Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Báo cáo tốt nghiệp “Hoạt động huy động vốn tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương chi nhánh Hoàng Mai” doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.46 KB, 69 trang )












Báo cáo tốt nghiệp





“Hoạt động huy động vốn tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
Công Thương chi nhánh Hoàng Mai”
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGAN
HÀNG THƯƠNG MẠI, MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6
1.1 Tổng quan về Ngân Hàng Thương mại 6
1.1.1 khái niệm về NHTM 6
1.1.3 Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 8
1.1.3.1 NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế 8
1.1.3.2 NHTM là cầu nối doanh nghiệp và thị trường 9
1.1.3.3 NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế 9
1.1.4 Các hoạt động cơ bản của NHTM 10


1.1.4.1 Hoạt động huy động vốn. 10
1.1.4.2 Hoạt động sử dụng vốn 12
1.1.4.3 Ngân hàng thực hiện các dịch vụ tài chính trung gian 14
1.2 Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại 16
1.2.1 Khái niệm về vốn và vai trò của vốn đối với hoạt động của ngân
hàng thương mại 16
1.2.2 Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại. 20
1.2.2.1 Huy động vốn chủ sở hữu. 20
1.2.2.2 Huy động vốn nợ. 20
1.2.2.3 Huy động qua phát hành các lạo giấy tờ có giá. 21
1.2.2.4 Huy động qua tiền gửi của các tổ chức kinh tế 22
1.2.2.5 Huy động qua tiền gửi của các hộ gia đình 23
1.2.2.6 Các Quỹ 23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG CHI
NHÁNH HOÀNG MAI 25
2.1 Tổng quan về ngân hàng công thương 25
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Vietinbank 25
2.1.2 chức năng, nhiệm vụ 26
2.1.3 Cơ cấu tổ chức của Vietinbank. 26
2.2 Thực trạng hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ
phần công thương chi nhánh Hoàng Mai 30
2.2.1 Thực trạng nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
Công Thương chi nhánh Hoàng Mai. 30
2.2.2 Thực trạng hệu quả huy dộng vốn của Ngân Hàng thương mại cổ
phần công thương Hoàng Mai 31
2.3 Đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động vốn của ngân hàng thương
mại cổ phần công thương Hoàng Mai 34
2.3.1 Kết quả sử dụng vốn 34
a) một số dịnh hướng: 34

2.3.3 Những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động vốn 43
2.3.2.1 Nguyên nhân chủ quan: 43
2.3.2.2 Nguyên nhân chủ quan: 45
CHƯƠNG III 49
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH HOÀNG
MAI 49
3.1 Vài nét về ngân hàng thương mại cổ phần công thương chi nhánh
Hoàng Mai 49
3.1.1 Kết quả hoạt động kinh doanh 06 tháng đầu năm 51
3.1.2 Công tác tín dụng 52
3.1.3 Định hướng phát triển của ngân hàng công thương chi nhánh
Hoàng Mai 53
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại
Vietinbank chi nhánh Hoàng Mai 55
3.2.1 Phát triển và mở rộng mạng lưới giao dịch 55
3.2.2 Đổi mới hình thức quản lý cho phù hợp và hiệu quả hơn 55
3.2.3 Nâng cao dịch vụ của ngân hàng 56
3.2.4 Tiếp tục nâng cao trình độ nghiệp vụ cho nhân viên 57
3.2.5 Hoàn thiện công nghệ Ngân Hàng 58
3.2.6 Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt 59
3.3 Một số kiến nghị với cơ quan cấp trên 60
3.3.1 Kiến nghị với chính phủ 60
3.3.2 Kiến nghị với Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam 62
3.3.3 Kiến nghị với ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam
63
KẾT LUẬN 66















LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây hoạt động trên thị trường tài chính diễn ra
rất sôi động, vì vậy vai trò của Ngân Hàng Thương mại vô cùng quan trọng.
thời gian vừa qua tôi có thực tập tại Ngân Hàng thương mại cổ phần công
thương chi nhánh Hoàng Mai, thấy được những đòi hỏi cần thiết của một
doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính tiền tệ, cụ thể là hoạt động dẫn
vốn từ những người có vốn nhàn rỗi đến người có nhu cầu vốn để sản xuất
kinh doanh. Việc cho người, doanh nghiệp nào vay vốn thì yêu cầu đầu tiên
của doanh nghiệp đó phải chứng minh được rằng họ có đủ khả năng trả đủ
gốc lẫn lãi cho ngân hàng cho họ vay vốn đúng thời hạn. Vì vậy hoạt động
thẩm định cho vay vốn đối với dự án hay cho vay vốn trung và dài hạn là hoạt
động không thể thiếu trong một loạt hoạt động phong phú đa dạng của ngân
hàng. Do tính cấp thiết như vậy tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Nâng cao
hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
Công Thương chi nhánh Hoàng Mai”.
Đề tài thực tập tốt nghiệp của tôi được chia làm 3 chương như sau:
Chương I : Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương
mại cổ phần công thương việt nam.

Chương II: Thực trạng về hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng
thương mại cổ phần công thương chi nhánh hoàng mai.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn
tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương chi nhánh hoàng mai.






