Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy Bài 20 Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (Lịch sử lớp 12), nhằm phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.82 KB, 16 trang )

I/ Đặt vấn đề
Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được đặt ra trong
ngành giáo dục nước ta từ những năm 60 của thế kỉ XX. Trong cuộc cải cách giáo
dục lần 2, năm 1980, phát huy tính tích cực đã là một trong các phương hướng cải
cách, nhằm đào tạo những người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng khóa VIII tại Đại
hội lần thứ IX (2001) chỉ rõ:''Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi
mới nội dung, phương pháp dạy học.'' Tại Đại hội lần thứ XI( 2011) nêu rõ “ Đổi
mới căn bản và toàn diện nề giáo dục Việt Nam”
Trên cơ sở mục tiêu cấp học, quan điểm, đường lối của Đảng về sử học và
giáo dục lịch sử, căn cứ nội dung, đặc trưng của nhận thức lịch sử, Đảng ta xác
định: ''Bộ môn Lịch sử ở trường THPT có vai trò vô cùng quan trọng, nó hình
thành cho học sinh kiến thức cơ bản về lịch sử phát triển hợp qui luật của dân tộc
và xã hội loài người''. Trên cơ sở đó, giáo dục lòng yêu nước,, tự hào dân tộc, lí
tưởng độc lập dân tộc, và CNXH , rèn luyện năng lực tư duy và thực hành, thực
hiện một cách nghiêm chỉnh các nhiệm vụ giáo dục và giáo dưỡng và phát triển.
Mặc dù phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng đã được
chú trọng đổi mới, cải tiến nhiều, tuy nhiên nhìn chung phương pháp dạy học lịch
sử vẫn chưa theo kịp các cải tiến về nội dung, chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo. Có thể
nói phương pháp dạy học lịch sử còn có phần bảo thủ, thực dụng. Sự lạc hậu về
phương pháp dạy học là một trong những trở ngại của việc nâng cao chất lượng
giáo dục bộ môn. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do giáo viên chưa nhận
thức đúng đắn, sâu sắc vai trò, vị trí của phương pháp dạy học, chưa tiếp nhận
những cơ sở khoa học, lí luận về phương pháp dạy học mà còn tiến hành giảng dạy
theo kinh nghiệm chủ nghĩa, đặc biệt chưa chú trọng phát huy tính tích cực của học
sinh.
Yêu cầu thực tiễn đặt ra là cần phải đổi mới phương pháp dạy học lịch sử
1
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả dạy học bộ môn.
Việc nhận thức lịch sử vừa phải tuân thủ quy luật nhận thức nói chung,


nhưng đồng thời còn có nét đặc thù riêng “ Học sinh không thể trực tiếp nhận thức
( tri giác ) các sự kiện lịch sử, vì lịch sử là cái đã qua không lặp lại nguyên xi,
không thể dựng lại hoàn toàn hay thí nghiệm như khoa học tự nhiên. Vì lẽ đó dạy
học lịch sử trước hết là một quá trình truyền thông tin, thu nhận và xử lý thông tin
giữa giáo viên và học sinh qua các phương tiện dạy học. Thông tin về sự kiện lịch
sử càng chính xác, chân thật, phong phú ( Sinh động và vừa sức thì nhận thức lịch
sử của học sinh càng sâu sắc bền vững lời nói hình ảnh cũng như các loại đồ dùng
trực quan( hiện vật, tranh ảnh, bản đồ, băng đĩa, máy chiếu…. ) là những phương
tiện dạy học, có khả năng chứa hoặc truyền thông tin rất đa dạng và phong phú.
Các phương tiện này đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm tính trực quan
và tạo biểu tượng lịch sử chân thật cho học sinh.
Việc đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, người thầy giữ vai trò tổ
chức hướng dẫn học sinh tích cực chủ động lĩnh hội kiến thức mới. Vì vậy việc
sử dụng
phương tiện
đồ dùng trực quan phục vụ cho việc đổi mới phương pháp
dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất.
Trong phương pháp dạy học mới thì đồ dùng dạy học nói chung và hệ thống
kênh hình trong SGK lớp 12 nói riêng, không chỉ dừng lại ở giá trị minh hoạ cho
hệ thống kênh chữ, mà chính các thiết bị, đồ dùng dạy học này còn là công cụ, là
phương tiện cung cấp kiến thức, bởi chính nó cũng là nguồn kiến thức cần phải
khai thác.
Nhưng trong thực tế hiện nay, việc dạy và học môn Lịch sử ở trường
THPT chưa hoàn thành tốt vai trò của mình, nhiều giáo viên vẫn dạy học hoàn
toàn bằng phương pháp truyền thống, chưa phát huy được tính tích cực, chủ
động học tập của học sinh, nhiều em vẫn cho rằng môn lịch sử thật khô khan,
nhàm chán với những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ. Muốn khắc phục được
vấn đề này thì việc kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học tích cực
2

