Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Tài liệu Báo cáo tốt nghiệp "Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.32 KB, 41 trang )

Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

Báo cáo tốt nghiệp
Đề tài:

Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
1
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
LỜI MỞ ĐẦU 3
1. Sự cần thiết của đề tài 3
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài 4
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Kết cấu đề tài 4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐẾ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU ĐIỀU Ở
NƯỚC TA 5
1.1 Giới thiệu chung về cây điều và ngành điều ở nước ta 5
1.1.1 Giới thiệu khái quát về cây điều 5
1.1.2 Giới thiệu chung về ngành điều Việt Nam 6
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu hạt điều 9
1.3. Vai trò và ý nghĩa của sản xuất và xuất khẩu hạt điều đối với nền kinh tế quốc dân
10
1.3.1 Sản xuất và xuất khẩu hạt điều làm tăng vốn và phát triển khoa học công nghệ,
góp phần thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước 11
1.3.2 Sản xuất và xuất khẩu hạt điều góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất, cải biến
cơ cấu kinh tế và tạo cân bằng môi trường sinh thái 11


1.3.3. Sản xuất và xuất khẩu hạt điều góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc
làm và cải thiện đời sống người lao động 13
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU ĐIỀU
CỦA VIỆT NAM 15
2.1. Tình hình xuất khẩu hạt điều cửa Việt Nam trong thời gian qua 15
2.1.1 Kim ngạch xuất khẩu điều của Việt Nam những năm gần đây 15
2.1.2 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu 18
2.1.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu điều của Việt Nam 19
2.2 Một vài đánh giá về hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam trong thời gian qua 22
2.2.1. Những thành công trong hoạt động xuất khẩu điều của nước ta 22
2.2.2. Những tồn tại của hoạt động xuất khẩu điều ở nước ta 23
2.2.3. Nguyên nhân của những thành công và tồn tại trong hoạt động xuất khẩu điều ở
nước ta 25
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIÁI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU ĐIỀU
CỦA NƯỚC TA 28
3.1 Định hướng cho hoạt động xuất khẩu điều ở Việt Nam 28
3.1.1 Quan điểm phát triển 28
3.1.2. Định hướng phát triển 29
3.2 Một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu điều ở nước ta 32
3.2.1 Nhóm giải pháp tầm vi mô 32
3.2.2 Nhóm giải pháp tầm vĩ mô 36
KẾT LUẬN 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
2
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Ngày nay thị trường thế giới đang mở ra nhiều triển vọng lớn, cùng với chính
sách mở cửa của Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng nông sản xuất khẩu

phát triển. Kinh nghiệm của các nước đi trước cộng với lợi thế của mình, Việt Nam
đã chọn xuất khẩu nông sản là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, hạt điều được coi là một trong 10
nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Hiện nay, trên thị trường thế giới, hạt điều Việt Nam có vị trí rất quan trọng.
Việt Nam chiếm vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu hạt điều, chiếm vị trí thứ nhất
trên thế giới về sản lượng hạt điều. Điều này tạo rất nhiều thuận lợi cho việc đẩy
mạnh xuất khẩu hạt điều của Việt Nam, tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần tăng
ngân sách nhà nước.
Bên cạnh những thuận lợi cũng như những thời cơ nói trên, xuất khẩu hạt
điều cũng gặp phải nhiều thách thức, khó khăn, thể hiện trên các mặt như: sản phẩm
điều của Việt Nam còn thiếu tính đa dạng, nguồn cung ứng nguyên liệu còn hạn
chế, trình độ quản lý yếu kém, Ngoài những khó khăn trong nước, ngành điều
Việt Nam còn phải đối mặt với một thách thức khá lớn và ngành điều Việt Nam sẽ
có thêm nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới. Với những hạn chế như
vậy thì nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả của Việt Nam về xuất khẩu hạt
điều là tất yếu khách quan và cũng là yêu cầu cấp bách để Việt Nam hội nhập một
cách có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và khu vực.
Nhận thức được điều này, em đã chọn đề tài “Hoạt động xuất khẩu điều của
Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm củng cố, bổ sung và vận dụng những
lý thuyết đã học vào giải quyết một vấn đề thực tiễn trong đời sống kinh tế - xã hội .
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
3
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
Phân tích, đánh giá khả năng cạnh tranh của Việt Nam về xuất khẩu hạt điều trên thị trường
thế giới trong thời gian qua, qua đó chỉ ra được những thành tựu đạt được và những tồn tại
cần khắc phục. Từ đó tìm ra những phương hướng, biện pháp nhằm tăng cường sức cạnh
tranh của hạt điều xuất khẩu trong thời gian tới.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu hạt điều của Việt Nam
trong thời gian qua.
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi là hoạt động sản xuất và xuất khẩu hạt điều của
Việt Nam trong thời gian gần đây, từ năm 2005 đến 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
trong kinh tế làm phương pháp luận cơ bản. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
được sử dụng kết hợp gồm có quan sát thực tế, so sánh, tổng hợp số liệu, phân tích
thống kê, phỏng vấn chuyên gia, nghiên cứu kinh nghiệm điển hình, cân đối và dự
báo bằng các mô hình kinh tế trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp.
5. Kết cấu đề tài
Phù hợp với mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu nêu trên, ngoài lời
mở đầu, kết luận và phụ lục, đề tài được chia làm 3 chương chính:
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu điều của nước ta
Chương 2: Thực trạng và đánh giá về tình hình xuất khẩu điều của Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp cho hoạt động xuất khẩu điều của nước ta
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo THS. Nguyễn Thị Thúy Hồng, người đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình làm khoá luận. Tuy nhiên, do có sự
hạn chế của bản thân về kiến thức, kinh nghiệm cũng như thời gian nên đề tài vẫn
còn nhiều hạn chế. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
4
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐẾ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
ĐIỀU Ở NƯỚC TA
1.1 Giới thiệu chung về cây điều và ngành điều ở nước ta
1.1.1 Giới thiệu khái quát về cây điều
Cây đào lộn hột hay còn gọi là cây điều, có tên khoa học là Anacardium
Occidentale, tên tiếng Anh là Cashew. Cây điều có xuất xứ từ Mỹ Latinh, thoạt đầu