CHƯƠNG I
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGAN HÀNG
THƯƠNG MẠI, MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 Tổng quan về Ngân Hàng Thương mại
1.1.1 khái niệm về NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương
mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng
các Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại có một quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp. Khi mới ra đời, tổ chức và nhiệm vụ hoạt động
của nó rất đơn giản nhưng càng về sau theo đà phát triển của kinh tế hàng
hoá, tổ chức của các Ngân hàng cũng như nhiệm vụ của nó ngày càng phát
triển và hoàn thiện hơn.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt động
chủ yếu của Ngân hàng thương mại là tiếp nhận các khoản tiền nhàn rỗi trong
nền kinh tế với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực

hiện các nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán và cung cấp các
dịch vụ cho doanh nghiệp, tư nhân, hộ gia đình, các nhà xuất nhập khẩu.
Đa số các nhà kinh tế học đều cho rằng Ngân hàng thương mại là một
loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ.
Ngân hàng thương mại có những đặc điểm sau:
Ngân hàng thương mại giống như các tổ chức kinh doanh khác là hoạt
động vì mục đích thu lợi nhuận nhưng là tổ chức đặc biệt vì đối tượng kinh
doanh là tiền tệ, hoạt động tín dụng là đặc trưng chủ yếu được thực hiện chủ
yếu bằng cách thu hút vốn tiền tệ trong xã hội để cho vay.
Nguồn vốn phục vụ hoạt động kinh doanh: Nguồn vốn phần lớn là tiền
gửi của các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế. Đặc điểm nổi bật của Ngân
hàng thương mại là không sử dụng nguồn vốn sở hữu vào trong các hoạt động
kinh doanh của mình như cho vay, mua bán chứng khoán. Hơn nữa nguồn
vốn sở hữu của Ngân hàng thương mại chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng
nguồn vốn của Ngân hàng thương mại. Trong khi đó các loại hình kinh tế
khác lại sử dụng chủ yếu nguồn vồn sở hữu vào các hoạt động kinh doanh. Sự
khác biệt của Ngân hàng thương mại với các định chế tài chính khác là Ngân
hàng thương mại có quyền huy động tiền gửi trong nền kinh tế mỗi khi cân
vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Công ty tài chính thì
hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn sở hữu của mình, nếu thiếu các công ty tài
chính có thể vay trên thị trường các công ty cổ phần, muốn tăng nguồn vốn
huy động của mình thì có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Không có
một định chế tài chính nào ngoài Ngân hàng thương mại có thể nhận tiền gửi
từ các tổ chức cá nhân và các tổ chức trong nền kinh tế.
Khách hàng của Ngân hàng thương mại là những người đóng vai trò hai
mặt đối với Ngân hàng. Thứ nhất, họ là những người cung cấp các điều kiện
để Ngân hàng hoạt động. Họ là những người tạo nguồn vốn cho Ngân hàng.
Thứ hai, họ là những khách hàng sử dụng các sản phẩm của Ngân hàng, như
cho đi vay, sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng. Phần lớn, những khách hàng
này, lại sử dụng chính những đồng tiền mà họ đã gửi vào. Vì vậy, khách hàng

chính là những người cung cấp đầu vào cho Ngân hàng và họ cũng chính là
người sử dụng sản phẩm đầu ra của Ngân hàng
1.1.2 Sự ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại
Ngay từ xa xưa người ta đã biết dùng tiền làm phương tiện thanh toán, làm
trung gian trao đổi hàng hoá. Thông qua tiền, việc trao đổi hàng hoá được tiến
hành một cách thuận lợi, dễ dàng hơn nhiều. Chính vì thế đã kích thích sản
xuất, đưa xã hội loài người ngày càng phát triển.
Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của tiền tệ ngày càng đươc phát
huy.Thương mại phát triển, một tầng lớp thương nhân giàu có ra đời và họ
cần có những nơi an toàn để gửi tiền . Những người nhận tiền gửi chủ yếu là
chủ tiệm vàng, họ nhận thấy: luôn có một lượng lớn tiền và vàng nhàn rỗi do
tiền và vàng người ta gửi vào luôn nhiều hơn tiền rút ra. Mặt khác lại luôn tồn
tại nhu cầu vay mượn để chi tiêu, đầu tư kinh doanh. Và những người giữ hộ
tài sản nghĩ đến việc sử dụng số tiền nhàn rỗi đó để cho vay kiếm lời. Và thay
vì thu phí giữ hộ người ta trả một khoản lãi cho người có tài sản đem gửi. Bên
cạnh đó người giữ hộ tiền cũng cho vay để thanh toán cho một người nào đó
bằng cách ghi nợ cho người vay tiền và ghi tăng tài sản cho người được thanh
toán. Và lúc các nghiệp vụ trên hình thành cũng là lúc ngân hàng xuất hiện.

