Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

ĐỀ tài GIỚI LUẬT là yếu tố cơ bản đối với NGƯỜI XUẤT GIA TRONG văn học PĀLI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.93 KB, 22 trang )

DDttt

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MÍNH

-----------------------------------------------------

Nguyễn Thị Thu Nga
ĐỀ TÀI:
GIỚI LUẬT LÀ YẾU TỐ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI XUẤT GIA
TRONG VĂN HỌC PĀLI

Tiểu luận kỳ 4: Môn Văn Học PĀLI

Người hướng dẫn khoa học: TS.NS.TN.Hiếu Liên

TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2021.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MÍNH
-----------------------------------------------------

TÊN TÁC GIẢ: Nguyễn Thị Thu Nga
PHÁP DANH: TN.Chánh Y
LỚP ĐTTX: KHÓA VI
MSSV: TX 6258

BÀI TIỂU LUẬN
GIỚI LUẬT LÀ YẾU TỐ CƠ BẢN ĐỐI VỚI
NGƯỜI XUẤT GIA VĂN HỌC PĀLI



Tiểu luận học kỳ 4: Môn Văn Học PĀLI

Người hướng dẫn khoa học: TS.NS.TN.Hiếu Liên

TP.Hồ Chí Minh , Năm 2021.


- LỜI CAM ĐOAN :
 Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
 Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và có
tham khảo các đề tài khác.
(Tác giả tiểu luận ký tên)

- LỜI CẢM ƠN :
Tôi xin trân thành tri ân những cá nhân, tập thể và những ai liên quan đã hướng
dẫn giúp đỡ, cộng tác trong quá trình thực hiện đề tài.
(Tác giả luận văn ký tên).

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT
....................................................................................................................... ………..
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................


TP.HCM, ngày …… tháng …… năm 2021
Trưởng tiểu ban xét duyệt


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................................................. .....1
2. Phạm vi đề tài........................................................................................................................................ .....1
3. Cơ sở dữ liiệu........................................................................................................................................ .....1
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................................. .....2
5. Bố cục tiểu luận.................................................................................................................................. ....2
B. NỘI DUNG…………………………………………………………………......2
CHƯƠNG 1 : THẢO LUẬN VỀ VIỆC XUẤT GIA……………………………..........2
1.1.Sự xuất gia của thái tử Tất-Đạt-Đa.....................................................................................3
1.2 Định nghĩa xuất gia................................................................................................................ ....4
1.3.Mục đích xuất gia……………………………………………………….....6
1.4. Những nguyên tắc cần thiết cho người xuất gia…………………………......8
CHƯƠNG 2 : KHÁI QUÁT VỀ GIỚI LUẬT
1. Nguyên nhân đức Phật chế giới :..................................................................................9
2. Định nghĩa giới luật :...................................................................................................11
3 . Phân loại các giới :.....................................................................................................12
CHƯƠNG 3:GIỚI LUẬT LÀ YẾU TỐ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI XUẤT GIA
1. Giới luật là nền tảng của sự giác ngộ giải thốt:.........................................................13
2. Ứng dụng giới luật thiết thực có lợi ích trong đời sống người xuất gia.....................13
C. KẾT LUẬN...................................................................................................................................................... .16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... .17


A. MỞ ĐẦU:

1. Lý do chọn đề tài:
Con đường siêu việt tam giới, đoạn trừ trần lao phiền não để thành tựu Phật quả chung qui
khơng ngồi sự kiến tạo của ba môn học: giới - định - tuệ. Ba môn học này là nền tảng duy
nhất để hành giả tiến thân đến thánh vị một cách vững chãi mà trong vơ lượng pháp mơn khó
tìm thấy tiêu chuẩn nào ưu việt hơn. Bởi thánh đạo hay Phật quả đều có từ sự thành tựu trí tuệ.
Tuệ phát sinh từ định. Định do giới mà có. Thế mới biết giới là cung bậc đầu tiên để kiến tạo
nền trí tuệ tối thượng. Do đó người học Phật nếu khơng xác định được giá trị quan trọng hàng
đầu của giới, bỏ qua giới mà muốn tiến thẳng đến quả chứng thì cũng khơng khác gì muốn nấu
cát thành cơm. Với mục đích và ý nghĩa nêu trên, người viết xin chọn đề tài “GIỚI LUẬT LÀ
YẾU TỐ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI XUẤT GIA TRONG VĂN HỌC PÀLI” để trình bày
luận văn tốt nghiệp, nhằm cố gắng thể hiện sự học tập của mình và cũng là dịp người viết có
cơ hội nghiên cứu giới luật và củng cố những kiến thức đã học.

2. Phạm vi đề tài :
Trong tập luận văn này người viết chỉ trình bày những gì gọi là cơ bản thiết thực đối với
người xuất gia. Vì số trang có giới hạn cũng như thời gian khơng có nhiều nên người viết
khơng thể trình bày một cách chi tiết về giới luật, vì vậy chắc chắn sẽ gặp phải những thiếu
sót lỗi lầm, ngưỡng mong Chư vị tôn túc giáo thọ sư từ bi, hoan hỷ chỉ dạy để tập luận văn
được hoàn chỉnh hơn.
3. Cơ sở tài liệu:
Trong quá trình thực hiện người viết đã được kham khảo những tài liệu về giới luật
do chư vị Tơn túc Hồ thượng, Thượng tọa, Ni trưởng… phiên dịch và chú giải để làm cơ
sở nghiên cứu cho tập luận văn này. Mục đích là nói lên vai trị của giới luật có liên quan
đến sự tồn tại của Phật pháp và đối với người xuất gia như thế nào? Từ đó mọi người có cái
nhìn sâu sắc hơn để nghiêm trì giới luật. Với mục đích ấy nội dung tiểu luận này cũng
muốn nhắc lại môỉt lần nữa về sự quan trọng của giới luật trong đời sống xuất gia.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Như chúng ta đã biết, trên lộ trình tu tập giải thốt thì người xuất gia phải trải qua ba
mơn Vơ lậu học Giới-Định-Tuệ, vì đây là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an
lạc.Trong đó, Giới vơ lậu học đóng vai trị cơ bản nhất đối với người xuất gia, vì Giới chính

là nền tảng cho người xuất gia, là yếu tố quan trọng để sanh định và phát tuệ. Như thế,
người xuất gia trước tiên cần phải nghiêm trì giới luật.
Vì bất cứ một tổ chức đoàn thể nào muốn tồn tại và phát triển lâu dài thì cũng đều
phải có một nội quy tuân thủ. Một xã hội muốn thái bình thịnh trị thì phải có luật pháp của
xã hội đó, mà người xưa đã nói: “Quốc có quốc pháp, gia có gia quy”, Vậy thì huống chi
một đồn thể tơn giáo mà có thể nói là khơng có giới luật. Đạo Phật cũng như thế, nhờ có
giới luật mới thống nhiếp được Tăng đoàn, nhờ vậy mà Phật giáo tồn tại ngày càng hưng
1


thịnh đến ngày nay. Vì thế, ta có thể khẳng định rằng trải qua hơn 2500 năm lịch sử đầy
những thăng trầm, có lúc Phật giáo tưởng chừng như đã biến mất hẳn ngay trên bản địa,
nhưng ngược lại Phật giáo vẫn tồn tại và phát triển khắp năm châu. Hiện nay sự thành tựu
vượt bậc của khoa học cùng với những tư tưởng tiến hóa của nhân loại địi hỏi thẩm định
lại giá trị của nhiều tư tưởng triết học xưa nay, và đương nhiên những tư tưởng mang tính
phi lý, lạc hậu phản khoa học đều phải tự đào thải trước những văn minh tiến bộ của loài
người. Thế mà, tòa nhà cổ 25 thế kỷ của Phật giáo vẫn tồn tại cùng năm tháng sừng sững
như cây đại thọ giữa núi rừng trùng điệp. Điều này chứng minh rằng Phật giáo đã toát ra
một sức sống mãnh liệt bắt nguồn từ một giá trị tinh thần phong phú, tinh thần ấy chính là
sự thể hiện giáo pháp trong mỗi đời sống con người, giáo pháp ấy phải chăng là những
chân lý vượt cả không gian và thời gian, bao gồm ba tạng kinh, luật, luận. Trong đó Luật
tạng được xem là bậc thầy cao cả của đại chúng, như kinh Bồ tát giới viết:
“Giới như đại minh đăng
Năng tiên trường dạ ám
Giới như châu bảo kính
Chiếu pháp tận vô vi
Giới như ma - ni châu
Vũ vật tế bần cùng
Ly thế tốc thành Phật
Duy thử pháp vi tối”.

