VẤN ĐỀ LUYỆN THI ĐH THỨ 14: NGUYỄN MINH CHÂU VÀ
TRUYỆN NGẮN “ CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”
I- TÁC GIẢ
Nguyễn Minh Châu (20 tháng 10 năm 1930 - 23 tháng 1 năm 1989) là một nhà văn có
ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam và
thời kỳ đầu của đổi mới.
Tiểu sử
Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm
1950, ông học chuyên khoa và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sỹ quan lục quân
Trần Quoc Tuan. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn
722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyen Minh Chau là trợ lý văn
hóa trung đồn 64 thuộc sư đồn 320. Năm 1961, ơng theo học trường Văn hóa . Năm
1962, Nguyen Minh Chau về cơng tác tại phịng Văn nghệ qn đội, sau chuyển sang tạp
chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972.
Các tác phẩm chính
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
Cửa sơng (tiểu thuyết, 1966)
Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970)
Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972)
Miền cháy (tiểu thuyết, 1977)
Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977)
Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982)
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983)
Bến quê (truyện ngắn, 1985)
Mảnh dất tình yêu (tiểu thuyết, 1987)
Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ (1987)
Cỏ lau (truyện vừa, 1989).
Nguyễn Minh Châu toàn tập (NXB Văn Học, 2001)
Giải thưởng
1. Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào năm 2000
2. Tác phẩm Cỏ lau đạt giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam vào năm 1990
3. Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng 1984 - 1989 cho toàn bộ sáng tác của
Nguyễn Minh Châu viết về chiến tranh và người lính
II- TRUYỆN NGẮN “ CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”
Chiếc thuyền ngoài xa là tên một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Đây là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đời tư-thế sự của Nguyễn Minh Châu sau năm
1975.[1] Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 1 tháng 10 năm 2007) cũng chọn và coi
đây là tác phẩm hay nhất của nhà văn.[2] Tác phẩm này đã được đưa vào giảng dạy
ở chương trình chính thức Sách giáo khoa môn ngữ văn lớp 12 bắt đầu từ năm học
2008 – 2009 qua một đoạn trích phần giữa truyện.
•
Xuất xứ và nội dung
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngồi xa rút trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành
(1983), sau đó được in lại trong tập Chiếc thuyền ngồi xa (1987).
Tác phẩm cịn được đưa vào tập truyện ngắn Tình yêu sau chiến tranh – tuyển tập truyện
ngắn Việt Nam đương đại do hai nhà văn Wayne Karlin và Hồ Anh Thái chủ biên, được
nhà xuất bản Curbstone ấn hành ở Hoa Kì (bằng tiếng Anh).[1]
Chiếc thuyền ngồi xa thuộc dạng truyện luận đề với việc Nguyễn Minh Châu đã đặt ra
vấn đề mối quan hệ giữa văn học và đời sống. Tuy vậy, nhà văn không biến nhân vật
thành cái loa phát biểu luận đề.[1] Thông qua câu chuyện kể về chuyến đi của một nghệ sĩ
nhiếp ảnh đến một vùng biển miền Trung để chụp ảnh nghệ thuật, với một cốt truyện
nhiều tình huống bất ngờ với hệ thống nhân vật đa dạng, nhà văn đề cập đến tính trung
thực của người nghệ sĩ, nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và hiện thực cũng như
những vấn để phức tạp của cuộc sống, kể cả bi kịch số phận con người.[1]
Tóm tắt
Phóng viên Phùng được trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh về cảnh biển
có sương để bổ sung vào bộ ảnh lịch. Anh đến một vùng biển miền Trung vào giữa tháng
bảy. Ngoài Đẩu, người đồng đội cũ giờ làm chánh án tòa án huyện, anh đã quen thân với
Phác, một cậu bé thường đi cùng ông ngoại chở gỗ từ trên rừng về bán cho xưởng đóng
tàu. Sau khoảng tuần lễ chưa chụp được bức ảnh ưng ý, tình cờ anh thấy cảnh một chiếc
thuyền ngồi xa, trong làn sương sớm tạo nên một khung cảnh “từ đường nét đến ánh
sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và tồn bích”. Phùng nhanh chóng
bấm liên thanh một hồi, thu vào chiếc máy ảnh của anh “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại
cảnh”.
Tuy nhiên, khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng chứng kiến một cảnh tượng nghiệt ngã : hai
vợ chồng người dân chài bước vào bờ, rồi người chồng đánh vợ tới tấp bằng chiếc thắt
lưng, rồi Phác, chính là đứa con của cặp vợ chồng kia, xông vào ngăn cản, đánh lại bố.
Cảnh tượng này những ngày sau đó lại tiếp diễn, chỉ khác là lần này khi lão đàn ơng vừa
rời khỏi thuyền thì có thêm đứa con gái cũng bơi vào bờ, rượt theo em nó và giành được
con dao găm thằng bé giấu trong cạp quần. Phóng viên Phùng đánh nhau với lão đàn ơng
và bị thương nhẹ. Tịa án triệu tập người đàn bà đến.
Tại đây, chánh án Đẩu vì căm giận người đàn ông vũ phu nhiều lần đánh vợ, đã khuyên
người đàn bà bỏ chồng. Nhưng không ngờ người đàn bà đã van xin Đẩu bắt tội, bỏ tù bà
cũng được, đừng bắt bà bỏ chồng. Sau đó, chị kể lại cuộc đời, gia cảnh của mình, lí do
chị khơng muốn bỏ chồng vì gia đình họ cần một người đàn ơng để chèo chống lúc phong
ba và nuôi cả một đàn con. Người đàn bà chấp nhận sống nhẫn nhục trong sự ngược đãi
của chồng là vì những đứa con. Qua đó, chánh án Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn
nhận cuộc sống cịn phóng viên Phùng lại hiểu thêm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và
cuộc đời.
Tấm ảnh của Phùng trong năm ấy và nhiều năm về sau vẫn còn được treo ở nhiều nơi,
nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Nhưng cứ mỗi lần Phùng nhìn bức ảnh, những
ám ảnh, trăn trở về hình ảnh người đàn bà vùng biển lại đến với anh.
Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong
tác phẩm
Dựng lên sự đối lập giữa hình ảnh chiếc thuyền trên bức ảnh nghệ thuật và tấn bi kịch của
gia đình người ngư dân bên trong chiếc thuyền đẹp đẽ ấy, nhà văn thể hiện rõ quan niệm
nghệ thuật của mình : nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn tử cuộc sống, phục
vụ cuộc sống ; tài năng và tấm lịng của người nghệ sĩ là những nhân tố khơng thể thiếu
được trong sự sáng tạo nghệ thuật.[3]
Nguyễn Minh Châu đã không trực tiếp phát ngôn cho quan niệm nghệ thuật của mình
nhưng hệ thống nhân vật của tác phẩm và đặc biệt quá trình tự ý thức của người nghệ sĩ
nhiếp ảnh (ở đoạn kết) đã toát ra điều đó (xem phần trích tác phẩm).[3] Bằng hành động tự
ý thức, Phùng đã nhận ra cái chưa đến được của mình để rồi đấu tranh tự hồn thiện. Đây
cũng chính là khát vọng kết nối Chân – Thiện – Mĩ mà suốt đời nhà văn Nguyễn Minh
Châu luôn khao khát và tìm kiếm.[3]
Giá trị nhân đạo
Chiếc thuyền ngồi xa của Nguyễn Minh Châu là tác phẩm giàu giá trị nhân đạo.[4] Viết
truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu muốn bày tỏ sự thông cảm đối với cuộc sống của
con người nơi vùng biển vắng. Tư tường nhân đạo của truyện ngắn thể hiện ở thái độ
quan tâm đến con người đến con người bất hạnh của nhà văn. Phê phán hành động vũ phu
của người chồng, đồng thời Nguyễn Minh Châu muốn cho người đọc thấy rõ tình trạng
bạo lực trong gia đình, một mảng tối của xã hội đương đại. Nhà văn còn mạnh dạn nêu
lên phản ứng dữ dội của đứa con để nhấn mạnh hậu quả trầm trọng của tệ nạn này.[4]
Chính người vợ đã gửi đứa con lên ở với ông ngoại để khỏi chứng kiến cái ác hồng hành
ngay trong gia đình. Người vợ hy sinh cũng để bảo vệ cho hạnh phúc gia đình. Dãu viết
về bạo lực gia đình, nhưng Nguyễn Minh Châu đã báo động những vấn đề xã hội nhức
nhối. Gióng lên một tiếng chuông báo hiệu điều ác, Nguyễn Minh Châu đã đấu tranh cho
cái thiện. Tư tưởng nhân đạo của truyện chính là ở điểm ấy.[4]
Ngồi ra, giá trị nhân đạo cịn được thể hiện qua việc xây dựng nhân vật người đàn bà.[5]
Hình ảnh người đàn bà vùng biển xấu xí, nhẫn nhục vẫn tốt lên vẻ đẹp của tình mẫu tử,
một vẻ đẹp đầy nữ tính, vị tha của người phụ nữ ở một miền biển cịn nghèo đói, lạc hậu.
Như vậy ngịi bút nhân đạo của Nguyễn Minh Châu đã thể hiện nhưng khát khao hạnh
phúc bình dị của người lao động. Dẫu nghiệt ngã những phận đời, dẫu còn nhiều nghịch
lý, nhưng ẩn chìm trong những trang văn của Nguyễn Minh Châu vẫn là chất nhân văn
lấp lánh.[5]
Một số nhận xét
“
“
“
…Vậy nên, có thể nói hình tượng “chiếc thuyền ngồi xa” đích thực là một ẩn
dụ nghệ thuật hồn tồn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã
hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn muốn
truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật
nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta
cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu
muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì
phải tiếp cận với đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.[6]
”
…Trong truyện ngắn tuyệt vời của Nguyễn Minh Châu, một người chụp ảnh
lịch năng nổ và mệt mỏi vì cơng việc, nhận thêm một việc rõ ràng là bất khả :
chộp cho được bí ẩn của màn sương mù dâng lên trên mặt nước trong một
tấm ảnh có phần hồn chỉnh… Cuối cùng anh đã thành công với một bức ảnh
như vậy, chỉ để nhận ra hàng triệu người ca tụng vẻ đẹp tác phẩm của anh sẽ
không bao giờ biết được sự tàn ác và nét xấu xa thực sự của con người mà
anh đã chụp ảnh – một ngư dân dã man hay đánh đập vợ và người vợ nơ tì
của ơng ta. Trong tay của một nhà văn kém cỏi, một truyện ngắn như vậy thất
nhạt nhẽo, nhưng ở đây bức ảnh trở nên in dấu sâu đậm trong tâm khảm
chúng ta đến mức tác phẩm vang vọng với ý nghĩa thật mới mẻ thật lâu sau
khi đọc.[7]
”
…Trước đây, trong Trăng sáng, Nam Cao đã nêu quan điểm nghệ thuật vị
nhân sinh của mình : nhà văn phải thấy rằng dưới cõi nhân gian mà ánh trăng
đang bao phủ ruột nà, nơi người nghệ sĩ mặc sức cho trí tưởng tượng của
mình bay bổng là bao cuộc đời cực nhục, vất vả. Truyện ngắn Chiếc thuyền
ngoài xa có thể coi như là một sự minh họa tiếp tục cho quan điểm ấy. Việc
chứng kiến cảnh một người chồng vũ phu đánh đập dã man vợ mình, cịn
người đàn bà đó hồn tồn chấp nhận và chịu đựng quả là một nghịch cảnh
đối với tất cả những gì trước đó người phóng viên được nhìn thấy. Tình
huống càng trở nên "đắt giá" hơn khi người phóng viên hiểu được cái lí do
sâu xa khiến cho cuộc sống vợ chồng của những người ngư dân này luôn luôn
là nghư vậy : những ngưởi đàn bà sống trên thuyền không thể thiếu chỗ dựa
là đàn ơng, cịn việc người đàn ông thỉnh thoảng lôi vợ vào chỗ vắng người
mà đánh chẳng qua cũng chỉ để giải tỏa nỗi ức chế vì cảnh đơng con bắt đắc
dĩ và sự nghèo khổ triền miên của cuộc đời mình. Tình huống đó đã buộc
”
người phóng viên phải thay đổi quan điểm về đối tượng nghệ thuật...[8]
“
...Chiếc thuyền ngoài xa là những suy nghĩ da diết về chân lý nghệ thuật và
đời sống. Chính khát vọng muốn tìm đến cái đẹp hài hịa, muốn làm cho con
người hạnh phúc nhiều khi đã đưa người ta đến chỗ đơn giản hóa, khơng nhận
ra cái thực tế khắc nghiệt, hoặc nói như Ăng-ghen là một thứ chủ nghĩa lãng
mạn, vị trí lí tưởng mà quên mất hiện thực. Đó là bài học của người nghệ sĩ
nhiếp ảnh...[9]
”
Trích đoạn tác phẩm
Những cảm nghĩ của Phùng trước cảnh chiếc thuyền ngồi xa :
“
Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh "đắt"
trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa
thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như
sữa có pha đơi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng
người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum
khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt
lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt
cánh một con dơi, tồn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa
và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và tồn bích khiến đứng trước nó tơi trở nên
bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã
phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tơi
tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá
thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.[10]
”
Đoạn văn kết thúc truyện ngắn thể hiện q trình tự ý thức của Phùng :
“
Khơng những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tơi vẫn
cịn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy
là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng
của ánh sương mai lúc bấy giờ tơi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu
hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một
người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc
phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới
suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn,
hịa lẫn trong đám đơng.[10]
III- MỘT SỐ ĐỀ BÀI CỤ THỂ
ĐỀ 1: Ý nghĩa của nhan đề truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa” của
nhà văn Nguyễn Minh Châu.
