Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

DIỄN TIẾN CHÍNH SÁCH KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ NHẤT VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM (1919-1939

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.96 KB, 17 trang )

DIỄN TIẾN CHÍNH SÁCH KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP
TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ NHẤT VÀ NHỮNG TÁC
ĐỘNG ĐẾN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM (1919-1939)
Nguyễn Thị Hà
Lớp D14LSVN01, Khoa Sử
Trường Đại học Thủ Dầu Một

TÓM TẮT
Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời cận đại là giai đoạn lịch sử vô cùng quan
trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Bài viết phân tích sâu những thay đổi trong
chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam từ sau Chiến tranh Thế
giới lần thứ nhất (1914 – 1918). Trên cơ sở đó, bài viết xem xét những tác động của
chính sách này đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục ở Việt Nam. Cuối
cùng, bài viết khẳng định việc nghiên cứu về diễn tiến, nội dung và tác động của chính
sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp nhằm để góp phần nhìn nhận
đúng những mặt tích cực thời thuộc địa, cũng là để hiểu rõ hơn xuất phát điểm kinh tế
- xã hội của chúng ta dưới thời Pháp thuộc; từ đó có sự chọn lọc và kế thừa thích đáng
trong cơng cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng tới mục tiêu phát
triển bền vững hiện nay.

Từ khóa: Pháp thuộc, chính sách khai thác thuộc địa, kinh tế, xã hội

1. Đặt vấn đề

1


Cơ cấu kinh tế - xã hội là nền tảng và cơ sở tồn tại của một quốc gia trong các
giai đoạn lịch sử đã qua. Đối với Việt Nam cơ cấu kinh tế - xã hội thời kỳ Pháp thuộc
là giai đoạn lịch sử có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, nó phản ánh đặc điểm cũng như tính
chất của xã hội Việt Nam, một xã hội nữa thuộc địa nửa phong kiến dưới thời thực dân


Pháp. Nghiên cứu về đề tài này nhằm lý giải vì sao thời kỳ cận đại xã hội Việt Nam lại
mang bản chất đó. Đồng thời lý giải những tác động trong cơng cuộc khai thác thuộc
địa của Pháp đến xã hội Việt Nam làm xuất hiện những trào lưu tư tưởng mới, những
con đường giải phóng dân tộc mang nhiều khuynh hướng khác nhau. Và đánh giá được
sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản Pháp đối với xã hội Việt Nam với một cách nhìn
khách quan nhất.
Bên cạnh đó, sự chuyển biến không ngừng của nền kinh tế thị trường Việt Nam
hiện nay để bắt kịp, hòa nhập vào nền kinh tế hiện đại của thế giới, đòi hỏi các nhà
nghiên cứu cần xúc tiến nghiên cứu về những chuyển biến – xã hội thời kỳ thuộc địa
thơng qua đó, đưa ra những đánh giá, nhận xét và phát huy những thanh tựu vằ khắc
phục những hạn chế trong phát triển kinh tế cũng như xã hội trong sự nghiệp phát triển
đất nước ngày nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về cơ cấu kinh tế -xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, hiện nay đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước. Đến nay nguồn tài
liệu các nhà nghiên cứu nước ngoài, đặc biệt là các nhà nghiên cứu người Pháp về vấn
đề này thì Việt Nam hồn tồn chưa tiếp cận được nhiều, chủ yếu là các cơng trình
nghiên cứu của các sử gia trong nước. Đối với vấn đề “Diễn tiến chính sách khai thác
thuộc địa của Pháp từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất và những tác động kinh tế - xã
hội Việt Nam(1919-1939)” đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập tới nhưng còn
chung chung về giai đoạn cận đại, chưa thật sự sâu sắc để làm sang tỏ vấn đề nghiên
cứu giai đoạn 1919-1939.
Nghiên cứu về những biến đổi kinh tế - xã hội Việt Nam thời cận đại, tác giả
Nguyễn Văn Khánh với cơng trình Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa
1958-1945, Nxb Hà Nội, Đại học quốc gia, 2006 đã đề cập những chính sách trong
chương trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và tác động của quá trình đó đến
2


kinh tế - xã hội Việt Nam thời cận đại. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Ngọc trong