Nghĩa là : Giới như ngọn đèn sáng lớn, có khả năng tiêu trừ đêm dài tăm tối. Giới
như tấm gương quý báu soi thấu hết thảy các pháp. Giới như viên ngọc như ý hóa vật để
giúp kẻ nghèo. Muốn được mau giải thốt thành Phật chỉ có giới là hơn hết. Phải chăng
đoạn kinh trên đã nghiễm nhiên xác nhận giới chính là nền tảng căn bản, là những nấc
thang đầu của đạo quả giác ngộ, là nền tảng của thiền định và trí tuệ, là phao nổi đưa người
qua biển khổ sanh tử, là kho tàng vô lượng cơng đức, và cũng chính là cửa ngõ duy nhất để
vào thành trì Niết bàn.Kinh Phương Đẳng đức Phật cũng nói: “Giới là cội gốc hết thảy các
điều lành”, vì người giữ giới là khuôn khổ làm cho thân, khẩu, ý được trong sạch, ngăn
chặn tội lỗi phát sinh, diệt trừ thói quen làm việc ác và do nhờ giữ giới trong sạch thì mới
có thể duy trì các thiện pháp. Bởi thế, người tu học Phật không thể không am tường giới
luật, vì giới luật là mạng mạch của tăng đoàn.
“Tâm tịnh tức Phật độ tịnh” chúng ta
là những người con của đức Như Lai, được tắm mình trong dịng pháp của Ngài. Vì thế
chúng ta đừng ngại ngùng thừa hưởng dịng pháp mát dịu đó, tức là chúng ta phải lấy giới
luật làm hành trang trên bước đường tu học, chắc chắn hành giả sẽ có một hình tướng trang
nghiêm cộng thêm một tâm hồn tịnh lạc, và việc hành trì giới luật cũng chính là làm cho
mạng mạch Phật pháp kéo dài, hưng thịnh, thế giới hòa bình và chúng sanh an lạc.

5 .Bố cục tiểu luận: gồm 2 chương,18 tiểu mục và 17 trang.

2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : THẢO LUẬN VỀ VIỆC XUẤT GIA
Xuất gia theo đạo Phật là một việc cao cả và không nhiều người làm được. Tuy nhiên,
một người đã phát bồ-đề tâm quyết chí xuất trần, nếu khơng gặp thuận duyên từ môi trường
sống, cộng đồng Tăng lữ, hay khơng có vị bổn sư có khả năng hướng dẫn thì tâm bồ đề dễ
dàng bị thối lui. Vị ấy có thể khơng cịn tâm quyết chí tu hành và trở về nơi mà trước đó mình
đã quyết định từ bỏ. Đây là một thất bại đau đớn của người mà ngày trước tưởng chừng như

trọn cuộc đời hiến dâng mình cho lý tưởng giải thốt.
Do đó, sự tu hành cần phải có phương pháp phù hợp để áp dụng trong thực tế đời sống
hằng ngày của mình nhằm đưa tới những kết quả an lạc giải thoát thực sự trong tâm. Chính
đức Phật, hằng ngày cũng phải ln nhắc nhở, đôi khi khiển trách các tỳ-kheo đệ tử của mình,
nhằm chỉ ra sự sai trái, đồng thời hướng dẫn cho họ con đường làm sao tiến tới sự giải pháp
chân chánh. Cho nên, qua các kinh điển còn lưu lại cho đến nay, sự giáo giới cho các tỳ-kheo
của đức Phật chiếm một số lượng lơn trong toàn bộ hệ thống kinh điển. Đó có thể là dạy dỗ về
oai nghi tế hạnh, về giới luật để áp dụng cho các sinh hoạt hằng ngày. Bên cạnh đó, nó còn là
những lời hướng dẫn về các mức độ thâm sâu trong tâm của các vị tỳ-kheo trong quá trình
hành thiền.
Có thể nói, kinh Trung A-hàm là bộ kinh mà những lời dạy của đức Phật về chủ đề này
chiếm vị trí quan trọng và đa số trong đó. Vậy đức Phật đã dạy những gì để vị tỳ-kheo tự hồn
thành nhân cách xuất gia của mình, đồng thời làm khn mẫu cho hang tìn chủ noi theo? Điều
cũng đặc biệt quan trọng là làm sao duy trì được sự ổn định và hịa hợp trong Tăng đồn Phật
giáo? Đó là chính là những vấn đề căn bản của người xuất gia cần thực hiện.
1.1. Sự xuất gia của Thái tử Tất-đạt-đa
Trong kinh Thánh cầu –trung bộ kinh, đức Phật nêu lên hai sự tìm cầu là Thánh cầu và
phi Thánh cầu. Phi Thánh cầu là những người đã tật bệnh nhưng lại đi tìm tật bệnh thêm nữa.
Những người bị lệ thuộc đối với bệnh tật, cái chết, ưu, bi, khổ, não, tạp uế... nhưng vẫn tiếp tục
tìm cầu những sự ấy.
Có thể nói, phi Thánh cầu ở đây những người đang bị chìm trong đau khổ nhưng khơng
tìm phương pháp thốt khổ, lại đi tìm cái khổ mới cho chính mình. Cứ như thế, họ tái sanh từ
kiếp này sang kiếp khác, mà hành trang mang theo là nghiệp lực, vô minh, tham, sân, si nên
đau khổ vẫn phải tiếp tục đau khổ. Do đó, họ khơng hề biết đến sự an lạc của Niết-bàn hay con
đường đi đến Niết-bàn.Thánh cầu là những người đang bị lệ thuộc bởi bệnh tật, cái chết, ưu,
bi, khổ, não, tạp uế nhưng suy nghĩ muốn tìm phương cách thốt khỏi những sự đau khổ ấy.
Sau khi suy nghĩ như thế rồi, họ quyết tâm chí cầu sự giải thốt, do đó, quả Niết-bàn là mục
tiêu người đó có thể đạt được.Đức Thế tôn kể lại những suy nghĩ của Ngài trước khi xuất gia
rằng:“Khi ta đến tuổi thanh niên, trong sáng, tóc xanh, đến thời tráng niên năm hai chín tuổi,
bấy giờ ta có cuộc sống rất vui vẻ, trang sức, dạo chơi. Vào lúc ấy, dù cha mẹ khóc than, thân

quyến khơng vui, ta vẫn cạo bỏ râu tó, mặc áo cà-sa, chí tín, lìa xa gia đình, sống đời khơng
nhà để học đạo, giữ gìn thân mạng thanh tịnh, phịng hộ khẩu, ý, mạng thanh tịnh.„ Chính vì
nghĩ đến bản thân và mọi người đang sống trong đau khổ, dù sống giữa sự giàu sang và yêu
quý của gia đình nhưng Ngài vẫn quyết chí từ bỏ xuất gia. Sau khi xuất gia, Ngài đã lần lượt


