Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.4 KB, 37 trang )

Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
I. Lời mở đầu
Ngày 7 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên
thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này đặt Việt Nam trước
rất nhiều cơ hội và thách thức không nhỏ. Sự kiện này cũng kết thúc lộ trình
hơn 11 năm kiên trì theo đuổi các vòng đàm phán với hơn 28 nước thành viên
WTO của nước ta. Cùng với việc gia nhập WTO, Việt Nam đã có được những
lợi ích vô cùng to lớn, đặc biệt là ở khía cạnh mở rộng khả năng tiếp cận thị
trường cho hang hoá xuất nhập khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam sẽ không bị bó
hẹp trong các hiệp định song phương và khu vực mà sẽ có thị trường toàn cầu.
Các doanh nghiệp và hàng hóa của ta sẽ không bị phân biệt đối xử so với
doanh nghiệp và hàng hóa của các nước khác theo điều kiện đối xử tối huệ
quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Hơn nữa, việc giảm bớt hàng rào
thương mại cho phép thương mại tǎng trưởng, góp phần làm tǎng trưởng kinh
tế nói chung. Nhất là đối với Việt Nam hiện nay, xuất khẩu chiếm tới gần 50%
GDP, nên việc đẩy mạnh xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển
kinh tế. Đặc biệt, kể từ khi gia nhập WTO, cơ cấu hàng xuất nhập khẩu nước
ta đã có những thay đổi đáng kể.
II.Về cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
1. Xuất khẩu
1.1 Giai đoạn trước khi Việt Nam gia nhập WTO
 Về qui mô và tốc độ tăng trưởng
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá hàng năm thời kỳ
1990-1999 đạt 20%; 2000-2006 là 19,3%, được xếp vào mức cao nhất khu
vực, chỉ đứng sau Trung Quốc. Từ chỗ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng thu
nhập quốc dân (24% GDP năm 1991), đến nay xuất khẩu đã chiếm 64,9%,
1
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
đứng thứ 5 so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, thứ 6 ở châu Á, thứ 8
trên thế giới. Nếu như năm 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ
đạt xấp xỉ 14,5 tỉ USD, thì năm 2006 đã đạt 39,6 tỉ USD, gấp 2,7 lần năm


2000, đứng thứ 6/11 nước khu vực Đông Nam Á, 39/165 nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân đầu người năm
2006 gấp 2,5 lần so với năm 2000, tăng 20,7% so với năm 2005, đứng thứ 6
trong khu vực, thứ 25 ở châu Á, thứ 92 trên thế giới. Hệ số giữa tốc độ tăng
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá với tốc độ tăng GDP đạt hơn 2,7 lần

Đóng góp của nhân tố tăng khối lượng xuất khẩu vào tăng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước đạt cao nhất trong năm 2004, có giảm đi trong năm 2005
và đã tăng trở lại trong năm 2006. Đây là dấu hiệu tích cực đối với xuất khẩu,
2
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
lượng hàng hóa xuất khẩu tăng thể hiện quy mô sản xuất đã được mở rộng, là yếu
tố giúp duy trì nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu một cách bền vững.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu ba năm gần đây (%)
KNXK tăng
(triệu USD)
Trong đó
Do tăng giá XK Do tăng lượng XK
KN (triệu
USD)
Tỷ trọng
(%)
KN (triệu
USD)
Tỷ trọng
(%)
Năm 2004 6,327.0 1,973.4 31.2 4,353.6 68.8
Năm 2005 5,730 3,294.1 57.5 2,436.2 42.5
Năm 2006 7,163.3 2,941.0 41.1 4,222.3 58.9
Nguồn: Bộ Thương mại