với việc sử dụng thường xuyên các thiết bị đồ dùng dạy học trực quan
như bản
đồ ,lược đồ, tranh ảnh…
vào giảng dạy là vô cùng cần thiết, để
tạo ra những hình
ảnh cụ thể sinh động, chính xác, g
iúp học sinh dễ hình thành khái niệm lịch sử,
hứng thú học tập, nhớ lâu, nhớ kĩ nội dung bài học.
Chính vì điều đó trong quá trình giảng dạy môn lịch sử lớp 12, tôi xin trao
đổi một vài kinh nghiệm về vấn đề “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan khi
dạy Bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (Lịch sử
lớp 12), nhằm phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh”
II. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lý luận.
Nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy
học, nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ
sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật.
Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu
tượng cho học sinh cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch
sử của học sinh.
Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử, là
phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các khái niệm lịch sử quan trọng nhất,
giúp cho học sinh nắm vững các quy luật phát triển của xã hội.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu
sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững
chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan.
Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử đồ
dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn
ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng thích
nhận xét, phán đoán, hình dung, quá khứ lịch sử được phản ảnh, minh họa như thế

nào? Các em suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ
ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua.
3
Ý nghĩa giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mỹ của đồ dùng trực quan cũng rất
lớn. Ngắm nhìn một bức tranh diễn tả cuộc đấu tranh cách mạng như “ Khởi nghĩa
nam Kỳ 1940” xem một cuốn phim tài liệu “ Chiến thắng Điện Biên Phủ” hay “
vài hình ảnh về cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh” xem xét một di vật lịch sử
… học sinh có những tình cảm mạnh mẽ về lòng yêu mến lãnh tụ, chiến sĩ cách
mạng, lòng quý trọng lao động và nhân dân lao động, lòng căm thù bọn xâm lược
và chiến tranh.
Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, đồ dùng trực
quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập
cho học sinh, nó là chiếc “cầu nối” giữa hiện thực với quá khứ khách quan với đời
sống hiện tại.
2. Thực trạng vấn đề:
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, hệ thống tranh
ảnh, bản đồ, lược đồ điện tử trên mạng khá nhiều. Một số giáo viên đã sử
dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy học nhưng kết quả chưa cao. Nhiều
giáo viên chỉ biết đưa ra những hình ảnh mà không biết khai thác hình ảnh đó
như thế nào, hoặc chưa biết làm các hiệu ứng khi dạy các kiểu bài có lược đồ
diễn biến trận đánh Còn đối với học sinh, nhiều em vẫn cho rằng đây là môn
"phụ" do đó không phải đầu tư nhiều thời gian. Các giờ có sử dụng đồ dùng
dạy học các em chỉ ngồi xem hình ảnh Từ thực tế như vậy, yêu cầu giáo viên
phải có phương pháp đúng, phù hợp với nội dung bài học để gây được hứng thú
học tập đối với học sinh.
Đã nhiều lần chúng ta bàn đến việc sử dụng các phương tiện trực quan trong
dạy học lịch sử coi đó là nguyên tắc trong dạy học, một phương pháp không thể
thiếu được trong quá trình giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông. Tuy nhiên sử dụng
như thế nào để có hiệu quả dạy học nói chung, phát huy tính tích cực hoạt động độc
lập của học sinh nói riêng, trong dạy học lịch sử thì không đơn giản chưa có sự