3
tham học nơi AĀḷāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta, dù trải qua những tầng thiền cao nhất mà
hai vị thầy của Ngài đã dạy nhưng nhưng không làm thỏa mãn nghi vấn của Ngài. Cuối cùng
Ngài đi đến bên bờ sông Ni-liên-thiền (Nairañjanā) và tọa thiền cho đến khi chứng đắc được
lậu tận. Lời sau đây của Ngài có thể nói hết mục đích xuất gia của Ngài, sau này là của các
Thánh đệ tử, và đó cũng là mục đích tối hậu của lý tưởng xuất gia:“Ta tìm cầu sự không bịnh
và vô thượng an ổn của Niết-bàn, liền đắc được sự không bịnh và vô thượng an ổn của Niếtbàn. Ta cầu sự không già, không chết, không sầu, không ưu, không lo, không ô uế và vô
thượng an ổn của Niết-bàn, liền đạt được sự không già, không chết, không sầu, không ưu,
không lo, không ô uế và vô thượng an ổn của Niết-bàn, sanh tri, sanh kiến và định đạo phẩm
pháp. Ta biết như thật rằng sự sanh đã hết, Phạm hạnh đã thiết lập, những gì cần làm thì đã làm
xong, khơng thọ sanh trở lại nữa.„ Như vậy, mục tiêu tối hậu mà Thái tử Tất-đa-đa
(Siddhārtha) hướng đến là sự vô sanh và sự an ổn của Niết-bàn. Chính mục đích này làm động
lực nên Ngài quyết chí rời xa nơi mà thế gian cho là sung sướng nhất là hồng cung để tìm đến
những cánh rừng cơ quạnh học hỏi pháp giải thốt, kiên trì khổ hạnh và thiền định cho đến khi
đạt giải thốt tối hậu. Sự xuất gia ấy khơng phải là bổn phận bị áp đặt, khơng phải vì mong ta
sẽ tu được bao nhiêu năm rồi đi khắp nơi thuyết pháp, sẽ được sự cung kính và lợi dưỡng của
mọi người.“Kẻ phàm phu ngu si mà lại không đa văn, không gặp thiện hữu, không biết Thánh
pháp, không được chế ngự bởi Thánh pháp, thì kẻ đó đối với năm tính chất của dục khi tiếp
xúc sẽ đắm nhiễm, tham muốn và dính mắc, chúng ngạo nghễ đi vào mà khơng thấy tai họa,
khơng thấy con đường thốt ly nên sử dụng năm thứ dục đó. Nên biết rằng, những kẻ đó chạy
theo ma, làm việc cho ma, rơi vào tay ma, bị lưới ma trói, vì bị trói buộc bởi dây ma nên khơng
thể thốt khởi sự trói buộc của ma.„
Ngay khi xuất gia vào chùa học đạo đã phải từ xa họ hàng thân thuộc, cha mẹ, anh em,
bạn bè để cạo bỏ mái tóc xanh, khốc lên mình mảnh áo hoại sắc, ni dưỡng trong lịng một

hồi bảo lớn “Hoằng thánh đạo” và “Độ nhất thiết nhân”. Hồi bảo ấy chính là tâm Bồ đề. Tâm
Bồ đề, là một nguồn năng lực rất mạnh, chính nó đã thôi thúc chúng ta đi xuất gia và năng lực
ấy tiếp tục phát triển trong suốt thời gian chúng ta sống đời sống xuất gia. Năng lực này giúp
chúng ta có thêm sự tinh tấn, dõng mãnh, đủ nghị lực để vượt qua mọi khó khăn trở ngại và
giúp cho chúng ta có hạnh phúc. Mảnh đất ni dưỡng tâm Bồ đề này xanh tốt nhất là khi
bước lên nấc thang Tỳ kheo - nấc thang hàng đầu của các chúng, là mơi trường thích nghi nhất,
để từ đó tâm Bồ đề phát huy hết năng lực đã phôi thai và nuôi dưỡng suốt thời gian làm điệu
với đời sống của một Sa di hay Sa di ni.
Trong hoàn cảnh xã hội tiến bộ ngày nay, một trưởng tử Như Lai muốn làm nên sứ
mạng của Như Lai đã phó thác, thì nhất định phải có vốn kiến thức khá vững vàng về Phật học
lẫn thế học. Bởi lẽ, không ai không công nhận là về phương diện tinh thần, giáo lý đạo Phật đã
nuôi sống nhân loại trên hơn hai ngàn năm nay, và hình ảnh người xuất gia - những người
trưởng tử Như Lai, từ đời này sang đời khác đã khơng ngừng nói lên cái thật, cái tốt đẹp của
cuộc đời. Từ Hương Hải trên dải đất hẹp của xứ Đàng Trong, cho đến Bách Trượng với đỉnh
cao của núi, dưới biển trên non, nơi nào có linh khí của đất trời, nơi đó có cuộc sống an nhiên
tự tại của các Ngài. Lý tưởng của người xuất gia là một cuộc dấn thân trọn vẹn cho mục đích
giải thốt cho chính mình và cho tha nhân. Khơng có gì khác hơn ngồi tâm ấy, nguyện ấy. Hễ
có một ngày để sống thì cũng sống vì chuyện ấy, mà có cả một đời để sống thì cũng dành hết
tất cả nỗ lực, sức bình sanh cho việc xuất gia mà thôi. Không hơn và không kém, chúng ta cứ
suy nghĩ cho thật kỹ đi, rồi chúng ta cùng lên đường, bây giờ hay mai sau, lúc nào cũng được.
Và để ca ngợi về công hạnh của người xuất gia, đức Điều Ngự Giác Hồng có lời kệ rằng:
“Phù thế gian tối quý giả, bất như xả tục xuất gia. Nhược đắc vi tăng, tiện thọ nhân thiên cúng
dường, tác Như Lai chi sứ giả, dữ Hiền Thánh chi tôn thân”.


4
Tạm dịch là:
“ Thế gian cao quý hơn người
Sao bằng xả tục, sống đời xuất gia
Làm Tăng, sứ giả Phật đà

Trời người cung dưỡng, Thánh là tơn thân”.
Vì sao người “ Xả tục xuất gia” lại được xem là bậc “Thế gian tối quý”? Để xứng đáng
là sứ giả của Như Lai, là tôn thân của các bậc Hiền Thánh, không hổ thẹn khi lãnh thọ sự cúng
dường, hàng xuất gia phải có một nếp sống phạm hạnh “Bạt tục siêu quần ” như thế nào? Vấn

đề sẽ sáng tỏ hơn khi chúng ta tiếp tục tìm hiểu về phần định nghĩa xuất gia.

1.2 . Định nghĩa xuất gia :
Xuất gia, tiếng Phạn là Pravrajya, là để chỉ người theo Phật giáo, từ bỏ gia đình, sống đời
phạm hạnh, khơng màng danh lợi , dục lạc, chỉ mong cầu giải thoát; họ ở trong rừng, xa rời đời
sống thế tục.. Kinh Tăng Nhứt A-hàm có dạy: ”người xuống tóc xuất gia học đạo thì phải có
niềm tin kiên cố, nếu khơng đủ ý nghĩa như tên gọi này thì chớ nên xưng là đệ tử của Đức
Thích Ca “.Thật vậy, sau khi xuất gia, Sa- môn Cồ-Đàm đã phát bốn lời hoằng nguyện, đó là
nguyện cứu các khổ nạn của chúng sanh, nguyện trừ các chướng hoặc của chúng sanh, nguyện
đoạn các tà kiến của chúng sanh, và nguyện độ chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử . Sau sáu năm
tầm đạo, Ngài xác định con đương để thành tựu những lời hoằng nguyện ấy, được lồi người
tơn xưng là bậc giải thoát, là Phật.Như thế, xuất gia theo đạo Phật khơng chỉ để giải thốt cho
chính mình mà cịn vì lợi ích cho tất cả chúng sanh. Dựa vào hạnh nguyện của hành giả, người
xuất gia có ba hạng.
a.Thân và tâm đều xuất gia: Xuất gia là do mỗi cá nhân tự nguyện, không ai và cũng không
quyền lực nào có thể buộc một người xuất gia. Khi người xuất gia đã rời nhà vào ở trong chùa
thì gọi là thân xuất gia. Khi tâm người đó khơng cịn hướng ra bên ngoài tham muốn các thú
vui của năm dục…thì đó là tâm xuất gia. Đây chính là trường hợp lý tưởng nhất đối với một
hành giả và cũng là bổn phận của người xuất gia.
b. Thân xuất gia mà tâm không xuất gia: Đây là trường hợp những người gởi thân trong chùa
nhưng tâm của họ vẫn còn vọng tưởng, chạy đuổi theo cái vui của thế tục. Ngườii như vậy chỉ
xuất gia vì cuộc sống hưởng lạc, vì tiếng thơm để người khác ngưỡng mộ.
c.Tâm xuất gia mà thân khơng xuất gia: Đây là hình thức xuất gia của các bậc thánh hay các vị
Bồ-tát.Những vị này hoặc vì sợ lộ hình tướng khiến chúng sanh ngưỡng mộ mà trở nên mê tín,
hoặc vì họ khơng cịn chấp vào hình tướng mà chỉ chú trọng vào việc tu hành thực tiễn.