chỉ là cây mọc hoang dại, đến nay đã được trồng rộng rãi ở khắp các nước nhiệt đới,
đặc biệt là các vùng nhiệt đới ven biển. Cây điều được đưa vào trồng ở Việt Nam từ
thế kỷ 18. Điều là cây có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới ven biển và thích hợp với
những vùng có độ cao so với mặt nước biển từ 600 trở lại. ở những vùng trồng điều
này, nhiệt độ cao đều trong năm, không có mùa đông lạnh, nhiệt độ trung bình trong
năm từ 24 đến 28
0
C, ánh sáng dồi dào (trên 2000 giờ/năm), đây là nhân tố khí hậu
có tính quyết định cho cây điều bởi vì điều cần ánh sáng để ra hoa, kết quả cho năng
suất cao. Ngoài ra, độ ẩm tương đối của không khí thấp trong vụ khô (vụ ra hoa) sẽ
góp phần đưa lại năng suất cao, ít sâu bệnh. Cây điều không kén đất tốt, các loại đất
có độ phì nhiêu thấp như đất đỏ vàng phát triển trên sa thạch hoặc grannít, đất cát
ven biển, đất xám phát triển trên phù sa cổ hoặc đá grannit bạc mầu, khô hạn đều
thích hợp với điều kiện là thoát nước tốt, đất tương đối nhẹ, có tầng dầy khá. Như
vậy, chúng ta có thể tận dụng những vùng đất còn bỏ hoang để trồng điều. Tuy
nhiên, cũng cần tuân thủ những kỹ thuật cần thiết trong trồng điều. Nếu trồng điều
một cách tùy tiện, bất chấp các yêu cầu kỹ thuật, coi điều như một cây bán dã sinh,
sẽ dẫn đến những thất bại.
Điều được biết đến và trở thành một cây có giá trị kinh tế cao của nhiều nước
với ba sản phẩm chính là nhân điều, dầu vỏ hạt điều và các sản phẩm chế biến từ
trái điều như rượu và nước giải khát.
Nhân điều chiếm khoảng 20 - 25% trọng lượng hạt điều, là một loại thực
phẩm cao cấp có giá trị dinh dưỡng cao với 20% đạm, 40 - 53% chất béo, 22,3% bột
đường, 2,5% chất khoáng và nhiều loại vitamin nhóm B, nên được nhiều người ưa
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
5
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
dùng vì đó là loại thức ăn vừa bổ lại vừa hạn chế được nhiều bệnh hiểm nghèo như
huyết áp, thần kinh, xơ vữa động mạch Nhân điều có thể rang để ăn, có thể dùng
làm một trong những thành phần của bánh ăn rất thơm, có thể ép ra dầu rán, người

Trung Quốc thường dùng xào lẫn với rau dùng trong bữa ăn.
Dầu vỏ hạt điều chiếm khoảng 18 - 23% trọng lượng hạt điều, được chiết
xuất từ vỏ hạt điều, thành phần chính là axid anacardic và cardol chiếm 85 - 90%,
đây là những dẫn suất của phenol. Công dụng chính là dùng chế biến thành vecni,
sơn chống thấm, cách điện, cách nhiệt
Các sản phẩm chế biến từ trái điều như nước giải khát, syro điều được đánh
giá là có chất lượng dinh dưỡng khá cao quả điều có mùi thơm đặc biệt và chứa
nhiều vitamin, đặc biệt là vitamin C và các loại muối khoáng cần thiết cho cơ thể
con người. Trái điều cũng được chế biến ra mứt bằng cách đun với mật ong hay
đường. Ở Brazil, dân địa phương ăn như một loại quả dưới dạng sống hay nấu chín.
Một vài vùng Đông Phi, đặc biệt là ở Mozambique và Tanzania, người ta sử dụng
quả điều chưng cất lên men để sản xuất rượu mạnh giống như rượu gin.
1.1.2 Giới thiệu chung về ngành điều Việt Nam
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, thổ nhưỡng và khí
hậu của Việt Nam rất phù hợp cho sự phát triển của cây điều. Thấy được giá trị kinh
tế của cây điều, ngay từ những năm 1980, Đảng và Nhà nước đã bước đầu có sự
quan tâm đến cây điều, đặc biệt là công nghệ chế biến điều xuất khẩu – tại Hội nghị
ngoại thương tổ chức tại tỉnh Sông Bé (cũ) vào năm 1982, cố Thủ tướng Phạm
Hùng đã chỉ đạo cho ngành ngoại thương phải tổ chức chế biến và xuất khẩu hạt
điều. Tuy nhiên thời kỳ này Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu hạt điều thô, giá trị kinh
tế thấp, thường xuyên bị ép giá ở nước ngoài.
Phải đến năm 1990 ngành điều Việt Nam mới thực sự khởi sắc. Ngày
29/11/1990 Bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp và Công Nghiệp Thực phẩm (nay là Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) đã có Quyết định số 346 /NN-TCCB/QĐ v/v:
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
6
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
thành lập Hiệp hội cây điều Việt Nam với tên giao dịch bằng tiếng Anh: Vietnam
Cashew Association (VINACAS).
Năm 1992, tức là chỉ một năm sau khi khai thông biên giới Việt - Trung, hạt

điều Việt Nam đã có mặt tại thị trường đông dân nhất hành tinh này. Ngày nay,
Trung Quốc luôn là thị trường lớn thứ 2 của hạt điều Việt Nam. Đặc biệt hơn là
ngay từ khi Việt Nam – Hoa Kỳ chưa bình thường hoá quan hệ về mặt ngoại giao
thì chúng ta đã có những lô hàng xuất khẩu nhân điều xuất khẩu trực tiếp qua thị
trường Hoa Kỳ - đó là năm 1994.
Trong suốt 10 năm liền từ 1990 – 1999, cây điều Việt Nam từ chỗ chỉ có vài
chục ngàn ha với sản lượng mấy chục ngàn tấn, xuất khẩu nhỏ lẻ, thì năm 1999 Việt
Nam đã có sản lượng 100 ngàn tấn điều thô, sản lượng nhân xuất khẩu đạt 28 ngàn
tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 164 triệu USD. Công nghiệp chế biến điều phát triển
mạnh mẽ, sản lượng điều thô trong nước bắt đầu không đủ cung cấp cho công
nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Do vậy mà năm 1996, Việt Nam chính thức ghi tên mình vào danh sách các
quốc gia nhập khẩu hạt điều thô từ châu Phi. Để động viên một ngành công nghiệp
non trẻ đang phát triển với tốc độ “nóng”, Nhà nước cần có định hướng phát triển.
Hiệp hội điều Việt Nam - Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn đã trình Thủ
tướng Chính phủ đề án chiến lược phát triển ngành điều giai đoạn 10 năm từ 2000 –
2010. Ngày 07/5/1999, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 120 /
1999/QĐ–TTg v/v: phê duyệt đề án phát triển ngành điều đến năm 2010.
Điều kỳ diệu là không phải đợi đến 10 năm mà chỉ 5 năm sau, tức là năm
2005 hầu như toàn bộ chỉ tiêu phát triển của Quyết định 120 của chính phủ đã được
ngành điều hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch.
Để ghi nhận thành quả đó thì ngày 14 tháng 1 năm 2003, Chủ tịch nước đã
tặng ngành điều Huân chương Lao động Hạng 3 thời kỳ đổi mới.
Những năm gần đây mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, ngành điều Việt Nam
vẫn kiên trì thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Diện tích cây điều được giữ vững,
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
7
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
nhiều vùng, nhiều hộ nông dân trồng điều không những xoá được đói, giảm được
nghèo mà còn khá hơn từ trồng điều. Công nghiệp chế biến dần hoàn thiện, ngày