thống nhất, mỗi người sử dụng một cách. Tình trạng sử dụng các phương tiện dạy
học còn mang tính hình thức chưa phát huy được những ưu thế của các đồ dùng
4
trực quan trong dạy học lịch sử. Trong nội dung bài này tôi không trình bày lại
phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quan trọng trong dạy học lịch sử nói
chung mà chủ yếu đề xuất một số biện pháp sử dụng nhằm phát huy tính tích cực
hoạt động độc lập của học sinh.
Trước tiên khẳng định hiệu quả của việc sử dụng phương pháp trực quan
trong dạy học lịch sử do nhiều yếu tố quyết định: như chất lượng đồ dùng trực
quan, hiện vật, bản đồ , tranh ảnh lịch sử … Phương pháp sử dụng, kỹ năng, năng
lực sư phạm của giáo viên và đặc biệt là trình độ nhận thức của học sinh. Đồ dùng
trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan sẽ
kết hợp được hai hệ thống tín hiệu trong quá trình nhận thức: “ Tai nghe – Mắt
thấy.” Tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu ,nhớ lâu, gây được mối quan hệ thần kinh
tạm thời khá phong phú, phát huy ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, hứng thú đặc
biệt là tính tích cực hoạt động độc lập. Ngược lại nếu không sử dụng đúng mức mà
bị lạm dụng thì dễ làm cho học sinh phân tán xử lý, không tập trung vào các dấu
hiệu cơ bản chủ yếu, thậm chí hạn chế phát triển năng lực tư duy trừu tượng của
học sinh.
Thực tế giảng dạy ở trường phổ thông đã cho thấy: Không ít giáo viên đã coi
nhẹ việc sử dụng đồ dùng trực quan. Nếu có chăng phải sử dụng thì chủ yếu là
minh hoạ một cách tẻ nhạt, cho học sinh xem qua loa mang tính hình thức, chứ
không dùng trong khi giảng dạy. Lý luận dạy học chỉ ra cho chúng ta thấy cần phải
tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy và học tập. Để đáp ứng yêu
cầu này cũng như khắc phục tình trạng trước đây chúng ta cần phải biết kết hợp hài
hoà giữa lời dạy và hình ảnh cụ thể qua đồ dùng trực quan. Tuy nhiên đối với mỗi
loại chúng ta có những phương pháp sử dụng riêng phù hợp với nội dung từng loại
bài.
3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề
Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử có nhiều loại, mỗi loại có cách sử

dụng riêng. Sau đây tôi xin giới thiệu một số cách sử dụng cơ bản đồ dùng trực
quan trong chương trình lịch sử lớp 12.
5
3. 1. Phương pháp sử dụng bản đồ, niên biểu.
Bản đồ, sơ đồ niên biểu, là những đồ dung trực quan quy ước không thể thiếu
được trong dạy học lịch sử. Nhờ có bản đồ lịch sử mà học sinh có biểu tượng đúng
đắn về hình ảnh địa lý, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Chúng ta đều biết rằng mỗi
một sự kiện lịch sử bao giờ cũng gắn liền với một không gian và thời gian nhất
định. Tách sự kiện khỏi không gian và thời gian chúng ta sẽ không hiểu được nội
dung ý nghĩa của sự kiện đó. Nắm được địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử sẽ không
phải chỉ là biết tên địa điểm xảy ra sự kiện mà quan trọng hơn gắn liền với mỗi địa
danh đó là các yếu tố, địa hình phạm vi không gian cũng như đặc điểm điều kiện tự
nhiện của địa điểm đó.
Trong khi sử dụng bản đồ giáo viên luôn chú ý đến sự thu nhận của học sinh,
giúp học sinh phân tích nêu kết luận khái quát về sự kiện được phản ánh trên bản
đồ chứ không nên cho học sinh tiếp thu một cách thụ động. ví như: Khi giảng về
bài 20 “ Cuộc kháng chiến chống TDP kết thúc 1953 – 1954 ” SGK LS 12 giáo
viên kết hợp sử dụng bản đồ, niên biểu trình bày diễn biến chiến cuộc Đông Xuân
1953 – 1954, sau đó lập niên biểu cho học sinh xem

