Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

THỊ nở NGƯỜI đẹp NHẤT LÀNG vũ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.84 KB, 4 trang )

THỊ NỞ - NGƯỜI ĐẸP NHẤT LÀNG VŨ ĐẠI
1. Trong các nhân vật của kiệt tác Chí Phèo, Thị Nở - cô gái xấu đến quỉ khốc thần kinh, cho đến
nay, xem ra vẫn còn bị người đời đối xử bất công. Bất cứ ai đó thuộc phái đẹp bị gọi là Thị Nở đều
cảm thấy bị xúc phạm. Có nhà nghiên cứu còn không ngần ngại mà cho rằng : Việc Nam Cao miêu tả
Thị Nở quá xấu xí là bằng chứng của chủ nghĩa tự nhiên Bài viết này muốn chiêu tuyết cho nhân vật
kém may mắn này.
2. Với cái giọng khách quan lạnh lùng, một cách đóng cũi sắt cho tình cảm, Nam Cao khiến người
đọc bình thường ngộ nhận về Thị Nở, kể ra cũng không có gì lạ. Hãy nghe ông thuật kể :
Nhưng người đàn bà ấy lại là Thị Nở, một người ngẩn ngơ như những người đàn trong cổ tích
và xấu ma chê quỉ hờn. Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hoá công : nó ngắn đến nỗi người
ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má lại hóp vào mới thật tai hại, nếu má phinh phính
thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng trên cổ người.
Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lấn nhau
với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi ; có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn
ra. Đã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh
lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Đã thế những cái răng rất to lại chìa ra; ý hẳn chúng
nghĩ sự cân đối chữa được vài phần cho sự xấu. Đã thế thị lại dở hơi ; đó là một ân huệ đặc biệt của
Thượng đế chí công : nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ
nhất. Và thị lại nghèo, nếu trái lại, ít nhất đã có một đàn ông khổ sở. Và thị lại là dòng giống của một
nhà có mả hủi : cái này khiến không một chàng trai nào phải phân vân. Người ta tránh thị như tránh
một vật nào rất tởm. Ngoài ba mươi tuổi, thị vẫn chưa có chồng ( ). Cứ tình hình ấy thì ta nói
quách : thị Nở không có chồng.(1)
3. Chí Phèo nói riêng, thế giới nghệ thuật của Nam Cao nói chung, những nhân vật mà ông gọi là
cụ, ông, bà là những nhân vật thường mang giá trị âm. Bề ngoài thì tôn trọng, bên trong lại chứa chất
cả một sự khinh bỉ thậm chí căm thù, vì chất Người trong những nhân vật ấy dường như đã cạn kiệt.
Trái ngược lại, những nhân vật mà ông gọi là y, thị, hắn, lão là những nhân vật được ông đồng cảm,
xót thương, tuy bề ngoài thường bị ông giễu cợt, châm chọc, có khi tới độ khinh bạc. Những cụ Bá
Kiến, ông đội Tảo, ông bát Tùng, ông tư Đạm, ông lí Cường, bà cả, bà hai, bà ba thực chất, đáng
được gọi là những thằng, những con, vì chúng thực ra chỉ là bầy cá tranh ăn, sống bằng những nguyên
lí của thời hoang dã. Còn thị Nở thì sao ? Nàng xấu ma chê quỉ hờn ư ?
Đó đâu phải lỗi của nàng. Đó là ông Trời bắt tội. Nàng nghèo ư ? Đây là tội của cái xã hội đương