càng đi vào công nghiệp hoá, thân thiện với môi trường hơn, chất lượng sản phẩm
được nâng cao, vệ sinh an toàn thực phẩm được đảm bảo.
Năm 2006, một tin vui lớn đã đến với những người trồng - chế biến - xuất
khẩu điều Việt Nam - Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu hạt điều hàng đầu
thế giới.
Năm 2007 ngành điều vẫn tiếp tục phát triển với nhịp độ tăng trưởng rất cao
25% - cao hơn mức tăng trưởng bình quân của ngành Nông nghiệp với thành tích cụ
thể:
- Sản lượng điều thô trong nước: 350 000 tấn
- Nhập khẩu: 200 000 tấn
- Sản lượng chế biến: 550.000 tấn
- Sản lượng nhân xuất khẩu (khoảng) 152.000 tấn
- Kim ngạch xuất khẩu (khoảng) 650 triệu USD. Trong đó xuất khẩu sang
Hoa Kỳ đạt trên 36%; Trung Quốc 18%; Liên Minh châu Âu (EU) trên 20%
Có được thành tựu ngành hôm nay, ngành điều không thể không ghi nhận
công sức đóng góp của những người nông dân trồng điều đã một nắng hai sương
trồng, chăm sóc, tạo tán, tỉa cành cho cây điều phát triển. Ngành điều cũng không
thể không ghi nhận công sức, đóng góp của các nhà khoa học, những kỹ sư nông
học đang ngày đêm tạo ra từng dòng giống mới cho năng suất chất lượng hạt ngày
càng cao. Thành công đó cũng có công sức đóng góp không nhỏ của những người
công nhân chế biến điều; mặc dù cuộc sống còn muôn vàn khó khăn nhưng họ vẫn
luôn bám máy, lao động sáng tạo giúp cho ngành điều ngày càng phát triển. Đó còn
là công sức lao động trí tuệ của tầng lớp doanh nhân Việt Nam hoạt động trong lĩnh
vực xuất khẩu hạt điều. Họ đã góp công không nhỏ đưa những hạt điều nhỏ bé xinh
xinh của Việt Nam xuất khẩu đến 26 quốc gia và vùng lãnh thổ khắp thế giới.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
8
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu hạt điều
Đối với hạt điều chất lượng sản phẩm ngày càng trở thành yếu tố then chốt

để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của chất lượng sản
phẩm được thể hiện nếu một sản phẩm có chất lượng tốt hơn thì sẽ có lợi thế hơn
trong cạnh tranh so với những sản phẩm cùng loại nhưng có chất lượng thấp hơn.
Chất lượng sản phẩm hạt điều được quyết định do nhân tố di truyền và quyết định
bởi công tác chế biến, bảo quản. Muốn tăng chất lượng hạt điều phải đồng thời thực
hiện tốt hai nhiệm vụ: Thứ nhất là yếu tố về giống, cách thức gieo trồng. Thứ hai là
phương thức chế biến bảo quản, yếu tố này có ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản
phẩm cuối cùng.
Trong sản xuất, công nghệ là yếu tố sống động mang tính quyết định khả
năng cạnh tranh của sản phẩm thông qua công nghệ thể hiện nó làm tăng năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong bối
cảnh cạnh tranh gay gắt ở cả thị trường trong nước và ngoài nước, công nghệ đang
là mối quan tâm sâu sắc của mọi quốc gia. Riêng đối với mặt hàng điều xuất khẩu,
cần chú ý đến việc đầu tư công nghệ để giữ gìn và làm tăng chất lượng của sản
phẩm. Chính điều này sẽ làm tăng giá trị của mặt hàng xuất khẩu, nhờ đó có thể
xuất khẩu những sản phẩm đã được chế biến sâu có chất lượng cao chứ không phải
xuất những mặt hàng thô đem lại giá trị rất thấp lại phải chịu sự tác động rất nhiều
của điều kiện tự nhiên, mùa vụ
Uy tín của doanh trên thị trường thể hiện sự tin tưởng của khách hàng vào
chính doanh nghiệp đó. Đây cũng là nhân tố rất quan trọng để đánh giá khả năng
cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp . Hiện nay, trên thị trưòng điều thế giới,
các doanh nghiệp như Alphonsa Cashew Industries, Achal Cashew Private Limited
(ấn Độ), Lafacoo (Việt Nam) là những doanh nghiệp rất có uy tín về xuất khẩu hạt
điều. Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường là một tiềm lực vô
hình của doanh nghiệp. Để có được sức mạnh này doanh nghiệp cần phải thực hiện
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
9
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
nhiều hoạt động và các chỉ tiêu khác như: Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng
sản phẩm, kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là luôn tăng lợi nhuận cũng như giành

được thị phần lớn trên thị trường.
Trình độ tổ chức quản lý trong các hoạt động kinh doanh xuất khảu cũng là
một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hoạt động xuất
khẩu điều. Tổ chức quản lý trong kinh doanh xuất khẩu hạt điều là việc quản lý các
nguồn sản xuất, tổ chức thu gom hàng hóa từ các nguồn, tổ chức bộ máy dây
chuyền sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm phải đồng bộ và thông
suốt. Do đặc điểm của hạt điều là một loại hàng nông sản nên tổ chức và quản lý
phải liên đới quan hệ chặt chẽ với nhau phù hợp với từng thời vụ. Sự hoàn hảo của
cấu trúc tổ chức, tính hiệu quả của hệ thống quản lý và công nghệ quản lý sẽ tạo nên
sức mạnh thực sự cho đơn vị trong kinh doanh. Và từ đó nâng cao khả năng cạnh
tranh của sản phẩm.
Hoạt dộng xúc tiến thương mại cũng là hoạt động quan trọng không thể thiếu
trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong khi đưa hàng hóa ra thị
trường. Hoạt động xúc tiến giúp các doanh nghiệp có điều kiện hiểu biết lẫn nhau,
đặt quan hệ buôn bán với nhau đặc biệt các doanh nghiệp nhận biết thêm thông tin
về thị trường, có điều kiện để nhanh chóng phát triển kinh doanh và hội nhập vào
khu vực và thế giới. Xúc tiến thương mại là công cụ hữu hiệu trong việc chiếm lĩnh
thị trường và tăng tính cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp trên
thị trường. Tiếp cận được với thị trường tiềm năng cung cấp cho khách hàng tiềm
năng những thông tin cần thiết, những dịch vụ ưu đãi chinh phục và lôi kéo khách
hàng tạo hình ảnh đẹp về sản phẩm, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp không
ngừng tăng lên.
1.3. Vai trò và ý nghĩa của sản xuất và xuất khẩu hạt điều đối với nền kinh tế
quốc dân
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
10
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
1.3.1 Sản xuất và xuất khẩu hạt điều làm tăng vốn và phát triển khoa học công
nghệ, góp phần thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
Đất nước ta đang tiến hành công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, do