cuốn Tiến Trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục cũng đã có chương viết về chuyển
biến kinh tế - xã hội Việt Nam thời cận đại, tác giả Đinh Xuân Lâm trong cuốn Đại
cương lịch sử Việt,Nxb Giáo dục Việt Nam, 2014 cũng có phần đề cập đến vấn đề này.
Ngồi ra trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa thời cận đại có cơng trình Nền giáo dục
Pháp –Việt của tác giả Phan Trọng Báu, Nxb khoa học xã hội, 2015 đã làm rõ sự
chuyển biến về mặt giáo dục cũng như văn hóa Việt Nam giai đoạn này.
Ngồi ra cịn các bài báo, tạp chí, các sách chuyên khảo về vấn đề kinh tế, các
tầng lớp giai cấp trong xã hội như: Tạp chí Nhận diện di sản kinh tế Việt Nam thời
thuộc địa ở Nam Kỳ (Lê Hữu Phước), Trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử
(Nguyễn Văn Khánh), Giai cấp công nhân Việt Nam của cố GS. Trần Văn Giàu,… Bên
cạnh đó để làm sang tỏ phần nào đề tài tôi tham khảo cuốn Hồi ký Xứ Đông Dương của
Paul Doumer được dịch bởi dịch giả Nguyễn Xuân Khánh, xuất bản năm 2016, cuốn
sách cũng đã đề cập đến vấn đề có liên quan đến cơng cuộc khai thác thuộc địa của
Pháp ở Việt Nam. Tuy nguồn tài liệu nêu trên chưa thật sự phong phú nhưng giúp tơi
làm sang tỏ phần nào đề tài.
3. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp
3.1. Bối cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới:
Vào những năm cuối của thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản trên thế giới ngày càng
phát triển mạnh mẽ, chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc.
Cùng với sự phát triển đó nhu cầu về thị trường, nguyên liệu ngày càng tăng. Điều đó
đã dẫn tới các cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân phương Tây đến các quốc gia
phong kiến phương Đông.
Năm 1917, Cách mạng Tháng 10 Nga thành công đã đưa đến sự ra đời của nhà
nước công nông đầu tiên trên thế giới, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã trở thành
ngọn đuốc soi đường cho phong trào cách mạng thế giới trong đó có tác động đến Việt
Nam.
Đồng thời, tháng 3/1919, Quốc tế cộng sản III được thành lập. Cùng với sự ra
đời của hàng loạt các đảng cộng sản, đảng cộng sản Pháp 1920, Đảng cộng sản Trung
Quốc 1921 đã tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh cách mạng ở các nước

3


thuộc địa của Pháp. Điều này đã tác động đến phong trào giải phóng dân tộc phát triển
mạnh mẽ trên thế giới từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
- Tình hình nước Pháp:
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp tuy là nước thắng trận song nền kinh tế
nước Pháp bị tàn phá nặng nề, thiệt hại hơn 200 tỉ Fran, hơn 1,4 triệu người thiệt mạng.
Cơ sở hạ tầng về nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị tàn phá nghiêm
trọng, thương nghiệp bi đình trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Khơng chỉ thế
đồng Frang bị mất giá, có thể nói rằng trước chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp là chủ
nợ của thế giới thì sau chiến tranh Pháp trở thành con nợ lớn nhất thế giới, nhất là nợ
của Mỹ (năm 1920 nợ đến 300 tỉ Frang). Các vấn đề lạm phát gia tang, nạn thât nghiệp,
các phong trào trỗi dậy đấu tranh chống chính phủ,…
- Tình hình ở Việt Nam:
Những năm đầu của thế kỷ XX với sự tác động mạnh mẽ của cơng cuộc xâm
lược và chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp đã làm cho kinh
tế -xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, đặc biệt là sự ra đời của các tầng lớp, giai
cấp trong xã hội. Mâu thuẫn xã hội Việt Nam bị đẩy lên cao làm cho xuất hiện hàng
loạt các phong trào yêu nước chống Pháp theo nhiều xu hướng, và cũng chính yếu tố
đó đã làm cản trở quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Như vậy trước những sự chuyển biến của tình hình thế giới cũng như tình hình
nước Pháp và nội tại của Việt Nam. Tình hình đó đã thơi thúc chính quyền Pháp điều
chỉnh chính sách khai thác thuộc địa ở Việt Nam. Nhằm nhanh chóng hàn gắn vết
thương chiến tranh, phục hồi nền kinh tế và khôi phục vị thế của Pháp trên trường quốc
tế. Với sự điều chỉnh chính sách khai thác thuộc địa của Pháp tiếp tục tác động dẫn đến
sự chuyển biến kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 1919-1939.
3.2. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp
a. Chính sách về chính trị
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất thực dân Pháp tiến hành một số cải cách về

chính trị nhằm đối phó với những biến động có thể xẩy ra ở thuộc địa và hỗ trợ đắc lực
cho chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai. Mà mục tiêu của các cuộc cải cách
“nhỏ giọt” đó khơng gì hơn ngoài việc nới rộng nền tảng xã hội của chế độ thuộc địa.
Mà những tên đứng đầu thực hiện lần lượt các cải cách đó là các viên tồn
quyền Pháp từ A. Xa rô, M. Lông đến A, Varen. Do đó các các viện dân biểu Bắc Kỳ,
4


Trung Kỳ được thành lập, các phòng thương mại và canh nông của những thành phố
lớn được mở rộng cho người Việt tham gia, lập các ngạch công chức tương đương cho
người Pháp và người Việt có bằng cấp ngang nhau. Mục tiêu của chúng thực hiện
những cải cách đó không phải mong muốn đem lại điều kiện sống tốt hơn cho nhân dân
ta mà chúng nhằm xoa dịu các cuộc đấu tranh, xoa dịu sự công phẫn của người Việt đối
với chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Trong khu vực nông thôn, thực dân Pháp tiến hành “cải lương hương chính”
nhằm từng bước can thiệp trực tiếp vào công cuộc nội bộ của làng xã, loại bỏ dần tính
chất tự trị của nó. Trên ngun tắc, cơng cuộc “cải lương hương chính” vẫn chấp nhận
cơ chế quản lý làng xã cổ truyền, nhưng chừng mực nào đó thực dân Pháp cũng đã can
thiệp trực tiếp vào cơng việc làng xã bằng cách kiểm sốt nhân sự, tài chính của bộ
máy làng xã ở Việt Nam.
Bên cạnh đó thực dân Pháp thực hiện nới rộng một số quyền lợi chính trị cho các
tầng lớp trên, như : địa chủ, tư sản,… những kẻ có hữu sản, giàu có, sẵn sàng thỏa hiệp
với thực dân Pháp, nhằm tạo sự ổn định chính trị để thu hút vốn đầu tư vào Đông
Dương nhằm thực hiện hiệu quả chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai.
b. Chính sách về kinh tế
Về mục tiêu: giống như cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, vẫn theo đuổi ý
đồ nham hiểm, bịn rút thuộc địa để làm giàu cho chính quốc nhưng khơng tạo cho
thuộc địa có cơ hội phát triển.
Điểm nổi bật của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp được
tiến hành trên quy mô lớn so với trước chiến tranh. Vị trí; các lĩnh vực đầu tư có sự