Thời gian Sự kiện lịch sử
12/1953 Bộ đội chủ lực của ta tấn công Thị xã Lai Châu
Đầu tháng 12/1953 Liên quân Lào – Việt tấn công địch ở Trung Lào
Tháng 1/1954 Liên quân Lào – Việt tấn công địch ở Thượng Lào
Tháng 2/1954 Quân ta tấn công địch ở Bắc Tây Nguyên

Sử dụng Bảng thống kê sự kiện cuộc tiến công chiến lược Đông- Xuân 1953-
1954
Cuộc tiến công chiến lược Đông- Xuân 1953-1954
Thời gian 10/12/1953 Đầu tháng 12/1953 Cuối tháng 1/1954 Đầu tháng 2/1954

Hướng tiến
công của
quân ta
Thị xã
Lai Châu
Trung Lào Thượng Lào Bắc Tây Nguyên
6
Nơi địch
phân tán và
tập trung
binh lực
ĐiệnBiên
Phủ( Trở
thành nơi tập
trung binh
lực thứ 2 của
Pháp sau
đồng bằng
Bắc Bộ)
Xê-nô ( Trở thành
nơi tập trung binh
lực thứ 3 của Pháp
Luôngphabang và
Mường Sài (Trở
thành nơi tập trung
binh lực thứ 4 của
Pháp)
Plâyku( Trở thành
nơi tập trung binh
lực thứ 5 của Pháp)

* Ý nghĩa bảng tóm tắt:
- Ý nghĩa giáo dưỡng:
Qua bảng tóm tắt giúp học sinh hiểu được chủ trương của ta trong cuộc tiến
công chiến lược đông xuân 1953-1954 , thấy được kết quả mà ta đạt được thông
qua cuộc tiến công đó: Phân tán được lược lượng của địch từ 44 tiểu đoàn ở đồng
bằng Bắc Bộ , lực lượng chỉ còn là 20 tiểu đoàn bị động phân tán theo những
hướng khác nhau.
Học sinh hiểu được âm mưu, thủ đoạn của Pháp, Mĩ trong việc thực hiện kế
hoạch Nava.
- Ý nghĩa giáo dục:
Giúp học sinh có thái độ căm ghét đố với các mưu đồ, thủ đoạn của bọn
thực dân xâm lược, đồng thời thấy được sự nhạy bén của Đảng trong đường lối chỉ
đạo thực hiện tiến công địch, thấy được tinh thần đoàn kết chiến đấu của liên quân
Việt- Lào trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Ý nghĩa phát triển: Rèn luyện kĩ năng lập bảng tóm tắt, ghi nhớ, phân tích các sự
kiện, rút ra kết luận.
Giảng đến phần "diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ " chủ yếu dùng bản
đồ " Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ".
Kết hợp với sử dụng bản đồ tôi sử dụng bảng thống kê về tình hình viện trợ
của Mĩ cho Pháp ở Đông Dương. Bảng thống kê phải được thiết kế trước ở nhà,
chính xác, sạch, đẹp.
7
Tình hình viện trợ của Mĩ cho Pháp ở Đông Dương(1950-1954)
Tài chính Hàng năm:
785 triệu USD
385 USD triệu cho các lực
lượng chống cộng sản.
400 USD triệu bù vào một nửa ngân
sách chiến tranh.
Trang bị Viện trợ vũ khí, máy bay, xe