vậy nhu cầu về vốn là rất lớn. Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, chúng ta không thể
chỉ trông chờ vào nguồn vốn trong nước, do đó phải huy động nhiều nguồn vốn
khác nhau, trong đó có nguồn vốn thu được từ hoạt động xuất khẩu hạt điều, bởi
quá trình công nghiệp hóa không những đòi hỏi các khoản đầu tư bổ sung mà còn
đòi hỏi nhiều khoản đầu tư mới với quy mô lớn mà khả năng trong nước không đáp
ứng được. Hàng năm, hạt điều xuất khẩu đem lại một lượng kim ngạch rất lớn, đóng
góp rất nhiều cho nguồn thu ngân sách nhà nước. Kim ngạch xuất khẩu hạt điều
không ngừng tăng trong những năm qua, đóng góp cho ngân sách nhà nước của
ngành điều cũng liên tục tăng.
Sản xuất và xuất khẩu hạt điều còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập
khẩu khoa học công nghệ từ nước ngoài, phát triển công nghệ hiện có trong nước.
Lượng ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu hạt điều đã được sử dụng hợp lý để
nhập khẩu những giống điều mới cho năng suất cao hơn và những công nghệ, máy
móc thiết bị tiên tiến để hiện đại hóa ngành chế biến điều.
Khi sản xuất điều phát triển, đời sống của đồng bào trồng điều, đặc biệt là ở
những vùng sâu, vùng xa được nâng lên, giúp đồng bào ổn định cuộc sống, định
canh định cư, tránh hiện tượng du canh, du cư như trước. Mỗi nhà máy, xí nghiệp
chế biến điều mọc lên ở đâu là nơi đó dân cư đến sinh sống tập trung, đồng thời
điện, đường, trường trạm được xây dựng theo để phục vụ cho hoạt động của các
nhà máy và đời sống của người dân. Việc phát triển ngành công nghiệp chế biến
điều vô hình chung đã đẩy nhanh tốc độ CNH - HĐH nông thôn, thúc đẩy sự phát
triển của ngành chế biến và xuất khẩu nông sản nói chung và góp phần chuyển dịch
nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa.
1.3.2 Sản xuất và xuất khẩu hạt điều góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất,
cải biến cơ cấu kinh tế và tạo cân bằng môi trường sinh thái
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
11
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
Nhờ trồng điều, chúng ta đã tăng nhanh vòng quay sử dụng đất, từ đó nâng
cao hiệu quả sử dụng đất, đặc biệt là đất ở những vùng trước đây bỏ hoang, cằn cỗi,

cải biến cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống của người dân ở những vùng trồng cây
điều.
Cây điều là cây công nghiệp dài ngày chịu được hạn, không kén đất do đó
chúng ta có thể tận dụng những vùng đất khô hạn ở phía Nam nước ta. Do bản chất
bán hoang dại và nguồn gốc nhiệt đới nên cây điều có thể phát triển trong điều kiện
khí hậu nóng gió, khô hạn, đặc biệt là vùng Duyên hải Miền Trung. Trong điều kiện
thời tiết khắc nghiệt, đất đai khô hạn, nghèo dinh dưỡng nhưng cây điều vẫn cho
hiệu quả kinh tế khá hơn hẳn một số cây trồng khác đặc biệt là ở vùng đất trống đồi
núi trọc. Theo một nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam
thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, các tỉnh duyên hải miền Trung,
vùng thấp các tỉnh Tây Nguyên hiện đang có hàng trăm ngàn hécta đất trống đồi
trọc, trong đó có gần 400.000 hécta thích hợp cho trồng điều. Nghiên cứu này cũng
cho thấy "chưa có một loại cây trồng nào có thể phát triển mạnh và cho hiệu quả
kinh tế cao hơn cây điều". Như vậy, nếu không có sự phát triển của cây điều thì một
lượng lớn đất đai sẽ bị lãng phí, hệ số sử dụng đất sẽ rất thấp. Sự biến động bất lợi
thời tiết trong những năm qua đã gây nên hạn hán và thiếu hụt nước trầm trọng ở
các vùng đất cao làm hạn chế việc mở mang diện tích của các cây trồng cần nước
tưới trong mùa khô như cà phê và các loại cây ăn quả khác. Điều này lại càng làm
nổi bật vai trò của cây điều trong cơ cấu cây trồng ở những vùng đất cao, hiếm
nước.
Hơn nữa, cây điều không chỉ phát huy hiệu quả ở những vùng đất hoang hóa,
khô cằn mà còn chứng tỏ vị thế của mình ở những vùng đất được coi là màu mỡ bởi
vì so với các loại cây công nghiệp lâu năm khác như cây cao su, cây cà phê, cây chè
thì các yêu cầu về đầu tư của cây điều rất thấp nhưng hiệu quả sử dụng đất và hiệu
quả kinh tế lại tương đương hoặc cao hơn. Do vậy mặc dù bị cạnh tranh bởi các cây
trồng khác qua việc đa dạng hóa các loại cây trồng tại một số vùng kinh tế trọng
điểm nhưng cây điều vẫn giữ vị trí độc tôn.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
12
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B