1.1.3 Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
1.1.3.1 NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế

Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cá nhân, tổ chức kinh tế
muốn sản xuất, kinh doanh thì cần phải có vốn để đầu tư mua sắm tư liệu sản
xuất, phương tiện để sản xuất kinh doanh…mà nhu cầu về vốn của doanh
nghiệp, cá nhân luôn luôn lớn hơn vốn tự có do đó cần phải tìm đến những
nguồn vốn từ bên ngoài. Mặt khác lại có một lượng vốn nhàn rỗi do quá trình
tiết kiệm, tích luỹ của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức khác NHTM là chủ
thể đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đó và sử dụng nguồn
vốn huy động được cấp vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng.

NHTM trở thành chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Nhờ có
hoạt động ngân hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng các doanh nghiệp có
điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao
động, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.3.2 NHTM là cầu nối doanh nghiệp và thị trường

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp
chụi sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy
luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu
thị trường, thoả mãn nhu cầu thị trường về mọi phương diện không chỉ: giá
cả, khối lượng, chất lượng mà còn đòi hỏi thoả mãn trên phương diện thời
gian, địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường doanh
nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn
thiện cơ cấu kinh tế, chế độ hạch toán kinh tế mà còn phải không ngừng cải
tiến máy móc thiết bị, đưa công nghệ mới vào sản xuất, tìm tòi và sử dụng
nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Những
hoạt động này đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn, nhiều khi vượt quá
khả năng của doanh nghiệp. Do đó để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp
đến ngân hàng để xin vay vốn để thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình.Thông
qua hoạt động cấp tín dụng cho doanh nghiệp ngân hàng là cầu nối doanh
nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung cấp cho doanh
nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng về mọi mặt
của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường và từ đó
tạo cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
1.1.3.3 NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế

Hệ thống NHTM hoạt động có hiệu quả sẽ thực sự là công cụ để nhà
nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt dộng thanh toán giữa các ngân hàng trong hệ thống, NHTM
đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông. Thông qua

việc cấp tín dụng cho nền kinh tế NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các nguồn
tiền, tập hợp và phân phối vốn trên thị trường, điều khiển chúng một cách
hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô. Cùng với các cơ quan
khác, Ngân hàng luôn được sử dụng như một công cụ quan trọng để nhà nước
điều chỉnh sự phát triển của nền kinh tế.
Khi nhà nước muốn phát triển một nghành hay một vùng kinh tế nào
đó thì cùng với việc sử dụng các công cụ khác để khuyến khích thì các
NHTM luôn được sử dụng bằng cách NHNN yêu cầu các NHTM thực hiện
chính sách ưu đãi trong đầu tư, sử dụng vốn như : giảm lãi suất, kéo dài thời
hạn vay, giảm điều kiện vay vốn hoặc qua hệ thống NHTM Nhà nước cấp vốn
ưu đãi cho các lĩnh vực nhất định.Khi nền kinh tế tăng trưởng quá mức nhà
nước thông qua NHTƯ thực hiện chính sách tiền tệ như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc để giảm khả năng tạo tiền từ đó giảm khả năng cấp tín dụng cho nền
kinh tế để nền kinh tế phát triển ổn định vững chắc.
Việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM thườmg đạt
hiệu quả trong thời gian ngắn nên thường được nhà nước sử dụng.

1.1.4 Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.4.1 Hoạt động huy động vốn.
Ngân hàng kinh doanh ngoại tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư
và cung cấp các dịch vụ khác. Hoạt động vay - hoạt động tạo nguồn vốn cho
Ngân hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng
hoạt động của Ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn là hoạt động
thường xuyên của Ngân hàng thương mại. Một Ngân hàng thương mại bất kì
nào cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng việc huy động nguồn vốn. Đối
tượng huy động của Ngân hàng thương mại là nguồn tiền nhàn rỗi trong các
tổ chức kinh tế, dân cư. Nguồn vốn quan trọng nhất,và chiếm tỷ trọng cao
nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là tiền gửi của khách
hàng.
Các Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi của các cá nhân, các tổ chức