tăng, trọng pháo, súng cối,
máy vô tuyến điện,
Súng liên thanh, đạn dược
các loại.
Tổng giá trị viện trợ:
200 triệu USD .
Tổng cộng hàng năm Mĩ bỏ ra gần 1
tỉ USD (65% toàn bộ tổn phí về chiến
tranh ở Đông Dương).
Người Hàng năm:
Cung cấp 200 kĩ thuật viên.
Đầu năm 1954: Cung cấp thêm 400 kĩ
thuật viên.
* Ý nghĩa bảng tóm tắt:
- Ý nghĩa giáo dưỡng:
Qua bảng tóm tắt giúp học sinh nắm được âm mưu cấu kết giữa Pháp và Mĩ
trong cuộc chiến ở Đông Dương, Mĩ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương để chuẩn
bị thay thế Pháp. Học sinh thấy được tương quan so sánh về phương tiện chiến đấu
giữa ta và Pháp.
- Ý nghĩa giáo dục:
Giúp học sinh có thái độ căm ghét đố với các mưu đồ, thủ đoạn của bọn thực
dân xâm lược, đồng thời học sinh nhận thức được về tinh thần sáng tạo, dũng cảm
của quân đội và nhân dân ta trong chiến đấu chống lại những loại hình phương tiện
chiến tranh hiện đại của Pháp, Mĩ.
- Ý nghĩa phát triển: Rèn luyện kĩ năng lập bảng tóm tắt, ghi nhớ, phân tích các sự
kiện, rút ra kết luận.
Đến phần kết quả của chiến thắng Điện Biên Phủ , kết hợp với những thông
tin quân và dân ta giành được thắng lợi ở trận Điện Biên Phủ , tôi sử dụng bảng
8
thống kê về thành tích chiến đấu của quân dân ta trong 9 năm(1945-1954) kháng

chiến chống Pháp. Bảng thống kê phải được thiết kế trước ở nhà thật chính
xác,sạch, đẹp, khoa học.
3.2. Phương pháp sử dung sơ đồ lịch sử

* Ý nghĩa sơ đồ:
- Ý nghĩa giáo dưỡng: Qua sơ đồ , giúp học sinh nắm được những nét cơ bản về ý
nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ đối với trong nước cũng như quốc tế.
- Ý nghĩa giáo dục: Giúp học sinh về niềm tự hào dân tộc sâu sắc, biết ơn các thế
hệ cha anh đi trước đã hy sinh vì nền hòa bình, độc lập của dân tộc.
- Ý nghĩa phát triển: Rèn luyện kĩ năng vẽ sơ đồ, phân tích, nhận xét.
Khi giảng đến phần thứ III: Hiệp định Giơnevơ 1954 về chấm dứt chiến
tranh và lập lại hòa bình ở Đông dương, giáo viên phân tích rõ hoàn cảnh dẫn đến
kí kết hiệp định. Qua việc phân tích đó giúp cho các em hiểu rõ hơn về bản chất
ngoan cố của Pháp, về cuộc chiến tranh gian khổ và anh dũng của dân tộc ta trên
mặt trận quân sự, chính trị thắng lợi vang dội mới có thể buộc địch chấp nhận kí
hiệp định Giơnevơ.
9
Ý nghĩa lịch sử chiến thắng
Điện Biên Phủ
Trong nước Thế giới
1 2 3
1
2
3
Khi giảng về phần "Nội dung hiệp định Giơnevơ", giáo viên chuẩn bị trước
ở nhà về sơ đồ nội dung hiệp định Giơnevơ để giảng cho thuận tiện. Sơ đồ này
được trình bày như sau:
Sơ đồ nội dung hiệp định Giơnevơ
* Ý nghĩa sơ đồ
- Ý nghĩa giáo dưỡng: Qua sơ đồ, giúp học sinh nắm được:

