọng(%) 8,7 10,3
2. Châu Âu(tr. USD) 4.398 5.400 5.872
tỷ trọng (%) 21,8 20,4 18,2
- Các nước EU(tr. USD) 3.852 4.970 5.450

tỷ trọng(%) 19,1 18,8 16,9
3. Châu Mỹ (tr. USD) 4.580 5.731 6.910
tỷ trọng(%) 22,7 21,6 21,5
- Hoa Kỳ(tr. USD) 3.938 4.992 6.553
Tỷ trọng(%) 19,5 18,8 20,4
Nguồn báo cáo của Bộ Thương mại
3.2. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Trong đó thị trường Trung Quốc là một thị trường rộng lớn nhưng có
sức cạnh tranh lớn, mà cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc chủ yếu là
cạnh tranh về giá cả.Tuy nhiên ở một số khu vực có thu nhập cao thì chủ
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
yếu lại cạnh tranh về dịch vụ, chất lượng còn cạnh tranh về giá đã
giảm.Chẳng hạn như hang giày dép Biti’s xuất khẩu sang thị trường Trung
Quốc giá cao nhưng vẫn bán được . Trên cơ sở lợi thế cạnh tranh của mình
Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc các
chủng loại sản phẩm có lợi thế cạnh tranh như: sản phẩm cao su chế biến
dạng thành phẩm cuối cùng( săm lốp ô tô, xe máy, cao su y tế, đồ nhựa dân
dụng), rau quả và hoa, thực phẩm chế biến , hải sản, khoáng sản…Hơn 100
nhóm hàng và mặt hàng khác nhau của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường
Trung Quốc
Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc .
- Nhóm nguyên liệu: than đá, dầu thô, quặng các loại, các loại dầu
thực vật, cao su tự nhiên.
- Nhóm nông sản: gạo , chè, rau , sắn lát, hạt điều, lạc nhân , các loại
hoa quả nhiệt đới như chuối, soài , thanh long, chôm chôm, vải, nhãn…
- Thuỷ sản(tươi sống): tôm, cá, baba, mực.
- Hàng tiêu dùng: hàng thủ công mỹ nghệ, giày dép, đồ gia dụng cao
cấp.
- Hàng công nghiệp: linh kiện vi tính.

- Hàng công nghệ phẩm: xà phòng, hàng dệt may, giày dép, điên tử.
Dầu thô vẫn là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, chiếm
55% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoácủaViệt Nam sang Trung Quốc.
Theo đánh giá của các chuyên gia, với tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, nhu
cầu nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc khoảng 40- 50 triệu tấn/năm, cộng
với yếu tố giá cả của mặt hàng này trên thị trường thế giới trong thời gian
tới vẫn sẽ có lợi cho xuất khẩu.
Nhìn chung cơ cầu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung
Quốc đã có những thay đổi đáng kể. Tỷ trọng hàng hóa đã qua chế biến và
hàng công nghiệp tiêu dùng tăng cao, nhiều mặt hàng của Việt Nam đã
khẳng định được thị phần và sức cạnh tranh của mình trên thị trường Trung
Quốc.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
4. Đánh giá tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc.
4.1 Mặt tích cực.
Trên thực tế, với tổng kim ngạch buôn bán hai chiều liên tục vượt xa
dự kiến trong những năm gần đây, năm 2005 Trung Quốc đã lần thứ hai
vươt qua tất cả để trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Hơn
thế, trong bối cảnh người khổng lồ này sẽ còn tiếp tục giữ vai trò nguồn
động lực thúc đẩy thương mại toàn cầu phát triển trong những năm tới,
dường như có thể hy vọng đây sẽ là nguồn động lực thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu của nước ta.
Thị trường Trung Quốc là thị trường tiềm năng không chỉ của Việt
Nam mà còn là của thế giới. Trung Quốc là thị trường có sức tiêu thụ rộng
lớn. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 334,6 triệu USD, số
tuyệt đối tăng 86% so với năm 2001. Điều đáng mừng đối với nước ta là
kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đã tăng hết sức ngoạn mục
56,51% trong năm 2004, đã nhảy vọt qua ngưỡng 2 tỷ USD rất xa và đạt