---------------------------------------------
“Chiếc thuyền ngoài xa” là nhan đề một truyện ngắn của nhà văn
Nguyễn Minh Châu, trước in trong tập Bến quê (1985), sau được
dùng đặt tên cho cả tập truyện ngắn gồm 15 truyện do nhà xuất bản
Tác phẩm mới ấn hành năm 1987. Thiên truyện được đưa vào giảng
dạy trong chương trình văn học lớp 12 phổ thơng, cả ban khoa học
xã hội – nhân văn lẫn ban cơ bản. Đặt vấn đề tìm hiểu ý nghĩa nhan
đề một truyện ngắn hồn tồn khơng phải là một cái gì mới mẻ bởi
lẽ sự hoàn chỉnh về nội dung được thể hiện ngay trong ý nghĩa mà
đầu đề văn bản chỉ ra, đặc biệt là với các văn bản nghệ thuật vốn
thường mang những nhan đề hàm ẩn. Vậy nhan đề ấy - Chiếc
thuyền ngồi xa- có ý nghĩa như thế nào?
Những nhan đề loại này đòi hỏi người tiếp nhận phải suy nghĩ,
liên tưởng mới có thể hiểu được ý nghĩa của chúng. Không phải
ngẫu nhiên mà nhiều người cho rằng nhan đề là nội dung cô đọng,
hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề
phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách
nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất
nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan
đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản.
Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu có vinh
dự là người “ thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và
tài năng nhất” ( Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học sau
1975. Trong nhà trường, hai tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã
được đưa bộ sách cải cách trước đây ( Bức tranh ở cấp trung học cơ
sở và Mảnh trăng cuối rừng ở cấp trung học phổ thông) và lần thay
sách này, giáo viên và học sinh lại được tiếp cận hai tác phẩm khácBến quê ở cấp trung học cơ sở và Chiếc thuyền ngồi xa ở trung học
phổ thơng.
Hầu như các truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu
trong chương trình trung học phổ thông đều mang những nhan đề
vừa cụ thể lại vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nếu như Mảnh trăng cuối
rừng vừa là một hình ảnh thực được miêu tả trong truyện và trở đi trở
lại nhiều lần, thành hình ảnh nổi bật và bao trùm toàn bộ khung cảnh
của câu chuyện, vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho nữ nhân vật
chính- Nguyệt thì “ Chiếc thuyền ngồi xa” cũng có phần giống như
thế
1- Chiếc thuyền ngồi xa là chiếc thuyền thực hay chiếc
thuyền trong bức ảnh nghệ thuật?
Truyện gồm 5 phần. Phần đầu nói về chiếc thuyền thực tại một
vùng đầm phá ven biển miền Trung và phần cuối hồn tồn nói về
chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật, một trong 12 cảnh tĩnh vật
thể hiện chủ đề thuyền và biển cho một cuốn lịch năm mới.
Phần vào chuyện kể trọn vẹn sự cần thiết phải có bức ảnh.
Nguyên là người trưởng phịng của nhân vật “ tơi” ( tên là Phùng nhân vật người kể chuyện) “là người sâu sắc , lại cũng lắm sáng
kiến”, anh ta đã đề xuất yêu cầu “ Phải có một bộ sưu tập chuyên đề.
12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển. Khơng có
người. Hồn tồn thế giới tĩnh vật”. Suốt năm tháng rịng làm việc
khá thơng đồng bén giọt, tổ nhiếp ảnh nghệ thuật đã mang về khơng
biết cơ man nào là ảnh nhưng cũng chỉ có 11 bức được lọt vào cặp
mắt xanh của viên trưởng phòng “ sâu sắc nước đời”. Một bức ảnh
thiếu hụt oái oăm kia được trưởng phòng tin cẩn giao cho “ tơi” phải
săn tìm cho được. Mà là tấm ảnh chụp có “ sương biển” giữa mùa
tháng bảy – dường như thường “ chỉ có bão táp với biển động”. Thật
là một vụ gieo trồng trái thời vụ vì “tơi” quá biết “ Muốn lấy sương thì
phải nghĩ đến từ tháng ba cơ!”.
Nhưng rồi “ khi nên trời cũng chiều người”, “ tôi” đã trở lại vùng
biển chiến trường xưa, cách Hà Nội sáu trăm cây số” và vác máy
nằm “phục kích” ở chính cái nơi mà “ dường như trong suốt dải bờ
biển khắp cả nước, chỉ ở đây vào giữa tháng bảy là còn sương mù”.
Đây cũng còn là quê của một đồng đội cũ của “ tôi”, giờ đang là
Chánh án toàn án huyện. Thật là gồm đủ thiên thời , địa lợi , nhân
hoà”. Và “ tơi” đã bỏ qua nhiều cảnh có ‘ khơng khí vui nhộn hơi thô
lỗ và thật hùng tráng” để chớp lấy cái khoảnh khắc “ đắt” trời cho”.