Những nội dung cơ bản của hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, lập lại
hòa bình ở Đông Dương là văn bản pháp lí chính thức chấm dứt cuộc chiến trang
xâm lược của thực dân Pháp ở Đông Dương gần một thế kỉ. Làm thất bại âm mưu
10
Hiệp định Giơnevơ
Các nước
tham dự
hội
nghị cam
kết tôn
trọng các
quyền dân
tộc cơ bản
của ba
nước
Đông
Dương
cam kết
không can
thiệp vào
công việc
nội bộ của
ba nước.
Các
bên
tham
chiến
ngừng
bắn,
lập lại

hòa
bình
trên
toàn
Đông
Dương.
Các bên tham
chiến tập kết,
chuyển quân,
chuyển giao
khu vực: Ở
Việt Nam lấy
vĩ tuyến 17
làm giới tuyến
quân sự tạm
thời ;Ở Lào
tập kết ở
Phôngxalivà
Sầm nưa;
Campuchia
không có
vùng tập kết
kếtvùng tập
kết
Cấm đưa
quân đội,
vũ khí,
nhân viên
quân sự
của các

nước ngoài
vào Đông
Dương, các
nước Đông
Dương
không
tham gia
bất cứ liên
minh quân
sự nào
Việt
Nam
tiến tới
thống
nhất
bằng
cuộc
tổng
tuyển
cử tự do
trong cả
nước
được tổ
chức
vào
tháng 7-
1956 …
Trách
nhiệm
thi

hành
hiệp
định
thuộc
về
những
người
kí hiệp
định và
những
người
kế tục
họ
của đế quốc Mĩ trong việc kéo dài, mở rộng, quốc tế hóa chiến tranh xâm lược
Đông Dương.
- Ý nghĩa giáo dục: Giúp học sinh có được niềm tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng; tinh thần yêu chuộng hòa bình; phấn đấu học tập để xây dựng quê hương đất
nước.
- Ý nghĩa phát triển: Rèn luyện kĩ năng vẽ sơ đồ, phân tích, tổng hợp
3.3. Đồ dùng trực quan do giáo viên học sinh tự làm, hoặc tự sưu tầm:
Hiện nay kênh hình trong SGK đã phong phú sáng sủa hoặc các loại đồ dùng
dạy học đã có ở nhà trường, phần nào đã có sức hấp dẫn đối với học sinh. Song do
hạn chế về số trang nên các bản đồ, sơ đồ, niên biểu, tranh minh họa thì lại thiếu
hẳn đôi lúc không có. Chính vì lẽ đó để khắc phục tồn tại này trong quá trình giảng
dạy giáo viên và học sinh cần phải sưu tầm, bổ sung nhằm tăng tính hình ảnh, tính
cụ thể cho các sự kiện trong SGK. Giúp cho việc tiếp thu kiến thức của các em có
hiệu quả.
VD: trong bài 20 “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết
thúc 1953- 1954”, khi dạy phần 2: Chiến dịch lịch sử ĐBP, giáo viên và học sinh
có thể tự tổ chức đắp mô hình sa bàn ĐBP. Trước hết cần làm nổi bật cho học sinh