1.3. Ý nghĩa thực tiễn của người xuất gia:
-Ý nghĩa xuất gia đối với cá nhân: Người xuất gia giữ gìn giới luật và tu tập giáo pháp mà giớiđịnh-tiện phát sanh, cuối cùng thì đi đến giải thoát giác ngộ. Xuất gia là dấn thân vào cuộc đời,
vì mọi người đang chìm đắm trong đau khổ chúng ta giúp họ thoát khổ, lấy niềm vui và hạnh
phúc của mọi người để làm niềm vui của mình. Như vậy chính là đi vào thực tiễn của cuộc đời


5
- Ý nghĩa xuất gia đối với Phật giáo: Phật giáo được lưu truyền và được truyền bá khắp
mọinơi là nhờ các vị Tăng sĩ, thêm một người xuất gia thì thêm một người truyền bá phật pháp.
Kinh tán Dương Cơng Đức Tăng Bảo cho thấy người xuất gia có nhiệm vụ giữ gìn Tam
bảo,kinh dạy: ”Người đệ tử xuất gia là người có thể đảm trách và kế tục Chánh pháp của Như
Lai ở đời sau…”.
-Ý nghĩa xuất gia đối với toàn bộ xã hội: Xã hội ngày phát triển cũng đồng nghĩa với sự phát
triển của vật chất , tinh thần;dẫn đến hậu quả như bệnh trầm cảm,lối sống không phù hợp với
đọa đức... người xuất gia là gánh vác sự nghiệp của chư Phật, đem những lời dạy của đức phật
để cống hiến cho xã hội, giúp xây dưng xã hội thanh bình.
1.4 . Mục đích xuất gia :
Mục đích của người xuất gia là “Hoằng pháp lợi sanh”.Cho nên, người xuất gia phải nhận
thức rõ và quyết chí theo đuổi mục đích vơ thượng của mình. Một người xuất gia với động cơ
chân chánh là người đã nhận thức được sự thật khổ đau của cuộc sống, họ nhận thức được rằng
cuộc sống này là giả tạm vô thường. Mọi vật trên thế gian này đang bị các ngọn lửa tham, sân,
si, sầu bi, khổ não… thiêu đốt và vị ấy mong cầu thoát ra khỏi ngọn lửa ấy bằng cuộc sống
phạm hạnh.Mục đích của người xuất gia là mong muốn đạt được hạnh phúc và giải thốt đích
thực ngay tại đời này và nhiều kiếp về sau. Đức Phật là người đã thành đạt mục đích ấy và đã
chỉ dạy lại cho con người con đường đi đến mục đích cao thượng đó. Người xuất gia buông
bỏ, thấy suốt, và dạy người khác buông bỏ, thấy suốt, ấy là tích cực. Vì thế, mục đích xuất
gia của Phật giáo: Một là tự mình cầu giải thoát, hai là trợ giúp người khác giải thoát, và lấy
việc tự cứu mình cứu người đồng được giải thốt làm mục đích
1. Sự thanh tịnh về việc giải thốt luật nghi:
2. Sự thanh tịnh về phịng hộ căn mơn:

3. Sự thanh tịnh về phương tiện sống:
a)

Ba y và bình bát.

b) Sống khất thực.
c) Ngủ nghỉ dưới gốc cây.
d) Dùng dược phẩm trị bệnh.
4.

Niệm thanh tịnh và đời sống thanh tịnh:

Là người ấy luôn luôn chánh niệm và tỉnh giác trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi
của mình. Mỗi bước đi của một Tỳ kheo trong đời sống mẫu mực trên là mỗi bước đi ra khỏi
các tác nhân gây ra sự rối loạn tâm lý, bước vào an lạc hạnh phúc của tâm giải thoát và tuệ giải
thoát. Rõ ràng cuộc sống thanh tịnh nương vào bốn thánh chủng trên là một cuộc sống đặt trên
nền tảng của Giới, Định, Tuệ. Đây là con đường độc nhất đưa ta đến giải thoát Niết bàn.
1.5. Những nguyên tắc cần thiết cho người xuất gia :
Vì hiểu rằng đời là khổ, vơ thường, khơng có một bản ngã bất biến thường hằng nên


6
người tu sĩ Phật giáo luôn tinh tấn tu tập và hành trì giới pháp để mong giúp mình, giúp người
diệt khổ. Đó là phẩm chất của một Tỳ kheo, do hành trì giới luật được thăng tiến trong quá
trình tu tập. Sự việc này được ghi nhận qua hình ảnh đức Thế Tôn với những nhận xét của
ngoại đạo như sau: “Sa Môn Cồ Đàm đã dứt bỏ việc gây hại cho đời, đã mất hẳn các khuynh
hướng gây hại ấy. Ngài đã gạt bỏ gậy gộc và gươm giáo, Ngài sống một cách nghiêm hòa tràn
đầy khoan lượng lòng từ bi, mong muốn hạnh phúc cho chúng sanh. Ngài đã dứt bỏ việc lấy
của người khác, đã mất hẳn cái khuynh hướng lấy của mà người khác không cho mình. Ngài
nhận những gì trao cho Ngài và sẵn sàng đem cho những thứ ấy, Ngài sống bằng tấm lòng


chân thật thuần khiết…”
1. Thân hòa đồng trụ :
Tức thân cùng sống chung một chùa, một tập thể cần phải hài hòa cởi mở, thuận thảo
với nhau như sữa hòa với nước. Chúng ta phải chấp nhận cuộc sống tập thể nương với nhau để
tiến tu đạo nghiệp và tạo sức mạnh của “Đức chúng”, kết liền nhau thành một khối giới đức,
mang hương giới đến cho tất cả mọi người, hầu lấy đó làm đồn thể mơ phạm, là điểm dựa tinh
thần cho tất cả chúng sanh quy ngưỡng. Có như vậy hàng tu sĩ Phật giáo chúng ta mới thật sự
là người “Hành Như Lai sự” một cách triệt để, đưa giáo pháp ngày càng trở nên sáng rạng và
trường tồn.
2. Khẩu hịa vơ tránh :
Là dùng lời nói nhã nhặn, thể hiện rõ nét một con người có văn hóa và đạo đức. Người
tu sĩ sống chung trong đồn thể Tăng già, nếu khơng áp dụng được “khẩu hịa vơ tránh” thì
thành phần ấy đã phá hịa hợp Tăng, vì đó là hành động gián tiếp gây tổn thương đến uy tín
hay thanh tịnh của Tăng đồn. Thế nên tục ngữ có câu:
Miệng hịa lời nói dịu dàng
Ôn tồn chân thật lại càng quý hơn
Khuyên ai chớ nói xa gần
Đừng lời khiêu khích gợỉi phần hơn thua
Lời nói khơng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
3. Ý hòa đồng duyệt :
Trên sự sống chung mọi ý tưởng đều được hài hòa, cởi mở vui vẻ và nhu hịa mang tính
từ ái khoan dung, vị tha hỷ xả. Như thế thì thân và khẩu mới đem niềm vui cho mọi người.
Bằng ngược lại, nếu ý nhỏ mọn tỵ hiềm ganh ghét, cố chấp hay để tham, sân, si, mạn, nghi, ác
kiến hồnh hành thì nhịp cầu cảm thơng khó bắt được và đây chính là đầu dây của mọi thứ
tranh chấp. Điển hình là sau khi đức Phật nhập diệt, Tăng đoàn của Ngài chỉ vì bất đồng quan
điểm về giới luật mà phân ra thành hai bộ phái.
4. Giới hòa đồng tu :
Tức sự giữ gìn giới luật thanh tịnh, trang nghiêm phạm hạnh giúp đỡ khuyến tấn,

khuyên bảo cho nhau. Khi hành, trụ, tọa, ngọa thân, khẩu, ý đều quy nhiếp trong giới luật, ai
cũng cố gắng hòa hợp thanh tịnh để tạo sức mạnh tinh thần giải thoát. Giới luật là phương tiện


7
cho đạo nghiệp tu hành, như người cư sĩ có 5 điều phải tránh, hàng xuất gia có 10 giới hoặc
250 hoặc 348 giới, tất cả đều chỉ ba nghiệp thân – khẩu – ý của người xuất gia gây tạo. Giới
luật hòa nhau nghĩa là đồng y theo giới luật của Phật chế ra mà tu tập và không thọ giới pháp
của ngoại đạo.
5. Kiến hòa đồng giải :
Tức cùng nhau nâng cao trình độ hiểu biết để có văn tư rồi mới tu, nhân đó mới có Giới,
Định, Tuệ… Tất cả những hiểu biết về giáo pháp phải được đem ra giải bày, khai mở tâm trí
cho nhau. Không nên “Lậu pháp” và bỏn xẻn giữ riêng cho mình những sự hiểu biết về giáo
pháp mà mình đã khám phá ra. Người ta kiến giải tức là sự nhận thức về một vấn đề sáng tỏ,
phải đem chia sớt, giảng nói để cùng nhau học tập. Nếu có ai hiểu sai giáo lý thì mình phải thật
lịng ơn tồn giải bày cương quyết, để người từ bỏ tà kiến và quay về Phật đạo.
6.

