Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

NGHIÊN CỨU NUÔI VỖ BÉO CUA GẠCH (Scylla paramamosain) TRÊN BỂ VỚI CÁC LOẠI THỨC ĂN VÀ MẬT ĐỘ KHÁC NHAU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 99 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN







TRỊNH VĂN THĂM




NGHIÊN CỨU NUÔI VỖ BÉO CUA GẠCH
(Scylla paramamosain) TRÊN BỂ VỚI CÁC LOẠI THỨC ĂN
VÀ MẬT ĐỘ KHÁC NHAU






LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HOC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN










2010


2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN






TRỊNH VĂN THĂM




NGHIÊN CỨU NUÔI VỖ BÉO CUA GẠCH
(Scylla paramamosain) TRÊN BỂ VỚI CÁC LOẠI THỨC ĂN
VÀ MẬT ĐỘ KHÁC NHAU







LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HOC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN




Cán bộ hướng dẫn:

PGs. Ts. Trần Ngọc Hải

PGs. Ts. Trần Thị Thanh Hiền





2010
3

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến
Ban Giám Hiệu, Ban Chủ
Nhiệm Khoa Thủy Sản Trường Đại Học Cần Thơ đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho tôi hoàn thành chương trình học tập và nghiên cứu trong thời gian
học
tập ở trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến PGs.T

s.Trần Ngọc Hải và
PGs.Ts. Trần Thị Thanh Hiền đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin cảm ơn tất cả quý thầy cô Khoa Thủy Sản Trường Đại h
ọc
Cần Thơ đã hướng dẫn, và truyền đạt ch
o tôi những kiến thức quí báo trong
suốt thời gian học tập cũng như thời gian thực hiện và viết đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Đố
c Sở NN&PTNT Bạc Liêu,
Lảnh Đạo và toàn thể cán bộ Chi Cục Quản Lý Chất Lượng Nông Lâm Sản

Thủy Sản Bạc Liêu đã s
ắp xếp và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi an tâm
trong suốt thời gian học tập.
Cảm ơn bạn bè cùng em Lý Vũ Lâm lớp đại học NTTS K32 và
tập thể
lớp Cao Học Nuôi Trồng Thủy Sản K15 đã hết lòng giúp đở tôi rất nhiều
trong
thời gian học tập và hoàn thành luận văn văn nầy.
Một lần nửa tôi xin cảm ơn
những người thân của tôi đó là vợ, các con
và toàn thể anh chị em trong gia đình đã hết lòng
động viên và giúp đỡ cho tôi
trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn nầy.

Trịnh Văn Thăm












4

Tóm tắt
Ba thí nghiệm nuôi nuôi vỗ béo cua gạch (Scylla paramamosain) trên bể
với
các loại thức ăn và mật độ khác nhau được tiến hành ở Hòa Bình -
Bạc Liêu. Ở thí
nghiệm nuôi vỗ cua với các loại thức ăn khác nhau được bố trí các loại thức ăn gồm
cá Rô phi (Oreochromis niloticus)
, thức ăn viên 35% đạm, Sò voi, Tôm bạc
(Metapeneus tenuipes) và Ba khía (Sesarma mederi). Sau 15 ngày nuôi nghiệ
m thức
thức ăn viên cua chết hoàn toàn
do cua không ăn thức ăn viên, còn các nghiệm thức
khác cua bắt đầu lên gạch đầy. Đến 30 ngày tỷ lệ sống và tỷ lệ gạch đầy
lần lượt ở
các nghiệm thức thức ăn cá rô phi là 75% và 63%; thức ăn sò voi là 100% và 100%
;
nghiệm thức tôm bạc là 91% và 75%; và thức ăn ba khía
là 91% và 73%. Tăng trọng
(22,78 - 29,44 g). DWG (0,93 - 1,28 g/ngày), SGR (0,32 -
0,54 %/ngày) giữa các

nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0.05. Chỉ số GSI (6,94 -
9,41%). Khối lượng gạch (20,83 - 28,23g) và tỷ lệ gạch/gan tụy (166,19 -
189,24%)
của cua sau thí nghiệm ở các nghiệm thức đều khác biệt có ý ng
hĩa thống kê
(p<0.05) so với cua trước thí nghiệm với GSI (1,30%), khối lượng gạch (3,91g) và
tỷ lệ gạch/gan tụy (24,53%).
Thí nghiệm nuôi cua với các kích cở lồng khác nhau bố trí
nuôi mỗi con cua
trong một lồng với các kích cỡ
lồng khác nhau (15cm x 20cm x 12cm; 30cm x 20cm
x 12cm và 40cm x 30cm x 12cm) sử dụng thức ăn sò voi. S
au 30 ngày nuôi tỷ lệ
sống (80 -93%) và tỷ lệ gạch đầy (60 – 93%), tăng trọng cua thu (35-
48g), DWG
(1,16-1,61g/ngày) giữa các nghiệm thức khác biệt khô
ng có ý nghĩa thống kê
(p>0.05).
Thí nghiệm nuôi với các mật độ khác nhau được bố trí với các mật độ
(6
con/m
2
; 12con/m
2
và 24con/m
2
) nuôi mỗi con một lồng sử dụng thức ăn sò voi. S
au
30 ngày nuôi tỷ lệ sống (72 – 78%), tỷ lệ cua đầy gạch (53 – 67%), tăng trọng (5,71-
5,91g), DWG (0,21 – 0,22g/ngày) giữa các nghiệm thức

khác hiệt không có ý nghĩa
thống kê (p>0.05).
Từ kết quả các nghiên cứu rất có ý nghĩa trong việc xây dựng mô
hình nuôi cua gạch trong lồng trên bể . Ngoài ra, nghiên cứu này cũng cho thấy,
việc
nuôi cua gạch trên bể xi măng nhìn chung cũng rất ti
ện lợi trong việc quản lý và
chăm sóc.





5

ABSTRACT
Three experiments on fattering female crabs (Scylla paramamosain)
from
immature to full mature stage with different feeding types and densities in tanks
were conducted in Hoa Binh district – Bac Lieu province.
In the first experiment, there were 5 treatments using tilapia (
Oreochromis
niloticus), pellet feed (35% protein), clam (Fulvi mutica), shrimp (
Metapeneus
tenuipes), and sesamar crab (Sesarma mederi) to feed mud crabs. After 15 days
of
culture, in the treatment with pellet feed, all of crab
s died because they could not
accept this food while other treatments gave good results. After one
month,

survival rate (SR) and ratio of full mature crabs in the tilapia diet,
clam diet,
shrimp diet, sesamar crab diet were 75% and 63%, 100% and 100%, 91%
and
75%, 91% and 73%, respectively.
SGR of crabs among treatments were not
significantly different (p>0.05) from one another. However, GSI, ovary weight in
all of diets were significantly different with the stocked crabs.
In the second experiment, crabs were cultured individually in cages
which was in
size of 15cm x 20cm x 12cm, 30cm x 20cm x 12cm, or 40cm x 30cm x 12cm
.
After 30 days, SR, WG, DWG were not significantly diffirent in these diets
(p>0,05).
The third experiment was conducted with three densities: 6 crabs/m
2
, 12 crabs/m
2
,
24 crabs/m
2
and each cage contained one crab. After 30 days, SR, WG, DWG
of
crabs in these treatments were significantly different from one another (p>0.05).
This research indicated that female crabs can be fattened in the
cages suspended
in tanks with simple management.