thấy: “ Đây là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, một pháo đài không
thể công phá. Có 3 phân khu: phân khu Bắc gồm – phân khu Trung Tâm– phân khu
Nam, có 49 cứ điểm, Các cứ điểm quan trọng đó là các đồi A1, C1, E1, D1
Những bài nào cần tranh ảnh, chân dung lịch sử minh họa, giáo viên và học
sinh có thể tự sưu tầm để đưa vào nội dung của bài nhằm tăng tính hình ảnh sự hấp
dẫn đối với bài học. Ví dụ: Khi dạy về “ chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954 ” ở
bài 20 “Cuộc kháng chiến toàn Quốc chống thực dân Pháp kết thúc 1953-1954”
Giáo viên và học sinh có thể sưu tâm bức tranh Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo;
Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong điều kiện những bức ảnh
như vậy khó tìm, giáo viên, học sinh có thể sưu tầm chân dung của họ đưa vào bài
giảng. Những bức ảnh minh họa này có giá trị lịch sử to lớn giúp học sinh hiểu sự
kiện một cách cụ thể, sinh động và gợi lên cảm xúc lịch sử của các em.
11
Tóm lại sử dụng hình vẽ , tranh ảnh trong sách giáo khoa, cũng như sử dụng
các đồ dùng trực quan do giáo viên và học sinh tự sưu tầm, tự làm, bổ sung cho
sách giáo khoa là một điều hết sức cần thiết có tác dụng lớn lao trong dạy học lịch
sử, đây là phương tiện quan trọng tạo nên hình ảnh lịch sử. Song khi sử dụng giáo
viên cần chú ý đến các yêu cầu của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
lịch sử
3. 4. Sử dụng phim tư liệu lịch sử:
Ngày nay công nghệ thông tin đã đạt được những bước tiến vượt bậc và có
tác động lớn đến giáo dục đặc biệt là môn lịch sử. Các nhà làm phim tái hiện lại
hình ảnh lịch sử một thời trong quá khứ. Những nhân vật lịch sử, những sự vật hiện
tượng, những sự kiện đã qua nhằm giúp học sinh nắm bắt lịch sử một cách chính
xác dễ nhận biết, dễ nhớ làm tăng hiệu quả học tập, lôi cuốn học sinh tham gia tích
cực vào bài giảng.
Cần coi trong việc sử dụng phim tài liệu vào quá trình dạy học nhằm tận
dụng mọi cơ hội lịch sử một cách cụ thể giàu cảm xúc, được trực tiếp quan sát các
sự vật hiện tượng được tiếp xúc các nhân vật lịch sử. Điều này giúp cho học sinh
dường như đang “ Trực quan sinh động ”, quá khứ có thật mà hiện tại không có.

Với việc sử dụng phim tài liệu vào dạy học lịch sử giúp học sinh dễ nhận biết
dễ nhớ các sự vật hiện tượng, các sự kiện làm tăng thêm hiệu quả học tập
( Trăm nghe không bằng một thấy ) tập trung được sự chú ý của học sinh vào đối
tượng lôi cuốn học sinh tham gia tích cực vào bài học làm cho lớp học năng động
không buồn tẻ tăng hiệu quả dạy học. Giúp học sinh dễ dàng hiểu được vấn đề,
nắm bắt chính xác các sự vật hiện tượng người thật,việc thật, định hướng tốt nội
dung bài học dễ tiếp nhận thông tin, rút ngắn được thời gian trình bày của giáo
viên.
Tiếp theo ở giai đoạn lịch sử 1945-1954: Giáo viên cho học sinh xem bộ
phim tư liệu “ Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch
lịch sử ĐBP” . Các em sẽ được chứng kiến những hình ảnh chân thực của một thời
kì lịch sử hào hùng với các hình ảnh của các anh hùng như Phan Đình Giót lấy thân
12
mình lấp lỗ Châu Mai, Tô Vĩnh Điện lấy thân chèn Pháo. Hình ảnh quân và dân ta
đào hầm khoét núi, nếm mật, nằm gai, chịu bao khổ cực vận chuyển lương thực,
thực phẩm, phương tiện vũ khí để đến với chiến dịch lịch sử này. Qua việc chiếu
các thước phim về thời kỳ lịch sử như thế thì giờ học lịch sử không thể nào còn
nhàm chán và nhạt nhẽo nữa.
Qua các thước phim tư liệu giúp cho các em học sinh là những người sống
trong thời kỳ hòa bình, phải biết sống như thế nào cho xứng đáng với cha ông, với
các anh hùng đã hy sinh trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ
Quốc.Các em có ý thức hơn trong học tập và rèn luyện phẩm chất đạo đức ý thức
về vị trí và vai trò của bộ môn lịch sử
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong thời gian qua tôi đã sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử,
đây không phải là phương pháp mới, có thể cũng đã được thầy cô trong trường áp
dụng và cũng đạt được một số kết quả:
Về nhận thức: Sau đây là kết qủa khảo sát chất lượng ở bài dạy này qua
một số năm dạy (2006 - 2012)
Tỉ lệ chất