Lợi hòa đồng quân :

Khi có tài lợi là chúng ta phải đem phân chia đồng đều, cùng nhau thọ dụng, không
được chiếm đoạt của riêng cho mình. Ta thấy rằng của cải vật chất đối với người tu hành
không phải là vấn đề quan trọng. Tuy nhiên sử dụng tài lợi một cách bất hịa thì chắc chắn sẽ
gây ra những thắc mắc khơng tốt đẹp. Do vậy, Tăng đồn ln ln tỉnh giác, biết rõ mọi vật
thực đều là phương tiện, không thể đưa ta đến chân trời giải thốt. Vì vậy, chúng ta khơng nên
tham đắm lợi lộc và phải lợi hịa đồng qn mới có thể xố bỏ được ngã và ngã sở. Có lợi hịa
đồng qn thì chúng ta mới san bằng được mọi hầm hố chia sẻ bất công giai cấp trong xã hội,
trong Tăng đồn và trong mơn tự, nhằm kiến tạo một nếp sống thánh thiện, an vui.



8
CHƯƠNG 2 : KHÁI QUÁT VỀ GIỚI LUẬT
1. Nguyên nhân đức Phật chế giới :
Trong bài tựa Giới kinh có đoạn:
“Nay diễn pháp Tỳ ni
Cho chánh pháp hằng còn
Giới như bể khơng bờ
Như báu cầu khơng chán
Muốn hộ trì chánh pháp
Chúng hợp nghe tôi tụng…”
Phàm muốn ra khỏi biển sông mê, bước lên bờ giác, muốn từ bỏ cuộc sống triền
phược tối tăm để đạt được cảnh giới Niết bàn, thì hành giả phải nghiêm trì tịnh giới. Vì Giới
chính là bước thang đầu của quả giác ngộ, là nền tảng của thiền định trí tuệ và cũng là kho tàng
vơ lượng cơng đức. Vì thế, những ai thường thao thức cho sự nghiệp giải thốt của chính mình
và sự tồn tại vĩnh cửu của đạo Phật thì phải nghiêm trì Giới luật. Bằng ngược lại chúng ta đã
làm lu mờ chánh pháp và bản thân bị sa đọa trầm luân. Điển hình là giới luật Phật giáo trong
những năm đầu sau khi đức Phật thành lập Tăng đoàn, các vị Tỳ kheo là những bậc thánh Tăng
sinh hoạt thanh tịnh trong chánh pháp. Giới luật lúc bấy giờ chính là sự huấn dụ, khuyên bảo
nhắc nhở của đức Thế Tôn đã được chư vị áp dụng một cách tự nhiên trong đời sống hàng
ngày. Cụ thể vào năm thứ ba sau ngày Phật thành đạo, Ngài đã đọc bản Ovàda Pàtimokkha lần
đầu tiên trước hội chúng 1250 vị Tỳ kheo, vào ngày trăng tròn khoảng tháng 2 hay tháng 3
năm ấy. [15, 131]
Đó là bài tụng mang ý nghĩa rất đơn giản mà lại đượm nhuần hình ảnh thanh cao trong
vấn đề hộ trì tam nghiệp:
“Khéo giữ gìn lời nói
Tự trong sạch ý chí
Thân khơng làm điều ác
Ba nghiệp được thanh tịnh
Thực hành được như thế
Là đại đạo tiên nhân”.


(Bản dịch của HT Trí Thủ)
Dần về sau, trong Tăng đoàn xuất hiện nhiều thành phần xuất gia với động cơ khơng
chân chính, do đó đã xảy ra trường hợp nhiều Tỳ kheo thiếu kỷ luật, sống buông lung vi phạm
tịnh hạnh… khiến cho Tăng chúng bị mang tiếng xấu lây và gây ra nhiều mâu thuẩn. Để giải
quyết những vấn đề rắc rối ấy, Thế Tôn đã chế ra Giới luật nhằm đối trị lỗi lầm, ngăn chặn
những hành vi bất thiện sắp vi phạm, đồng thời lấy lại uy tín cho Tăng đồn. Trong kinh Văn
Thù Sư Lợi Vấn, quyển hạ nói: “Tơn giả Văn Thù Sư Lợi bạch Phật:Bạch đức Thế Tôn, người
tà kiến đời sau sẽ phỉ báng rằng nếu đức Như Lai là bậc Nhất thiết trí, tại sao phải chờ chúng
sanh phạm tội rồi mới chế giới?”.


9
- Phật dạy: “Nếu ta chế giới trước khi có vi phạm, thì người đời sẽ phỉ báng ta”. Họ
bảo rằng: “Tôi không gây tội sao lại cưỡng ép ra giới luật?”.
Đó khơng phải là Nhất thiết trí, như thế là Như Lai khơng có tâm từ bi, khơng lợi
lạc, khơng bảo bọc chúng sanh. Như người khơng có con lại nói rằng sẽ sinh con vào ngày giờ
ấy, chuyện ấy khơng thể tin vì khơng chân thật. Nếu thật sự thấy đứa con người ta mới tin.
Cũng thế, này Văn Thù Sư Lợi: “Tội chưa làm, trời chưa thấy thì làm sao chế giới được? Cho
nên cần phải thấy rõ tội phạm, rồi sau mới chế giới. Này Văn Thù Sư Lợi, như y sĩ biết rõ
nguyên nhân tật bệnh và biết có thuốc để trị bệnh ấy”. [7, I, 118]
Trong luật tạng có ghi: “Một lần các Phật tử và ngoại đạo chê trách các vị Tỳ kheo
đứng mà tiểu tiện, cho rằng cung cách đó là thơ tháo, thiếu lịch nhã ”. Khi sự việc được trình
lên đức Thế Tơn, Ngài dạy: “Vậy thì từ nay các Tỳ kheo ngồi mà tiểu tiện”. Nhưng khi đến
một quốc độ khác, khi thấy chư Tăng ngồi tiểu tiện, ngoại đạo lại cho rằng: “Các đệ tử của Thế
Tơn tồn là nữ giới” và sự việc này được bạch lên Thế Tơn, Ngài lại dạy: “Nếu thế thì đứng
mà tiểu vậy”. Đây là một trường hợp điển hình nói lên tính linh động và cởi mở của Giới.
Giới luật được Thế Tôn chế vào năm thứ 13 sau khi Ngài thành đạo và trải qua ba giai
đoạn:
* Giai đoạn thứ nhất: Tôn giả Tu-đề-na, con trai của Thôn trưởng Ca-lan-đà, vị này

nổi tiếng là vị Tỳ kheo tinh cần chánh hạnh. Do yêu cầu của mẹ là phải để lại một đứa con để
nối dõi tông đường, nên Tôn giả đã hành dâm với vợ cũ. Sau việc ấy, Tôn giả cảm thấy xấu hổ
và bức bách trước những Tỳ kheo thanh tịnh nên thú nhận với chư Tăng. Chư Tăng bạch Phật,
Phật quở trách và chế định: “Tỳ kheo nào phạm bất tịnh hạnh, hành pháp dâm dục,Tỳ kheo ấy
là kẻ Ba-la-di không được sống chung”.
* Giai đoạn thứ hai: Một Tỳ kheo chán nản đời sống phạm hạnh, về nhà hành dâm
với vợ cũ, vì trong giới Phật chế khơng nói đến trường hợp chán nản đời sống phạm hạnh. Do
đó, đức Phật chế thêm: “Tỳ kheo nào đã thọ trì học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ kheo,
chưa hồn giới, giới sút kém nhưng khơng phát lộ, hành dâm dục – Tỳ kheo ấy là kẻ Ba-la-di,
không được sống chung”.
* Giai đoạn thứ ba: Một Tỳ kheo sống trong rừng bị thiên ma nhiễu loạn, nên đã
hành dâm với con vượn cái, nghĩ rằng giới luật Thế Tơn chế khơng nói trường hợp cùng với
súc sanh. Thêm một lần nữa Thế Tôn lại chế: “ Tỳ kheo nào đã thọ trì học xứ và chấp nhận đời
sống của Tỳ kheo, chưa hoàn giới, giới sút kém nhưng không phát lồ mà hành pháp dâm dục,
cho đến cùng với loài súc sanh, Tỳ kheo ấy là kẻ Ba-la-di khơng được sống chung”. [13, II,
84-85]
Sau đó, Thế Tơn nói rõ 10 lý do để giới được thiết lập :
1. Để Tăng chúng được cực thịnh.
2. Để Tăng chúng được an ổn.
3. Để kiềm chế các Tỳ kheo khó kiềm chế.
4. Để các Tỳ kheo sống được an ổn.
5. Để chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại.
6. Để chặn đứng các lậu hoặc ngay trong hiện tại.