Đó là cảnh “ trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh
hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương
mù trắng như sữa có pha đơi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
chiếu vào. Vài bóng người lớn và trẻ con ngồi im phăng phắc như
tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ…”. Nhà
nghệ sĩ dạt dào một cảm hứng nghệ thuật, trải qua một khoảnh khắc
yên-sĩ –phi –lí thuần tuyệt diệu: “ toàn bộ khung cảnh từ đường nét
đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và tịan
bích khiến đứng trước nó tơi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái
gì bóp thắt vào? (…) . Trong giây phút bối rối, tơi tưởng chính mình
vừa khám phá thấy cái chân lí của sự tồn thiện, khám phá thấy cái
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.”. Và tuyệt tác đã ra đời trong
sự hưng phấn nghệ thuật - “ cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập
tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”.
Rất cần chú ý thành phần phụ chú “ do cái đẹp tuyệt đỉnh của
ngoại cảnh vừa mang lại” trong lời kể chuyện. Niềm hạnh phúc của
người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của
cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh chiếc
thuyền giữa biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ,
thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh
khơi bởi cái đẹp hài hồ, lãng mạn của cuộc đời
Như thế , xét riêng về công vụ, nhiệm vụ của “tơi” lúc này đã
hồn thành. “Tơi” đã có cảnh thuyền và biển trong sương đúng như
đặt hàng của trưởng phòng, mặc dù giữa mùa tháng bảy! Và ‘ tơi” đã
có thể ung dung “ nhảy lên tàu hoả trở về”. Nếu khéo liên hệ một tí,
ta dễ thấy nếu như “ tơi” về ngay lúc đó khác nào cô Nguyệt ( trong
Mảnh trăng cuối rừng) xuống xe ở cầu Đá Xanh.
Phần đầu truyện như thế đủ cho người đọc biết xuất xứ của
bức ảnh nghệ thuật đặc sắc trên cuốn lịch năm mới kia ra đời thế
nào. Và nếu nghĩ sâu xa hơn thì cũng cần bấy nhiêu ấy cũng đủ cho
bộ mơn lí luận nghệ thuật khái quát về công phu lao động của nghệ
sĩ.
Phần kết truyện cho biết người trưởng phòng rất hài lòng với
bức ảnh và bức ảnh khơng chỉ có tuổi thọ ngang với một cuốn lịch
năm mà “mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp vẫn còn được treo ở nhiều
nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Mở và kết truyện
như vậy cho thấy, chiếc thuyền trong “ chiếc thuyền ngoài xa” là
chiếc thuyền vừa có thực trong đời , vừa là chiếc thuyền trong
bức ảnh nghệ thuật và nó cũng chính là một chi tiết nghệ thuật đắt,
khơng dễ trong đời cầm máy “ tơi” đã có được may mắn thứ hai.
2- Tại sao lại là “chiếc thuyền ngoài xa” ?
Theo dịng kể của ‘ tơi” rõ ràng chiếc thuyền được chụp trong
một cự li tương đối gần – “ một chiếc thuyền lưới vó…đang chèo
thẳng vào trước mặt tơi”- nhà nghệ sĩ nhìn rõ cả “những cái mắt lưới
và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó”. Người thưởng thức bức
ảnh thông thường chắc không ai không cảm nhận chiếc thuyền đang
được chụp trong một cự li gần như thế . Thế nhưng vì sao tác giả lại
đặt nhan đề truyện là “ chiếc thuyền ngoài xa”?
Trở lại luận điểm ban đầu về đầu đề văn bản : Nhan đề là nội
dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có
khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan
niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp
của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả
các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung
văn bản. Nếu như nhan đề chỉ đơn thuần phản ánh các đối tượng thì
hẳn chiếc thuyền trong ảnh khơng phải là ngồi xa ! Phải chăng nhan
đề đó phản ánh cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.
Thật vậy, theo yêu cầu của trưởng phòng , bức ảnh phải săn
tìm lần này “Khơng có người. Hồn toàn thế giới tĩnh vật” nhưng bức
ảnh chụp được lại có ‘ vài bóng người lớn lẫn trẻ con”. Như khơng
sao, dù có người thì người cũng chỉ “ ngồi im phăng phắc như
tượng”!
Điều đáng nói là bức ảnh như thế đã ghi nhận được cái gì?
Quả là một bức ảnh đẹp được chụp từ một cự li khá gần nhưng cái
cách tiếp cận “ thực tế”, tiếp cận “ nguyên mẫu” như thế là cách tiếp
cận từ xa vì nhà nghệ sĩ chỉ thu được cái hình hài bên ngồi , cái thơ
mộng bên ngồi của cảnh và người. Bởi vì ngay sau khi nhà nghệ sĩ
“ săn tìm” được cái đẹp trong cuộc đời để sáng tạo ra cái đẹp nghệ
thuật kia, thì anh ta đã phải chứng kiến một cảnh đời cay cực, ngang
trái mà khơng một người bình thường nào có thể ngoảnh mặt làm
ngơ , nói chi đến nghệ sĩ vốn được coi là những con người đa cảm,
đa mang!
Là nghệ sĩ và đã từng là một người lính , chứng kiến cảnh
thằng con – Phác- vì thương mẹ mà đánh lại cha, khi thì bằng chính
chiếc thắt lưng của lính nguỵ mà người cha của nó dùng để đánh mẹ
nó , khi thì định dùng cả “ám khí” là một con dao găm lận ‘ trong cạp
quần đùi”, “ tơi” đã khơng khoanh tay ngồi nhìn vì “ bất luận trong
hồn cảnh nào, tơi cũng khơng cho phép hắn đánh một người đàn
bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo
chio hắn đánh” . Và hậu quả là ‘ tơi” đã bị thương vì người chồng kia
chống trả quyết liệt để tự vệ. Vậy cái cảnh thơ mộng đẹp đẽ mà “ tơi”
thu được vào ống kính Pratica và cái cái cảnh đời ngang trái mà
trong tư cách cựu chiến binh “ tôi” đã chứng kiến và tham dự cái nào
cận nhân tình hơn? Do đó ảnh chụp chiếc thuyền thơ mộng kia
chẳng phải là kết quả của lối tiếp cận hiện thực từ xa ư? Chiếc
thuyền ngoài xa được chụp trong cự li gần là với ý nghĩa như vậy đó!