kinh tế xã hội, thậm chí cả nguồn tiền của các Ngân hàng khác.
Khi những người có tiền chưa sử dụng đến họ có thể đem ra đầu tư hoặc
gửi Ngân hàng để nhận tiền lãi. Thông thường họ gửi tiền vào Ngân hàng, vì
đây là cách đơn giản, ít tốn kém chi phí để tìm kiếm cơ hội đầu tư mà vẫn có
lãi và đây là cách ít rủi ro nhất. Ngoài ra người gửi tiền vào Ngân hàng cũng
mong muốn được sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng như chuyển tiền cho
người thân ở nơi khác, thanh toán hộ các hoá đơn phát sinh, bảo quản các tài
sản có giá trị lớn Khi gửi tiền vào Ngân hàng, người gửi tiền có thể vay
Ngân hàng một khoản tiền mà không cần thế chấp vì họ đã có một số tiền gửi
nhất định ở Ngân hàng, coi như một khoản đảm bảo.
Còn Ngân hàng có thể muốn tìm kiếm thêm thu nhập từ lệ phí nhận tiền
gửi, tuy nhiên lý do chính Ngân hàng nhận tiền gửi để tạo nguồn cho vay, từ
đó Ngân hàng có thể đầu tư, kinh doanh tìm kiếm được những khoản thu nhập
lớn hơn.
Hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng có ý nghĩa to lớn với người gửi
tiền, nền kinh tế, cũng như bản thân Ngân hàng. Thông qua hoạt động này mà
Ngân hàng có thể tập hợp được các khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ bé, phân tán tạm
thời chưa sử dụng với các thời hạn hết sức khác nhau thành nguồn tiền lớn tài
trợ cho nền kinh tế, hoặc cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng. điều khó khăn
nhất mà Ngân hàng phải thực hiện là sử dụng các khoản tiền gửi có thời hạn
rất khác nhau để cho vay những món có thời hạn xác định,vì thế mà Ngân
hàng phải quản lí tốt thời hạn của các nguồn vốn của mình thì mới duy trì
được hoạt động có hiệu quả, tránh được những rủi ro về khả năng thanh toán.
Việc tập hợp được những nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng để đưa vào
kinh doanh đã góp phần tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nền
kinh tế. Ngoài ra hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng cũng góp phần tiết
kiệm chi phí lưu thông tiền tệ. Đặc biệt trong nền kinh tế phát triển nếu dân
chúng có thói quen gửi tiền vào Ngân hàng để sử dụng các dịch vụ của Ngân
hàng thì điều này sẽ góp phần giúp chính phủ quản lí được thu nhập của
người dân.

Một trong những nguồn vốn không kém phần quan trọng, là nguồn vốn
phát hành kì phiếu, trái phiếu. Việc phát hành kì phiếu hay trái phiếu phụ
thuộc vào quy mô vốn cần huy động , thời gian huy động vốn, cơ cấu nợ và
tài sản của Ngân hàng.
Các hoạt động huy động nguồn vốn trên đây hình thành nên tài sản nợ
của Ngân hàng và Ngân hàng phải có trách nhiệm chi trả đối với tất cả các
nguồn vốn huy động được theo yêu cầu của khách hàng. Quy mô và cơ cấu
nguồn vốn quyết định đến hoạt động của Ngân hàng. Do đó quản lí nguồn vốn
phù hợp và sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề mang tính chiến lược đối
với mỗi Ngân hàng
1.1.4.2 Hoạt động sử dụng vốn
Khi đã huy động được vốn rồi, nắm trong tay một số tiền nhất định thì
các Ngân hàng thương mại phải làm như thế nào để hiệu quả hoá những
nguồn này, nghĩa là tìm cách để những khoản tiền đó được đầu tư đúng nơi,
đúng chỗ, có hiệu quả, an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Và
hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng bằng những cách sau: Ngân hàng đã tài
trợ lại cho nền kinh tế dưới dạng các thành phần kinh tế vay, hoặc Ngân hàng
đầu tư trực tiếp, Ngân hàng tham gia góp vốn cùng kinh doanh hay cho thuê
tài sản,Ngân hàng gửi tiền tại các Ngân hàng khác- tại Ngân hàng Nhà nước-
những tổ chức tín dụng khác, Ngân hàng đầu tư trên thị trường chứng khoán ,
Ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho Ngân hàng
và có thể bán đi để ra tăng ngân quỹ khi cần thiết Những đối tượng tài trợ
không chỉ có các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động trong lĩnh vực thương
mại mà còn có cả các cá nhân tiêu dùng, thậm chí Chính phủ cũng được Ngân
hàng tài trợ dưới những hình thức : Ngân hàng thương mại mua tín phiếu kho
bạc, trái phiếu của chính phủ trên thị trường tiền tệ. Sự phát triển của hoạt
động cho vay, đã giúp Ngân hàng có vị trí ngày càng quan trọng trong sự phát
triển của nền kinh tế. Hơn nữa thông qua hoạt động cho vay, Ngân hàng
thương mại có khả năng “tạo tiền” hay mở rộng lượng tiền cung ứng. Tuy
nhiên hoạt động cho vay của Ngân hàng chứa đựng nhiều yế tố rủi ro nên

Ngân hàng thường áp dụng các nguyên tắc hoạt động và quản lý tiền vay một
cách chặt chẽ.
Lãi thu được từ hoạt động cho vay, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất
cho nguồn vốn đã huy động và đi vay, thanh toán những chi phí trong hoạt
động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng. Cho vay là hoạt động kinh
doanh chủ chốt của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi suất
thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý,
chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư .
Kinh tế ngày càng phát triển, lượng cho vay của Ngân hàng thương mại
ngày càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng phong phú
và đa dạng. Tại hầu hết các nước công nghiêp trong nhóm những nước hàng
đầu thế giới, cho vay của các Ngân hàng thương mại đã chuyển dần từ cho
vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Ngược lại, ở các nước đang phát triển,
cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ
chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có các tác nhân chủ
yếu như tình hình tăng trưởng, lạm phát, )
So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu tư của Ngân hàng có quy mô
và tỷ trọng nhỏ hơn trong mục tài sản sinh lời của Ngân hàng thương mại.
Phải sang đến những năm đầu thế kỷ XIX các Ngân hàng thương mại mới
quan tâm mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực đầu tư vào các ngành
công nghiệp. So với hoạt động cho vay hoạt động đầu tư đem lại thu nhập cao
hơn nhưng rủi ro cao hơn do thu nhập từ hoạt động đầu tư không được xác
định trước vì phải phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà
Ngân hàng đầu tư vào. Ngoài ra thì trong hoạt động đầu tư , Ngân hàng được
lựa chọn doanh mục đầu tư có lợi nhất cho mình.
Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư, Ngân hàng có thể tham gia vào
thị trường chứng khoán tuỳ quy định của từng quốc gia. Ngân hàng thương
mại có thể tham gia như một người cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng
khoán hay đóng vai trò là nhà đầu tư, mua bán chứng khoán vì mục tiêu kiếm
lời cho chính Ngân hàng. Hoặc thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua

uỷ thác của khách hàng.
1.1.4.3 Ngân hàng thực hiện các dịch vụ tài chính trung gian
Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử
dụng vốn thì Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các dịch vụ trung gian
cho khách hàng của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động trung gian
bởi vì khi thực hiện các hoạt động này Ngân hàng không đứng vai trò là con
nợ hay chủ nợ mà đứng ở vị trí trung gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về
dịch vụ mà khách hàng cần.
Ngày nay, các dịch vụ của Ngân hàng không ngừng phát triển cả về số
lượng và chất lượng, các dịch vụ ngày càng đa dạng. Hoạt động trung gian
gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau: như dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách
hàng có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản
này từ tài khoản này đến tài khoản khác ở cùng một Ngân hàng hay ở hai
Ngân hàng khác nhau; dịch vụ tư vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính,
dich vụ giữ hộ các chứng từ, vật quý giá dịch vụ chi lương cho các doanh
nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu trừ tự động. Đây là những khoản chi thường
xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời
gian và phiền toái khi thanh toán các khoản này, cung cấp các phương tiện
thanh toán không dùng tiền mặt.
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát
triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng thực hiện
nghiệp vụ trung gian mang tính dịch sẽ đem lại cho Ngân hàng những khoản
thu nhập khá quan trọng. Điều cần lưu ý là dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp Ngân
hàng phát triển toàn diện.Tại các nước phát triển, các Ngân hàng thương mại
cạnh tranh với nhau bằng con đường “phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ
mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng, không ngừng tìm tòi những dịch vụ
mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển,
thể hiện xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận
các Ngân hàng không chỉ ở nghiệp vụ cho vay, mà phân nửa từ các hoạt động
dịch vụ mang lại, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro.

Ba lĩnh vực hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay, thực hiện các
dịch vụ trung gian là các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Ba
dịch vụ đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển, tạo
uy tín cho Ngân hàng. Có huy động vốn thì mới có nghiệp vụ cho vay, cho
vay có hiệu quả phát triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào,
đồng thời muốn cho vay và huy động vốn tốt thì Ngân hàng phải làm tốt vai
trò chung gian, chính sự kết hợp đồng bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt
động của Ngân hàng và tạo thành xu hướng kinh doanh tổng hợp đa năng của
các Ngân hàng thương mại
1.2 Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm về vốn và vai trò của vốn đối với hoạt động của
ngân hàng thương mại
a) Khái niệm về vốn:
Vốn của các NHTM là toàn bộ các giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy
động và tạo lập để đầu tư cho vay và đá ứng các nhu cầu khác trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
Thực chất nguồn vốn của các NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân
tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng mà khách hàng
gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau. Nói cách khác khách hàng
chuyển quyền sử dụng tiền tệ cho ngân hàng và Ngân hàng trả cho khách hàng
một khoản lãi và Ngân hàng đã thưc hiện vai trò tập trung và phân phối vốn làm
tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế, phục vụ và kích thích
mọi hoạt động kinh tế phát triển đồng thời chính các hoạt động đó lại quyết định
đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
b) Vai trò của vốn:
Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ doanh nghiệp nào muốn sản xuất
kinh doanh cũng cần có vốn, vốn quyết định đến khả năng kinh doanh của
doanh nghiệp. Đối với NHTM vốn là đói tượng kinh doanh chủ yếu, vốn là cơ
sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Nếu thiếu vốn NHTM
không thể thực hiện các hoạt động kinh doanh. Vì thế những ngân hàng có

