Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

VĂN MẪU 12 PHÂN TÍCH CHI TIẾT ÔNG LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NLĐSĐ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.87 KB, 23 trang )

NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ: PHÂN TÍCH
ƠNG LÁI ĐỊ VÀ CẢNH VƯỢT THÁC
“Nếu Xn Diệu xem tình u là tơn giáo
thì Nguyễn Tn xem cái đẹp như là tơn giáo
của mình”. Nguyễn Tuân là tác giả lớn của
nền văn học hiện đại Việt Nam với một
phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác.
Ông là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp,
thường khám phá thế giới ở phương diện
văn hố thẩm mĩ. Ơng sáng tác nhiều thể
loại, nhưng đặc biệt thành cơng ở thể tùy
bút, trong đó tiêu biểu là tập tùy bút “Sông
Đà” mà linh hồn là bài “Người lái đị Sơng
Đà”. Thưởng thức bài tùy bút, người đọc
khơng khỏi ấn tượng với hình tượng ơng lái
đị mang vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài
hoa, trí dũng đã vượt bao trùng vi thạch trận
như một chiến binh sông nước trên mặt trận
vượt thác leo ghềnh qua cảnh vượt thác có
một khơng hai.
Người lái đị sơng Đà trích trong tập tùy
bút “Sông Đà”, là kết quả của nhiều dịp nhà
văn đến với Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi
thực tế năm 1958. Đây là tập gồm 15 tùy
bút và một bài thơ phác thảo xuất bản năm


1960. Tây Bắc với vẻ đẹp của mình đã khơi
nguồn cảm hứng cho biết bao tác giả để viết
lên những tác phẩm đặc sắc như “Tiếng hát
con tàu” của Chế Lan Viên ,”Vợ chồng A


Phủ” của Tơ Hồi.... nhưng khi điểm ra
những sáng tác về đề tài này ta không thể
khơng nhắc đến tập tùy bút “Sơng Đà” trong
đó có tác phẩm “Người lái đị Sơng Đà”. Với
tác phẩm này Nguyễn Tuân đã “đề thơ vào
non nước” nhà văn đã phát hiện và gợi tả
chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng
mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn con người
Tây Bắc. Tùy bút khắc họa sự dữ dội hung
bạo nhưng cũng rất thơ mộng của Sông Đà
đồng thời cho người đọc cảm nhận cuộc
sống con người lao động trên Sơng Đà, nhà
văn đã khắc họa hình tượng người lái đị tài
hoa, trí dũng, vẻ đẹp của một tay lái ra hoa.
Đoạn trích về cảnh vượt thác chinh phục
thạch trận có một khơng hai của ơng đị
nằm ở phần giữa của tác phẩm. Đây là một
trong những đoạn sinh động nhất kết tinh tài
nghệ phong cách nghệ thuật độc đáo của
Nguyễn Tuân.
Bằng ngòi bút tài hoa Nguyễn Tuân đã xây
dựng thành cơng hình tượng ơng lái đị, một


hình tượng nghệ thuật độc đáo hấp dẫn. Nhà
văn khơng đặt tên cho nhân vật mà chỉ gọi
là “người lái đị Lai Châu, ơng lái đị” bởi nhà
văn khơng chỉ nói đến người lái đị mà cịn
hướng tới những con người lao động khác ở
Tây Bắc nói riêng và khắp mọi miền tổ quốc

nói chung, những con người bình thường
nhưng khơng tầm thường đang ngày đêm
âm thầm đóng góp cơng sức, cống hiến cho
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Ơng lái đị hiện lên là một ơng lão 70 tuổi
với ngoại hình mang đậm hơi thở sơng nước
“Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông
lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp
lấy cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ơng nói
ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sơng.
Nhỡn giới ơng vịi vọi như lúc nào cũng
mong một cái bến xa nào trong sương mù.”
Nguyễn Tuân khắc họa chân dung ơng đị
khơng mang những nét riêng mà mang
những nét đặc trưng nhất của người chèo đị
trên sơng nước. Đặc biệt trên ngực ơng có
nhiều “củ nâu” đó chính là những vết sẹo,
dấu ấn những lần ơng bị sóng nước sơng Đà
tấn cơng. Nguyễn Tn ví nó như “thứ huân
chương lao động siêu hạng”, đó thực sự là