Chưa hết, do dưỡng thương và nể bạn nên “ tơi” nán lại thêm
mấy hơm và chính lần này “ tôi” mới vỡ ra mọi lẽ. Chứng kiến buổi
làm việc giữa Đẩu – người đồng đội cũ của “ tơi” , giờ là Chánh án
tồn án huyện- và người phụ nữ khốn khổ kia , ‘ tôi mới vỡ ra nhiều
lẽ . Thì ra nếu chiếc thuyền chụp được là “ từ xa” thì cái cảnh “ tơi”
chứng kiến cũng chỉ là bề nổi của cuộc đời gia đình nhà chài nọ. Vì
sao người phụ nữ phải cam chịu một bề, khơng chống trả những trận
“địn chồng” và cũng khơng chịu li dị, hiểu theo nghĩa nào đó là
khơng chịu “ giải phóng” mình. Cái lí do chị đưa ra đã đưa hai người
cựu chiến binh tốt bụng – một là một nghệ sĩ, một được mệnh danh
là một Bao công- đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác:
-“ Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn
các chú. Lịng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm
ăn…cho nên các chú đâu có hiểu cái việc của các người làm ăn lam
lũ , khó nhọc…”
- “ Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão ách tôi ra đánh, cũng như
đàn ông thuyền khác uống rượu. giá mà lão uống rượu…thì tơi cịn
đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi
lên bờ mà đánh”
- “ Là bởi vì các chú khơng phải là đàn bà, chưa bao giờ các
chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc
thuyền khơng có đàn ơng …Cũng có khi biển động sóng gió chứ?”.
- ‘ Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng
bắt tơi bỏ nó- vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái
chúng tơi sống hồ thuận vui vẻ”.
Cái vòng luẩn quẩn của những kiếp người cần lao quả thật đầy
bất ngờ đối với “ tôi”, vốn đã trải qua mấy năm chiến đấu tại mảnh
đất này, đã giải phóng mảnh đất này và hiện đang là nhà báo từng
dong ruổi nhiều nơi! Và “ tôi” cũng nhận ra rằng vì sao ơng lão ( cha
người phụ nữ) làm nghề sơn tràng “ ở tận trên miền rừng A So” và
thằng cháú ngoại lại hay xuất hiện ở miệt biển này và tại sao trong
buổi sáng chia tay “ tôi” ông lão luôn “đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng
ra ngồi mặt phá, nơi có chiếc thuyền”. Vậy , với tất cả những điều
ấy, “chiếc thuyền nghệ thuật” của “tơi” nói được cái gì cận nhân tình
chưa hay cũng chỉ là “ chiếc thuyền ngoài xa”? Nhan đề ấy phản ánh
quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.
Tóm lại, qua thiên truyện và cách đặt tên nhan đề, ta thấy nhân
vật “ tôi” vẫn chưa hồn tồn thoả mãn với những gì ống kính của
mình đã thu được. Đằng sau bức ảnh chiếc thuyền thơ mộng ấy còn
là những cuộc đời , những con người lầm lụi, khốn khổ đến quẫn trí
và giải toả cái quẫn trí ấy bằng những giải pháp hết sức kì quặc. Bức
ảnh “thuyền và biển” kia đã nói được gì đâu. Và đó là cách để nhà
văn Nguyễn Minh Châu bộc lộ thiên hướng muốn nắm bắt hiện thực
ở bề sâu ẩn kín chứa đầy những nghịch lí , mâu thuẫn của đời sống
hậu chiến tranh và đó cũng là đặc điểm nổi bật mới mẻ của phong
cách Nguyễn Minh Châu, người tiên phong tinh tường và tài ba trên
hành trình đổi mới văn học nước nhà. Có thể hiểu “ Con thuyền
ngoài xa” là những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời
sống. Chính khát vọng muốn tìm đến cái đẹp, cái hài hồ, muốn làm
cho con người hạnh phúc nhiều khi đã đưa người ta đến chỗ giản
đơn hố khơng nhận ra cái thực tế khắc nghiệt thì suy cho cùng cũng
chỉ là một kiểu “ lướt nhẹ trên bề mặt cuộc sống” chứ đâu đã là thứ
nghệ thuật “ là tiếng đau khổ…thoát ra từ những kiếp lầm than”
( Nam Cao- Trăng sáng).
Từ đó, có thể phát hiện ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh chiếc
thuyền ngoài xa: Khi con thuyền là đối tượng của nghệ thuật thì có
thể được chiếm lĩnh từ xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp
huyền ảo, nhưng sự thực cuộc đời cần phải được chiếm lĩnh ở cự li
gần. Đừng vì nghệ thuật thuần tuý mà bỏ quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ
thuật chân chính ln là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một
nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu
ghét , vui buồn trước cuộc đời, biết hành động để có một cuộc sống
xứng đáng với con người . Với ý nghĩa ấy, phần nào gợi ra những
liên tưởng tương đồng với truyện “ Trăng sáng” của nhà văn Nam
Cao./.
ĐỀ 2: Chiếc thuyền ngoài xa - vùng tối tâm hồn hay bi
kịch "bất khả tri" của nghệ thuật
1.“ Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời ba năm trước thời điểm 1986 - mốc mà bất cứ một nhà
văn Việt Nam xã hội chủ nghĩa nào cũng phải nhớ, như là năm khai sinh và tái sinh con
đường nghệ thuật của mình, ít nhất là về tư thế cầm bút, họ được tự do.
Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ nhu cầu của mình và nhu cầu của văn học. Ơng từ giã
chính ơng, truy đuổi những cách khám nghiệm đời sống dưới góc nhìn và phương tiện
mới. Trong Bức tranh và Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, ít nhất, sự truy đuổi ấy
đã đặt Nguyễn Minh Châu trước một thử thách triết học: sự tự nhận thức. Nhận thức
không chỉ diễn ra dưới công năng của tư duy lí trí, mà dường như cịn phải diễn ra bằng
nhưng luồng xung của tiềm thức, của vùng sâu vùng sáng và vùng tối trong tâm hồn. Cơ
mà, cũng phải thấy, đơi khi ơng bất lực để lí giải, lí giải cho nhân vật và lí giải cho hiện
thực. Nhân vật của ông vượt qua những giăng bẫy hiện thực mà ông chân thật dựng nên,
rơi vào trạng thái “bất khả tri”. Sự tự nhận thức trở nên đau đớn, trở thành một vết thương
sẵn sàng thức tỉnh. Ai nào biết được khuôn mặt trong bức tranh kia là khn mặt gì của
thời đại, của thế hệ, của từng cá nhân; ai biết được người đàn bà tên Quì ấy mắc một
chứng bệnh cá nhân hay của thế hệ, của thời đại…?. Không dễ dàng đưa ra kết luận, cũng
như các nhân vật kia, không dễ dàng dập tắt ngọn lửa tự nhận thức trong mình, dập tắt
đồng nghĩa với thiêu rụi sự sống.