thay đổi, nếu như trước chiến tranh Pháp chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực khai khống thì
trong cuộc khai thác lần hai thì vị trí đó thuộc về lĩnh vực kinh tế nơng nghiệp. Nơng
nghiệp được tư bản Pháp chú trọng đầu tư. Đặc biệt là các đồn điền cao su.
Trong thời điểm này nổi bật lên vai trị của ngân hàng Đơng Dương trong hoạt
động kinh tế cũng như sự đầu tư của tư bản Pháp ở Việt Nam. Có thể nói ở giai đoạn
này ngân hàng Đông Dương chi phối, can thiệp sâu vào lĩnh vực kinh tế cũng như xã
hội ở Việt Nam và nắm vai trò chủ đạo và chi phối toàn bộ nền kinh tế thuộc địa về
phát hành tiền, thương mại đầu tư,…
Nếu như trước chiến tranh thực dân Pháp chủ yếu thực hiện chính sách khai
thác, vơ vét các nguồn lợi kinh tế để xuất khẩu thì trong giai đoạn 1919-1939, Pháp đã
5


chuyển dần sang chính sách đầu tư khai thác. Đặc biệt là mở rộng đầu tư khai thác và
thiết bị kỹ thuật.
Bảng 1: Tình hình đầu tư của Thực dân Pháp qua các thời kỳ1
Stt

Thời kỳ

Số vốn đầu tư (triệu Fr)

1

1859-1902

126,8

2


1903-1918

238

3

1920

255,6

4

1924-1930

2862,2

5

1931-1939

1036,1

Sự thay đổi các chính sách về kinh tế trong chương trình khai thác thuộc địa lần
thứ 2 của Pháp đã có tác động và ảnh hưởng quan trọng làm biến đổi cơ cấu và trình độ
phát triển của các ngành kinh tế truyền thống ở Việt Nam.
c. Chính sách về văn hóa - giáo dục

Về mặt giáo dục: vào những năm đầu của thế kỷ XX, thực dân Pháp ra sức xây
dựng một nền giáo dục mới đồng thời tìm cách thủ tiêu vai trị của nền giáo dục cũ
“Cho đến năm 1919 với việc bãi bỏ kỳ thi Hội, nền giáo dục nho học hoàn toàn chấm

dứt, qua đó thủ tiêu vai trị của các sĩ phu phong kiến.” Đặc biệt thực hiện cuộc cải
cách giáo dục lần thứ hai do Albert Sarraut đã ra nghị định ban hành “Học chính tổng
quy” (Règlement général de L’Instruction publique) để cải cách hệ thống giáo dục bản
xứ. Như vậy để thực hiện chương trình khai thác thuộc địa lần thứ 2. Thực dân pháp đã
xóa bỏ vai trị của nền giáo dục Hán học ở Việt Nam thay vào đó, Pháp đưa ra một số
chủ trương mới trong lĩnh vực giáo dục, thay đổi chương trình đào tạo tư tương giáo
1

Nguyễn Văn Khánh (2006), Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-1945), Nxb Hà Nội, Đại học
quốc gia.

6


dục thực dân và mở hệ thống trường Pháp – Việt thay cho tư tưởng giáo dục cũ và hệ
thống trường Hán học.
Về mặt văn hóa: cùng với những chính sách thay đổi trong giáo dục thì thực
dân Pháp thực hiện những chính sách về mặt văn hóa, sử dụng văn hóa như một thứ vũ
khí để quảng bá cho tư tưởng “Pháp – Việt đuề huề”, “Pháp- Nam hợp tác”, tạo ra bầu
khơng khí chính trị ổn định phục vụ có lợi cho sự thu hút vồn đầu tư vào Đơng Dương.
Đồng thời chúng sử dụng báo chí làm cơ quan ngơn luận, tun truyền cho chính sách
thống trị của chủ nghĩa thực dân, tuyên truyền quảng bá các quan niệm sống của
phương Tây, du nhập lối sống xa hoa trụy lạc của chủ nghĩa tư bản vào thành thị, tun
truyền đề cao văn hóa Pháp. Ngồi ra Pháp còn cho in ấn , xuất bản các loại sách triết
học, văn học phản động, thơ đồi trụy, gieo rắc tư tưởng mị dân,…bên cạnh đó thực dân
Pháp cịn khuyến khích bọn phản động xuất bản các sách, báo phản động. Cịn đẩy
mạnh cơng tác tun truyền, lơi kéo các tầng lớp tri thức trên “thực dân Pháp cho lập
hội khai trí tiến đức (1919), một mặt nhằm lơi kéo các tầng lớp trí thức thượng lưu,
một mặt để ngăn chặn sự thức tỉnh trong tầng lớp con cái chúng.”2 Qua đó cho chúng
ta thấy được những thủ đoạn vơ cùng thâm độc của thực dân Pháp đối với thuộc địa mà