một sự liên tưởng độc đáo, là một chi tiết
nhỏ nhưng có sức gợi lớn.
Ơng lái đị khơng phải là người an phận,
ngược lại ơng thích đương đầu với khó khăn,
hiểm nguy. Dù tuổi đã cao, nhưng ông luôn
mang một tâm hồn trẻ khỏe, bản tính mạnh
mẽ, niềm tin yêu cuộc sống cùng sự gắn bó
vs con Sơng Đà hùng vĩ nhiều ghềnh thác

khó nhằn và cơng việc chèo đị, nó đã mang
lại niềm vui trong cuộc sống lao động vốn
vất vả của ơng. Sơng Đà trong lịng ơng lái
đị như một bản thiên anh hùng ca mà ông
đã thuộc lịng, đồng thời nắm chắc “binh
pháp của thần sơng thần đá”, như một vị
tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn
Tử “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”.
Chỉ bằng những nét khắc họa như vậy, hình
ảnh ơng lái đò của Nguyễn Tuân đã để lại
một ấn tượng sâu sắc trong lịng độc giả.
Đoạn trích về cảnh vượt thác đã tập trung
khắc họa hình tượng ơng lái đị tài hoa, trí
dũng, ngoan cường, tỉnh táo, khơn ngoan,
trong trận thủy chiến vượt qua ba trùng vi
thạch trận trên Sông Đà đầy ngoạn mục.


Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một
cuộc chiến không cân sức, một bên là thiên
nhiên hung bạo, lực lượng hùng hậu, với
sóng nước, thạch trận nham hiểm với một
bên là con người nhỏ bé trên chiếc thuyền
đơn độc và thứ vũ khí duy nhất trong tay chỉ
là chiếc cán chèo. Tuy vậy, ơng đị vẫn như
một người hùng cưỡi chiến mã, tay vung
gươm vượt qua kẻ địch bằng sự mưu trí, tài
năng và bằng sự hiểu biết quy luật của dịng
sơng như chiến thần Triệu Vân của Tam
Quốc, đơn thương độc mã phá vòng vây

quân thù, chỉ khác điều mặt trận của ơng là
mênh mơng sóng nước.
Ở trùng vi thứ nhất, sông Đà hiện lên như
một kẻ thù đầy nham hiểm, xảo quyệt., nó
bày ra năm cửa trận, gồm bốn cửa tử và một
cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ bên phía tả
ngạn. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục
hết trong lịng sơng, mặt hịn đá nào trong
cũng ngỗ ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm,
méo mó, nó đứng, ngồi, nằm ko theo thứ tự.
Nhưng hình như Sơng Đà đã giao việc cho
mỗi hịn, hịn thì “bệ vệ oai phong lẫm liệt”
như để thị uy con thuyền người lái đị, hịn
thì xấc xược thể hiện thái độ du côn “ hất


hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước
khi giao chiến”, một hịn khác thì lùi lại một
chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến
gần vào. Bằng sức mạnh ngơn từ điêu luyện,
nhà văn đã biến những hịn đá vơ tri vơ giác
trở nên sinh động, có hồn, đầy mưu mẹo
như một đội quân tinh nhuệ được huấn
luyện bài bản, người đọc cảm nhận được
khơng khí chiến trận gay cấn, hồi hộp và
đầy kịch tính . Đó chính là biệt tài phù thủy
ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Thác đá sông Đà rất khôn ngoan, chúng
không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà
còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến.

Trước đó nó đã dùng âm thanh của thác
ghềnh để khiêu khích “giọng gằn mà chế
nhạo”, có lúc lại rống lên như tiếng của một
ngàn con trâu mộng đang phá tng rừng
lửa. Cịn giờ đây, chúng lại nhờ “nước thác
reo hò làm thanh viện cho đá”. Đến khi giao
chiến Sông Đà mới bộc lộ hết sự ghê gớm
mà hung hãn như một lồi thủy qi. Sơng
Đà đánh phủ đầu người lái đị với những địn
thế vơ cùng hiểm hóc sóng nước như thể
quân liều mạng “ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo”, chúng muốn tước khi giới, đẩy ông lái