Trong giai đoạn từ năm 1990 đến 2006, xuất khẩu đã trở thành nhân tố
quan trọng và là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế. Nhìn chung, nền kinh
tế quốc dân đã được định vị theo hướng xuất khẩu và độ mở cửa là tương đối
rộng.
 Về chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam trong 15 năm gần đây đã có sự thay đổi
theo hướng tích cực. Tỷ trọng nhóm hàng nông - lâm - thủy sản đã giảm từ 52,2%
năm 1990 xuống còn khoảng 20,5% năm 2006. Tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng
công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tương đối ổn định: 33,9% năm 2001; 40,4%
năm 2004 và 39,0% năm 2006. Tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản cũng
dao động trong khoảng từ 21,6 % năm 2001 đến 24,7% năm 2005 và 23,4% năm
2006 (xem bảng 2).
Bảng 2: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2006 (%)
3
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Nông, Lâm, Thuỷ sản 24,3 23,9 22,1 20,5 21,1 20,5
Nhiên liệu,khoáng sản 21,6 20,5 19,9 22,7 24,7 23,4
CN và TCMN 33,9 40,0 40,5 40,4 38,4 39,0
Hàng hoá khác 20,2 15,6 17,5 16,4 15,6 17,1
Nguồn: Báo cáo tổng kết của Bộ Thương mại 2005, 2006
Để thấy rõ hơn sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, có thể quan sát cơ
cấu của hàng xuất khẩu chế biến. Theo cách phân tích này hàng xuất khẩu chế
biến được chia thành 3 nhóm chính: (i) Ngành chế biến dựa vào nguồn tài
nguyên; (ii) Ngành chế tạo công nghệ thấp sử dụng nhiều lao động và sản xuất
các cấu kiện, công nghệ trung bình; (iii) Các ngành công nghệ cao, sử dụng nhiều
vốn (xem bảng 3).
Bảng 3: Sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu sản phẩm chế biến thời kỳ 1985 - 2004
Hàm lượng xuất
khẩu

Tỷ trọng (%) Tốc độ tăng trưởng (%)
1985 2000 2005 1985 -
1990
1990 -
1995
1995 -
2000
2000-2
005
1. Ngành chế biến
dựa vào nguồn tài
nguyên
74 17,6 17,8 21 23 5 4,8
2. Ngành chế tạo
công nghệ thấp sử
dụng nhiều lao
động và sản xuất
các cấu kiện, công
nghệ trung bình
21,7 77 76,0 34,3 102 20 18
3. Công nghệ cao,
sử dụng nhiều vốn
3,9 5,4 6,2 40 62,2 2,4 3,7
4
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, năm 2005
Trong điều kiện lợi thế về các yếu tố tự nhiên và lao động rẻ đang ngày
càng giảm dần và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì sự chậm thay đổi cơ
cấu hàng xuất khẩu theo hướng nâng dần tỷ trọng hàng công nghệ cao sử dụng
nhiều vốn là một hạn chế lớn đối với tăng trưởng xuất khẩu của nước ta. Trong

dài hạn, sự chậm trễ này sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, giảm sức cạnh
tranh và cải thiện cán cân thanh toán.
Nếu phân tích cơ cấu xuất khẩu của nước ta có tính đến cả mức độ giá trị
tăng thêm, có thể thấy, tỷ trọng các mặt hàng tinh chế có giá trị gia tăng rất thấp,
chỉ chiếm gần 30% (năm 2006).
Nhìn chung, cơ cấu xuất khẩu mặc dù đã có sự chuyển biến song tốc độ
còn chậm. Tỷ trọng hàng xuất khẩu chế biến (công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp) còn quá khiêm tốn, trong khi hàng sơ chế và khoáng sản vẫn còn chiếm
tỷ trọng lớn. Sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, nhìn chung, chưa thật bền vững,
còn chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Cơ cấu xuất khẩu là một trong những hạn chế
lớn nhất của nền kinh tế. Nếu không tăng nhanh tỷ trọng các mặt hàng chế biến,
xét về dài hạn, tăng trưởng xuất khẩu sẽ khó có thể tiếp tục đà tăng cao như hiện
nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam đang ở điểm xuất phát của
Ma-lai-xia, In-đô-nê-xi-a và Thái Lan trong thời kỳ cuối thập kỷ 70 thế kỷ XX.
Nói cách khác, đằng sau những con số thể hiện sự tăng trưởng trung bình khá ấn
tượng của xuất khẩu trong thời kỳ 1991-2004, có thể nhận thấy rằng, xuất khẩu
của Việt Nam trong hơn một thập kỷ vừa qua vẫn chưa có những sự thay đổi về
chất. Xuất khẩu mới chỉ dừng ở chỗ khai thác lợi thế so sánh sẵn có về tài nguyên
5
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
và lao động rẻ, chưa khai thác lợi thế về công nghệ và vốn của quá trình tự do hoá
thương mại thế giới. Điều này sẽ ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, hội nhập kinh tế và chứa đựng nhiều rủi ro khác như ổn định kinh tế vĩ
mô, vì cán cân thương mại trong dài hạn sẽ khó được cải thiện.
 Về cơ cấu xuất khẩu phân theo thành phần kinh tế
Có thể thấy một điểm tích cực là trước đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất
khẩu của khu vực FDI thường cao gấp 1,5 - 2 lần khu vực doanh nghiệp 100%
vốn trong nước, song năm 2006, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của hai khu vực
này (20,5 và 23,2%). Đây là kết quả của quá trình đầu tư chiều sâu, đổi mới công