6



Lời cam kết

Tôi xin cam kết luận văn nầy được hoàn thành dựa trên các kết quả
nghiên cứu của tôi và kết quả nghiên cứu nầy chưa được dùng cho bất cứ luận
văn cùng cấp nào khác .

Ngày 24 tháng 09 năm 2010
Tác giả



Trịnh Văn Thăm






























7

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN i

TÓM TẮC…………………………………………………… ………… ii
ABSTRACT……………………………………………………… … iii
LỜI CAM KẾT ………………………………………………… …… …iv
MỤC LỤC………………………………………………… …… … v
DANH SÁCH HÌNH…………………………………………… …vii
DANH SÁCH BẢNG…………………………………………… ix
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT………………………………………… …x
Chương 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1Giới thiệu 1
1.2 Mục tiêu đề tài 2
1.3 Nội dung của đề tài 2
1.4 Thời gian thực hiện đề tài : 2
Chương 2 : LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU…………………………………… ………….…3
2.1 Sơ lược về đặc điểm sinh học của cua biển…………………… …………… 3
2.1.1 Đặc điểm phân loại………………………………………… ………… 3
2.1.2 Đặc điểm phân bố…………………………………………… 4
2.1.3 Tập tính sống cua biển……………………………………… …… …4
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng………………………………………… …… …6
2.1.5 Lột xác và sinh trưởng………………………………………………… …6
2.1.6 Đặt điểm sinh sản…………………………………………………… … 7
2.2 Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sống của cua biển………… … 8
3 Tình hình nghiên cứu nuôi cua biển………………………………………… … 9
2.3.1 Nghiên cứu nuôi cua biển trên thế giới……………………………… 9
2.3.2 Nuôi cua biển ở Việt Nam……………………………………….… … 11
2.3.2.1 Tình hình nuôi cua biển………………………………………… … 11
8

2.3.2.2 Nghiên cứu về cua biển ở Việt Nam……………………………………12
Chương 3 : VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…………… 16
3.1 Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài………………………………………. 16

3.2 Vật liệu nghiên cứu : ………………………………………………………. 16
3.3 Phương pháp nghiên cứu…………………………………………… …… 16
3.31 Nghiên cứu ảnh hưởng các loại thức ăn khác nhau lên nuôi vỗ béo cua gạch
trong lồng trên bể ximăng…………………………….…… ………… 17
3.3.2 Nghiên cứu nuôi vỗ béo cua gạch với các kích cỡ lồng khác nhau trong
bể xi măng . ………………………………………………………… … 20
3.3.3 Nghiên cứu nuôi vỗ cua gạch trong bể xi măng với các mật độ
khácnhau………………………………………………………………………21
3.4 Phương pháp thu thập, tính toán và sử lý số liệu………………………… …22
3.4.1 Phương pháp thu thập và tính toán số liệu………………………… …22
3.4.2 Phương pháp sử lý số liệu……………………………………… … …23
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng các loại thức ăn khác nhau lên nuôi vỗ béo
cua gạch trong bể xi măng ………………………………………………… …24
4.1.1 Các yếu tố môi trường……………………… ……… …………… 24
4.1.2 Tăng trưởng, tỷ lệ sống, tỷ lệ đạt gạch và sinh khối cua ở các
nghiệm thức với các loại thức ăn khác nhau…………………… ……………….25
4.1.3 Hiệu quả kinh tế của nuôi cua gạch trên bể xi măng với các loại
thức ăn khác nhau…………………………………………………………………27
4.1.4 Thành phần dinh dưỡng của gan tụy, gạch, thịt của cua trước và sau thí
nghiệm…………………………………………………………………………….29
4.1.5 Hệ số GSI và tỷ lệ gạch/gan tụy của cua trước và sau thí nghiệm 30
4.2 Kết quả nghiên cứu nuôi vỗ béo cua gạch với các kích cỡ lồng khác nhau
trong bể ximăng……………………………… ………………………………….32
9

4.2.1 Các yếu tố môi trường: …………………………………………………32
4.2.2 Kết quả tăng trưởng, tỷ lệ sống, tỷ lệ đạt gạch cua ở các nghiệm
thức nuôi vỗ cua gạch với các kích cỡ lồng khác nhau ……………………… … 33
4.2.3 Lượng thức ăn để nuôi cua từ khi bố trí đến thu hoạch…… ………… 34

4.2.4 Hiệu quả kinh tế trong nghiên cứu nuôi vỗ béo cua gạch với các
kích cỡ lồng khác nhau trong bể ………………………… …………………… 35
4.3 Thí nghiệm nghiên cứu nuôi vỗ béo cua gạch với mật độ khác nhau ……….36
4.3.1 Các yếu tố môi trường…………………………………………………….36
4.3.2 Kết quả tăng trưởng, tỷ lệ sống, tỷ lệ đạt gạch ở các nghiệm thức nuôi
vỗ béo cua gạch với mật độ khác nhau ………………………… ………… …37
4.3.3 Trọng lượng, kích cỡ và tăng trọng của cua trước và sau thí nghiệm … 37
4.3.4 Kết quả tỷ lệ sống và đầy gạch của cua sau khi kết thúc thí nghiệm… … 38
4.3.5 Lượng thức ăn cần thiết để thu được 1kg cua gạch sau 30 ngày nuôi……39
4.3.6 Hiệu quả kinh tế trong nghiên cứu nuôi vỗ béo cua gạch với mật độ khác
nhau trên bể xi măng ……………………………………… …………….39
4.4 Thảo luận …………………………………………………………………….41
4.4.1 Các yếu tố môi trường……………………………………………………41
4.4.2 Tăng trưởng, tỷ lệ sống, tỷ lệ đạt gạch ………………………………… 42
4.4.3 Hiệu quả kinh tế, cơ cấu chi phí của các thí nghiệm 46
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT…………………… ………………… …47
5.1 Kết luận……………………………………………… ……………….…….47
5.2. Đề xuất ……………………………………………………… ……….……47
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………… ……… … ….48
PHỤ LỤC ………………………………………………………………….……… 52





10

DANH SÁCH BẢNG
Bảng 3.1: Thành phần và dinh dưỡng của thức ăn 18


Bảng 4.1: Giá trị trung bình các yếu tố môi trường ở các bể trong thí nghiệm nuôi
vớ các loại thức ăn khác nhau 24