thời. Chính bá Kiến đã cho ta biết :
Làng nào cũng có nhiều cánh, mỗi cánh kết bè đảng xung quanh một người : cánh cụ Bá
Kiến, cánh ông đội Tảo, cánh ông tư Đạm, cánh ông bát Tùng Bằng ấy cánh du lại với nhau để bóc
lột con em, nhưng ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau. Cụ lại nhận ra rằng : ở cái
đất nhà quê, bọn dân hiền lành chỉ è cổ làm nuôi bọn hào lí, nhưng chính bọn hào lí nhiều khi lại phải
ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn cả dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm
dao đâm người hay đâm mình.(2)
Nàng là dòng giống mả hủi ư ? Đó lại càng không phải lỗi của nàng. Đó là tội của một xã hội,
một thời đại nghèo đói, ngu dốt và định kiến. Nàng dở hơi ư ? Cổ lai, những bậc tử tế chẳng bị cho là
dở hơi đó sao ? Thị Nở sống cô độc giữa bầy lang sói, giữa một thế giới sống theo luật rừng, chúng coi
thị là dở hơi cũng phải thôi (!). Lỗ Tấn văn hào bên nước Tàu chẳng từng viết Nhật kí người điên,
người ấy sở dĩ bị vu cho là điên bởi đã dũng cảm nói lên một sự thật: lịch sử mấy ngàn năm của chế độ
phong kiến Trung Hoa, được giai cấp thống trị tô son trát phấn bằng mấy chữ nhân nghĩa đạo đức viết
lung tung tí mẹt, thực chất là lịch sử ăn thịt người. Tsêkhôp nhà văn lớn bên nước Nga-la-tư cũng
chẳng từng viết Phòng sáu đó sao ? Thời nay, những người quá tử tế chẳng vẫn bị người ta gọi là hâm
đó sao ?
Văn học nhân loại xưa nay, từng xuất hiện những nhân vật ngoại diện bất cầu như mĩ ngọc,
tâm trung thường thủ thốn đan thanh. Trong văn học dân gian từng thấy Sọ Dừa, Người lấy vợ cóc, Lọ
lem Trong văn chương bác học từng có Qua-di-mô-dô trong Nhà thờ Đức Bà Pa ri của Victo
Huygô, Chàng ngốc Mưc-kin trong tiểu thuyết cùng tên của Đôxtôiepxki. Một người đồng quận với
Nam Cao, Tam nguyên Yên Đổ, trước đó từng có bài thơ Mẹ Mốc viết về một thiếu phụ xinh đẹp goá
chồng. Liệt phụ này, tự bôi bác hình hài để bảo toàn danh tiết với chồng Thị Nở dường như là nhân
vật cùng loại hình. Nhân vật này được Nam Cao xây dựng bằng thủ pháp tương phản triệt để. Tương
phản giữa ngoại hình và nội tâm, giữa thị và những kẻ được gọi bằng cụ, bằng bà, bằng ông. Cả làng
Vũ Đại gọi Chí Phèo là con quỉ dữ. Họ tuyệt giao với Chí. Hắn đã bị cắt hộ khẩu, hộ tịch, bị rút phép
thông công. Hắn đã bị khai trừ khỏi cái thế giới Vũ Đại. Chỉ Thị Nở vẫn thấy có lúc anh Chí rất hiền.
Từ khi Chí có mảnh vườn ở ven sông, cả làng Vũ Đại không đi kín nước qua đó nữa, mặc dù đó là
đường đi tắt. Duy chỉ có Thị Nở vẫn đi kín nước bằng con đường qua nhà Chí Phèo; có mấy lần Thị lại
còn sang căn lều nát của anh hàng xóm tốt bụng để xin tí rượu bóp chân. Hắn chỉ chỗ cho thị lấy rượu,
muốn lấy bao nhiêu thì lấy, để yên cho hắn ngủ. Và sau cái đêm gặp nhau trong vườn chuối, tình yêu

cảm động đến tội nghiệp của hai con người khốn khổ này đã nảy nở. Tình yêu thương của người đàn
bà xấu ma chê quỉ hờn này không những giúp Chí Phèo tỉnh rượu mà điều hệ trọng hơn là giúp Chí
Phèo tỉnh ngộ, tỉnh đời. Cái bát cháo hành đơn sơ, cảm động có bao ý nghĩa. Nó là liều thuốc dân gian
cổ truyền giải cảm cho anh Chí ; nó cũng là liệu pháp tình thương giải độc tâm hồn cho anh. Anh ngộ
ra nhiều điều mà nhiều kẻ tự cho mình là khôn ngoan tỉnh táo, lọc lõi đến nay vẫn cố tình không hiểu.
Té ra, trên đời này người ta có vẫn thể cho nhau ăn, chứ không chỉ phải đâm thuê chém mướn, rạch
mặt ăn vạ, tàn độc với đồng loại mới có miếng ăn. Ở cái làng Vũ Đại này, người duy nhất cho anh
ăn, không phải là những cụ, những ông, những bà người ấy là Thị Nở. Cái bát cháo hành ấy ngon,
chắc không phải do tài nấu ăn của người chế tạo. Nó ngon vì đó là hương vị của tình yêu thương, của
tấm lòng Thị Nở. Thị Nở chính là sự hiển hiện của điều mà Nho giáo gọi là Nhân chi sơ tính bản thiện.
Bát cháo hành đã giúp anh Chí biết nghe bằng đôi tai của mình tiếng đời lăn náo nức, biết ăn năn sám
hối vì những tội lỗi mà anh đã làm khi là con quỉ dữ. Điều cực kì cảm động là anh nhìn thấy Thị Nở
khi yêu cười cũng rất có duyên, (khác hẳn cái cười gian hùng của bá Kiến). Có người cho rằng : Lê
Văn Trương khi cho đăng Chí Phèo, tự ý sửa lại tên là Đôi lứa xứng đôi, chỉ có mục đích thương mại.
Điêù này chỉ có lí một phần. Chắc chắn nhà văn tiền chiến này, đã đọc tác phẩm của Nam Cao bằng
cặp mắt xanh. Ông đã tri âm với tác giả Chí Phèo qua nhân vật Thị Nở. Thị Nở có một sức cảm hoá
diệu kì. Để biến anh canh điền thành con quỉ dữ mất cả nhân hình lẫn nhân tính, bọn cường hào ác bá
ở nông thôn, nhà tù thực dân đế quốc, dư luận đầy định kiến tàn nhẫn của xã hội cũ đã cần một khoảng
thời gian trên dưới hai mươi năm, với bao độc ác ghê rợn, bao công sức, tiền bạc phi nghĩa vậy mà
chỉ một mình Thị Nở, với tấm lòng yêu thương chân thành cảm động trong có mấy ngày đêm đã khiến
Chí Phèo hoàn lương (Phạm Văn Phúc ). Bát cháo hành trở thành một ám ảnh với Chí. Từ khi được
biết hương vị của bát cháo hành, cũng là hương vị của tình yêu thương, anh Chí bỗng trở nên lãng
mạn, tâm hồn đầy chất thơ, anh muốn làm hoà với mọi người biết bao Và cuốí cùng, tuy không được
cái thế giới làng Vũ Đại chấp nhận, anh vẫn không từ bỏ khát vọng hoàn lương, với lời tuyên bố vô
cùng tỉnh táo, đặt ra một vấn đề cốt thiết bậc nhất trong cuộc sống không chỉ của anh, không chỉ của
thời anh, mà của nhiều người, nhiều thời : Tao muốn làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện ?
Bằng lời tuyên bố dõng dạc này, Chí Phéo đã trở thành nhà triết lí đáng nể. Triết lí của anh được rút ra
từ cuộc đời khốn khổ, khốn nạn dài dằng dặc, từ máu và nước mắt, từ những đau đớn nhục nhã của
bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, cùng là bi kịch của sự tỉnh ngộ. Và hương vị bát cháo hành vẫn
cứ ám ảnh anh không dứt Nguyên nhân của những đổi thay kì diệu của Chí Phèo là gì ? Nếu không