nghệ của khu vực doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, nếu không có những bước
đột phá cải cách rộng lớn và quyết liệt (nhất là đối với doanh nghiệp nhà nước)
thì tăng trưởng xuất khẩu của ta sẽ rất khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh các nước
trong khu vực đang tích cực đẩy nhanh quá trình cải cách để thu hút vốn nước
ngoài (xem bảng 4).
Bảng 4: Cơ cấu xuất khẩu phân theo thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Tổng kim ngạch
(tr. USD)
14.455 15.027 16.706 20.176 26.503 32.442 39.605
Tốc độ tăng
trưởng (%)
25,3 4,0 11,2 20,8 31,5 22,4 22,1
DN 100% vốn
trong nước
7.646 8.228 8.834 10.015 12.017 13.889 16.740
- Tỷ trọng 52,9 54,8 52,9 49,6 45,0 43,0 42,0
- Tăng trưởng (%) 11,5 7,6 7,4 13,4 20,3 15,6 20,5
DN có vốn
ĐTNN
6.809 6.799 7.872 10.161 14.486 18.553 22.865
6
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
- Tỷ trọng 47,1 45.2 47,1 50,4 55,0 57,0 58,0
- Tăng trưởng (%) 45,4 -0,2 15,8 29,1 42,6 28,1 23,2
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Thương mại
 Về cơ cấu thị trường xuất khẩu
Đến năm 2006, thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã được mở rộng đến
220 nước và vùng lãnh thổ. Từ chỗ chúng ta phải lệ thuộc hoàn toàn vào khu vực
thị trường Đông Âu và Liên xô (cũ), từ năm 1991 đến nay, thị trường ngày càng

được mở rộng từ ASEAN đến châu Á, châu Âu và châu Mỹ, châu Phi. Nếu như
từ năm 2000 trở về trước thị trường xuất khẩu thị trường chủ yếu của nước ta chủ
yếu ở khu vực châu Á, thì từ 2001 đến nay, thị trường đã được đa dạng hoá.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường châu Mỹ tăng đều trong 3
năm qua (từ 21,3% năm 2004 lên 23,2% năm 2006). Thị trường Hoa Kỳ vẫn là
đối tác chính của Việt Nam về xuất khẩu với kim ngạch 8 tỉ USD, chiếm tỷ trọng
86,8%, các nước khác chỉ chiếm 13,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá
sang thị trường châu Mỹ.
Trong khi đó, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn đối với xuất khẩu giày dép
nhưng thị trường châu Âu vẫn duy trì được tỷ trọng 19-20% trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước từ năm 2004 đến nay. Các nước EU chiếm tỷ trọng 89,2%
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường châu Âu (6,81 tỉ USD), tăng
23,5% so với cùng kỳ năm 2005.
Riêng châu Á, kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng rất lớn so với các châu
lục khác, bởi đây là thị trường lớn nhất từ trước tới nay. Ngoài ra, việc số liệu
thống kê về xuất khẩu vào châu Đại Dương được tính gộp vào châu Á (kể từ năm
nay) đã làm tăng thêm tỷ trọng của khu vực này (châu Đại Dương chiếm tỷ trọng
7
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
8,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước). Trong đó, khu vực Đông Bắc
Á chiếm tỷ trọng 51,8%, đạt kim ngạch 10,79 tỉ USD; khu vực Đông Nam Á
chiếm tỷ trọng 31,5%, đạt kim ngạch 6,56 tỉ USD; châu Đại Dương chiếm tỷ
trọng 15,87%, đạt kim ngạch 3,3 tỉ USD... trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá sang thị trường châu Á (xem bảng 5).
Bảng 5: Cơ cấu thị trường xuất khẩu (%)
Khu vực thị
trường
2000 2002 2003 2004 2005 2006
Châu Á 60,5 52,0 49,0 54,8 58,5 52,6
Châu Âu 23,0 23,0 22,0 20,4 18,1 19,3