tiêu biểu là Việt Nam.
4. Chuyển biến kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn từ 1919 – 1939
4.1. Lĩnh vực kinh tế
a. Đối với lĩnh vực kinh tế truyền thống
- Nông nghiệp:
Nông nghiệp là lĩnh vực được thực dân Pháp chú trọng đầu tư mạnh nhất trong
công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai “năm 1924, số vốn đầu tư vào nông nghiệp là
52 triệu Frang, thì năm 1927 đã lên tới 400 triệu Frăng, chủ yếu vào khu vực trồng và
khai thác cao su”3 Với số vốn khổng lồ đó và được sự hẫu thuẫn đắc lực của chính
sách cướp đoạt ruộng đất, hàng trăm đồn điền rộng tới vài nghìn ha đã xuất hiện. Diện
tích đất canh tác tăng lên đáng kể, cả về diện tích trồng lúa và đồn điền“nếu năm 1900,
diện tích đồn điền mới là 322.000ha thì đến năm 1930, đã lên tới 1025.600 ha” 4. Đồng
2

Bùi Minh Hiên, Lịch sử giáo dục Việt Nam, Nxb Đại học sư phạm, trang 64.

3

Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, trang 247.

4

Nguyễn Văn Khánh (2006), Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-1945), Nxb Hà Nội,
Đại học quốc gia, trang 86.
7


thời cơ cấu cây trồng có sự chuyển biến mạnh mẽ, có nhiều đổi mới và phong phú hơn,
thực dân Pháp đã cho du nhập vào Việt Nam những giống cây trồng mới (lúa Thái Lan,
giống cam, quýt Bắc Phi, khoai tây, các loại rau ôn đới như su hào, bắp cải, cà rốt, hành

tây, các loại cây công nghiệp lâu năm,..) tạo ra sự đa dạng trong sản phẩm nông nghiệp.
Bên cạnh đổi mới các loại giống cây trồng thì nơng cụ mới cũng bắt đầu xuất hiện
như: cuốc, xẻng, xà beng phục vụ cho việc khai phá đất ở các đồn điền. Ngồi ra để
phát triển nơng nghiệp vì mục tiêu vơ vét kiếm lời thì Pháp thành lập các viện nghiên
cứu nhằm hỗ trợ nghiên cứu và phát triển nông nghiệp (Viện khảo sát nông lâm Đông
Dương, Túc mễ cục Đơng Dương).
- Thủ cơng nghiệp:
Với chính sách khai thác thuộc địa trong chương trình hai của Pháp, cùng với sự
chun biến về nơng nghiệp thì thủ cơng nghiệp cũng có nhiều chuyển biến đáng kể và
tiến bộ hơn. Chính quyền Pháp đã có sự quan tâm hơn đối với các ngành thủ công
truyền thống của nước ta. Thợ thủ cơng được thành lập các hội đồn thể bảo vệ các
quyền lợi riêng của mình. Với nhu cầu ngày càng tang, đặc biệt là sự mở rộng của các
đơ thị đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của thủ cơng nghiệp truyền thống. Ngồi các
ngành thủ cơng truyền thống lâu đời, giai đoạn này đã bắt đầu xuất hiện them một số
ngành nghề mới. Các nghề thủ cơng tiêu biểu thời kỳ này có sức phát triển vượt trội
như: nghề dệt, nghề gốm sứ, nghề chế biến thực phẩm... cùng với sự gia tăng các nghề
thủ công và đội ngủ thợ thủ cơng thì kỹ thuật và cơng cụ sản xuất được cải tiến góp
phần nâng cao năng suất lao động. thúc đẩy sự ra đời của các xưởng thủ cơng có quy
mơ lớn.
b. Lĩnh vực kinh tế hiện đại
- Về công nghiệp:
Vẫn được chú trọng đầu tư phát triển, Pháp thực hiện chính sách chung hạn chế
phát triển các ngành cạnh tranh với cơng nghiệp chính quốc, chủ yếu chú trọng đầu tư
vào các ngành công nghiệp nhẹ, khai khống, cơng nghiệp chế biến. Đặc biệt trong
công nghiệp khai thác mỏ đầu tư các trang thiết máy móc và mở rộng quy mơ khai
thác.
Có thể thấy rằng sau chương chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, cơ
cấu một nền công nghiệp được xác lập và hồn chỉnh với hai bộ phận chính là cơng
8