Bảng 4.2 : Tăng trưởng của cua trong thí nghiệm sau 30 ngày nuôi.
…………… 25

Bảng 4.3: Tỷ lệ sống, tỷ lệ đạt gạch, sinh khối của cua trong thí nghiệm 26

Bảng 4.4: Lượng thức ăn cần thiết để nuôi 1 kg cua gạch 27

Bảng 4.5 : hiệu quả kinh tế nuôi cua gạch trên bể xi măng 27

Bảng 4.6: thành phần dinh dưỡng của gan tụy, gạch, thịt cua trước thí nghiệm và sau
thí nghiệm 29

Bảng 4.7: Hệ số GSI và tỷ lệ gạch/gan tụy của cua trước và sau thí nghiệm 30

Bảng 4.8: Giá trị trung bình các yếu tố môi trường ở các bể nuôi trong thí nghiệm
nuôi với các kích cở lồng khác nhau 32

Bảng 4.9 : trọng lượng kích cỡ cua trước và sau thí nghiệm 33

Bảng 4.10: Tỷ lệ sống và tỷ lệ đạt gạch 34

Bảng 4.11 : lượng thức ăn cần thiết để nuôi 1 kg cua gạch 35

Bảng 4.12: hiệu quả kinh tế 35

Bảng 4.13: giá trị trung bình các yếu tố môi trường ở các bể trong thí nghiệm nuôi
với với các mật độ khác nhau 36


Bảng 4.14: trọng lượng, rộng mai và tăng trọng của cua trước và sau thí nghiệm 37

Bảng 4.15: Tỷ lệ sống và đạt gạch 38

Bảng 4.16: lượng thức ăn để thu 1kg cua 39

Bảng 4.17: hiệu quả kinh tế 39







11

DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1: hình thái của loài cua biển Sscylla paramamosain theo phân loại của
Estampador (1949)…………………………………………………………… 3
Hình 2.2: Vòng đời cua biển theo NIOT……………………………………… 5
Hình 2.3: lồng tre nuôi cua 1 con/lồng theo Cholik và Hanafi (1991………… 9
Hình 2.4: lồng tre nuôi cua 1 con/lồng ở Ấn Độ theo NIOT………………… 10
Hình 2.5: Xuất khẩu cua biển của Việt Nam năm 2001-2004 …………… 12
Hình 2.6: Lồng nuôi cua bằng tre và nhựa PP…………………………….… 14
Hình 3.1: Cua dùng để bố trí thí nghiệm……………………………………….17
Hình 3.2: Ảnh bố trí thí nghiệm nuôi vớ các loại thức ăn khác nhau……… 18
Hình 3.3 : Kiểm tra gạch cua ………………………………………………….19
Hình 3.4 : Thu hoạch cua………………………………………………………20
Hình 3.6 : Ảnh bố trí thí nghiệm nuôi với với các mật độ khác nhau …… 21

Hình 4.1: Biểu đồ cơ cấu chi phí nuôi cua gạch với các loại thức
ăn khác nhau …………………………………………………………………. .28
Hình 4.2: Màu sắc của gạch cua trước thí nghiệm …………………………….31
Hình 4.3 : Màu sắc của gạch cua sau thí nghiệm …………………………… 31
Hình 4.4: Biểu đồ cơ cấu chi phí nuôi vỗ béo cua gạch với
kích cỡ lồng khác nhau……………………………………………………… 36
Hình 4.5: Biểu đồ Cơ cấu chi phí nuôi vỗ béo cua gạch với các
mật độ khác nhau …………………………………………………………….40










12


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮC

ĐBSCL : Đồng Bằng Sông Cửu Long
TLS : tỷ lệ sống
FMI : chỉ số thành thục
GSI : hệ số thành thục
DWG : tăng trọng trên ngày
SGR : tăng trọng % trên ngày





































13

Chương 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1Giới thiệu
Cua biển (Scylla sp.) là một trong những đối tượng quan trọng trong nghề nuôi
trồng và khai thác thủy sản, nhất là ở các nước quanh vùng Ấn Độ Thái Bình
Dương. Thịt cua là nguồn protein chất lượng cao, vitamin và các chất khoáng cần
thiết cho dinh dưỡng của cơ thể. Trong thịt cua cũng chứa phospho, kẽm, đồng,
canxi, sắt và rất ít chất béo, đặc biệt là các chất béo no. Tuy nhiên, thịt cua cũng
chứa một hàm lượng cholesterol cao ().Trong những
năm gần đây khi việc sản xuất giống nhân tạo cua biển đã thành công, góp phần
quan trọng vào phát triển nghề nuôi cua biển ở các nước cũng như ở nước ta. Với
diện tích mặt nước hơn 600.000 ha vùng ven biển Đồng bằng Sông Cửu Long
(ĐBSCL) có một tiềm năng rất lớn cho phát triển nghề nuôi trồng thủy sản nước lợ.
Trong suốt hơn thập kỷ qua, nghề nuôi hải sản đã phát triển rất nhanh với nhiều đối
tượng có giá trị kinh tế, trong đó cua biển (Scylla paramamosain) là loài có giá trị
kinh tế quan trọng sau tôm sú. Với sự không ổn định ngày càng cao trong nuôi tôm
sú do giá cả và dịch bệnh, trong khi đó giá cua thịt và cua gạch luôn ổn định và ở
giá rất cao nên cua biển ngày càng được chú trọng đối với người nuôi trồng thủy sản
ven biển ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung.
Tùy từng nơi với những điều kiện và mùa vụ khác nhau mà hiện nay phong trào
nuôi cua được phát triển dưới các hình thức như nuôi cua đơn (trong ao), nuôi cua
kết hợp với tôm (cua-tôm) hoặc cua kết hợp với tôm trong rừng (cua-tôm-rừng). Với
hình thức nuôi cua đơn thì có các mô hình nuôi cua thịt (từ con giống lên kích thước
thương phẩm), nuôi cua gạch và nuôi cua lột. Trong đó hình thức nuôi vỗ béo cua

gạch non lên gạch đầy để bán ra thị trường với giá chênh lệch khá cao được người
nuôi thực hiện với nhiều cách nuôi như nuôi trong lồng, nuôi trong ao đất với nguồn
thức ăn tự nhiện sẳn có của địa phương.
Tuy nhiên, nuôi cua gạch hiện nay đôi lúc mang lại hiệu quả chưa cao do nuôi
trong ao đất và trong lồng nhiều con nên khó chăm sóc và kiểm soát tỷ lệ sống, thời
gian nuôi kéo dài không lên gạch hoặc khi lên gạch đầy thì màu sắc gạch không đẹp
(không đỏ như cua ngoài tự nhiên ) nên giá trị kinh tế trong các hình thức này từ
trước đến nay là không cao và làm lảng phí nguồn thủy sản có giá trị.
Trên cơ sở đó, đề tài “Nghiên cứu nuôi vỗ cua gạch (Scylla paramamosain)
trên bể với các loại thức ăn và mật độ khác nhau ’’ được tiến hành.
14

1.2 Mục tiêu đề tài
Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm đánh giá ảnh hưởng của các loại thức ăn
khác nhau, kích cỡ lồng khác nhau và mật độ nuôi khác nhau trên bể xi măng ảnh
hưởng lên tỷ lệ sống, khả năng thành thục và màu sắc của gạch cua nhằm tìm ra loại
thức ăn tốt nhất, kích cỡ lồng và mật độ nuôi thích hợp nhất cho nuôi cua gạch trong
lồng trên bể xi mặng có thay nước .