Châu Mỹ 6,7 16,0 20,2 21,3 21,3 23,2
Châu Phi, Tây
Nam Á
1,0 1,0 0,8 1,6 2,1 4,8
Châu Đại Dương 8,8 8,0 8,0 6,7 - -
Tổng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Thương mại
Tóm lại, có thể nói mặc dù cơ cấu xuất khẩu đã có sự thay đổi theo hướng
tích cực, nhưng tốc độ chuyển dịch theo hướng đáp ứng yêu cầu biến đổi của thị
trường và xu thế thế giới diễn ra còn chậm, tỷ trọng hàng thô, sơ chế vẫn còn cao.
Tỷ trọng nhóm hàng chế biến công nghệ cao còn quá nhỏ bé. Những mặt hàng có
tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn đều là những mặt hàng hoặc là
hạn chế về các yếu tố cơ cấu như năng suất, diện tích, khả năng khai thác (nhóm
nông, thuỷ sản và khoáng sản) hoặc là phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ và
nguyên liệu nhập từ bên ngoài, do đó giá trị gia tăng thấp (giày da và dệt may).
8
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Những biểu hiện nêu trên chứng tỏ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung
và cơ cấu xuất khẩu nói riêng còn chưa vững chắc. Vấn đề cơ cấu kinh tế sẽ còn
chứa đựng nhiều nguy cơ làm chậm quá trình tăng trưởng.
Trong những năm trên, quá trình chuyển dịch cơ cấu thị trường ở nước ta
diễn ra tương đối tốt. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này chưa được định hướng trên
một tầm nhìn dài hạn (chủ yếu mới chỉ là sự thích ứng với thay đổi của tình hình)
nên đã bộc lộ những điểm yếu.
Việc tập trung quá lớn vào một số thị trường đã làm suy giảm khả năng
thực hiện mục tiêu mở rộng thị trường mới, dẫn tới nguy cơ tự chúng ta đánh mất
thị trường, khó có thể phát triển bền vững và duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong
dài hạn.
Với tỷ trọng nhóm hàng xuất khẩu chế biến hạn chế và chậm thay đổi như
hiện nay, việc tăng trưởng xuất khẩu để cải thiện cán cân thương mại trong ngắn