10
7. Để đem lại tịnh tín cho những người khơng tin.
8. Để làm tịnh tín tăng trưởng cho những người có lịng tin.
9. Để chánh pháp được tồn tại.
10. Để giới luật được chấp nhận nhằm hướng đến giải thoát.

Khi đức Thế Tôn mới nhập diệt, những vị thánh Tăng do thấu triệt chân lý nên
bình tĩnh đón nhận những lời dạy trên, cịn những vị khác thì khóc lóc, vật vã kêu la… Nhưng
cũng có những Tỳ kheo do khơng hảo tâm xuất gia như Bạt-nan-đà thì cảm thấy rất sung
sướng và nói rằng: “Chúng ta đã giải thốt hồn tồn vị Đại sa mơn ấy, chúng ta đã bị phiền
nhiễu, quấy rầy với những lời làm như thế này khơng hợp với các người, nay những gì chúng
ta muốn thì chúng ta làm”. [1, I, 677]
2. Định nghĩa giới luật :
Sở dĩ đức Phật chế giới nhiều là vì chúng sanh quá nhiều nghiệp, mỗi giới ứng hợp mỗi
nghiệp. Để hiểu và thực hành đúng giới luật trước hết phải hiểu rõ nghĩa của danh từ Giới luật.
Luật: Dịch từ ngữ Vinaya, nghĩa là các nguyên tắc, các quy luật.
Có thể nói, Giới là Luật, nên gọi là Giới Luật, gồm những danh từ khác nhau nhưng
đồng thể. Tiếng Phạn gọi là Tỳ-ni hay Tỳ-nại-da (Vinaya), Trung Hoa dịch là Diệt, vì có ba
nghĩa:
1. Dứt nghiệp quấy của thân, khẩu ý.
2. Dứt phiền não tham, sân, si, tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng huệ.
3. Được quả tịch diệt Niết bàn.
Lại cũng dịch là điều phục, vì điều luyện ba nghiệp thân, khẩu, ý để chế phục các ác
hạnh, cũng dịch là Thiện trị, vì khéo tự trị các ác hạnh của chính mình và điều phục hết thảy
các điều ác cho chúng sanh.
Giới: Tiếng Phạn là Sìla – Sìla theo ngun nghĩa của nó là tự nhiên, là thói
quen. Vậy Giới vốn là thực tại với quy luật vận hành, nếu hành động trái với quy luật tự nhiên
thì gặp trở ngại. Qua đó, ta hiểu rằng, Giới là chuẩn mực để đánh giá hành động đúng hay sai,
điều gì nên làm và điều gì khơng nên làm, để thốt khỏi mọi trói buộc của khổ đau.
Trung Hoa dịch là thanh lương, nghĩa là mát mẽ, vì giới có cơng năng dứt ba nghiệp
quấy ác thiêu đốt. Lại còn nghĩa là “Phòng phi chỉ ác”.
Lại cũng gọi là “Bảo giải thoát”, tức bảo đảm người xuất gia tu hành giữ gìn giới luật
thanh tịnh quyết sẽ được giải thốt. Tên gọi tuy có khác nhưng cũng cùng một công năng, một
ý nghĩa cao cả rực sáng là “Tự tịnh kỳ ý”, thanh lọc mọi mống khởi, u mê của vọng thức đảo
điên. Vì hạt nhân tối ưu của giới là thanh tịnh, là phạm hạnh toàn vẹn.Điển hình Ngài Trí Húc
có nói: “Ngũ phần pháp thân khởi đầu là Giới, lấy Giới làm y chỉ, ba môn Vô lậu học cũng lấy

giới làm đầu, không một vị Phật nào không đầy đủ giới thể, không một Bồ Tát nào không tu
giới đức, không một kinh điển nào là không ngợi khen giới pháp, không một thánh hiền nào
khơng nghiêm trì giới luật”.[9, 17


11

3 . Phân loại các giới :
Mục đích của giới luật Phật là nhằm giúp cho hành giả tịnh hóa thân khẩu ý,
đạt được một cuộc sống cao thượng của thánh giả A-la-hán. Do vậy, việc tu trì giới luật là
vơ cùng quan trọng, vì chúng ta hành trì giới nào thì được giải thốt giới đó, tự thân được
hạnh phúc chân chính và bước vào cảnh giới chân tâm thường trú. Giới có cơng năng vi
diệu như vậy, nên có nhiều hình thức phân loại khác nhau. Theo các nhà Phật học Bắc
truyền, Giới được phân loại như sau:
1 . Nhiếp luật nghi giới: Hay còn gọi là Biệt giải thốt luật nghi. Nó gồm các giới tại
gia, xuất gia như ngũ giới, bát quan trai giới, thập thiện giới và cụ túc giới.
2 . Nhiếp thiện pháp giới: Nghĩa là lấy việc thực hành tất cả những điều thiện làm
giới.
3 . Nhiêu ích hữu tình giới: Nghĩa là lấy việc làm lợi ích cho chúng sanh làm giới.
Về sau, các nhà luận sư cho thấy mối quan hệ hữu cơ và biện chứng của ba pháp
Giới–Định–Tuệ nên đã phân chia khác:
a) Biệt giải thoát: Bao gồm ý nghĩa của Nhiếp luật nghi giới.
b) Định cộng giới: Lấy Định làm giới, nghĩa là do tu tập thiền định mà thân tâm
được thanh tịnh, đoạn trừ các lậu hoặc, giới thể được cụ túc và giải thoát được là do Định.
c) Đạo cộng giới: Lấy trí tuệ làm giới, do tu tập vơ lậu nghiệp mà được trí tuệ vơ lậu,
Giới thể được viên mãn, cụ thể giải thốt có được là do tuệ sanh.
.


12

CHƯƠNG 3:
GIỚI LUẬT LÀ YẾU TỐ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI XUẤT GIA

1. Giới luật là nền tảng của sự giác ngộ giải thoát:
Giới hay giới luật được xây dựng trên quan niệm của một tình thương rộng rãi trong
cuộc sống, một tình thương có trí tuệ phân biệt chánh tà. Chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh
mạng là ba năng lực tinh thần giúp con người có đạo hạnh thanh cao và trí tuệ sáng suốt, hầu
xây dựng một cuộc sống an lạc và thanh tịnh, hài hòa trong mối quan hệ giữa quyền lợi cá
nhân và cộng đồng tập thể.
Định là q trình thanh tịnh hố tâm, tìm ra lý Nhân quả, xác quyết loại trừ và nhổ tận
gốc những phiền não, lậu hoặc (Chánh tinh tấn), ngăn chặn những điều xấu ác và phát triển
điều thiện (Chánh niệm). Cột chặt những vọng tưởng tâm lý, đưa quá trình quan sát từ tri giác
đến thể nhập, hiểu biết được thực tướng của sự vật (Chánh định). Ở đây có điểm đặc biệt đáng
lưu ý là thiền định hay thiền quán không nhắm vào những điều hư vô, huyền ảo, trái lại đối
tượng của thiền là những hiện thực như vật lý, sinh lý, tâm lý, ý niệm…tồn tại một cách khách
quan trong cuộc sống hiện tại.
Tuệ là tri kiến cao minh, nó tổng hợp sự hiểu biết về các mặt quy luật tồn tại biến đổi
của mọi sự vật và hiện tượng theo quy luật nhân quả hoặc theo lý duyên sinh. Đặc điểm của
tuệ giác bao gồm nội dung của những tri kiến trừu tượng “thấu triệt bằng nhãn quan tinh thần”,
nó bao gồm cả hai nhánh chánh tư duy và chánh tri kiến. Ta phải có chánh tư duy để viễn ly
các thứ chấp thủ như dục thủ, giới cấm thủ, kiến thủ, ngã luận thủ để thanh tịnh hố tâm lý và
khai sáng trí tuệ. Đồng thời, trong kinh Đại bát Niết bàn, đức Phật dạy: “Đây là Giới, đây là
Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với
Định sẽ đưa đến quả vị lớn ,hạnh phúc lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thốt hồn
tồn các món lậu hoặc tức là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu”. [ 1, I, 555]
Vậy, qua những điều vừa nêu trên, ta thấy rằng việc tu trì giới luật là vơ cùng quan
trọng, vì ai tu tập giới luật trọn vẹn thì sẽ đạt kết quả tốt. Bởi lẽ, hầu hết các giới đều khởi đầu
bằng định từ “không” đối với phạm trù của ác, nhằm thánh thiện hóa con người thẳng đến mục
đích giải thốt tâm linh: “Rằng xa thật xa là khoảng cách giữa chỗ mặt trời mọc và mặt trời
lặn, nhưng thật sự còn xa hơn là sự sai khác giữa một người làm điều lành và một người làm