Việc sản xuất và xuất khẩu điều cũng đã góp phần không nhỏ vào việc cải
biến cơ cấu kinh tế của các vùng trồng điều. Trước đây các vùng này hầu như chỉ
dựa vào nông nghiệp là chính, nhưng từ khi điều trở thành sản phẩm của nền kinh tế
hàng hóa và có giá trị thương mại cao thì cơ cấu kinh tế của các vùng này đã có sự
chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ do sự phát
triển của các nhà máy sản xuất chế biến điều gắn liền với các vùng nguyên liệu.
Hiện nay nước ta có hơn 200 cơ sở chế biến hạt điều và hàng trăm xưởng chế biến
mini nhỏ tập trung chủ yếu ở những vùng nguyên liệu chính như Tây Nguyên,
Duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ. Đây là những vùng trước đây hầu như
là thuần nông, nhưng sự ra đời của các nhà máy chế biến điều đã kéo theo sự xuất
hiện của rất nhiều dịch vụ khác, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế.
Bên cạnh đó, chúng ta đang đứng trước một thực tế là môi trường nước ta
hiện đang bị hủy hoại nặng nề thể hiện ở những hiện tượng thiên tai dồn dập như lũ
lụt, bão, đất xói lở, hạn hán. Một trong những nguyên nhân của hiện tượng ấy là do
sự tàn phá rừng, sự lạm dụng phân hóa học trong trồng trọt và các hóa chất khác, sự
tiêu diệt những vi sinh vật có ích Nhiệm vụ cấp bách trước mắt là phải phủ xanh
đất trống, đồi trọc, hạn chế sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, tăng độ phì nhiêu
và hiệu quả sử dụng đất.
Trước thực trạng môi trường như vậy, xuất phát từ quan điểm cây điều là
một loại cây lâm nghiệp phù hợp với trình độ sản xuất của đồng bào dân tộc, đáp
ứng được yêu cầu phòng hộ vùng đầu nguồn và được đưa vào trong các chương
trình khuyến khích trồng rừng như chương trình 327, PALM việc trồng cây điều
đã góp phần không nhỏ vào việc trồng, phát triển rừng và giữ gìn môi trường sinh
thái.
1.3.3. Sản xuất và xuất khẩu hạt điều góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công
ăn việc làm và cải thiện đời sống người lao động
Cây điều còn được coi là cây của vùng đất bạc màu, cây của người nghèo bởi
đây là một trong những loại cây trồng chủ chốt trong chiến lược xóa đói giảm nghèo
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
13

Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
của nước ta. Trong những năm gần đây, giá trị kinh tế của cây điều càng được
khẳng định. Nếu đem so với một cây kinh tế chủ yếu khác của địa phương thì như
vậy việc trồng cây điều sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn mà quá trình thu hoạch, bảo
quản sản phẩm lại đơn giản hơn rất nhiều.
Việc phát triển sản xuất và xuất khẩu điều còn tạo nhiều công ăn việc làm
cho người dân, đặc biệt là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Theo số liệu thống kê
của VINACAS thì hiện nay có khoảng 800.000 người sống bằng nghề trồng điều và
tổng số lao động trực tiếp đang làm việc trong các nhà máy sản xuất, chế biến, xuất
khẩu hạt điều vào khoảng 120.000 người, chưa kể số lao động gián tiếp và lao động
nông nhàn tham gia sản xuất khi vào vụ thu hoạch, ước tính cứ 1000 tấn điều thô
cần chế biến sẽ giải quyết việc làm cho 250 người lao động trong 1 năm sản xuất
với mức thu nhập 500 - 700USD/năm/người.
Nhờ việc nhân rộng cây điều, ở nhiều địa phương nay không còn hộ đói và
giảm hẳn số hộ nghèo. ở nhiều nơi, cây điều không còn là cây xóa đói giảm nghèo
mà đã trở thành cây làm giàu của nhiều hộ gia đình. Từ đó cuộc sống nông thôn
được cải thiện, giặc đói nghèo được diệt tận gốc, thanh niên nam nữ không còn kèo
về thành thị tìm công ăn việc làm gây xáo trộn trật tự xã hội nữa, đồi trọc đất trống
được phủ xanh, môi trường sinh thái được bảo vệ, người nông dân được làm chủ, tự
tay chăm sóc, tự bảo vệ lấy tài sản của mình, không còn tình trạng phá rừng vì sự
sống nữa, nếp sống của dân cư thực sự đi vào nề nếp.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
14
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU
ĐIỀU CỦA VIỆT NAM
2.1. Tình hình xuất khẩu hạt điều cửa Việt Nam trong thời gian qua
2.1.1 Kim ngạch xuất khẩu điều của Việt Nam những năm gần đây
Công tác xuất khẩu của ngành điều trong những năm qua đã đạt được nhiều
thành tích đáng khích lệ. Qui mô xuất khẩu hạt điều ngày càng mở rộng với khối

lượng và kim ngạch tăng với tốc độ khá cao. Xét về cơ cấu ngành hàng xuất khẩu,
trong khoảng 5 năm gần đây, bên cạnh một số sản phẩm nông sản mang tính truyền
thống như gạo, lạc nhân, hạt tiêu, cà phê, đỗ tương, nhân điều đã trở thành một mặt
hàng nông sản mang về cho đất nước một nguồn ngoại tệ xuất khẩu rất lớn. Tốc độ
tăng trưởng về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu hạt điều tăng lên một cách đáng
kinh ngạc.
Riêng năm 2004 kim ngạch xuất khẩu điều đạt con số 430 triệu
USD(103.000 tấn), so với năm 2003 tăng 25% về sản lượng và 40% về giá trị. Và
năm 2005, do giá điều thế giới tăng, nên kim ngạch xuất khẩu tăng 10,3%, đạt 418
triệu USD, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu điều lớn thứ 2 thế giới, sau Ấn
Độ. Năm 2006, VN đã vượt Ấn Độ - "cường quốc" về cây điều - để trở thành quốc
gia dẫn đầu thế giới về XK hạt điều. Chất lượng nhân điều VN cũng được ca ngợi là
số 1, là thơm ngon hơn hẳn nhân điều của Ấn Độ, Brazil hay Tanzania Thật vậy,
năm 2006, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu được 127.000 tấn nhân điều, đạt
kim ngạch xuất khẩu gần 504 triệu USD; trong khi Ấn Độ chỉ xuất khẩu có 118.000
tấn nhân điều. Chính kết quả này đã đẩy VN lên ngôi vị XK nhân điều hàng đầu thế
giới trong năm 2006. Năm 2007, tiếp tục lần thứ hai Việt Nam đứng số 1 thế giới về
XK hạt điều, đồng thời đạt mức cao kỷ lục về số lượng cũng như trị giá. Cả năm
2007, nước ta xuất khẩu được 151,73 ngàn tấn hạt điều các loại với trị giá 650,6
triệu USD, tăng 19,66% về lượng và tăng 29,15% về trị giá so với năm 2006; tăng
39,24% về lượng và tăng 29,73% về trị giá so với năm 2005. Năm 2008, cả nước
xuất khẩu 167.000 tấn hạt điều, đạt kim ngạch 920 triệu USD, tăng trên 40% về giá
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
15
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
trị so năm 2007. Tuy giá trị xuất khẩu chỉ bằng gần một nửa so với cà phê, nhưng
hạt điều vẫn thuộc nhóm hàng nông sản xuất khẩu chủ lực.
Theo số liệu thống kê, trong tháng 4/2009, cả nước xuất khẩu được 12,5
nghìn tấn hạt điều với trị giá 54,6 triệu USD, tăng 13,8% về lượng và tăng 17% về
trị giá so với tháng 3/2009; tăng 10% về lượng nhưng vẫn giảm 13,6% về trị giá so