hạn là rất hạn chế. Bởi vì không thể tăng trưởng dựa vào các mặt hàng hạn chế về
năng suất, khả năng khai thác, đánh bắt và phụ thuộc quá nhiều vào nguồn
nguyên liệu nước ngoài.
Với giá trị gia tăng thấp như hiện nay, nếu không cải thiện năng lực cạnh
tranh, chủ động nguồn nguyên liệu, trình độ công nghệ (còn thấp, lạc hậu với khu
vực 1-2 thế hệ; với các nước tiên tiến 2-3 thế hệ), chất lượng lao động, giảm chi
phí trung gian thì rất khó có thể tạo ra được những đột phá nâng cao chất lượng
xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại.
1.2 Giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập WTO
 Xu hướng chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
9
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Theo đánh giá của Vụ xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, trong giai đoạn
2006-2010, cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ có những điểm thay đổi tập trung
ở 3 xu hướng chuyển dịch và tăng trưởng của các nhóm hàng xuất khẩu.
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nguyên, nhiên liệu
sẽ giảm dần do tác động của sự sụt giảm khối lượng xuất khẩu dầu thô và than đá
kéo theo kế hoạch đã được đề ra trong những năm tiếp theo, đặc biệt là kể từ năm
2009, khi Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất bắt đầu đi vào hoạt động và sẽ tăng
sử dụng nguồn nguyên liệu dầu thô trong nước.
Thứ hai, tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản dự báo sẽ
tăng dần nhưng với biên độ thấp do gặp phải nhiều hạn chế về khả năng mở rộng
quy mô nuôi, trồng và chủ yếu phải dựa vào việc gia tăng hàm lượng chế biến để
nâng cao giá trị xuất khẩu.
Thứ ba, xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ sẽ có
khả năng tăng mạnh do có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất. Đặc biệt, xu
hướng này càng mang tính khả thi có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ
bắt đầu đi vào hoạt động trong giai đoạn này.
Vì vậy ngay từ đầu năm 2007, cần tập trung đầu tư vào các nhóm hàng
công nghiệp để mở rộng sản xuất, khai thác thêm những mặt hàng mới, thị trường

mới và đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao giá trị gia tăng của nhóm hàng nông
sản.
Nhóm hàng xuất khẩu mới cũng cần được chú trọng, bao gồm các sản
phẩm công nghiệp đóng tàu, thép và các sản phẩm từ gang thép, máy biến thế và
động cơ điện, giấy bìa và các sản phẩm từ giấy bìa, túi xách,ô dù, hóa chất, hóa
mỹ phẩm hàng được đánh giá là rất có tiềm năng phát triển trong tương lai.
 Tình hình thay đổi trong cơ cấu hàng xuất khẩu
10
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Năm 2007, có 10 mặt hàng xuất khẩu đạt từ 1 tỉ USD trở lên và đã có sự
phân hoá rõ rệt: 4 mặt hàng bứt phá mạnh hơn đạt trên 3 tỉ USD, 2 mặt hàng đạt
trên 2 tỉ USD. Việc bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu dệt may vào Hoa Kỳ đầu năm
2007 và các biện pháp điều hành chủ động của nước ta phù hợp với bối cảnh bị
Hoa Kỳ áp đặt Chương trình giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam, đã
làm cho các doanh nghiệp trong nước yên tâm đầu tư, mở rộng sản xuất, doanh
nghiệp nước ngoài tin tưởng ký hợp đồng, nhờ vậy xuất khẩu dệt may vẫn tăng
đều, trong đó riêng vào thị trường Hoa Kỳ tăng 27%. Đây là năm thứ hai liên tiếp,
hàng dệt may đứng thứ nhì sau dầu thô, thậm chí đã có lúc “bỏ qua” dầu thô,
đứng đầu các mặt hàng xuất khẩu. Cũng nhờ giải quyết được những khó khăn về
nguyên liệu, xuất khẩu sản phẩm gỗ vào các thị trường chính như Hoa Kỳ, EU,
Nhật đều tăng từ 12 đến 28% so với cùng kỳ năm 2006, đứng thứ 5 trong danh
sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Đồ gỗ đã có mặt tại các thị trường của 120
nền kinh tế, vượt Thái Lan và In-đô-nê-xia để cùng với Ma-lai-xia đứng đầu về
xuất khẩu mặt hàng này ở Đông Nam Á. Xuất khẩu than đá vào các thị trường
chính tăng 22%, nổi bật là Trung Quốc (chiếm 80% lượng than xuất khẩu), đây là
mặt hàng đầu tiên về đích kế hoạch năm ngay từ 6 tháng đầu năm.
Do mất cân đối gay gắt cung - cầu về gạo trên thị trường thế giới, trong
khi chất lượng gạo của ta được cải thiện nhờ tiến bộ trong gieo trồng, bảo quản và
xay sát, nên chỉ 11 tháng đầu năm đã đạt mục tiêu xuất khẩu năm. Lần đầu tiên
gạo xuất khẩu của Việt Nam vươn lên ngang giá với gạo Thái Lan, thậm chí có