1.3 Nội dung của đề tài
Nội dung nghiên cứu đề tài gồm 3 nội dung :
- Nuôi vỗ béo cua gạch với các loại thức ăn tươi sống
- Nuôi vỗ béo cua gạch với các kích cỡ lồng khác nhau.
- Nuôi vỗ béo cua gạch với các mật độ khác nhau

1.4 Thời gian thực hiện đề tài :
Từ tháng 02 năm 2010 đến tháng 08 năm 2010















15

Chương 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Sơ lược về đặc điểm sinh học của cua biển
2.1.1 Đặc điểm phân loại
Cua biển có tên tiếng Anh là mud-crab, green crab, hay mangrove crab; tên
tiếng Việt gọi là cua biển, cua sú, cua xanh, cua bùn, là một trong những hải sản có
giá trị cao trong thực phẩm và y dược học (Joachim và Felicitas, 2000; Nguyễn
Chung, 2006 ).
Cua biển có màu xanh lục đen, gốc và ngón động, mặt dưới của ngón bất
động có màu đỏ hay vàng cháy, mặt trên chân càng có màu xanh đen với những vết
đốm trắng . Cua có mai trơn, láng, không có lông . Cua biển có trọng lượng lớn, có
thể đạt trọng lượng đến 2 kg (Khoa Sinh – Trường Đại Học Tổng Hợp Huế, 1994).
Bằng phương pháp điện di và hình thái giải phẫu, Keenan (1999) đã đi đến
kết luận cua biển giống Scylla có 4 loài phân biệt và được định danh trong hệ thống
phân loại như sau:
Ngành Arthropoda
Ngành phụ Crustacea

Lớp Malacostraca
Bộ Decapoda
Họ Portunidae
Giống Scylla
Loài Scylla. paramamosain











Hình 2.1: hình thái của loài cua biển Sscylla paramamosain theo phân loại của
Estampador (1949)
16

2.1.2 Đặc điểm phân bố
Theo Keenan et al. (1998), Gopurenko et al (1999loài Scylla paramamosain
được phân bố khắp khu vực biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, từ Nam Phi
đến Biển Đỏ, từ Okinnawa đến Tahiti và xuống tận miền Bắc nước Úc, Nhật Bản,
Nam Trung Quốc Xiamen, Hong Kong, Singapore, Cambodia…; ở Trung Java
Indonesia và ở Việt Nam Cua biển Scylla serrata (Porskal), phân bố khắp ở các
vùng biển nước ta trong đầm lầy rừng ngập nước lợ và vùng ven biển cửa sông .
Cua biển ở vùng sông Ông Đốc – Cà Mau, Rạch Giá – Hà Tiên …màu sắc mai cua
đậm, chân càng đỏ khác cua vùng Cần Giờ -TP . Hồ Chí Minh, Cần Guộc, Cần
Đước – Long An, Gò Công - Tiền Giang, Duyên Hải – Trà Vinh và Bình Đại Bến

Tre có màu sáng xanh hơn . (Nguyễn Trung, 2006)
Cua biển (Scylla sp.) là một trong những đối tượng rất quan trọng của nghề
nuôi trồng và khai thác thủy sản ở các vùng nước lợ ven biển, đặc biệt là các nuớc
thuộc Ấn Ðộ - Thái Bình Dương (Angell, 1992) bao gồm các nước Ấn Độ, Thái
Lan, Trung Quốc, Malaysia, Philippine, Singapore, Úc, Nhật Bản,…là đối tượng
nuôi thuỷ sản có giá trị kinh tế ở nhiều nước (Hoàng Đức Đạt, 1995; Nguyễn Cơ
Thạch và ctv, 2004; Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005).
Theo Keenan et al (1998) ở Việt Nam, đặc biệt là vùng ĐBSCL có hai loài
chủ yếu là S.paramamosain và S.olivacea. Loài cua S.paramamosain chiếm ưu thế
ở ĐBSCL (Hoang Duc Dat, 1999). Nhưng DANIDA-Bộ Thủy Sản (2003) cho rằng
cua biển phân bố rộng ở Việt Nam, đặt biệt vùng triều, cửa sông và rừng ngập mặn,
có cả ở châu thổ ĐBSCL và Sông Hồng.
2.1.3 Tập tính sống cua biển
Vòng đời cua biển trãi qua nhiều giai đoạn khác nhau và mỗi giai đoạn có tập
tính sống, cư trú khác nhau. Thời kỳ phôi thai được cua mẹ mang và phát triển ở
vùng ven biển ven bờ, giai đoạn ấu trùng sống trôi nổi và nhờ dòng nước đưa vào
ven bờ biến thái thành cua con. Cua con theo thuỷ triều dạt vào vùng nước lợ những
bãi lầy ven bờ biển, cửa sông, nơi có đáy bùn, bùn cát hoặc đất thịt pha cát mịn giàu
mùn bã hữu cơ thuộc vùng trung, hạ triều chuyển từ đời sống trong môi trường nước
mặn sang nước lợ. Cua bắt đầu sống bò trên đáy và đào hang để sống hay chui rúc
vào gốc cây, bụi rậm. Cua đạt giai đoạn thành thục có tập tính di cư ra vùng nước
mặn ven biển sinh sản. Cua có khả năng bò lên cạn và di chuyển rất xa. Đặc biệt,
vào thời kỳ sinh sản cua có khả năng vượt cả rào chắn để ra biển sinh sản (Hoàng
Đức Đạt, 1995; Trần Ngọc Hải và ctv, 1999; DANIDA-Bộ Thủy Sản, 2003). Theo
17

Trần Ngọc Hải và ctv (1999) cua có thể di chuyển trung bình 13 giờ/ngày và gần
như suốt đêm. Quãng đường trung bình cua di chuyển trong một đêm là 461 m, dao
động 219-910 m. Cua cái có thể bò xa 45 km để tìm bãi đẻ (Lee, 1991). Cua giống
phát triển kém ở độ mặn thấp (5 và 10 ‰ ) với tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống thấp.

Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, chu kỳ lột xác ngắn hơn và số lượng
cua lột ở mỗi lần lột xác cao hơn ở độ mặn 15-25 ‰. Độ mặn thích hợp nhất cho
sinh trưởng và phát triển của cua là từ 15-25‰, trong đó 20-25 ‰ được xem là độ
mặn tối ưu. Cua không thể tồn tại ở 0 ‰ quá 3 ngày trong điều kiện thí nghiệm mặc
dù ngoài tự nhiên cua con vẫn xuất hiện ở vùng cửa sông trong mùa mưa khi độ
mặn giảm xuống 0 ‰. ( Vũ Ngọc Út , 2006)
Theo báo cáo của Hyland,1984 ( trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải, 1999) sự phân
bố của cua trong tự nhiên có liên quan đến dòng chảy, trong đó, vận tốc nước thích
hợp 0,06-1,6 m/giây.
















Hình 2.2: Vòng đời cua biển theo NIOT
Cua cái
Cua

Trứng Zoea

VÒNG
Đ

I
CUA BI
ỂN

Megalopa
18

2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Cua là động vật ăn thịt, thích bắt cá, tôm, động vật hai mảnh vỏ (DANIDA-
Bộ Thủy Sản, 2003; Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006). Theo
Phạm Thị Tuyết Ngân và ctv. (2005) thức ăn tự nhiên chứa 50% nhuyễn thể, 21%
giáp xác, 29% các mảnh vụn hữu cơ, ít khi có cá trong ống tiêu hóa của cua. Tuy
nhiên, tập tính dinh dưỡng của cua biển thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển. Giai
đoạn ấu trùng cua thích ăn thực vật và động vật phù du. Cua con chuyển dần sang ăn
tạp như rong tảo, giáp xác, nhuyển thể, cá hay ngay cả xác chết động vật. Cua con
2-7 cm ăn chủ yếu là giáp xác, cua 7-13 cm thích ăn nhuyễn thể và cua lớn hơn
thường ăn cua nhỏ, cá Cua có tập tính trú ẩn vào ban ngày và kiếm ăn vào ban
đêm. Nhu cầu thức ăn của chúng khá lớn nhưng chúng có khả năng nhịn đói 10-15
ngày (Trần Ngọc Hải và ctv, 1999; Nguyễn Chung, 2006; Nguyễn Thanh Bình,
2007; Nguyễn Ngọc Tú, 2008)Yêu cầu dinh dưỡng của cua biển trong giai đoạn
thành thục lớn hơn các giai đoạn khác. Trong suốt quá trình thành thục, chế độ dinh
dưỡng đầy đủ sẽ giúp tích luỹ trong trứng và phôi sẽ phát triển bình thường 100%
thức ăn tươi sống; 50% thức ăn tươi sống + 50% thức ăn chế biến và 100% thức ăn
chế biến. Nguồn thức ăn chính cung cấp cho cua mẹ là các loài nhuyễn thể nước lợ,
mực, tôm. Màu trứng, tỉ lệ cua đẻ, sức sinh sản, tỉ lệ thụ tinh, tổng ấu trùng, tỉ lệ
sống của cua mẹ… Kết quả cho thấy thức ăn tươi sống cho kết quả tốt nhất, cua đẻ
sớm hơn, tỉ lệ sống cao hơn, tỉ lệ đẻ cao hơn và tỉ lệ thụ tinh luôn cao hơn (>80%).

( Phạm Thị Tuyết Ngân, và ctv 2005).
2.1.5 Lột xác và sinh trưởng
Từ ấu trùng đến trưởng thành cua phải qua nhiều lần lột xác và qua mỗi lần
lột xác vừa để sinh trưởng vừa để biến thái, thay đổi về kích thước và hình thái cấu
tạo để đạt được hình dạng và cấu tạo thực thụ của cua. Ở giai đoạn ấu trùng và cua
bột thời gian giữa các lần lột xác thường ngắn, từ 2-3 ngày hoặc 3-5 ngày. Cua bột 3
ngày tuổi lột xác lần thứ nhất có chiều rộng mai đạt 5 mm và chiều dài mai 3,5 mm.
Ở cua giống và trưởng thành thời gian lột xác dài hơn thường lột xác vào chu kỳ của
thuỷ triều (Hoàng Đức Đạt, 1995; Nguyễn chung, 2006) Cua biển là loài sinh trưởng
không liên tục, được đặc trưng bởi sự gia tăng đột ngột về kích thước và trọng lượng.
Cua lột xác để tăng kích thước và quá trình này phụ thuộc rất lớn vào điều kiện dinh
dưỡng, môi truờng và giai đoạn phát triển của cơ thể. Theo Triño et al (1999), khi
nuôi chung cua đực và cua cái thì cua đực tăng trưởng tốt hơn cua cái. Khatun et al
19

(2008) nuôi cua S.olivacea đơn tính (cua đực hoặc cua cái) và cả 2 giới tính (cua cái
+ cua đực) thì cua đực cũng tăng trưởng tốt hơn cua cái.
Cua biển trải qua 12 lần lột xác, khi tuyến sinh dục bắt đầu phát triển, cua
lột xác lần thứ 13 trước khi giao phối (Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy
Sản, 2006). Cua trưởng thành có khoảng cách giữa 2 lần lột xác từ 20-28 ngày
(Khoa Sinh – Trường Đại Học Tổng Hợp Huế, 1994). Quá trình lột xác của cua
mang tính đặc trưng riêng biệt từng loài. Cua càng lớn thì chu kỳ lột xác càng kéo
dài. Ðặc biệt, trong quá trình lột xác, cơ thể của chúng có thể tái sinh những phần
phụ bộ đã mất. Ðối với những con cua bị tổn thương, khi mất phần phụ bộ thì cua
có khuynh hướng lột xác sớm hơn (Trần Ngọc Hải và ctv, 1999).
Tuổi thọ trung bình của cua từ 2-4 năm, qua mỗi lần lột xác trọng lượng cua
tăng trung bình 20-50%. Kích thước tối đa của cua biển có thể từ 19-28 cm với
trọng lượng từ 1-3 kg/con. Thông thường trong tự nhiên cua có kích cỡ trong
khoảng 7,5-10,5 cm. Với kích cỡ tương đương nhau về chiều dài hay chiều rộng thì
cua đực nặng hơn cua cái.