vốn lớn sẽ có thế mạnh trong kinh doanh. Vốn là điểm xuất phát đầu tiên
trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Ngoài vai trò là cơ sở để ngân hàng tổ chức các hoạt động kinh doanh,
vốn còn quyết định đến việc mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng và các
hoạt động khác của NHTM. Vốn tự có của ngân hàng ngoài viẹc sử dùng để
mua sắm TSCĐ, trang thiết bị, góp vốn liên doanh Vốn tự có của ngân hàng
là căn cứ để giới hạn các hoạt động kinh doanh tiền tệ bao gồm cả hoạt động
tín dụng. Việc quy định tỷ lệ cho vay, tỷ lệ huy động vốn trên vốn tự có của
NHTƯ thể hiện vai trò quản lý, điều tiết thị trường của nhà nước, để đảm bảo
an toàn hệ thống ngân hàng và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người
gửi tiền.
Qua những quy định của NHTƯ đối với NHTM ta thấy vốn tự có quyết
định đến khả năng cấp tín dụng, huy động vốn của NHTM vì thế những
NHTM có vốn tự có lớn thì quy mô tín dụng càng lớn và ngược lại. Không
những vốn tự có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mà vốn huy động cũng
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng và hoạt động khác .Vốn tự có rất
quan trọng nhưng chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, vốn huy
động chiếm tỷ trọng lớn nhất và là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng tiến hành
các hoạt động kinh doanh do đó ngân hàng nào có nguồn vốn huy động càng
lớn thì khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế và các hoạt động khác càng
được mở rộng.
Vốn là một nhân tố quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nhất là trong hoàn cảnh nước ta có nền kinh tế kém phát triển và khoa học kĩ
thuật còn lạc hậu so với thế giới thì vốn lại càng đặc biệt quan trọng. Đảng ta
đã nhận định không chỉ trông chờ vào vốn bên ngoài mà phải “phát huy cao
độ nguồn nội lực” để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng nền
kinh tế phát triển mạnh và cân đối giữa các nghành. Mục tiêu tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với xây dựng một thị trường tài chính hoạt động có hiệu
quả, trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế, thông
qua chức năng là trung gian luân chuyển và huy động vốn cho đầu tư phát

triển. Trong chiến lược phát triển kinh tế Đảng ta đã chỉ rõ "Chính sách tài
chính quốc gia hướng vào nguồn tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong
toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, điều tiết quan
hệ tích luỹ, tiêu dùng theo hướng tăng dần tỷ lệ tích luỹ…"Với mục tiêu phát
triển nhanh và vững chắc, trong đó mục tiêu huy động vốn phải gắn liền với
mục tiêu phát triển kinh tế, huy động tối đa mọi nguồn lực trong xã hội, duy
trì tỷ lệ huy động 9- 10%/năm, trong đó chú trọng huy động nguồn nội lực
(chiếm 60-70% tổng nguồn vốn huy động) nhằm tránh tình trạng gánh nặng
nợ nước ngoài quá cao sẽ làm ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế. Đơn vị trọng
điểm thực hiện chủ trương này là ngành ngân hàng, trong đó hệ thống ngân
hàng thương mại chiếm vai trò tối quan trọng. Ngành ngân hàng bằng mọi
biện pháp phải đẩy mạnh huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế phục vụ
cho đầu tư phát triển , đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn, bởi đây là
nguồn vốn sử dụng cho đầu tư lâu dài và khả năng luân chuyển vốn lớn.
Với mục tiêu từ nay đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp, vì vậy tập trung mọi nguồn lực, phát huy nội lực, thực hiện tích
lũy cho đầu tư là vấn đề cấp thiết được đặt ra. Đây không chỉ là vấn đề của
riêng nước ta mà theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới khi bước vào
giai đoạn đầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì không nước nào lại
không ở tình trạng thiếu vốn đầu tư. Thực tế, tốc độ công nghiệp hoá- hiện đại
hoá của mỗi nước phụ thuộc vào mức độ, cách thức tạo vốn khả dụng của
chính nước đó. Vì thế, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, mỗi quốc gia tự tìm cho
mình biện pháp phù hợp để có thể huy động vốn và sử dụng vốn một cách
hiệu quả nhất, phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất
hạ tầng cơ sở. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta có lợi thế
của một nước đi sau trong việc tạo vốn để giải quyết có hiệu quả các vấn đề
kinh tế xã hội, công nghệ kỹ thuật, môi trường sinh thái kế thừa từ các nước
công nghiệp đã phát triển… Chính vì vậy chúng ta phải tranh thủ thời cơ và
tiến hành công cuộc đó một cách nhanh chóng và vững chắc.
Nhận định, phân tích một cách chính xác tình tình trong và ngoài nước,

lựa chọn khéo léo cách thức tạo vốn tối ưu cho nền kinh tế "mở" đang tăng
trưởng tích cực ở nước ta. Vì thế cần xác định rõ ràng nguyên nhân của các
hạn chế và thành công trong quá trình tạo vốn cho công nghiệp hoá- hiện đại
hoá ở một số nước không nằm trong việc sử dụng nguồn vốn nào mà chính
việc chọn mô hình tăng trưởng kinh tế và hoạch định thực thi các chính sách
kinh tế vĩ mô trong đó có chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn mà nước
đó theo đuổi.
Hơn bao giờ hết, nhiệm vụ tạo vốn phục vụ cho công nghiệp hoá- hiện đại
hoá đất nước đang là thách thức rất lớn đối với tất cả các ngành, các cấp trong
đó có ngành ngân hàng. Khó khăn đối với nền kinh tế nước ta hiện nay là
ngân sách Nhà nước vẫn còn bị thâm hụt, thị trường tiền tệ phát triển chậm
chạp, một lượng vốn nhàn rỗi khá lớn trong nền kinh tế mà ngân hàng vẫn
chưa tận dụng khai thác hết; mức độ đảm bảo an toàn, phòng ngừa rủi ro
trong hoạt động kinh doanh tiền tệ còn thấp, môi trường pháp lý chưa kiện
toàn hoàn chỉnh; trình độ quản lý nợ và viện trợ nước ngoài, đầu tư xây dựng
cơ bản còn bất cập; sức cạnh tranh về hàng hoá về thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam trên thị trường quốc tế còn hạn chế. Do vậy để khắc phục
những khó khăn trên, chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà ngân
hàng tiếp tục triển khai sẽ căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay về công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Trong đó vấn đề phát triển khoa
học công nghệ trên cơ sở dựa vào nguồn lực trong nước, đi đôi với mở rộng
và hợp tác quốc tế nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực bên ngoài mà quan
trọng nhất là cần đa dạng hoá mọi nguồn vốn cho công nghiệp hoá- hiện đại
hoá theo định hướng đề ra.