“Chiếc thuyền ngoài xa” nằm trong mạch sáng tác đòi hỏi cả độc giả và nhà văn phải
nhận thức lại hiện thực. Hiện thực bây giờ không đơn giản là một vết xước rớm máu trên
cánh tay trắng đẹp của cô gái thanh niên xung phong kia mà có lẽ, phải là vết xước trong
tâm hồn. Ở đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể, một sở hữu của vết xước, bảo tồn và
chưng cất nó khiến sự nhận thức mãi mãi không đưa ra một hệ số bằng lịng.
2. Câu chuyện bắt đầu từ việc Phùng, phóng viên ảnh, đi “săn” một tấm hình chụp cảnh
bình minh trên biển. Tấm hình kia phải là một tác phẩm nghệ thuật, dĩ nhiên, như anh
nhận thức, cần tránh lặp lại, nhàm chán và quen thuộc. Phùng rời Hà Nội gần sáu trăm
cây số, “phục” ở một bờ biển, nơi vẫn cịn lưu dấu cuộc chiến tranh: đó là bãi chiến
trường. Tâm thế Phùng là sẵn sàng chờ đợi, anh quen được Phác, một cậu bé thông minh
ở vùng biển đó. Sau gần tuần lễ, anh chụp được khá nhiều tấm hình cảnh ngư dân đánh
mẻ lưới cuối cùng lúc bình minh lên. Nhưng tấm hình để đời, kiệt tác mà anh hằng mong
muốn thì chưa có. Nghệ thuật nhiếp ảnh, qua cách hành xử của Phùng, ít nhiều là thứ q
tặng của thiên nhiên.
Và rồi thì anh cũng có một cảnh trời cho: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của
một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù trắng
như sữa có pha đơi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào… Toàn bộ khung cảnh từ
đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và tồn bích khiến
đứng trước nó tơi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Những cảm
xúc nghệ thuật mà Phùng đón nhận trước vẻ đẹp thiên nhiên quả làm cho ta cảm động.
Nó là niềm hạnh phúc, nỗi sung sướng của kẻ luôn sẵn ý thức và trách nhiệm với con đẻ
tinh thần mà mình hằng tâm nuôi dưỡng. Phùng rơi vào trạng thái “lên đồng”, một trạng
thái cần có trước lúc sinh thành những cảm xúc sáng tạo: “trong giây phút bối rối ấy, tơi
tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá cái khoảnh
khắc trong ngần của tâm hồn”. Vào khoảnh khắc đó, Phùng hồn tồn thành tâm với nghệ
thuật, nó vừa là cái tồn thiện, cái đạo đức, cái trong ngần, vừa là hạnh phúc…Anh được
nó nâng đỡ, ban tặng đồng thời sáng tạo nó, cảm nhận nó. Và trong chốc lát anh “bấm
liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim”. “ Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa
mang lại” trong ống kính có lẽ là cái đẹp đạo đức của thiên nhiên. Thiên nhiên, ngay cả
khi dữ dội nhất, tàn nhẫn nhất, người ta vẫn thu được khoảnh khắc rất đẹp: núi lửa, tia
chớp, sóng thần, bão cát … Thiên nhiên là bản thể tự nó. Cái gọi là “vẻ đẹp” kia chẳng
qua là một chuỗi những thỏa thuận nằm ngồi nó, do con người tạo nên.
Nhưng câu chuyện đột nhiên chuyển sang một hướng khác, sau khoảnh khắc trời cho ấy,
Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống “hiện thực cuộc sống” ban cho. Chính từ
lúc này, Phùng vấp phải một thách đố khác, có lẽ cịn nghiệt ngã hơn cả sự sáng tạo nghệ
thuật – thách đố lí giải, nhận thức hiện thực.
Trước cảnh tượng liền kề với khoảnh khắc nghệ thuật, Phùng kinh ngạc đến mức “trong
mấy phút đầu, tơi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt
chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Phùng lao tới nơi người đàn ông “tấm lưng rộng
và cong như lưng một chiếc thuyền, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy
vẻ độc dữ” đang dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà “cao lớn với
những đường nét thô kệch”, “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken
két”… Nhưng Phùng đã bị cản lại bởi “bóng một đứa con nít”, đó là Phác, con trai của
cặp vợ chồng kia. Phác giật chiếc thắt lưng từ tay người đàn ông, lão “dang thẳng cánh
tay cho thằng bé hai cái tát”. Rồi lão lẳng bặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền.
Kết thúc cái cảnh tượng ấy, “bãi cát lại trở về với vẻ mênh mơng và hoang sơ”, chỉ cịn
Phùng, cậu bé Phác và tiếng sóng ngồi khơi, tất cả chìm vào cõi im lặng…
Có lẽ, đó là một hiện thực “quái đản”. Một hiện thực hiển nhiên mà khơng thể lí giải.
Người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng. Người chồng đánh đập vợ tàn
nhẫn như một thói quen, vô cảm và bản năng. Những đứa con bất lực nhìn cảnh bạo lực
diễn ra ở chính cha mẹ chúng. Tất cả đều im lặng, triền miên ở ngay nơi chiến tranh vừa
đi qua. Tất cả đều diễn ra đằng sau cái vẻ đẹp đơn giản và tồn bích của thiên nhiên. Một
hiện thực quái đản xâm lấn ngay sau phút giây hạnh phúc của người nghệ sĩ. Một nỗi đau
và dìm nén nỗi đau, một bình yên và phá hoại bình yên, một dư chấn và một khoảng lặng
cứ đan cài nhau giữa mn trùng tiếng sóng biển. Và rồi, cũng như trong câu chuyện cổ
quái đản, tất cả đều biến mất, tất cả cứ lặp lại…
Lần thứ hai chứng kiến, Phùng trở thành người hùng, anh đánh quật gã đàn ông vũ phu
bằng cú đánh của người “không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và
tự nguyện rúc vào xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh …”. Phùng nhân danh một người
lính- những người đã đổ máu để giành lại bình yên cho đồng bào mình, chăng? Hay ở anh
cịn có một động cơ “đạo đức” của người nghệ sĩ - người biết thưởng thức và giữ gìn vẻ
đẹp tồn thiện chứ khơng phải là tồn ác, tha hóa?