chủng loại còn trúng thầu với giá cao hơn. Gạo Việt Nam đã xuất khẩu sang hơn
70 quốc gia và vùng lãnh thổ, kể cả EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản - là những thị trường
có yêu cầu khắt khe.
Cà phê xuất khẩu cũng gặp thuận lợi về thị trường, giá tăng từ 800 đến
1000 USD/tấn, nên đây là năm đầu tiên kim ngạch cà phê vượt gạo. Dù ảnh
hưởng của bão lụt khiến đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại, song trên toàn
11
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
cục, bức tranh xuất khẩu thuỷ sản vẫn sáng sủa, vì đã tạo được chỗ đứng trên thị
trường của EU, Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông... , có giá cao và năng lực
chế biến tăng. Xuất khẩu hạt điều tiếp tục khẳng định ngôi vị cao nhất, có mặt
trên 40 thị trường, trong đó lượng cung vào Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản
và Trung Đông đều tăng, riêng thị trường Hoa Kỳ tăng tới 33%, giá cũng tăng
hơn khoảng 190 USD/tấn. Từ chỗ chúng ta chỉ chế biến từ hạt điều thô thu gom
nội địa, nay phải nhập khẩu thêm hạt điều thô để chế xuất cho đủ công suất các
dây chuyền chế biến và còn xuất khẩu cả công nghệ chế biến hạt điều, nên càng
làm cho hình ảnh mặt hàng này thêm ấn tượng. Thêm nữa, 100 nghìn tấn hạt tiêu
xuất khẩu (chiếm hơn 50% thị phần toàn cầu) đã duy trì vị trí số 1 của Việt Nam
về xuất khẩu mặt hàng này.
Năm 2007 là năm đầu tiên khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước
có mức tăng trưởng hiếm thấy, tăng 23,1%, vì trước đây, mức tăng trưởng của
khối này thường thấp hơn mức tăng trưởng chung và khối doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy vậy các doanh nghiệp có vốn FDI vẫn
chiếm tỷ trọng 58,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhóm các địa phương là các trung tâm kinh tế lớn vẫn tiếp tục dẫn đầu.
Bình Dương vượt qua 5 tỉ USD, tăng 27,5% so với năm 2006. Hà Nội vượt 4 tỉ
USD. Hải Phòng trong 11 tháng đã đạt 1 tỉ USD. Thành phố Hồ Chí Minh tiếp
tục giữ vị trí hàng đầu, với tổng kim ngạch (không kể dầu thô) trên 6 tỉ USD.
Cũng có địa phương chưa đạt mục tiêu, song do kim ngạch nhỏ nên không làm
ảnh hưởng đến mức tăng trưởng cao của cả nước.

Chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có trị giá lớn, công nghệ
cao đang được triển khai với tín hiệu tốt. Lần đầu tiên chúng ta xuất khẩuđược
thiết bị lò hơi cho Tập đoàn TKZ của Nga để bạn lắp ráp Nhà máy Điện tại Ấn
Độ. Công ty dịch vụ cơ khí hàng hải cũng hạ thủy tại cảng Vũng Tầu dàn khoan
khai thác dầu khí xuất khẩu sang Ma-lai-xia...
12
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Nhiều hoạt động xúc tiến thương mại được tổ chức: Hàng trăm hội trợ
triển lãm với quy mô khác nhau đã diễn ra ở trong và ngoài nước, trong đó có các
hội chợ có tiếng về đồ gỗ ở Hoa Kỳ, thủy sản ở châu Âu và hội chợ Trung Quốc -
SEAN (CAEXPO) lần thứ 4 tại Nam Ninh, Trung Quốc; nhiều lượt đoàn cán bộ
đi khảo sát các thị trường trọng điểm, tiềm năng, thị trường xa, láng giềng, tiếp
tục khôi phục thị trường truyền thống Nga, Đông Âu; nhiều doanh nghiệp tháp
tùng các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong những chuyến thăm nước ngoài
hoặc tham gia hoạt động trong những “Ngày Việt Nam ở nước ngoài” tổ chức tại
Pháp, Hàn Quốc, Ấn Độ…đã ký kết được nhiều hợp đồng, bản ghi nhớ trị giá
hàng tỉ USD. Các hoạt động đó góp phần quảng bá tiềm năng kinh tế - thương
mại Việt Nam; gương mặt mới về xuất khẩu của Việt Nam, nhất là thương hiệu
quốc gia; giúp cho doanh nghiệp nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, nắm bắt
được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, trên cơ sở đó tổ chức sản xuất, kinh
doanh; giúp các nhà quản lý học tập kinh nghiệm, mở rộng tầm nhìn.
2. Nhập khẩu
2.1 Giai đoạn trước khi Việt Nam gia nhập WTO
 Về kim ngạch và quy mô nhập khẩu
Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân giai đoạn 1991 - 2000 là 17,5%,
giai đoạn 2001 - 2006 là 19%. Nếu năm 1995 kim ngạch là 8,155 tỉ USD, năm
2000 và 2004 con số đó tương ứng là 15,637 và 31,969 tỉ USD, thì năm 2005 và
2006 đã đạt tới con số 36,978 và 44,410 tỉ USD. Nhìn chung tăng trưởng nhập
khẩu của nước ta không ổn định qua các thời kỳ. Bởi vì nó còn phụ thuộc vào tình
hình kinh tế thế giới và khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của nước ta. Giai

đoạn 1993 - 1996 tốc độ tăng trưởng nhập khẩu đạt con số kỷ lục, có năm đạt tới
54,4% (năm 1993), sau đó giảm sút do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền
13
Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO
tệ châu Á, phục hồi ở mức cao năm 2000 (33,2%), từ năm 2001 đến nay tương
đổi ổn định ở mức trên 20%.
Nhập siêu của nước ta gia tăng khá nhanh, năm 2000 là 1.153,8 triệu
USD, năm 2003 là 5.106,5 triệu USD và năm 2004 là 5.483,8 triệu USD. Hai năm
2005 và 2006, con số đó tương ứng là 4.536,1 và 4.805,0 triệu USD. So với năm
2005, nhập khẩu năm 2006 tăng ở tất cả các thị trường. Mặc dù giá trị nhập siêu
có tăng nhẹ so với dự báo từ đầu năm, nhưng tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch
xuất khẩu chỉ là 12,1%, thấp hơn so với 15,6% của năm 2005.
Giai đoạn 2001-2006, nước ta đẩy mạnh hội nhập và công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, trong ngắn hạn xuất khẩu chưa thể tăng kịp so với nhập khẩu. Tuy nhiên,
một điều đáng lưu ý là trong quý I năm 2007, tốc độ tăng của nhập khẩu cao gần
gấp đôi tốc độ tăng của xuất khẩu (33,6% so với 17,9%) và nhập siêu mới chỉ
trong một quý đó lên đến 1.315 triệu USD.
 Về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu
Xét theo cơ cấu nhóm hàng, cơ cấu nhập khẩu có sự biến động giữa hai
nhóm hàng tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng. Nhập khẩu hàng tiêu dùng có
xu hướng giảm nhanh. Trước năm 1995, tỷ trọng nhóm hàng nhập khẩu tiêu dùng
dao động trong khoảng 13% - 15%. Từ năm 1996 đến nay, tỷ lệ này đã giảm
xuống đáng kể và ổn định ở mức 7% - 8%. Xét trong cả giai đoạn từ 2000-2006,
hàng tiêu dùng nhập khẩu chiếm tỷ trọng bình quân 7% - 11%. Điều này đã thể
hiện đúng định hướng nhập khẩu của nước ta là: giảm tỷ trọng hàng nhập khẩu
phục vụ tiêu dùng, tăng tỷ trọng hàng nhập khẩu là máy móc thiết bị, nguyên vật
liệu cho sản xuất, đồng thời cũng phản ánh xu hướng: nhập khẩu đã góp phần
phát triển sản xuất trong nước theo hướng thay thế nhập khẩu hàng tiêu dùng.
14

×