với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, tính đến hết tháng 4/2009 ngành điều của nước ta
xuất khẩu đạt 44 nghìn tấn với kim ngạch 194 triệu USD, tăng 5,9% về lượng
nhưng giảm 6,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2008. Theo số liệu thống kê chính
thức của Tổng cục Hải quan, lượng hạt điều xuất khẩu của cả nước trong tháng
7/2009 đạt 20.591 tấn với kim ngạch 100,08 triệu USD, tăng 23,3% về lượng và
tăng 31,8% về kim ngạch so với tháng trước, đây là tháng thứ 5 liên tiếp kể từ đầu
năm đến nay lượng hạt điều xuất khẩu tăng liên tục, còn so với cùng kỳ năm 2008
thì mặc dù giảm nhẹ 4,1% về kim ngạch nhưng lại tăng 22% về lượng. Như vậy,
tổng lượng điều xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm lên đến 95.093 tấn với kim ngạch
431,71 triệu USD, tăng 6,05% về lượng song lại giảm 12,6% về kim ngạch so với 7
tháng đầu năm 2008.
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu điều trong tính đến tháng 8/2009
( triệu USD_ nghìn tấn)
Khối lượng, giá trị 8T/2008 và tăng
trưởng so với 2007
Khối lượng, giá trị 8T/2009 và tăng
trưởng so với 2008
Lượng Giá trị +/- Lượng +/- Giá trị Lượng Giá trị +/- Lượng
+/- Giá
trị
109 597 112.00 149.60 115 527 106.00 86.50
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
16
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu điều năm 2008-2009 (triệu USD)
(Nguồn: số liệu của tổng cục hải quan)
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu điều so với các nông sản chủ lực khác
9 tháng đầu năm 2009 (Triệu USD)
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam

17
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
( Nguồn: tổng hợp từ số liệu của tổng cục thống kê)
2.1.2 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
Nhìn chung, ngành điều đã rất nỗ lực trong việc đa dạng hóa cơ cấu sản
phẩm điều cho xuất khẩu và đã chú ý nhiều đến việc nâng cao tỷ trọng các mặt hàng
điều chất lượng cao. Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, không phải cứ có lợi thế sản
xuất loại nào thì xuất khẩu loại ấy, mà ở mỗi thị trường khác nhau, nhu cầu tiêu
dùng cũng khác nhau. Do đó, cần phải căn cứ và xem xét nhu cầu thị trường để đưa
ra và điều chỉnh cơ cấu sản phẩm cho phù hợp.
Trong cơ cấu sản phẩm hạt điều xuất khẩu của Việt Nam, nhân điều chiếm
một tỷ trọng lớn, trung bình hơn 85%. Điều này cho thấy hạt điều nhân là mặt hàng
chủ lực của ngành điều Việt Nam. Lượng xuất khẩu điều nhân của Việt Nam là rất
lớn, đứng thứ nhất trên thế giới, chủ yếu là do nhu cầu tiêu thụ trên thế giới liên tục
tăng. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội điều Việt Nam, trong 3 năm từ 2006 đến
2008, toàn ngành điều cả nước đã nhập khẩu hơn 1,5 triệu tấn điều thô, trong đó
hơn 500 nghìn tấn được nhập khẩu từ các nước châu Phi như: Bờ Biển Ngà (trên
50%), Guinea Bissau, Mozambique và một số nước châu Á như Indonesia,
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
18
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
Campuchia với trị giá bình quân trên dưới 100 triệu USD mỗi năm. Cục Trồng trọt
(Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) cho biết, diện tích canh tác điều cả nước
hiện nay khoảng 400 nghìn ha, trong đó chỉ có khoảng 300 nghìn ha có thu hoạch,
giảm khoảng 30 nghìn ha so với các niên vụ trước. Do vậy, năm nay các doanh
nghiệp Việt Nam dự kiến sẽ nhập khoảng 200 nghìn tấn điều thô để đáp ứng công
suất chế biến và nhu cầu xuất khẩu, tương ứng khoảng 100-140 triệu USD. Nhập
khẩu điều nguyên liệu của Việt Nam trong tháng 8/2009 đạt 24,2 triệu USD, mức
cao nhất kể từ đầu năm 2009, tăng 7,7% so với tháng trước và tăng 9,1% so với
cùng kỳ năm trước.

Chuyển từ xuất khẩu điều thô sang xuất khẩu điều nhân đã tạo ra bước phát
triển nhanh cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, hàng
năm, nước ta còn nhập một số lượng lớn điều thô (năm 2007 nhập150 ngàn tấn) từ
các nước Tây phi và Cam–pu-chia để chế biến và tái xuất, góp phần nâng cao giá trị
và vị thế của ngành điều Viêt Nam. Từ năm 2003 đến nay, Việt Nam là nước đứng
thứ 2 trên thế giới (sau Ấn Độ) về xuất khẩu điều nhân. Sản phẩm điều Việt Nam đã
xuất khẩu sang 52 nước trên thế giới, chiếm khoảng 20% thị phần xuất khẩu điều
thế giới và được thế giới đánh giá có chất lượng tốt.
Bên cạnh sản phẩm nhân điều, dầu vỏ hạt điều cũng được xuất khẩu với khối
lượng ngày càng tăng song hiện nay việc tìm thị trường cho sản phẩm này rất khó
bởi ta phải cạnh tranh với sản phẩm của ấn Độ với trình độ công nghệ và chất lượng
cao hơn.
Các sản phẩm khác như mứt điều, nước giải khát điều tuy đã được sản xuất
nhưng dường như chưa tìm được chỗ đứng trên thị trường bởi chất lượng vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu chất lượng quốc tế.
Căn cứ nhu cầu thị trường, các nhà máy nên đầu tư phát triển chế biến sâu,
đa dạng hóa sản phẩm, tạo nên sự phát triển bền vững.
2.1.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu điều của Việt Nam
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
19
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
Có thể nói rằng công tác thị trường của sản phẩm hạt điều xuất khẩu đã đạt
được những tiến bộ lớn. Hiện nay sản phẩm điều của Việt Nam đã có mặt ở hơn 60
nước và vùng lãnh thổ, một số sản phẩm bắt đầu chiếm lĩnh được thị trường. Các thị
trường chủ yếu của Việt Nam trong những năm qua là Trung Quốc, Mỹ, Anh,
Trung Quốc Điều nhân là một sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, được xếp vị trí
thứ hai trong số các hạt có dầu chỉ sau hạnh nhân về mức độ ngon và bổ dưỡng. Vì
quan tâm đến vấn đề bổ dưỡng như vậy, nên hạt điều nhân được đánh giá khá cao ở
Mỹ. Trung Quốc là thị trường quan trọng thứ hai của Việt Nam về xuất khẩu hạt
điều. Đây cũng là một thị trường hết sức rộng lớn với hơn 1 tỷ dân. Tuy nhiên, ở