nghiệp mỏ và công nghiệp chế biến. Các ngành công nghiệp nặng khơng được đầu tư
phát triển. tuy nhiên thì sự phát triển của các ngành công nghiệp trên cũng góp phần
thúc đẩy sự phát triển của nền cơng nghiệp dân tộc Việt Nam, đưa nước ta sớm tiếp cận
với nền khoa học – kỹ thuật của phương Tây.
- Giao thơng vận tải:
Nhìn chung, so với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất thì giai đoạn này vốn
đầu tư vào ngành giao thơng vận tải có giảm sút, chủ yếu hoàn thiện hệ thống đường
sắt xuyên Việt, và mở thêm một số tuyến phụ từ Krongpha đi Đà Lạt dài 43km, từ Sài
Gòn đi Lộc Ninh dài 59km. Bên cạnh đó xây dựng hệ thống đường bộ liên tỉnh, huyện.
Đồng thời, hệ thống giao thông đường thủy nhất là xây dựng các cảng biển, cảng song
như: Hải Phòng, Hòn Gai – Cẩm Phả, cảng Bến Thủy, Đà Nẵng,.. phục vụ vận chuyển
hành khách và hàng hóa.
Điểmm mới trong ngành giao thơng vận tải ở giai đoạn này có chú trọng tăng
cường cho ngành hàng khơng “ngày 11/5/1919, Tồn quyền Đơng Dương ban hành
nghị định về việc kiện tồn bộ máy tổ chức chỉ huy ngành hàng không quân sự và dân
sự, đồng thời tăng cường kỹ thuật cho hai phi hành đồn được thành lập vào năm
1917 (trong đó, Phi đoàn 2 hoạt động ở Nam Kỳ gồm căn cứ sân bay Phú Thọ và căn
cứ thủy phi cơ Nhà Bè). Ngày 15/7/1938, tuyến bay quốc tế đầu tiên (Sài Gịn –
Bativia) được khai thơng. Đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai, từ Nam Kỳ đã có
thêm tuyến bay Sài Gịn – Singapore – Indonésia do Hàng khơng Hà Lan khai thác”5
Sự xuất hiện hàng khơng đó là một bước tiến của ngành giao thong vận tải, góp phần
mở rộng mạng lưới giao thông ở Việt Nam thời kỳ này. Đặt tiền đề tạo điều kiện cho
nền kinh tế hàng hóa phát triển.
- Về ngoại thương:
Do tác động của chính sách tăng cường đầu tư khai thác thuộc địa nên các hoạt
động ngoại thương có chiều hướng tăng tiến khá mạnh. Tuy nhiên, các công ty thương
mại của tư bản Pháp và tư sản mại bản thuộc địa vẫn nắm giữ và ra sức củng cố địa vị
độc quyền, cả ngoại thương lẫn nội thương. Thực dân Pháp dùng hàng rào thuế quan để
5


Lê Hữu Phước, Nhận diện di sản kinh tế ở Nam kỳ, Tạp chí phát triển KH $CN, tập 16, số X3-2013,

trang 145.

9


bảo hộ cho hàng hóa chính quốc, các nhà tư sản Việt Nam chỉ đóng vai trị thầu khốn,
đóng vai trò trung gian trong thị trường Việt Nam. Đặc trưng của nền thương mại thuộc
địa được phản ánh rõ nét qua cơ cấu xuất – nhập khẩu; sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là
mặt hàng nguyên liệu, nông sản phẩm (gạo, ngô và các sản phẩm ngư nghiệp; các sản
phẩm khai mỏ). Nhập khẩu chủ yếu là những mặt hàng công nghiệp, kỹ thuật, những
mặt hàng tiêu dùng cao cấp từ Pháp (ơ tơ, vải, xăng, dầu hịa, sợi bơng, phân hóa học,
giấy, sách, quần áo may sẵn, sữa, bột mì, đồ hộp…)
Ngồi ra trong lĩnh vực thương nghiệp thời kỳ này, Pháp cịn mở rộng quan hệ
bn bán với các nước các nước châu Á: Trung Quốc và Hồng Kông, Nhật Bản và các
nước phương Tây như Mỹ, Hà Lan, Đức,…
4.2. Về xã hội
- Chuyển biến về mặt giáo dục:
Bên cạnh những biến đổi về mặt kinh tế - xã hội thì với những chính sách về
giáo dục của thực dân Pháp đã làm cho nền giáo dục Viêt Nam giai đoạn này có nhiều
chuyển biến. Đặc biệt là đợt cải cách giáo dục lần hai, việc đưa chữ quốc ngữ vào tiểu
học đã giúp trẻ nhanh chóng biết đọc biết viết, hơn hẳn trước kia học chữ Hán khó nhớ.
Chương trình học bao gồm cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội với tính hệ thống
cao. Hệ thống trường học ngày mộ đa dạng, bên cạnh các trường phổ thơng, Pháp cịn
lập ra trường dạy nghề để học sinh khó khăn khi học xong tiểu học có thể học nghề,
tìm việc kiếm sống “kết quả là, sau 5 năm thực hiện cải cách giáo dục lần thứ 2 kể từ
năm 1917, toàn bộ hệ thống trường học và trung học trên phạm vi cả nước có 3.039
trường với 163.000 người, số sinh viên đại học và cao đảng gồm 436 người” 6. Như

vậy với chính sách cải cách giáo dục của thực dân Pháp trong chương trình hai khơng
nhằm ngồi mục tiêu phục vụ cho cơng cuộc khai thác thuộc địa, tuy nhiên q trình đó
đã vơ tình đào tạo ra một tầng lớp tri thức của Việt Nam, họ có điều kiện thuận lợi sớm
tiếp thu những tư tưởng tích cực góp phần vào sự nghiêp giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước sau này.
- Chuyển biến về mặt khoa học và y tế:
6

Nguyễn Văn Khánh(2015), Trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc, Nxb Chính trị quốc

gia, tr. 75.