1.2.2 Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.2.1 Huy động vốn chủ sở hữu.
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng ( được pháp luật cho phép) chủ ngân
hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử
dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn

hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất
sỡ hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị
trường.
Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước thì ngân sách nhà nước
cấp. Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông góp thông qua mua cổ phần hoặc
cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp vốn; ngân hàng tư
nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều
phương thức khác nhau tùy vào điều kiện cụ thể. Trong điều kiện thu nhập
ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng
cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư.
Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để
mở rộng qui mô hoạt động , hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng
nhu cầu tăng vốn của chủ ngân hàng theo nhà nước quy định… đặc điểm của
hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có
được vốn sở hữu lớn hơn vào lúc cần thiêt.
1.2.2.2 Huy động vốn nợ.
Tỷ trọng của loại nguồn này trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn
tiền gửi, trừ một số ngân hàng chuyên hoạt động bán buôn. Các khoản đi vay
thường là với thời hạn và quy mô xác định trước, do vậy tạo thành nguồn ổn
định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải
đi vay thường xuyên: ngân hàng chi đi vay lúc cần thiết; ngân hàng hoàn toàn
chủ động quyết định khối lượng vay cho phù hợp với nhu cầu sử dụng. Nguồn
vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên,
do rủi ro lớn hơn nên lãi suất phải trả cho tiền vay lớn thường lớn hơn lãi suất
phải trả cho tiền gửi cùng kỳ hạn. Các khoản vay ngân hàng nhà nước và vay
ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm
bảo thanh toán tức thời cho ngân hàng. Việc cho vay của ngân hàng nhà nước
phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ mà ngân hàng nhà nước theo đuổi
trong từng thời kỳ.

Vay thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo và gia tăng các nguồn trung và dài hạn ổn định cao
cho ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này để cho vay các dự án, tài
trợ cho trang thiết bị và bất động sản của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập của dân cư và ổn định vĩ
mô, sau đến là các kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh
khoản của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay. Mặc dù lãi suât
thường cao hơn các nguồn khác, song ngân hàng vẫn phải sử dụng phát hành
giấy nợ trung và dài hạn khi tiền gửi không đáp ứng được những yêu cầu như
ổn định, quy mô đủ lớn trong thời gian xác định.
1.2.2.3 Huy động qua phát hành các lạo giấy tờ có giá.
Ngày nay trong hoạt động kinh doanh của các NHTM cạnh tranh là yếu
tố không thể thiếu được. Các NHTM cạnh tranh nhau về lãi suất huy động
đến lãi suất cho vay. Trong lĩnh vực huy động vốn các NHTM phải luôn luôn
tìm các biện pháp để có thể huy động được đủ nguồn vốn phục vụ cho nhu
cầu sử dụng vốn của mình. Các NHTM không chỉ sử dụng các công cụ truyền
thống để huy động vốn mà còn đưa ra các các công cụ mới có hiệu quả hơn để
huy động vốn một cách dễ dàng đáp ứng nhu cầu vốn của mình và kỳ phiếu,
trái phiếu ngân hàng đã ra đời. Kỳ phiếu và trái phiếu là giấy tờ có giá xác
nhận khoản nợ của ngân hàng với người nắm giữ. Kỳ phiếu được phát hành
thường xuyên và có kỳ hạn ngắn: 3, 6 12 tháng. Trái phiếu thường có kỳ
hạn lớn hơn 1 năm.
Việc phát hành kỳ phiếu , trái phiếu có ưu thế: giúp ngân hàng huy
động được đúng số lượng vốn cần thiết và có thời hạn đáp ứng nhu cầu sử
dụng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên chi phí của nguồn vốn này tương đối cao
do ngân hàng phải trả lãi cao hơn các hình thức huy động truyền thống.
1.2.2.4 Huy động qua tiền gửi của các tổ chức kinh tế
a)Tiền gửi không kỳ hạn: là khoản tiền mà khách hàng gửi vào ngân
hàng nhưng khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải luôn
đảm bảo yêu cầu này.