2.1.6 Đặt điểm sinh sản
Cua xanh sống, sinh trưởng và phát triển ở vùng cửa sông, rừng ngập mặn,
nơi có độ muối dao động từ 5‰ đến 30‰, khi cá thể trưởng thành đạt kích thước
thành thục, chúng có xu hướng kết đàn di cư ra ven biển, vùng cửa sông nơi đó có
độ muối ổn định và cao hơn ( khoảng 30‰ đến 35‰) để giao vĩ và đẻ trứng. Tuy
nhiên sự giao vĩ cũng có thể xảy ra trong điều kiện nuôi nhốt ở mức nước có độ sâu
từ 0,5 m trở lên và độ muối từ 30 – 35‰. Cua biển thành thục sinh dục ở lần lột võ
thứ 16, khoảng 5-11 tháng tuổi khi chiều rộng võ đạt 10 cm, thời gian thành thục
sinh dục phụ thuộc vào điều kiện môi trường sống của chúng. ( Khoa sinh – trường
đại học Huế, 1994). Trứng cua trưởng thành đã được phân ra làm 6 giai đoạn dựa
vào màu sắc, đặc điểm mô học của tế bào trúng, kích thước của tế bào trứng và hình
dạng bên ngoài của cua, màu sắc buồng trứng thay đổi từ trong suốt (giai đoạn 1)
đến màu cam đậm (giai đoạn 5), trong suốt quá trình thành thục, cua cái có trọng
lượng 300g có thể đẻ trên 1,5-2 triệu trứng, trong mùa sinh sản cua cái đẻ trứng 3-4
lần, mổi lần cách nhau 30-40 ngày, cua cái ôm trứng tiếp tục đi ra vùng biển ven bờ
có độ mặn 26-30‰ , nhiệt độ nước 27-29
o
c , phôi phát triển sau 11-13 ngày khi ấu
trùng nở.
Việc cắt mắt cua nuôi vỗ giúp cua có thể đẻ quanh năm. Cua không luôn luôn
đẻ theo chu kỳ tuần trăng trong tháng hay thời điểm nhất định trong ngày. Cua cái
20

tốt hầu hết có thể đẻ và nở thành công mà không qua lột xác và bắt cặp với cua đực.
Cua có thể đẻ trên 2 lần nhưng sức sinh sản sẽ giảm đi.(Trần Ngọc Hải và ctv, 2002;
Nguyễn Chung, 2006 )
2.2 Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sống của cua biển
pH: cua sống phát triển tốt trong nước độ pH trong khoảng 7,5 – 9,2 thích
hợp nhất từ 7,5-8,2. Tuy nhiên cua có thể chịu đựng được trong nước có độ pH thấp
hơn 6.5 (Hoàng Đức Đạt 1995; Nguyễn Chung, 2006). Theo Munawar et al (1998)

cần quản lý pH ở mức 7,5-8,5.
Độ mặn: trong tự nhiên, từ giai đoạn cua con trở đi, cua có thể chịu đựng
được độ mặn 2-60
o
/
oo
(Trần Ngọc Hải và ctv, 1999). Theo Hoàng Đức Đạt (1995),
Trần Ngọc Hải và ctv (1999), Nguyễn Chung (2006) cua có khả năng thích ứng cao
với sự thay đổi độ mặn của nước. Cua có thể sống trong vùng nước gần như ngọt
cho đến độ mặn trên 33
o
/
oo
. Nhưng trong thời kỳ đẻ trứng, ấp trứng và thời kỳ ấu
trùng, cua đòi hỏi độ mặn từ 28 – 32%o. Tuy nhiên, theo Trung tâm Khuyến ngư
Quốc Gia-Bộ Thủy Sản (2006) cua biển sống, sinh trưởng và phát triển tốt trong độ
mặn từ 5-33,2
o
/
oo
và phù hợp nhất 13,7-26,9
o
/
oo
. DANIDA-Bộ Thủy Sản (2003) cho
rằng giới hạn độ mặn để cua sống và phát triển từ 2-35
o
/
oo
.

Nhiệt độ nước: cua biển là loài chuyên sống ở đáy, thích ứng với nhiệt độ
rộng (Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006). Ở vùng biển phía nam
nước ta cua biển thích nghi với nhiệt độ nước từ 25 – 29
0
C. Nhiệt độ cao thường
ảnh hưởng xấu đến các hoạt động sinh lý của cua là một trong những nguyên nhân
gây chết (Hoàng Đức Đạt, 1995). Theo Nguyễn Chung (2006) cua phát triển tốt ở
nhiệt độ 25-29
0
C, chịu đựng nhiệt độ thấp dưới 10-15
0
C, nhiệt độ trên 32
0
C sẽ ảnh
hưởng đến các hoạt động sinh lý và có thể làm cua chết. Tuy nhiên theo Trung tâm
khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản (2006) nhiệt độ thích hợp 18-32
0
C, nhiệt độ
dưới 18
0
C cua giảm hoạt động và giảm bắt mồi, nhiệt độ 7
0
C cua dừng hoạt động
hoàn toàn, vùi mình trong bùn chỉ để lộ 2 mắt và rơi vào trạng thái ngủ, nhiệt độ 5
0
C
cua sống được 4-5 ngày, nếu nhiệt độ nước cao đến 35
0
C cua nằm ngửa và dơ chân
bò lên trời để phần bụng không tiếp xúc với bùn đất hoặc năm bò trên bãi bùn. Nhiệt

độ nước lên đến 39
0
C, mai cua xuất hiện những chấm đỏ xám, cua yếu dần rồi chết.
Nhu cầu oxy hoà tan: hàm lượng oxy hoà tan lớn hơn 2 mg/l, cua bắt mồi
rất nhiều. Khi hàm lượng oxy hoà tan nhỏ hơn 1 mg/l, cua phản ứng chậm chạp,
không bắt mồi, xuất hiện nổi đầu, thậm chí chết. Khi cua lột xác, yêu cầu hàm lượng
21

oxy hòa tan rất cao, nếu không đủ oxy việc lột xác không thuận lợi, cua sẽ chết
(Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006).
Ðịch hại của cua: theo Hoàng Ðức Ðạt (1995) cua có nhiều địch thủ lợi
hại, cua ăn thịt lẫn nhau. Ngoài ra, còn có rất nhiều loài dịch hại khác gây hại
đến cua, tùy mỗi giai đoạn cua sẽ có từng loại dịch hại khác nhau bao gồm nhiều
loài động vật sống trong nước, trên cạn như các loài cá dữ, chim ăn thịt, chuột,
rắn,… ăn thịt lẩn nhau một trong những nguyên nhân của sự hao hụt chính trong
nuôi các loài cua biển nhất là giai đoạn cua con (Vũ Ngọc Ut và ctv, 2007)
2.3 Tình hình nghiên cứu nuôi cua biển
2.3.1 Nghiên cứu nuôi cua biển trên thế giới
Trên thế giới, nuôi cua biển đã phát triển ở Trung Quốc từ hơn 100 năm và
hơn 30 năm tại các nước Châu Á khác (Keenan, 1999).
Rất nhiều báo cáo về nuôi cua được đề cập tại hội thảo về nuôi và thương
mại cua biển tổ chức tại Swat Thani, Thái Lan năm 1991 như Báo cáo về nuôi,
thương mại và định hướng phát triển cua biển ở vịnh Bengal của Sivasubramaniam
và Angell; Báo cáo về sinh học và nuôi cua biển ở Queensland của Lee; nuôi cua
biển ở Philippines của Jericardo và Mondgagon; về nuôi vỗ béo cua ở Sri Lanka
(Silva), ở Thái Lan (Rattanachote và Dangwatanakul), ở Malaysia (Liong); nuôi cua
biển trong ao ở Sri Lanka của Samarasinghe et al…Đặt biệt báo cáo về khai thác và
nuôi cua biển ở Indonesia của Cholik và Hanafi. Trong đó ý tưởng nuôi vỗ béo cua
1 con/lồng 0,025 m
3

dùng để nuôi vỗ lên cua gạch đã được trình bày, hệ thống này
nuôi được 40 con cua/1 m
2
cũng với ý tưởng này, Zafar (2005) ở Bangladesh lồng
tre 7 m x 3 m x 1 m, phân ra 60 ô nhỏ, mỗi ô nuôi 1 con. Theo NIOT ở Ấn Độ nuôi
cua vỗ béo 1 con/lồng tre 1m x 1m x 0,2 m.