điều ác”.
2. Ứng dụng giới luật thiết thực có lợi ích trong đời sống người xuất gia:
Trước hết, Giới luật được xem như là nơi quy thú tất cả thiện pháp, là phương tiện để
ngăn chặn và đoạn trừ các điều ác bộc phát qua thân, khẩu, ý. Điển hình như kinh Hoa Nghiêm
nói: “Giới là mẹ sinh ra các cơng đức”. Thật vậy, Giới luật chính là sinh mạng, là sự sống cịn
của những người con dịng họ Thích – những hành giả thừa Như Lai xứ, hành Như Lai sự.
1. Đơn cử như giới bất sát: Vì thương yêu chúng sanh, không phân biệt loại nào, chúng
sanh nào cũng tham sống sợ chết, cũng cảm thấy đau khổ khi bị xâm phạm thân thể, cảm nhận
đựơc niềm đau của chúng sanh như nỗi đau của mình, vì thế mình giữ giới khơng giết hại.
Tâm cảm thơng và thương yêu ấy đưa đến giữ giới một cách tự nhiên không gượng ép.


13
2. Giới khơng trộm cắp: Vì cảm thơng được sự mất mác về tài sản đem đến đau đớn,
tiếc nuối, than khóc. Mình khơng muốn bị mất mác cho nên mình giữ giới khơng trộm cắp. Nói
theo cách của Khổng Tử: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”.
3. Giới khơng tà dâm: Vì cảm thơng nỗi đau đớn khổ sở của người bị phản bội, phụ
tình, sự mất mác hạnh phúc của kẻ khác. Do sự thương yêu và hiểu biết mà ta giữ giới khơng
tà dâm, đình chỉ được ước muốn bất thiện.
4. Giới khơng nói dối: Vì cảm thơng được tình cảnh của người bị dối gạt, bị trách mắng,
bị hãm hại và bị đau khổ do lời nói dối, lời nói bất thiện mà mình từ bỏ nói năng dối trá.
5. Giới khơng uống rượu: Vì cảm thơng được nỗi đau khổ của thân thể mình và sự tàn
phá, mê muội do rượu đem đến, vì vậy ta nguyện từ bỏ rượu chè say sưa, các chất gây nghiện.
Mặt khác, đức Phật vì khơng muốn mang tiếng đồn gần xa của người thế tục, sợ họ nhìn
vào nếp sống bng lung “tự tung tự tác” của Tăng đồn mà mất đi chánh tín hoặc chê bai
hiềm tị. Cho nên sự có mặt của Giới luật là yếu tố cần thiết để thành tựu sự thanh tịnh, đồng
thời làm mô phạm cho người và giúp cho hành giả bước đi trên con đường thoát ly sanh tử.
Nên hiểu rằng Giới luật không phải là điều kiện gượng ép hay bó buộc gì cả mà nó hồn tồn
mang tính tự giác, tự phát nguyện thọ trì, cho nên bất kỳ vị Tỳ kheo nào giữ gìn tịnh giới đều
thành tựu được mười điều như sau:

1. Nhiếp thủ ư tăng: Người xuất gia học đạo, khi đăng đàn thọ cụ túc giới sẽ được công
nhận vào địa vị chúng trung tơn, chính thức gia nhập Tăng đồn trở thành một trong ba ngơi
báu (Tam bảo) sống thanh tịnh hịa hợp như nước hịa với sữa. Người thọ trì giới pháp sẽ được
sự bảo hộ chặt chẽ của Tăng thân. Như vậy giới pháp của Phật tạo cho người xuất gia thọ giới
được đứng trong môi trường an ổn. Một Tỳ kheo giữ 250 giới hoặc Tỳ kheo ni giữ 348 giới là
để bảo trì sự tồn tại lớn mạnh của Tăng đoàn, nên gọi là “Nhiếp thủ ư Tăng”.
2. Linh Tăng hoan hỷ: Người giữ giới thanh tịnh thì hương giới thơm hẳn hơn các loài
hoa bay ngược chiều gió, và hương của người trì giới bay vào trong Tăng chúng làm ai cũng
thấy dễ chịu. Ngược lại, người hủy phạm Thánh giới, tuy chúng Tăng không khinh miệt nhưng
khơng thể làm cho Tăng đồn hoan hỷ được. Hoan hỷ cho tinh thần giới luật thanh tịnh là có
sự tiến bộ trong vấn đề tu trì cho tự thân và cho thanh danh ấy, chứ không phải là một sự hoan
hỷ vì thấy nhau làm những điều sai trái. Bởi thế, nên khi thọ giới, hàng tu sĩ chúng ta phải giữ
gìn giới luật như người đi trong đêm tối tha thiết cần đuốc, nếu ai giữ được chừng nào thì được
cơng đức lớn lao chừng ấy. Cho nên gọi “Linh Tăng hoan hỷ”.
3. Linh Tăng an lạc: Người xuất gia học đạo cất bước đến chân trời cao rộng phải lìa xa
thân thuộc họ hàng, lấy trời mây sóng nước làm nhà, chọn người lý tưởng làm ruột thịt, hễ khi
thấy vị Tỳ kheo bị ba món độc hành hạ quấy nhiễu thì tăng thân cũng đau lịng. Nếu vi phạm
thì cũng như những người lính bị chặt đứt đầu, đoạn ln cả tính mạng (phạm Ba-la-di). Nên
Tăng đoàn phải sống theo giới pháp thanh tịnh, lấy Giới luật làm kỷ cương, thống nhiếp được
an ổn. Vì vậy Thánh giới khơng những có sự lợi ích làm cho Tăng an ổn lợi lạc, mà cịn coi đó
là “Linh Tăng an lạc”.
4. Linh vị tín giả tín: Một Tỳ kheo như pháp, sống đời sống phạm hạnh có tuệ giới như
đức Phật là hình ảnh đoan nghiêm chánh hạnh, có thể thay thế Ngài tuyên dương chánh pháp
và trở thành một hình tượng mẫu mực để cho những chúng sanh đang bị lạc lầm trong đêm tối
nương vào ngọn đuốc ấy để dẫn họ tới con đường sáng và trở về nhà. Vậy con thuyền phải


14
vững chắc, người lái thuyền phải khỏe mạnh và rõ đường đi mới trở về bến giác được, như
thế gọi là “Linh vị tín giả tín”.