lượng
2006- 2007
(Không có
sơ đồ )
2007-2008
(Không có
sơ đồ )
2008-2009
(Có sơ đồ )
2009-2010
( Có sơ đồ)
2010-2011
( Có sơ đồ)
2011-12
(có sơ đồ)
Khá, tốt
57% 65% 81%
86% 89%
92%
TB Trở
lên
82% 84 % 88% 90% 92 %
94%
Qua kết quả trên cho chúng ta thấy được tính khả thi của việc áp dụng đồ
dùng trực quan trong dạy học lịch sử đã phát huy tính tích cực hoạt động độc lập
của học sinh ( có thể với khối 10, 11), phần nào có hiệu quả. Chất lượng học sinh
13
đạt khá giỏi tương đối cao, trung bình trở lên chiếm trên 90%, số lượng học sinh
yếu giảm.
III/ Kết luận

Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có vị trí, chức năng và nhiệm vụ quan
trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Nhưng hiện nay học sinh lại chưa
chú trọng học môn này. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân gây nên. Nhưng phải
thừa nhận một nguyên nhân rất quan trọng là do kết quả, chất lượng giảng dạy của
chính những giáo viên dạy lịch sử hiện nay, đặc biệt là việc duy trì kiểu dạy truyền
thống “thầy đọc, trò chép”, nhồi nhét kiến thức, học sinh thụ động trong tiếp thu
kiến thức. Giảng dạy như thế không thể gây hứng thú, không thể phát huy tính tích
cực, chủ động và sáng tạo của học sinh.
Từ đó có thể thấy việc xây dựng và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
cho học sinh qua những giờ học lịch sử rõ ràng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng
và cũng hết sức nặng nề của người giáo viên dạy môn lịch sử.
Ngoài những nội dung kiến thức trên SGK, đồ dùng trực quan sẽ minh họa
thêm cho học sinh thấy rõ được ý nghĩa, mục đích một cách sâu sắc của một bài
học lịch sử.
Qua quá trình giảng dạy, tôi vận dụng khai thác các đồ dùng trực quan có
liên quan đến bài dạy, kết quả cho thấy chất lượng bộ môn được nâng cao. Bên
cạnh đó học sinh thấy yêu thích học môn Lịch sử và giờ dạy Lịch sử thêm sinh
động và hấp dẫn.
Học tập của học sinh là một quá trình nhận thức, vì vậy nói đến tính tích cực
học tập là nói đến tính tích cực của sự nhận thức. Tính tích cực nhận thức là trạng
thái hoạt động nhận thức của học sinh thể hiện trong khát vọng học tập, cố gắng trí
tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức.
Để giúp học sinh phát huy tính tích cực trong quá trình học tập môn lịch sử ở
trường THPT đòi hỏi giáo viên phải sử dụng nhiều biện pháp sư phạm. Với những
biện pháp được đề cập trong khoá luận, nếu được giáo viên sử dụng hợp lí sẽ có tác
14
dụng to lớn giúp học sinh tích cực hơn trong quá trình học tập. Tuy nhiên trong dạy
học lịch sử không có biện pháp nào là vạn năng để phát huy tối đa tính tích cực,
chủ động trong quá trình học tập của các em. Việc sử dụng các biện pháp sư phạm
nói trên chỉ thực sự đem lại hiệu quả giáo dục khi được giáo viên sử dụng một cách

linh hoạt, mềm dẻo, tuỳ mục đích của bài và khả năng nhận thức của các em.
Trong quá trình giảng dạy tôi rút ra một số kinh nghiệm thực tiễn như đã
trình bày ở trên, với đề tài này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế rất
mong sự đóng góp ý kiến của lãnh đạo, của quý thầy cô giáo, các đồng nghiệp cũng
như sự chỉ đạo về chuyên môn của trường để bản thân được học hỏi thêm, mỗi
ngày phát huy tốt hơn giờ dạy Lịch sử ở trường phổ thông.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2913
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Người viết
Trịnh Văn Long









15
16

×