Hình 2.3: lồng tre nuôi cua 1 con/lồng theo Cholik và Hanafi (1991)
22



Hình 2.4: lồng tre nuôi cua 1 con/lồng ở Ấn Độ theo NIOT
Theo Keenan (1999) trên thế giới có 2 cách nuôi cua cơ bản là nuôi vỗ béo
và nuôi cua thịt. Các nước có nghề nuôi cua phát triển như Srilanka, Thái Lan,
Malaysia, Phillipine, Đài Loan… Tuy nhiên, theo Khoa Sinh-Trường Đại học Tổng
Hợp Huế (1994), Hoàng Đức Đạt (1995), Doan Van Dau et al (1998), Hoang Duc
Dat(1999) ở Việt Nam ngoài 2 cách thức trên còn có hình thức nuôi cua lột.
Nuôi vỗ béo cua: Tại Malaysia, Tan (1999) tổng kết nuôi vỗ béo cua cần 10-
20 ngày để đạt kích cở xuất bán trên 150 g. Tuy nhiên, tại Thái Lan, Rattanachote
và Dangwatanakul (1991) thời gian là 20-30 ngày với tỷ lệ sống 85,20-93,77%.
Nghiên cứu của Liong (1991) trong ao và lồng tre chỉ cần sau 2-14 ngày là cua đầy
gạch với tỷ lệ sống 60-80% (trong lồng) và 50-80% (trong ao). Theo Hoang Duc
Dat (1999) trong điều kiện Việt Nam nuôi vỗ béo cần 25-35 ngày với mật độ 0,5-1
kg/m
2
trong ao và 10-25 kg/m
2
trong lồng. Về trọng lượng tăng thêm sau vỗ béo
Theo Ladra (1991) ở Philippine nuôi trong ao và lồng tre (140 x 70 x 25 cm). Trọng

lượng tăng thêm 110 g sau 15-30 ngày nuôi. Nghiên cứu của Silva (1991) ở Sri
Slanka nuôi vỗ trong bể ximăng (4m x 4m x 1m) trọng lượng cua tăng 62,83% sau
62 ngày nuôi và 96 g sau 35 ngày nuôi trong ao nuôi tôm 0,4 ha.
Nuôi cua thịt trong ao: Tại Ấn Độ, Munawar et al (1998) nuôi cua S.
tranquebarica trọng lượng 80-100 g/con, mật độ 1-5 con/m
2
nuôi 4 tháng đạt 400-
500 g/con, nuôi 7 tháng đạt 800-1.000 g/con. Tỷ lệ sống đạt 70-80%. Christensen et
al (2004) nuôi cua trong ao ở ĐBSCL, Việt Nam từ 120-186 ngày đạt kích cở 200-
300 g/con. Tại Indonesia, Cholik (1999) thí nghiệm nuôi cua với 3 mật độ 1 con/m
2
,
3 con/m
2
và 5 con/m
2
trong 6 ao 96 m
2
sau 90 ngày cua đạt kết quả tương ứng 146,
159 và 158 g/con với tỷ lệ sống 81,2%, 43,1% và 32,9%.
23

Nuôi cua lột: Trên thế giới chưa có nhiều báo cáo về nuôi cua lột. Tại Việt
Nam, năm 1994, Khoa Sinh-Trường Đại học Tổng Hợp Huế đã đề cập đến kỹ thuật
này. Năm 1995, Hoàng Đức Đạt đề cập đến trong sách “Kỹ thuật nuôi cua
biển”. Năm 1999, trong báo cáo tại Hội nghị Sinh học và nuôi cua biển tại
Australia, Hoang Duc Dat mô tả: sử dụng cua 30-60 g, bẻ càng và chân bò chỉ chừa
2 chân chèo. Cho cua vào lồng tre (1,5m x 1m x 0,25m) hoặc ao, sau 11-20 ngày có
thể thu sản phẩm cua lột. Trước đó, kỹ thuật này được Doan Van Dau et al báo cáo
tại Hội nghị quốc tế về nuôi cua tại Philippine năm 1998 nhưng với cỡ cua 50-100 g

với mật độ (ao hoặc lồng) 10-12 kg/m
2
và thời gian cua lột xác là 20-30 ngày. Năm
2006, Trần Ngọc Hải và ctv đã phát triển kỹ thuật nuôi cua lột trong bể composite
với hệ thống tuần hoàn.
2.3.2 Nuôi cua biển ở Việt Nam
2.3.2.1 Tình hình nuôi cua biển
Nghề nuôi cua biển của Việt Nam bắt đầu từ đầu những năm 1980. Cua biển
Việt Nam dồi dào giá thấp hấp dẫn nên các công ty ở Hồng Kông, Đài Loan đến
mua. Khi sản lượng khai thác cua tự nhiên giảm sút nhưng lợi nhuận hấp dẫn nên ở
Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Tre nhiều người đã bắt cua giống, cua ốp ngoài thiên nhiên
về thả nuôi (Nguyễn Chung, 2006).
Năm 1993, Việt Nam đã đạt sản lượng nuôi 3.800 tấn trên diện tích 1.600 ha
(Doan Van Dau et al, 1998). Tuy nhiên, sau đó (1993) xu hướng nuôi cua bị lấn át
bởi phong trào nuôi tôm sú vì lợi nhuận cao hơn rất nhiều lần so với nuôi cua. Nhiều
người phát lên nhờ tôm sú nhưng cũng nhiều người đã và đang lận đận vì con tôm
sú. Vì vậy, nhiều hộ ngư dân nay lại trở về với nghề nuôi cua biển. Theo số liệu điều
tra năm 1995 thì ÐBSCL có trên 3.000 ha nuôi cua với sản luợng trên 1.600
tấn/năm (Trần Ngọc Hải và ctv, 2003). Theo DANIDA-Bộ Thủy Sản (2003) cua
được nuôi rộng rãi khắp các tỉnh ven biển đặt biệt vùng cửa sông Châu thổ phía Bắc
(Thái Bình, Hải Phòng, Nam Định) và các tỉnh Duyên Hải Nam Bộ. Năng suất nuôi
cua đạt 1.000 kg/ha/vụ.
Năm 2004, khối lượng cua biển xuất khẩu Việt Nam đạt gần 6000 tấn, giá trị
hơn 25 triệu USD Hình 2.5 ().
24