Trung Quốc hạt điều nhân cũng chỉ được tiêu thụ phần lớn ở các thành phố lớn như
Bắc Kinh, Thượng Hải, Thâm Quyến,
Tóm lại, về các thị trường xuất khẩu điều của Việt Nam, mỗi thị trường có
một đặc điểm riêng. Do đó các doanh nghiệp xuất khẩu cần tìm hiểu kỹ các thị
trường này để có thể đáp ứng một cách tốt nhất.
So với tháng trước, lượng và kim ngạch xuất khẩu hạt điều sang các thị
trường có sự tăng giảm không đồng đều. Một trong số những thị trường chủ lực của
hạt điều xuất khẩu nước ta là thị trường Hoa Kỳ. Với lượng xuất khẩu trong tháng
7/2009 đạt 7.549 tấn với kim ngạch 34,47 triệu USD, tăng 35,6% về lượng và tăng
49,36% về kim ngạch so với tháng trước, còn so với cùng kỳ năm 2008 thì tăng nhẹ
3,55% về kim ngạch và tăng 27,07% về lượng.
Tiếp đến là thị trường Hà Lan, so với tháng trước thì tăng cả lượng và kim
ngạch lần lượt là: 5,86% và 7,6% với lượng xuất khẩu đạt được trong tháng là 2.690
tấn với kim ngạch 13,51 triệu USD, tuy nhiên tổng lượng hạt điều xuất khẩu trong 7
tháng năm 2009 thì chỉ đạt 13.320 tấn với kim ngạch 67,31 triệu USD, giảm 10,5%
về lượng và 17,33% về kim ngạch so với 7 tháng đầu năma 2008.
Tổng lượng hạt điều xuất sang thị trường Trung Quốc trong 7 tháng đầu năm
2009 đạt 19.141 tấn với kim ngạch 80,83 triệu USD đứng thứ 2 sau Hoa Kỳ, giảm
nhẹ 0,71% về kim ngạch nhưng lại tăng 25,29% về lượng so với 7 tháng năm 2008.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
20
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
Một số thị trường xuất khẩu khác của hạt điều nước ta có sự tăng trưởng cả
về lượng và kim ngạch so với tháng trước như: Australia (tăng 53,5% về lượng và
61,86% về trị giá), Canada (tăng 107,05% về lượng và 131,43% về trị giá), Nga
(38,7% về lượng và 36,97% về trị giá)…
Bảng 2.4: tham khảo thị trường xuất khẩu hạt điều trong tháng 4 và 4 tháng
đầu năm 2009 (lượng: tấn, trị giá: 1000 USD)
Thị trường Tháng 4/09 4 tháng đầu năm 09
Lượng trị giá Lượng trị giá

Mỹ 3.430 14.181 13.324 58.318
Trung Quốc 2.910 12.081 10.882 45.458
Hà Lan 1.883 9.651 5.825 29.541
Ôxtrâylia 804 3.612 2.444 11.101
Anh 520 2.279 1.458 6.453
Đức 234 1.058 807 3.840
Canada 134 570 671 2.971
UAE 231 1.014 659 2.489
Nga 221 1.008 634 2.759
Italia 249 594 597 1.528
Thái Lan 175 832 571 2.601
Philippine 60 214 330 1.248
Tây Ban Nha 64 334 318 1.595
Nauy 32 150 255 1.362
Đài Loan 108 599 223 1.186
Bỉ 63 454 222 1.261
Pakistan 43 213 221 1.091
Hồng Kông 44 198 220 1.257
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
21
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
Nhật Bản 73 285 185 741
Malaixia 57 252 137 612
Ucraina 16 45 94 299
Niuzilân 0 0 90 397
Singapore 67 287 86 419
(Nguồn: Tổng cục hải quan)
2.2 Một vài đánh giá về hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam trong thời
gian qua
2.2.1. Những thành công trong hoạt động xuất khẩu điều của nước ta

Tuy mới có gần 20 năm hình thành và phát triển, ngành chế biến – xuất khẩu
điều Việt Nam đã có những bước phát triển ngoạn mục để trở thành quốc gia chế
biến – xuất khẩu điều hàng đầu thế giới hiện nay.
Thực hiện đề án phát triển điều đến năm 2005 và 2010, các tỉnh đã hoàn
thành tốt việc rà soát quy hoạch phát triển điều, dành ngân sách hỗ trợ đầu tư
nghiên cứu khoa học công nghệ, hỗ trợ đưa giống mới vào sản xuất và hỗ trợ mở
rộng diện tích điều cao sản. Các doanh nghiệp đã đầu tư hàng tỷ đồng cho phát triển
vùng nguyên liệu, hỗ trợ giống cho nông dân. Nhờ đó, đến nay trong số hơn 400
nghìn ha điều cho thu hoạch, có khoảng 130 nghìn ha điều cao sản, năng suất đạt 2-
2,5 tấn, cá biệt có vùng đạt gần ba tấn/ha, tăng hơn năm lần so với giống điều cũ.
Trong hai năm 2005 và 2006 ngành điều Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan ở đầu vào (thị trường nguyên liệu
trong nước) và đầu ra (thị trường xuất khẩu nhân điều) nên riêng trong năm 2005,
các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu điều đã lỗ 1.000 tỉ đồng. Trong hoàn cảnh đầy
khó khăn ấy, Hiệp hội cây điều Việt Nam đã phát huy vai trò của mình trong việc
phối hợp hỗ trợ và khuyến cáo các hội viên tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo
Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm lợi ích cho nông dân trồng
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
22
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
nguyên liệu, doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu. Những cố gắng này đã tác động
đến tình hình thu mua điều nguyên liệu 2006 và các năm sau nhiều đơn vị đã không
còn lỗ, và đã bắt đầu có lãi. Bức tranh tổng thể của ngành điều đã có nhiều nét sáng
sủa, đáng mừng, khẳng định bước phát triển đúng hướng của ngành.
Về phát triển nguồn nguyên liệu, cây điều có lợi thế rõ rệt nhất là trồng được
trên đất bạc mầu, đất trống đồi trọc, điều vừa là cây nông nghiệp vừa là cây lâm
nghiệp, mức đầu tư thấp nên rất phù hợp với vùng nông dân nghèo với năng suất
điều thô cao và tỷ lệ lãi tốt. Ở Việt Nam có hàng triệu hecta đất trống, đồi núi trọc
lại nằm ở khu vực có điều kiện môi trường sinh thái phù hợp cho cây điều phát
triển.