trên 2,7 tỷ USD, còn trong năm 2005 tuy chỉ tăng khiêm tốn ở mức 8,24% ,
nhưng cũng đã gần đạt ngưỡng 3 tỷ USD. Rõ rang với đà này, việc Trung
Quốc có thể thay thế Nhật Bản trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của
Việt Nam trong tương lai là điều có thể xảy ra. Vì thế Việt Nam cần có
chính sách đúng đắn, thoả đáng đối với thị trường này, khai thác triệt để
các yếu tố thuận lợi như : vừa to lớn , vừa dễ tính, vừa thuận tiện trong các
phương tiện như : đường bộ, đường thủy, hàng không, đường sắt.
Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tiến hành
đổi mới đã có sự thay đổi đáng kể. Ngoài những mặt hàng truyền thống
như : than đá, dầu thô, một số sản phẩm nhiệt đới như : cà phê, hồ tiêu,
trong những năm gần đây hàng xuất khẩu của Việt Nam có thêm một số
loại mới tiêu biểu là lúa , gạo sau đó phải kể đến các loại hàng hóa thuỷ hải
sản, nông sản,một vài sản phẩm khai khoáng(quặng, kim loại). Trong vài
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
năm gần đây, sản lượng và giá trị xuất khẩu của mặt hàng này một tăng.
Năm 2003 đạt kim ngạch 2,3 tỷ USD và có triển vọng đạt kim ngạch ngày
càng cao hơn. Ngành thuỷ sản của Việt Nam đã được trang bị kỹ thuật chế
biến tiên tiến, có môi trường nuôi trồng ngày càng cải thiện theo tiêu
chuẩn.
Xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc trong bối cảnh hai
nước có rất nhiều thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu vì Việt Nam và Trung
Quốc, núi liền núi, sông liền sông, có đường biên giới chung trên đất liền,
là hai nước láng giềng, gần gũi, có nhiều điểm tương đồng về văn hoá, gần
nhau về lãnh thổ.Việt Nam có chung biên giới với Trung Quốc dài 1350
km trải dài từ Đông sang Tây qua 6 tỉnh vùng cao phía Bắc của Việt Nam
và 2 tỉnh của Trung Quốc là Quảng Tây và Vân Nam .Điều này thuận lợi
cho việc vận chuyển hàng hóa sang thị trường Trung Quốc.Kể từ khi chính
phủ 2 nước thực hiện chính sách mở cửa biên giới các tỉnh này được đô thị
hoá rất nhanh và từng bước trở thành nơi trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa

Việt Nam và Trung Quốc. Bên cạnh đó, nhiều ngành của Trung Quốc sử
dụng một khối lượng lớn than đá mà Việt Nam lại có những mỏ than tương
đối lớn ở Quảng Ninh sát biên giới với Trung Quốc nên việc vận chuyển
tương đối dễ dàng. Tuy nhiên các khu vực và các tỉnh của Trung Quốc phát
triển không đồng đều, nhu cầu tiêu dùng mang tính đa dạng cao.
Trung Quốc đã có nhiều chính sách thương mại nhằm thúc đẩy quan
hệ hợp tác về kinh tế đối với Việt Nam. Trung Quốc đã chuyển từ chính
sách mậu biên tiểu ngạch sang chính ngạch đối với Việt Nam . Hiện nay
chỉ còn Vân Nam được hưởng chính sách tiểu ngạch.. Phát triển mậu dịch
trên thị trường khu vực biên giới được coi là bước đi có tính chất mở
đường cho chiến lược mở cửa ven biên giới đất liền. Do sự khác biệt về
chính sách phát triển kinh tế- xã hội giữa Việt Nam và Trung Quốc nên
hoạt động hàng hoá trên thị trường khu vực vừa có tính đa dạng, vừa mang
tính đặc thù. Chính sự đa dạng luôn đi cùng với tính đặc thù nêu trên nên
8

×