phải là Thị Nở ? Ẩn trong hình hài xấu tới mức kinh dị là một tâm hồn thánh thiện, một tấm lòng, nói
theo ngôn ngữ thời thượng bây giờ là tấm lòng vàng vô cùng đáng kính đáng trọng. Thị Nở là nhân vật
nghịch dị được xây dựng bằng thủ pháp của chủ nghĩa lãng nhưng vẫn tuân theo lôgic của hiện thực
đời sống hiện thực. Bởi vậy, chi tiết khoan yêu hỏi ý khiến bà cô, cần được hiểu: thị Nở không thể nào
hoàn toàn thoát khỏi cái cuống nhau của xã hội có cái tên là Vũ Đại. Thị càng xấu cái bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người, cái bi kịch tỉnh ngộ của Chí Phèo lại càng trở nên sâu sắc, bi thương, bi thảm
hơn bao giờ hết. Thị còn như một tia hồi quang thanh khiết của những tư tưởng Phúc Âm đạo Gia-tô
trong tâm hồn, tâm linh của người công giáo Giu-se Trần Hữu Tri khúc xạ vào trong sáng tác của Nam
Cao. Tác giả Chí Phèo không hề lăng mạ, xỉ nhục Thị Nở, hạ thấp con người, không hề lí giải những
hành động của nhân vật mà ông sinh ra và hằng kính trọng bằng những nguyên nhân, những động cơ
sinh vật học. Ông không hề rơi vào chủ nghiã tự nhiên trong trường hợp này. Cách trần thuật lạnh lùng
khách quan, giễu cợt, vừa có chủ ý vừa là cái tạng của ông. Vả lại, như ai đó có nói ràng : Bản thân sự
thật vốn hài hước, chúng tôi thêm trong trường hợp này: hài hước nhưng cảm động. Thị Nở không chỉ
tương phản mà còn tương hợp với Chí Phèo. Họ tạo thành một mối kì duyên như bất cứ mối kì duyên
đích thực trong văn học dân tộc và nhân loại mà chúng ta được biết.
Trong truyện ngắn Lão Hạc, Nam Cao viết :
Chao ôi ! Đối với những người quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ
gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy
họ là những người đáng thương ; không bao giờ ta thương (3)
Nam Cao bằng đôi mắt của tình thương lớn đã phát hiện ra Thị Nở, người đàn bà có bề ngoài
ma chê quỉ hờn, lại chính là người đẹp nhất, đáng quí trọng, kính trọng nhất trong thế giới có cái tên là
Vũ Đại.
Vân Giang, tháng 11 năm 2004
Chú thích : (1), (2), (3) : Tổng tập văn học Việt Nam, Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, năm 2000. Chí Phèo, trang 81, 82, 74, Lão Hạc trang 171.

×