Công nghệ chế biến điều của VN cũng không ngừng được các nhà nghiên
cứu hoàn thiện và hiện trở nên tài sản vô giá, là bí quyết đặc thù thúc đẩy ngành
điều VN đạt được những thành công, mà ngay cả những quốc gia vốn có truyền
thống sản xuất điều gần 100 năm như Ấn Độ, Brazil cũng phải ngạc nhiên.
2.2.2. Những tồn tại của hoạt động xuất khẩu điều ở nước ta
Cùng với những thành tựu đạt được, ngành sản xuất và xuất khẩu điều trong
thời gian vừa qua cũng bộc lộ nhiều tồn tại.
Mặc dù vụ điều năm 2008 là lần thứ ba liên tiếp, VN dẫn đầu các nước xuất
khẩu nhân điều lớn nhất thế giới; song, nhìn lại sự phát triển ngành chế biến – xuất
khẩu hạt điều Việt Nam, nhiều người vẫn không khỏi e ngại, bởi còn quá nhiều
thách thức khiến cho sức cạnh tranh của ngành điều không cao, phát triển thiếu bền
vững, khối lượng xuất khẩu mạnh, nhưng sản xuất phập phù. Một nhà chế biến –
xuất khẩu điều đã bày tỏ ý kiến của mình tại cuộc họp về ngành điều được Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức tại TPHCM vào ngày 6.3.2009: "Nói về
ngành điều, bao giờ chúng tôi cũng có 2 cảm giác, vừa tự hào, vừa lo âu. Tự hào vì
hạt điều Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu thế giới, nhưng lo âu bởi sản xuất hạt điều
Việt Nam cũng còn nhiều lắm những khiếm khuyết".
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
23
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
Thật vậy, theo thống kê của Cục Trồng trọt, năm 2008 là năm thứ ba liên
tiếp, Việt Nam dẫn đầu thế giới trong xuất khẩu nhân điều, với giá trị kim ngạch
xuất khẩu 920 triệu USD - tăng 41,3% so với năm 2007. Song, bên cạnh thành quả
rực rỡ ấy, năm 2008, diện tích trồng điều tại các địa phương cũng bị thu hẹp. Theo
báo cáo của sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn các địa phương, diện tích trồng
điều niên vụ 2007-2008 là 421.498 ha; trong đó, diện tích thu hoạch khoảng
320.000 ha. So với niên vụ 2006-2007, diện tích cây điều đã giảm 15.502ha. Tiến sĩ
Hoàng Quốc Tuấn - Trưởng phòng quy hoạch - Phân viện Quy hoạch và Thiết kế
nông nghiệp - cho rằng: Năm 2007 và 2008, diện tích trồng điều giảm 17.046ha,
nhưng điều tra thực tế, diện tích điều giảm ít nhất phải gấp hơn 2 lần so với số

thống kê. Giảm nhiều nhất là ở các tỉnh: Khánh Hoà (4.100ha), Bình Định
(3.000ha), Đắc Lắc (2.900ha)
Sản lượng thu hoạch qua các năm cũng không bền vững, mà lúc giảm, khi
tăng. Thí dụ: Năm 2006, sản lượng 340.000 tấn, năm 2007 là 400.000 tấn, nhưng
năm 2008 giảm còn 350.000 tấn.
Năng suất điều lại tăng rất chậm và không ổn định, do nông dân trồng điều ít
đầu tư thâm canh đúng kỹ thuật. Năng suất năm 2005 đạt 1,06 tấn/ha, năm 2006
giảm còn 0,9 tấn/ha, năm 2007: 1,03 tấn/ha và năm 2008 là 1,10 tấn/ha. Tại Braxin,
sản lượng điều xuất khẩu thấp hơn nước ta, nhưng năng suất bình quân là 2 tấn/ha.
Trong khi đó, Bình Phước là thủ phủ của cây điều cũng mới chỉ đạt bình quân trên
1,3 tấn/ha.
Về chế biến, một số đơn vị, cá nhân mới chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt
mà chưa đầu tư nghiên cứu và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường, nên
hiệu quả đem lại không cao. Trình độ công nghệ chế biến hạn chế, tỷ lệ lao động
thủ công nhiều dẫn đến năng suất lao động thấp, giá thành chế biến cao đã kéo theo
nhiều hệ lụy khiến cho ngành điều trong tỉnh khó đứng vững và phát triển mạnh
trên thị trường quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
24
Trần Mai Phương-CQ482226 Kinh tế quốc tế 48B
2.2.3. Nguyên nhân của những thành công và tồn tại trong hoạt động xuất
khẩu điều ở nước ta
Nguyên nhân của những thành công:
Sở dĩ ngành điều nước ta đạt được những thành công nói trên là do nhiều yếu
tố tác động, trong đó có thể kể đến một số yếu tố sau:
Thứ nhất là cầu thị trường điều trong những năm gần đây tăng mạnh, trong
khi lượng cung lại có hạn làm cho giá hạt điều tăng. Đó là cơ hội tốt cho các nhà
kinh doanh, sản xuất và chế biến điều xuất khẩu ở nước ta.
Thứ hai là điều kiện tự nhiên ở Việt Nam mà đặc biệt là ở các vùng từ Quảng

Nam trở vào rất thích hợp với cây điều. Trong thời gian qua, chúng ta đã biết khai
thác lợi thế này để kịp thời chớp lấy cơ hội tốt để phát triển sản xuất - xuất khẩu
điều.
Thứ ba là Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp có tác động
khuyến khích phát triển, chế biến điều, trong đó đã đề ra phương hướng, mục tiêu
và đặc biệt là quy hoạch phát triển cây điều. Như vậy, có thể nói rằng lợi thế lớn
nhất của ngành sản xuất - chế biến - xuất khẩu hạt điều hiện nay chính là việc cây
điều đã được Chính phủ đưa vào quy hoạch trong chính sách phân bổ diện tích đất
nông nghiệp cho các địa phương và các vùng kinh tế trọng điểm.
Thứ tư là ngành điều đã sớm tiếp thu có chọn lọc kỹ thuật và kinh nghiệm
các nước vào điều kiện thực tế nước ta để tổ chức sản xuất, chế biến và xuất khẩu
có hiệu quả.
Những nhân tố trên đã thực sự tạo động lực thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu
điều phát triển nhanh, góp phần thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất
nước…
Nguyên nhân của những tồn tại:
Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) cho biết nguyên
nhân sụt giảm diện tích là do giá vật tư nông nghiệp những năm gần đây tăng cao
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
25

×