10


Trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học, phần lớn các cơ quan và viện nghiên cứu ra
đời từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đều được đầu tư thêm vốn để mở rộng hoạt
động. Cơ quan nghiên cứu lớn nhất về khoa học xã hội và nhân văn là Viện Viễn Đông
bác cổ (E.F.E.O) đến năm 1920 cũng được bổ sung thêm nhân sự và quyền tự chủ về
tài chính. Các bệnh viện cũng được xây dựng như: bệnh viện thực hành ở ấp Thái Hà –
Hà Nội, bệnh viện Nhà Chung, bệnh viện Bảo Hộ, Viện Mắt, bệnh viện tâm thần, bệnh
viện Rene Robin (ngày nay là Bạch Mai),…
- Sự chuyển biến mạnh mẽ các tầng lớp – giai cấp trong xã hội:
Trên phương diện xã hội, dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai,
các giai cấp trong xã hội Việt Nam tiếp tục có những sự phân hóa sâu sắc.
Giai cấp địa chủ: Đặc trưng của xã hội nữa thuộc địa nữa phong kiến là sự cấu
kết chặt chẽ giữa thực dân và giai cấp địa chủ phong kiến bản xứ. Trong thời kỳ này
giai cấp địa chủ không những không bị thu hẹp, mà trái lại được phát triển mạnh để trở
thành nền tảng xã hội của chế độ thuộc địa. thế lực của giai cấp này được đo bằng số
ruộng đất tập trung trong tay họ dưới sự che chở của thực dân Pháp.

Lực lượng địa chủ vào thời kì này chiếm khoảng 7% cư dân nơng thơn, nhưng
nắm trong tay 50% diện tích canh tác. Đến những năm trước Chiến tranh thế giới thứ
hai, trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 6.500 địa chủ có sở hữu trên 50 ha ruộng đất,
trong đó Nam Kỳ có 6.200, Bắc Kỳ có 200 và Trung Kỳ có 100 người. Đó là những cơ
sở tạo nên thế lực kinh tế, đồng thời là cơng cụ bóc lột của giai cấp này đối với nơng
dân. Bên cạnh đó giai cấp này cịn có thành phần đại biểu của mình ở các cấp chính
quyền bên trên như các Viện Dân biểu, hội đồng quản hạt,..rõ ràng giai cấp địa chủ trở
thành chỗ dựa đáng tin cậy của chính quyền thực dân.
Giai cấp nơng dân: là thành phần chiếm đại đa số trong xã hội Việt Nam,
khoảng 90% dân số. Trong quá trình sản xuất, dưới tác động công cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ hai của thực dân Pháp, giai cấp này đã có sự phân tầng rõ rệt: phú nơng,
trung nơng, bần nông và cố nông. Vào thời kỳ này, giai cấp nông dân tuy chiếm gần
90% số hộ nông dân, nhưng chỉ có trong tay 42,4% diện tích ruộng đất canh tác. Vì
thiếu ruộng đất canh tác nên đại đa số nông dân nghèo (bần nông và cố nông) phải lĩnh
canh hay cấy rẽ (chủ yếu ở Bắc và Trung Kỳ), hoặc thuê mướn ruộng hay làm tá điền
cho địa chủ để kiếm sống. Lĩnh canh là hình thức mướn ruộng của địa chủ, tự mình cày
11


cấy và sau khi thu hoạch phải nộp cho địa chủ một phần sản phẩm dưới dạng hiện vật
hay quy ra tiền. Ở nông thôn Bắc Kỳ và Trung Kỳ địa tơ thường chiếm từ 50% - 60%
hoa lợi. Cịn hình thức mướn ruộng diễn ra phổ biến ở Nam Kỳ, có hai cách: người
mướn ruộng trả tiền thuê ngay cho chủ ruộng, hoặc trả địa tô bằng 1/2 hoa lợi vào vụ
thu hoạch.
Giai cấp nơng dân bị bóc lột và áp bức nặng nề nhất bởi thuế khóa và tạp dịch.
Cuộc sống bấp bênh, một trong số họ trở nên bần cùng hóa phải đi đến các hầm mỏ, xí
nghiệp làm th và trở thành cơng nhân. Chính vì thế họ sớm trở thành lực lượng liên
kết với giai cấp cơng nhân đóng vai trị quan trọng trong q trình đấu tranh giai phóng
dân tộc về sau.
Giai cấp cơng nhân: ngày càng trở nên đông đảo, tăng nhanh cả về số lượng và