5. Dĩ tín giả linh tăng trưởng: Giới luật là hàng rào ngăn chặn những phiền não như
thân,khẩu, ý nếu ba nghiệp này thanh tịnh thì sẽ sống với trạng thái định, có thể nói định là
hình thức nước trong, vì các thứ bụi phiền não được lắng xuống, nếu nước đã trong thì ánh
sáng hiện ra rõ nét. Nhờ vậy mới phát tuệ, nhờ giới mà có định, nhờ định mà có tuệ. Chính vì
thế những người đã gieo hạt giống chánh tín vào ruộng phước chúng tăng, thì càng tin rằng sẽ
có đầy đủ chất màu mỡ để hạt giống nẩy mầm phát triển và tin rằng hàng Tăng bảo là hình ảnh
sống động, có thể thay thế đức Phật lèo lái con thuyền trí tuệ thốt khỏi dịng sanh tử về bến
giác an vui. Vì vậy chúng Tăng nghiêm trì giới luật đạt đến giải thốt chừng nào, thì người học
hạnh xuất gia càng tin tưởng phấn đấu viễn ly dục lạc chừng ấy, cho nên gọi là “Dĩ tín giả linh
tăng trưởng”.
6. Nan điều phục giả linh điều phục: Dưới sự kềm thúc của giới luật thì một người dù
phạm tội tới đâu, cố tình che dấu khơng chịu nhận sự sám hối thì cũng có thể điều phục, xử trị
xác thực rõ ràng đến đó. Nếu khơng điều phục được, Tăng sẽ “Yết-ma” đuổi đi, song tinh thần
căn bản ở Tăng đoàn, sự quyết nghị của Tăng đoàn là đại diện cho mười phương Tăng, nên
khơng có vị nào dám dung thân. Vì thế Tăng đồn chỉ chấp nhận những người sống đúng giới
luật, tuyệt đối không chấp nhận người ngoan cố, nên gọi là “Nan điều phục giả linh điều
phục”.
7. Linh tàm quý giả đắc an lạc: Người giữ giới luật nghiêm ngặt thì khi họ lỡ phạm vào
một điều nhỏ nhặt, họ cũng rất lo sợ. Ví như một người ơm phao qua sơng sâu chợt có người
đến xin phao, trong một phút vội vàng họ đã cho người kia và sau đó suy nghĩ lại thì thấy hối
tiếc vơ cùng, vì sợ rằng khơng có phao thì khó hy vọng qua được bờ bên kia. Đây cũng là tinh
thần những người biết tàm quý nếu lỡ để ba nghiệp manh nha khuấy động, và họ kịp thời ra
sức dùng Giới luật câu thúc lại do đó khơng còn sợ hãi, dứt hết phiền não, phấn chấn tinh thần
và năng lực tịnh giới đã an tâm cho họ. Do đó, Tăng đồn thanh tịnh hịa hợp, nên gọi là “Linh
tàm quý giả đắc an lạc”.
8. Đoạn lậu hoặc hiện tại: Sở dĩ chúng ta còn dày đặc phiền não là bởi do sáu căn gặp
phải sáu trần làm cho phiền não nhiễm ô như thế gọi là lậu hoặc, những thứ ấy khiến cho
chúng sanh bị mê mờ mãi trong tam giới khơng lối thốt ra được. Vì vậy, giới luật cảnh báo
rằng tính chất của cái đẹp ấy như hầm lửa dữ, cũng như cỏ khô cần phải tránh xa lửa càng
nhiều càng tốt. Do vậy, bản thân thanh tịnh được bảo tồn nghiêm chánh và giới luật ln ln

tích cực ngăn chặn khơng cho lậu hoặc bộc phát, để rồi phải tạo thành nghiệp dữ nối dài thêm
con đường sanh tử, nên gọi là “Đoạn lậu hoặc hiện tại”.
9. Đoạn vị lai hữu lậu: Nếu như hạt giống phiền não đã nẩy mầm trong tâm, năng lực giải
thoát của giới luật chỉ trong thời gian ngắn sẽ bị thứ cỏ dại khởi mọc lan tràn và người làm
vườn muốn cho cây thêm trái ngọt không bị cỏ dại lấn hại cạnh tranh thì cần phải đào xới gốc
rễ của nó trong mảnh đất tâm khơng, khơng cịn dấu tích cỏ dại phiền não. Từ nhận thức ấy,
hành giả đã đoạn trừ được lậu hoặc bằng năng lực của tịnh giới, nghiệp cũ dứt đi, nghiệp mới
không tạo nữa, đó gọi là “Đoạn vị lai hữu lậu”.
10. Linh chánh pháp cửu trụ: Đức Phật đã trao lại vận mệnh Phật pháp cho hàng Tăng bảo và
kèm theo lời di chúc: Phải tơn trọng và giữ gìn giới luật, vì chỉ có giới luật mới có đủ năng lực
bảo trì giáo hội Tăng đồn trong cả ba cõi, lúc đó Phật giáo khơng cịn sợ qn ma đánh cướp.


15

KẾT LUẬN

Con đường giải thoát duy nhất của người xuất gia khơng gì khác hơn là Giới-Định-Tuệ.
Trong đó Giới luật là bước đi đầu tiên căn bản, là thềm thang hướng đến Niết bàn an lạc, là
kim chỉ nam trong đời sống của người xuất gia. Chính vì thế mà Giới luật được xem là nơi
nương tựa an ổn nhất cho người xuất gia. Giới luật chính là vị đạo sư cao cả của chúng ta.
Điều này đã được đức Phật dạy trong kinh Di giáo như sau: “Nhữ đẳng Tỳ kheo, ư ngã diệât
hậu đương tơn trọng trân kính Ba-la-đề-mộc-xoa như ám ngộ minh, bần nhân đắc bảo. Đương
tri thị tắc nhữ đẳng đại sư, nhược ngã trụ thế vơ dị thử dã”, có nghĩa là: Này các Tỳ kheo sau
khi ta diệât độ các ông phải lấy giới luật làm thầy cũng như người đi trong đêm tối gặp đèn
sáng, người nghèo được của báu. Phải biết giới luật là thầy của các ơng, dù Ta có trụ ở đời
cũng chẳng khác gì pháp này vậy.[10, 328]. Như vậy, người xuất gia thì điều cần thiết nhất là
phải nghiêm trì tịnh giới. Nỗ lực tinh tấn khơng ngừng trau dồi giới đức, vì Giới là cội gốc Bồ
đề, là nền tảng Niết bàn, là ngọc anh lạc để trang nghiêm pháp thân, là phao nổi để đưa người
qua biển khổ sanh tử và cuối cùng là kho tàng công đức. Cũng như bất cứ bao giờ và ở đâu,

nếu giới cịn được tơn trọng và hành trì nghiêm túc thì chánh pháp mới được trường tồn mãi
mãi. Một khi đã nhận thức rõ điều này thì hàng xuất gia phải có nhiệm vụ bảo tồn chánh pháp
tự mình tinh nghiêm giới luật, lấy giới làm mạch sống tu hành. Mỗi chúng ta là một nhân tố tạo
lập ngôi Tam bảo, quyết định sự tồn tại của đạo pháp. Bởi nhờ có giới luật mà hàng tu sĩ chúng
ta được cơ duyên vun bồi phước đức, tâm thức hành nghi, un đúc đạo đức thâm sâu, tâm hành
thuần thục, cung cách oai nghi tỏ rạng khiến cho mọi người khởi tâm kính mộ và từ đó đem lại
sự hưng thịnh cho Phật pháp, lợi lạc nhơn quần xã hội. Qua đó chúng ta có thể khẳng định rằng
“Giới luật là yếu tố cơ bản đối với người xuất gia”. Như cổ đức đã từng tán dương:
“ Ôi ! Biển Phật pháp rất là mát mẽ
Giới Thi-la là cái thềm bờ
Thánh phàm tắm gội khơng nhơ
Cõi lịng thanh tịnh là bờ giác kia”
Đồng thời, muốn cho chánh pháp tồn tại lâu dài và truyền bá được rộng rãi thì các sứ
giả Như lai phải biết tùy theo căn cơ thời đại và hoàn cảnh mà áp dụng giới luật một cách uyển
chuyển, linh động miễn sao không hại đến mục đích giải thốt, nhất làụ trong tình trạng đạo
đức nhân phẩm đang bị xem thường như hiện nay. Chính là lúc tất cả mọi người đang cần đến
những phương thuốc tinh thần (giới luật) để cứu chữa căn bệnh suy thoái đạo đức. Do vậy vấn
đề cho người thực hiện nếp sống của đạo là cần phải thể nhập bằng cách nào, trong khi xã hội
đang trên đà phát triển dân trí ngày càng cao, càng rộng. Hơn nữa, nếu xã hội thặng dư những
điều kiện này thì sẽ đưa đến thái độ khó chấp nhận của con người đối với thực trạng, định luật
của kiếp người. Nếu chúng ta khơng có một phương hướng đào luyện kiến thức và khơng có sự
cố gắng phát triển sinh lực của đạo một cách chân chánh, thì làm sao có thể đạt đến mục đích
của người xuất gia.


16

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Minh Châu-Thiên Ân - Chơn Trí - Đức Tâm, Phật pháp, Thành hội Phật giáo Tp Hồ
Chí Minh. Nxb TP, Hồ Chí Minh, 1997.

2.Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, Nxb TP. Hồ Chí Minh,1999.
3.H.T.Thích Thiện hoa, Phật học phổ thông, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí minh ấn
hành, quyển I_II_III. 1992.
4. Thích Nhất hạnh, Trái tim của Bụt, NXB. Lá bối, California, USA.1997.
5. Narada Thera- Phạm Kim Khánh dịch, Đức Phật và Phật pháp, Thành hội Phật giáo
Tp. Hồ Chí Minh, 1993.


17



×