Mục đích của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng là an toàn và
hưởng các dịch vụ ngân hàng, tạo mối quan hệ với ngân hàng. Tỷ trọng tiền
gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế trong tổng nguồn vốn của ngân hàng
cao và nguồn vốn này có tính ổn định tương đối cao vì bao giờ các tổ chức
kinh tế cũng duy trì ít nhất ở một số dư nhất định. Đối với nguồn vốn này
ngân hàng chỉ phải trả lãi thấp nhưng chi phí phi lãi rất cao. Đó là chi phí mua
và vận hành ATM, chi phí phục vụ
b)Tiền gửi có kỳ hạn: là khoản tiền khách hàng gửi vào ngân hàng mà có
sự thoả thuận về thời hạn trong đó khách hàng không được rút trước hạn.
Đây là nguồn vốn mà khách hàng gửi vào ngân hàng với mục đích sinh
lời là chủ yếu và ngân hàng phải trả lãi cao hơn hơn tiền gửi không kỳ hạn.
Đây là nguồn vốn có tính ổn định rất cao nhưng thường có thời hạn ngắn vì
đây là những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và nguồn vốn này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng
nguồn vốn của ngân hàng.
1.2.2.5 Huy động qua tiền gửi của các hộ gia đình
a)Tiền gửi không kỳ hạn: Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục
đích an toàn là chủ yếu và hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Đối với nguồn
vốn này chi phí trả lãi ngân hàng bỏ ra không đáng kể nhưng chi phí trả lãi rất
cao. ở các nước phát triển thì tỷ trọng nguồn vốn này rất cao nhưng các nước
đang phát triển thì tỷ trọng này lại rất thấp do người dân chưa có thói quen sử
dụng các dịch vụ của ngân hàng. Nguồn vốn từ tiền gửi không kỳ hạn của cá
nhân, hộ gia đình có tính ổn thấp do nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia
đình không ổn định, khi cần khách hàng có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào do đó
ngân hàng phải chuẩn bị sẵn một khoản tiền để đáp ứng nhu cầu của khách
hàng.
b)tiền gửi có kỳ hạn: Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục đích
sinh lời là chủ yếu. Tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân và hộ gia đình chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng vốn huy động và là nguồn vốn chủ yếu để ngân
hàng cho vay. Nguồn vốn này có tính ổn định cao nhất và ngân hàng phải trả

lãi rất cao cho nguồn vốn này.
1.2.2.6 Các Quỹ
Ngân hàng có nhiều các quỹ khác nhau, mỗi quỹ được sử dụng vào những
mục đích nhất định tùy thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng. Các
quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các
quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Các quỹ của ngân hàng bao gồm:
- Quỹ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường số vốn tự có ban
đầu.
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. Quỹ này được
trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.
- Ngoài ra còn có các quỹ đặc biệt khác như: quỹ khen thưởng, quỹ
phúc lợi, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ giám đốc,…
Dự phòng rủi ro: Dự phòng rủi ro tín dụng được các NHTM trích lập từ
thu nhập trước hoặc sau thuế (theo quy định của từng quốc gia) theo một tỷ lệ
nhất định nào đó. Khoản trích lập này là quan trọng và cần thiết cho hoạt
động Ngân hàng, vì trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi những
rủi ro bất khả kháng có thể xảy ra, khi đó, ngân hàng có thể trích các quỹ để
bù đắp.



CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG CHI
NHÁNH HOÀNG MAI

2.1 Tổng quan về ngân hàng công thương
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Vietinbank
Ngân hàng công thương Việt Nam tên viết tắt là Vietinbank, là ngân

hàng thương mai cổ phần đầu tiên tại Việt Nam được thành lập năm 1988, với
mục tiêu phát triển trong lĩnh vực công thương. Tiền thân của ngân hàng
thương mại cổ phần công thuông Việt Nam là ngân hàng công thương Việt
Nam được viết tắt là Incombank, và được đổi thành Vietinbank vào năm
2007. Khi thành lập Vietinbank chỉ có số vốn điều lệ gần 5000 tỷ VND.
Tháng 10 năm 1991, thống đốc NHNN Việt Nam cho phép NH thực
hiện thêm một số hoạt động kinh doanh ngoại tệ tiền gửi, cho vay, mua bán
kiều hối và thanh toán ngoại tệ trong lãnh thổ Việt Nam.
Năm 1995 đánh dấu một bước ngoặt đáng chú ý trong chiến lược kinh
doanh của Vietinbank, dó là việc chú trọng mở rộng các hoạt động thương
mại nhằm vào các đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng
các cá nhân tổ chức tài chính khác trong lĩnh vực công thương.
Trong năm 2008, Vietinbank hoàn thiện dự án nâng cấp hạ tầng, dữ
liệu thông tin phục vụ cho kinh doanh, quản trị điều hành theo tiêu chuẩn
quốc tê. Cũng đầu trong năm này Vietinbank mở thêm nữa các chi nhánh
khắp 3 miền, mở rộng kết nối hệ thống thẻ của ngân hàng.
Qua 5 lần tăng vốn điều lệ, hiện nay ngân hàng thương mại cổ phần
công thương đã có số vốn điều lệ hơn 63000 tỷ VND, tới nay qua hơn 20 năm

×