Phùng đã nhờ Đẩu, người bạn đồng ngũ nay là chánh án huyện phụ trách địa bàn, can
thiệp vào trường hợp gia đình vợ chồng thuyền chài này. Những cú đánh của Phùng chỉ là
phản ứng nhất thời, anh cần đến tiếng nói của một quan tịa. Nhưng rút cuộc, cả Đẩu và
Phùng chỉ như những đứa trẻ, đi hết bất ngờ rồi phẫn nộ rồi im lặng trước lời thú tội, kể
lể của người đàn bà: “Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt,
nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc
của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Hóa ra, ở người đàn bà xấu xí và tội nghiệp này
là cả một hiện thực “bất khả tri”. Bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng như chức
phận mà mình có được, thỏa nguyện vì chức phận đó. Trong thâm tâm bà, những nỗi đau
đớn mà mình gánh chịu xứng đáng như thế vì bởi bà… đẻ nhiều con quá. Điều đó đồng
nghĩa với cái đói, cái nghèo khổ cịn bám riết lấy gia đình này. Nhưng thực tế, cái đói, cái
nghèo khổ đâu chỉ bởi bà đẻ nhiều, mà nó cũng là một thiên chức rất đàn bà thôi. Trong
lời thú tội ngậm ngùi, chân thật và tê tái của bà, có những câu hỏi khơng dễ trả lời, những
mâu thuẫn khó giải thích: để u thương và sống qua mn nỗi khó khăn, cơ cực, đơi khi
người ta phải chấp nhận sự tàn nhẫn, tha hóa, phi đạo đức.
Người chồng vốn dĩ hiền lành, nghĩa hiệp. Sự khốn cùng, mong manh của đời sống chài
lưới đã biến ơng ta thành vũ phu. Có phải là một Chí Phèo, một quĩ dữ bước ra từ cái làng
chài hẻo lánh kia không? Tại sao, dưới xã hội mới này, nơi mà “giấc mơ đại tự sự” đã lan
tỏa trong mọi khơng gian nhỏ hẹp của đời sống, vẫn có những mảnh đời đau đớn, tha hóa
kia?
Hành động vũ phu hay là sự bế tắc, hay là sự giải thoát của những con người tội nghiệp?.
“Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống
rượu…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Rõ
ràng, đây là một giải thoát trong bế tắc, một giải thoát đẫm nước mất và đau đớn.
Cả Đẩu và Phùng đều thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”. Họ
không thể hiểu tại sao hai con người nhỏ bé kia lại chấp nhận sống và yêu thương bằng
kiểu lạ lùng như vậy. Dù lời kể của người đàn bà phần nào giúp họ nhận ra những ẩn ức
thẳm sâu nhưng họ vẫn dừng lại trên bờ vực của sự nhận thức hiện thực. Họ chưa thể nào
dò thấu đáy sâu của nỗi ẩn ức kia cũng như hiện thực đang diễn ra trước mặt họ.
Tình huống mà Phùng khơng lường trước trong chuyến đi này có phải là tình huống dựng
của nhà văn? Nhà văn đặt nhân vật và độc giả vào một tình huống phải nhận thức. Nhưng
nhân vật đã khơng lí giải được hiện thực, tiếng nói của quan tịa cũng trở nên lạc lõng. Họ
chấp nhận nó bằng những thỏa thuận bên ngồi. Cơn bão biển khơi lại nổi lên, biển động,
gia đình thuyền chài này rất có thể lại phải nhịn ăn, đói rách. Cái cảnh tượng thường tình
kia, sẽ lại xẩy ra. “Con sói con” - cậu bé Phác, lại phải thủ một con dao trong mình để
trấn áp người cha, trấn áp người đàn ông lầm lũi kia… Những dự cảm buồn như vết xước
trở đi trở lại trong tâm hồn. Những tâm hồn đầy vùng tối.
Phùng đã có một tấm hình để đời, được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành
nghệ thuật. Nhưng ám ảnh về cảnh tượng đằng sau bức ảnh thì khơng thể xóa mờ. Đằng
sau vẻ đẹp vĩnh hằng kia cũng là nỗi đau vĩnh viễn. Nghệ thuật đã che giấu, khỏa lấp cái
tha hóa, phi đạo đức? Hay nghệ thuật “bất khả tri” trước hiện thực ?. Cũng như chiếc
thuyền ngoài xa, nghệ thuật chỉ có thể nắm bắt được cái bóng của nó, cái bóng của hiện
thực. Vẻ ngồi của nghệ thuật, đơi khi như màn sương làm “mờ hóa” khả năng tri nhận ở
chúng ta. Bất khả tri trở thành niềm day dứt của người nghệ sĩ. Với người nghệ sĩ, thiên
chức là ngưỡng vọng và sáng tạo một vẻ đẹp toàn thiện nhưng sẽ là kẻ tội đồ nếu vẻ đẹp
ấy làm che khuất và quên đi những bất hạnh trong đời. Cái đẹp không chỉ là đạo đức, nó
là sự phản tỉnh.
Cá nhân Phùng, Đẩu sẽ khơng đủ sức lí giải, chấm dứt bi kịch của gia đình thuyền chài
kia. Họ chưa đủ làm ánh sáng để xua đi vùng tối trong tâm hồn những con người bé nhỏ,
khổ đau. Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, Phùng hoàn toàn thấu nhận. Trước số phận của
người đàn bà, Phùng là người ngồi cuộc. Mâu thuẫn đó dường như đeo đẳng suốt hành
trình sáng tạo của nghệ thuật.
3. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn giàu chất điện ảnh do có sự gia tăng của
kiểu chi tiết – hình ảnh. Trường đoạn Phùng chứng kiến người chồng hành hung vợ là
trường đoạn được kể bằng hình ảnh. Nó diễn ra dưới một cú quay tồn cảnh kéo dài. Kịch
tính đến nghẹt thở, bất ngờ đến choáng váng. Yếu tố “động” của chi tiết được bao bọc
trong sự yên tĩnh của cảnh, cảm giác máy quay không di chuyển. Lời thoại rút giảm tối
đa, những hình ảnh khơ khốc và bạo liệt. Tiếng nghiến răng ken két của gã đàn ông vũ
phu, tiếng thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà ngưng đọng giữa tiếng sóng biển. Thứ
âm thanh dẫn dắt cảm xúc người đọc - người xem vào những mao mạch trí nhớ khác
nhau, hoặc rát buốt hoặc tê cóng hoặc câm nín. Kết thúc trường đoạn, cảnh vật trở nên
bình lặng, yên ả như chưa hề nhuốm sắc thái bạo lực khốc liệt. Một sự trả về hờ hững của
thiên nhiên. Ống kính dừng lại ở một khoảnh khắc bình yên mà nhức buốt tâm can…Sử
dụng yếu tố điện ảnh, Nguyễn Minh Châu tạo nên hiện thực gần như một cuốn phim tư
liệu, chân thực và xúc động.
Là kiểu truyện ngắn mở ra tình huống nhận thức, Nguyễn Minh Châu cịn sử dụng tính
biểu tượng. Biểu tượng từ việc đặt tên nhân vật đến biểu tượng trung tâm: chiếc thuyền
ngoài xa. Chiếc thuyền ngoài xa hay là sự bất khả tri, là một hiện thực khác chìm khuất
sau những điều chúng ta có thể kiểm sốt và chứng kiến được ? Chiếc thuyền ngoài xa
mãi mãi là một khát vọng tìm kiếm, với tới để níu giữ, để nhìn lại. Khi chiếc thuyền vẫn
cịn ở ngồi xa, những định giá và huyễn tưởng về nó vẫn chỉ nằm trong một lớp sương
mờ ảo mà thôi.
Năm 1983, khi Chiếc thuyền ngoài xa ra đời, đất nước vẫn chưa thoát khỏi dư chấn của
chiến tranh, đời sống nhân dân vơ cùng khó khăn. Số phận cá nhân nằm im dưới lớp băng
hà của “giấc mơ đại tự sự”. Với những dự cảm thời cuộc sắc bén và tài năng nghệ thuật
của mình, Nguyễn Minh Châu đã giúp lớp băng hà kia có những vết nứt cần thiết. Vết nứt
để nhìn ra vùng tối, và có thể, đón nhận vùng sáng.
ĐỀ 3: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT PHÙNG TRONG “ CHIẾC THUYỀN NGOÀI
XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU.
“Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn,
cốt truyện thường khơng đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý
vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa
cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và
một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp” (Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Minh Châu
những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người, T.C Văn học, 1993, số 3,
tr.20). Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tịi
khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất
miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong
cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới,
Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực
đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng
nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước
hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả
chiều sâu.
Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngồi xa khơng phải là bức tranh hoành
tráng của mảnh đất chiến trường xưa A So từng ghi dấu bao chiến công, cũng
không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử.
Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ
là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh
lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói của
những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng
bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh (!). Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã
khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống
của những người dân chài lam lũ: “Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá
mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc
thuyền. Xóm giềng khơng có. Q hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ
không cố kết vào một khoảnh đất nào”. Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn
khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng
những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con người
của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xi chiều đơn giản, cuộc
sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xoá tan
những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ
cho chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều,
con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hồ với nó. Cách lý
giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số
phận dân tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như
anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem
về cái đẹp có thể làm qn đi những phiền não cuộc sống: “Qua khn hình ánh
sáng, tơi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba
chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt
nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hịa tấu ánh sáng và bóng tối,
tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói
mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của
thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước
kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ
và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực tồn thân làm địn bẩy
nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.” . Và những người dân vùng
biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ
khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu…Tất cả những ấn tượng ấy sẽ
không bị phá vỡ nếu như khơng có sự xuất hiện của chiếc - thuyền – ngồi – xa.
Người đàn ơng xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã
nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận địn dây lưng quật
thẳng tay vào người vợ khơng thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy
lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta
hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu).
Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự
nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng
phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn
nhẫn nhất thế gian”, cịn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng
thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn cơng gã đàn ơng
khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú
nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn
sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tơi đã chiến đấu
trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hồn cảnh
nào tơi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự
nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Nhưng phản ứng của
người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh chống váng: “Q tịa bắt tội con
cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Hố ra, người cần được
thơng cảm lại là những quan tồ cách mạng có lịng tốt nhưng “các chú đâu có
phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người
làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã khơng chối bỏ người đàn
ơng đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những
trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp
nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.Có người đã nhận định: Chiếc thuyền
ngồi xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh tồn
bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt,
dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hố ra hành trình
tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên
chiếc thuyền phải có lúc có đàn ơng, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần
trong bữa ăn trên chiếcthuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả.
Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn
sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận địn tàn khốc có
thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống
nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc
thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vơ bờ bến.Tình yêu
chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến
cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng
biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh
phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết
hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số
phận con người.
Nếu như trước kia, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con người
thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh
và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy
hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng
thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn
cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy khơng tránh khỏi có phần giản
đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mịn đó. Trong
Chiếc thuyền ngồi xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật
hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu
sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn tồn diện về cái đẹp cuộc sống,
hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và
đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu
xuân 1986 của báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế:
để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ,
bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người
cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hồn tồn mất hết lịng tin
vào con người vhà cuộc đời để bênh vực cho những con người khơng có ai để
bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm
Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người,
khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác
phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía : “cuộc
đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ
cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên
trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên
trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa,
một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu). Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ
đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho cơng chúng những cảm nhận về vẻ
đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt
vời kia? Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen
trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh
sương mai lúc bấy giờ tơi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao
giờ tơi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn
bà vùng biển cao lớn với những đường nét thơ kệch tấm lưng áo bạc phếch có
miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt
đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa
lẫn trong đám đông.”.Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu
khơng có tấm lịng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu
hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận
ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý
nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.