Hình 2.5: Xuất khẩu cua biển của Việt Nam năm 2001-2004
Tại ĐBSCL, theo điều tra của Vũ Ngọc Út (2005) có 8 tỉnh nuôi cua: Cà
Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, Tiền Giang, Bến Tre và Long

An. Ở Tiền Giang, phong trào nuôi cua còn rất kém phát triển, chỉ rải rác ở huyện
Gò Công. Trong khi đó, Long An là địa phương duy nhất có mô hình nuôi cua lột
rất phát triển ở huyện Cần Giuộc. Sóc Trăng, Kiên Giang và Bến Tre là các địa bàn
có hình thức nuôi cua đơn trong ao phổ biến và một số hình thức nuôi kết hợp cua-
tôm và cua-tôm-rừng. Cà Mau và Bạc Liêu phổ biến nhất với các mô hình (ngoại trừ
nuôi cua lột), trong đó kết hợp cua-tôm và cua-tôm-rừng là chủ lực.
2.3.2.2 Nghiên cứu về cua biển ở Việt Nam
Nguồn giống cung cấp cho nghề nuôi cua biển ở nước ta chủ yếu là bắt từ tự
nhiên (Nguyễn Cơ Thạch và ctv; Vũ Ngọc Út, 2005). Cua giống tự nhiên thường
được vận chuyển xa từ địa bàn nuôi và qua nhiều thương lái nên khi về đến ao nuôi
thường yếu và có tỉ lệ tỷ lệ sống không cao (Vũ Ngọc Út, 2005). Tuy nhiên, cua sản
xuất nhân tạo cũng đã được nuôi thử nghiệm thành công. Theo Trung tâm Khuyến
Nông Quốc Gia (2008) cua bột có kích thước 0,5-0,7 cm được ương trong giai đặt
trong ao đất lên giống 2-3 cm. Sau đó thả nuôi trong ao với mật độ thả 1 con/m
2
.
Sau gần 6 tháng nuôi, cua đạt tỷ lệ sống trên 60%, năng suất đem lại gần 1,2 tấn
cua/ha, giá bán 80.000 đồng/kg cua thương phẩm 250-350g/con, sau khi trừ các
khoản chi phí, lợi nhuận hơn 30 triệu đồng/ha.
Hình thức nuôi: theo Doan Van Dau et al (1998), Hoang Duc Dat (1999)
gồm có nuôi cua thịt, nuôi cua vỗ béo và nuôi cua lột. Tuy nhiên, theo Vũ Ngọc Út
25

(2005) nuôi cua được phát triển dưới các hình thức như nuôi cua đơn (trong ao),
nuôi cua kết hợp với tôm (cua-tôm) hoặc cua kết hợp với tôm trong rừng (cua-tôm-
rừng). Với hình thức nuôi cua đơn thì có các mô hình nuôi cua thịt (từ con giống lên
kích thước thương phẩm), nuôi cua gạch và nuôi cua lột. Ý tưởng nuôi cua trong
hộp nhựa PP tại Việt Nam được Nguyễn Chung (2006) đề cập đến trong sách “Kỹ
thuật sản xuất giống và nuôi ghẹ xanh, cua biển” trên cơ sở tài liệu kỹ thuật nuôi
ghẹ xanh của Thái Lan và nuôi cua lột của Việt Nam.

Nuôi cua lột, đây là một loại cua thương phẩm đặt biệt và có giá trị cao
(Hoàng Đức Đạt, 1995; Nguyễn Chung, 2006). Mô hình nuôi cua lột rất phát triển
ở huyện Cần Giuộc – Long An từ 1998 (Cửu Long, 2003; Vũ Ngọc Út, 2005).
Năm 2000 có hơn 500 tấn cua lột thương phẩm tiêu thụ trong nước và xuất khẩu
(Nguyễn Chung, 2006).
Cách thức tiến hành nuôi cua lột: Cua nguyên liệu khoảng 30-100 g/con,
không bị tổn thương, bẻ càng, chỉ giữ lại 2 chân bơi và thả vào ao nuôi hoặc lồng
nuôi. Mật độ: 6-12 kg/lồng; 10-12 con/m
2
ao. Cua sẽ lột sau 11-12 ngày thả nuôi,
tỷ lệ thành phẩm 50-55% (Hoàng Đức Đạt, 1995). Tuy nhiên, các kết quả của Khoa
Sinh – Trường Đại Học Tổng Hợp Huế (1994), Hoàng Đức Đạt (1995), Doan Van
Dau et al (1998), Hoang Duc Dat (1999), Nguyễn Chung (2006) chưa trình bày rỏ
trọng lượng và chiều rộng mai cua tăng thêm bao nhiêu sau khi lột. Các số liệu này
được Trần Ngọc Hải và ctv (2006) trình bày trong nghiên cứu “Nuôi cua lột (Scylla
sp.) trong hệ thống tuần hoàn với các loại thức ăn và mật độ khác nhau”.
Nuôi cua vỗ béo: là nuôi cua thương phẩm còn ốp (ít thịt, chưa đầy gạch) để
tạo thành cua y (cua chắc, nhiều thịt) và cua gạch để bán giá cao hơn (Prinpanapong
và Youngwanichsaed, 1991). Ý tưởng này được Khoa Sinh – Trường Đại Học Tổng
Hợp Huế đề cập năm 1994. Có thể thuật ngữ “nuôi cua vỗ béo” được đề cập ở Việt
Nam từ tài liệu này. Hoàng Đức Đạt (1995), Doan Van Dau et al (1998), Đoàn Văn
Đẩu (1998), Hoang Duc Dat (1999)… là những tác giả tiếp theo đề cập đến vấn đề
nuôi vỗ béo cua trong hệ thống lồng tre. Ý tưởng nuôi cua vỗ béo trong lồng nhựa
0,05 m
2
chỉ được Nguyễn Chung đề cập đến năm 2006.
Nuôi cua thịt, có nhiều báo cáo đề cập đến. Một trong những sách viết về
nuôi cua biển đầu tiên tại Việt Nam là cuốn “Kỹ thuật nuôi cua” của Vụ quản lý
khoa học kỹ thuật–Bộ Thủy Sản xuất bản tháng 1/1991. Năm 1994, Khoa Sinh-
Trường Đại học Tổng Hợp Huế xuất bản sách “Kỹ thuật nuôi và vỗ béo cua biển”

phục vụ cho Chương trình Quốc tế EC về tái hòa nhập người Việt Nam hồi hương.

×