chất lượng. Tính đến năm 1929 đã tăng lên 221.050 người, tăng gấp 4 lần so với đầu
thế kỷ XX. Ngồi ra, số cơng nhân làm việc trong các doanh nghiệp của tư sản Việt
Nam và tư sản nước ngồi ước tính khoảng vài vạn người. Đồng thời, luôn luôn tồn tại
đáng kể một số công nhân theo mùa vụ, hoặc theo các hợp đồng của các chủ thầu.
Trong giai cấp công nhân Việt Nam, bộ phận đông nhất là công nhân đồn điền:
81.188 người, chiếm 36,8% tổng số công nhân. Lực lượng này phân bố chủ yếu ở các
vùng cao nguyên Nam Trung Kỳ và ở miền Tây Nam Kỳ. Cơng nhân mỏ có 53.240
người, chiếm 24% tổng số công nhân, tập trung chủ yếu ở các vùng Quảng Yên, Đông
Triều, Thái Nguyên. Công nhân các ngành công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải và
thương nghiệp gồm 86.622 người, chiếm 39,2% tổng số công nhân, tập trung ở các
thành thị lớn như ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Sài Gòn, Chợ Lớn.
Điều kiện sống và làm việc rất cực khổ, và chủ yếu xuất than từ nơng dân.
Chính vì thế họ sớm được giác ngộ ý thức giai cấp nhanh chóng vươn lên nắm lấy
ngọn cờ lãnh đạo các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Giai cấp tư sản: Từ sau chiến tranh, hoạt động kinh doanh của tư sản Việt Nam
được mở rộng và có quy mơ lớn hơn. Họ kinh doanh trong hầu hết các ngành kinh tế,
từ xay xát, in ấn, dệt, nhuộm, vận tải, sửa chữa cơ khí... cho đến sản xuất sơn, xà
phòng, đường, nước mắm, đồ gốm, v.v... Một số tư sản đã có trong tay những sản
nghiệp lớn như hầm mỏ, đồn điền, các công ty thương mại... Một số cơ sở sản xuất đã
có khả năng thu hút vài trăm công nhân.
12


Trên cơ sở mở rộng và phát triển nhanh chóng về thế lực kinh tế, giai cấp tư
sảnViệt Nam đã thực sự hình thành một giai cấp xã hội vào những năm sau Chiến tranh
thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, do tác động của các điều kiện kinh tế - xã hội mới nên sau
chiến tranh giai cấp tư sản tiếp tục phân hoá thành hai bộ phận: tư sản mại bản và tư
sản dân tộc.
Nhìn chung, sau chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam đã lớn
mạnh và trưởng thành rõ rệt. Thế lực kinh tế của tư sản Việt Nam thể hiện rõ rệt nhất

trong các ngành dệt, xay xát, sửa chữa cơ khí, mỏ than, đồn điền cao su, với những đại
diện tiêu biểu như Trương Văn Bền, Nguyễn Sơn Hà, Lê Phát Vĩnh, Bạch Thái Bưởi...
Trong số những nhà tư sản Việt Nam có thế lực nhất lúc bấy giờ, Bạch Thái Bưởi được
coi là một nhà tư sản có tinh thần dân tộc. Ông đã từng sở hữu tới 30 chiếc tàu với
1.500 công nhân và được mệnh danh là Chúa sông Bắc Kỳ, và là một trong tứ đại gia
giàu có nhất Việt Nam: “nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Bưởi”.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: Tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
hai, sự xuất hiện hệ thống thành thị kiểu phương Tây và nền giáo dục Pháp – Việt, tầng
lớp tiểu tư sản Việt Nam ngày càng trở nên đơng đảo. Nó được kết hợp một cách lỏng
lẻo bởi ba bộ phận: trí thức, tiểu thương và thợ thủ công với địa bàn cư trú chủ yếu ở
các thành thị. Họ được bổ sung liên tục qua quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đã
hợp thành một tầng lớp khá đông đảo trong xã hội.
Do tác động của các chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, sau chiến
tranh thế giới thứ nhất, dân số thành thị tăng lên nhanh chóng. Trong vịng 8 năm từ
1913 đến 1921, Hà Nội tăng 10.000 người, Sài Gòn tăng 33.000 người, Hải Phòng tăng
40.000 người, và cho đến 1928 thành phố Nam Định đã có 38.000 dân, Hải Phịng có
98.000 dân, Hà Nội 130.000 dân, Huế 41.600 dân, Sài Gòn 125.000 dân và Chợ Lớn
192.000 dân. Đây là bộ phận có đời sống và thu nhập về mặt vật chất và tinh thần
tương đối cao so với các bộ phận công nhân và nơng dân. Và cũng chính lực lượng
sớm tiếp thu các trào lưu tư tưởng mới ở Việt Nam, đóng góp khơng nhỏ trong q
trình đấu tranh giải phóng dân tộc.
5. Kết luận
Như vậy công cuộ khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp (19191929) đã có những tác động mãnh mẽ đến nền kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ nay, sự
13


tác động đó chúng ta cần phải thấy, tác động hai mặt vừa mang yếu tố tiêu cực cũng
đồng thời song song với nó đã tạo nên những mặt chuyển biến tích cực trong kinh tế
cũng như xã hội Việt Nam thời kỳ này.
Về bản chất, thực dân Pháp đầu tư trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội khơng

nhằm mục đích nào khác ngồi phục vụ cho cơng cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai
nhằm khắc phục những khó khăn nội tại của Pháp sau khi tham gia thế chiến thứ nhất
và vơ vét, bóc lột nhân dân ta làm giàu cho chính quốc Pháp. Tuy nhiên bên cạnh mục
đích đầu tư của Pháp đã vơ tình tạo ra hệ quả tích cực đối với nền kinh tế cũng như về
mặt xã hội của Việt Nam có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
Chúng ta nhận thấy rằng tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai
của Pháp đã làm cho nền kinh tế nước ta có sự chuyển biến mau lẹ, trên lĩnh vực nông
nghiệp được đầu tư chú trọng không chỉ về vốn, kỹ thuật, đa dạng giống cây trồng, tạo
ra nguồn nông sản phong phú xuất khẩu ra thị trường các nước mà cịn diện tích đất
canh tác được mở rộng, các vùng nơng nghiệp mới được hình thành (Tây Ngun,
Miền Trung). Bên cạnh đó thì thủ cơng nghiệp được chấn hưng, các mặt hàng thủ công
trở nên ưa chuộng trở thành nguồn hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Đồng thời
ngành cơng nghiệp cũng có chững chuyển biến mang tính tích cực, quy mơ sản xuất
được mở rộng, các doanh nghiệp mới do tư sản Việt Nam kiểm sốt được thành lập,
các ngành cơng nghiệp mới xuất hiện, cơ cấu xuất khẩu hàng hóa thay đổi, thị trường
tiêu dùng được mở rộng khơng cịn bó hẹp trong phạm vi các nước Châu Á. Rõ ràng sự
tác động của chủ nghĩa tư bản Pháp nó đã đi liền với sự xuất hiện và của hệ thống đô
thị Việt Nam và sự mở rộng của các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tuy nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến dưới những tác động của chính
sách khai thác thuộc địa lần hai của Pháp, nhưng bên cạnh sự chuyển biến đó thì nền
kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp chủ đạo và chi phối các thành
phần kinh tế khác. Có thay đổi các phương thức sản xuất, đầu tư nguồn vốn, kỹ thuật
tạo ra nguồn nguyên liệu cũng chỉ để phục vụ cho nhu cầu của thực dân Pháp, hồn
tồn người nơng dân Việt Nam khơng có hưởng lợi từ sự thay đổi đó. Kinh tế Việt Nam
ngày một bị mất cân đối giữa các thành phần kinh tế, sản phẩm xuất khẩu cũng chỉ là
nguồn nông sản nhỏ, lẻ. Và hoàn toàn chưa phá vỡ được những nét kinh tế truyền
14


thống phong kiến của Việt Nam. Dẫn đến sự kéo dài giai dẳng song song tồn tại yếu tố

kinh tế thuộc địa nửa phong kiến.
Về phương diện xã hội, sự tác động của công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
hai của Pháp đã đánh dấu sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam, tầng lớp tiểu tư sản
ngày một trưởng thành và tiếp thu những khuynh hướng tiến bộ trong đó có kuynh
hướng vơ sản. Giai cấp công nhân ngày một trưởng thành về số lượng và có sự thay đổi
về chất, dần dần khẳng định vai trị của mình nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Ngồi ra văn hóa, y tế, giáo dục có những chuyển biến mau lẹ, văn hóa tiếp thu
văn hóa Pháp tạo nên sự đa dạng và phong phú trong văn hóa Việt, nền giáo dục đào
tạo đội ngũ tri thức có vai trị quan trọng trong tiến trình giai phóng dân tộc. Tuy nhiên
dưới tác động đó cũng làm cho các giai cấp trong xã hội Việt Nam có sự phân hóa sâu
sắc, giai cấp địa chủ ngày một trở nên đông đúc nắm hầu hết tư liệu sản xuất trong
nước. Giai cấp nơng dân bị phân hóa rõ rệt, một số lượng trở nên bần cùng hóa, mất hết
tư liệu sản xuất. Mối quan hệ giai cấp địa chủ và nông dân vẫn chi phối cốt lõi xã hội
thời kỳ này. Tạo ra mâu thuẫn sâu sắc xuyên suốt là mâu thuẫn giai cấp giữa địa chủ và
nơng dân. Và cũng chính yếu tố này dẫn đến sự như thất bại của nhiều khuynh hướng
cứu nước giai đoạn này khi khơng xác định rõ ràng vai trị và yêu cầu cấp thiết của các
tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam, khơng nhìn nhận được đâu là lực lượng dẫn
dắt cách mạng đến thành công, chỉ khi khuynh hướng cứu nước theo con đường cách
mạng vô sản đã làm được điều đó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1.]. Phan Trọng Báu (2015), Nền giáo dục Pháp – Việt, Nxb Khoa học xã hội.
[2]. Bùi Minh Hiên, Lịch sử giáo dục Việt Nam, Nxb Đại học sư phạm.
[3]. Nguyễn Văn Khánh (2006), Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (18581945), Nxb Hà Nội, Đại học quốc gia.
15


[4]. Nguyễn Văn Khánh(2015), Trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc, Nxb
Chính trị quốc gia.
[5]. Đinh Xuâ Lâm (Chủ biên) (2014), Đại cương lịch sử Việt Nam tập II 1858-1945,

Nxb Giáo dục Việt Nam.
[6]. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục
[7]. Lê Hữu Phước, Nhận diện di sản kinh tế ở Nam kỳ, Tạp chí phát triển KH $CN, tập
16, số X3-2013
[8]. Văn Ngọc Thành– Trần Anh Đức, Những nghiên cứu ở Việt Nam về sự biến đổi
của kinh tế các nước Đông Nam Á thời thuộc, Đăng trên Nghiên cứu Đông Nam Á, số
tháng 5 – 2009
[9]. Paul. Doumer, Xứ Đông Dương (hồi ký), Nxb thế giới, 2016.

16



×