đò vào thế bị động. Rồi chúng “đá trái mà
thúc gối vào bụng và hơng thuyền”, “có lúc
chúng đội cả thuyền lên”, “ bám lấy thuyền
như đô vật túm thắt lưng ơng đị địi lật
ngửa mình ra”. Nguyễn Tn huy động một
loạt các động từ mạnh để miêu tả cách đánh
của Sơng Đà, đánh từ mọi phía đẩy ơng lái
đị vào nguy hiểm. Người đọc khơng khỏi
rùng mình trước sự hung bạo, dữ dội của
thiên nhiên, sông nước.
Dù bị tấn cơng bất ngờ nhưng người lái đị
vẫn khơng hề nao núng, ngược lại, ơng bình
tĩnh chiến đấu với trận địa Sơng Đà “ơng đị
hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi
sóng”. Đây là kinh nghiệm quý báu trên
chiến trường sơng nước, bởi giữ được thăng

bằng cho thuyền thì mới đi được vào đúng
luồng nước. Không để cho ông đị có cơ hội
xoay sở, Sơng Đà lại chuyển thế đánh đến
miếng địn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước
vơ sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái
đị. Ơng đị cố nén vết thương, mặt méo
bệch đi. Sự tài tình của Nguyễn Tn ở chỗ
nhà văn khơng dùng từ “méo xệch” mà là
“méo bệch” bởi “méo xệch” chỉ đơn giản
diễn tả sự biến dạng khn mặt cịn “méo
bệch” vừa diễn tả khn mặt vì đau đớn mà


biến dạng vừa diễn tả làn da dầm dưới nước
lâu trở nên nhợt nhạt mà trắng bệch. Phép
điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa,
đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên địn tấn
cơng dồn dập, quyết hành hạ người lái đị
đến cùng nhưng ơng đị nén đau đớn, bằng
kinh nghiệm dạn dày và sự can trường,
giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, chỉ huy
phá tan trùng vi thạch trận thứ nhất.
Nguyễn Tn đã khơng giấu được lịng
ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên
cường, sự dũng mãnh, bình thản của người
lái đị tài ba.
Nếu như ở trùng vi thứ nhất, Nguyễn Tuân
tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sơng
Đà thì ở trùng vi thạch trận thứ hai, nhà văn
tập trung miêu tả thế trận của ông khách

sông Đà ở sự tài trí, khôn ngoan, linh hoạt
và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi
thường. Không một phút nghỉ ngơi, ở trận
đánh này ơng đị đã quyết định đổi chiến
thuật, ông quyết định đánh phủ đầu với đòn
đánh nhanh thắng nhanh. Dưới ngòi bút tài
hoa của Nguyễn Tuân, ở trùng vi thứ hai,
Sông Đà trở nên hung bạo hơn, xảo quyệt
hơn khi tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh bố


trí lệch qua phía hữu ngạn, cố triệt đường
thốt của ơng đị. Sơng Đà tiếp tục dùng
thanh thế của mình để tung ra đội quân
hùng hậu: “Dòng thác hùm beo đang hồng
hộc tế mạnh trên sông đá”. Cách so sánh
liên tưởng độc đáo, ví dịng thác như một
lồi thú dữ, mang sức mạnh ghê gớm, tăng
thêm vẻ hung bạo, cuồng nộ, đáng phải dè
chừng.
So với trùng vi thứ nhất thì trùng vi thứ hai
này khó nhằn hơn, nhưng khơng vì thế mà
trấn áp được tinh thần của ơng lái đị. Với
một trí nhớ tuyệt vời và nhiều năm kinh
nghiệm ơng lái đã “nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá, thuộc quy luật phục kích
của lũ đá nơi ải nước”. Ơng đị cũng tự triết
lý với mình “cưỡi lên thác Sơng Đà, phải cưỡi
đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một
phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vịng

vây thứ hai và đổi ln chiến thuật.” với kế
hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Như một
vận động viên đua ngựa, “nắm chắc được
cái bờm sóng đúng luồng rồi, ơng đị ghì
cương lái, bám chắc lấy luồng nươc”. Sơng
Đà lúc này như ngựa bất kham nhưng ơng
đị vẫn cố gắng chế ngự, rồi bất ngờ ông


tăng tốc “phóng nhanh”, “lái miết về phía
cửa đá” với tốc độ di chuyển mau lẹ, tinh
thần sung sức, Nhưng sơng Đà cũng khơng
phải dạng vừa, nó xua “bốn năm bọn thủy
qn bên bờ trái xơ ra định níu chiếc thuyền
vào tập đồn cửa tử”. Ơng đị đã cảnh giác
sẵn và biết được trận địa mai phục nên “đứa
thì ơng tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè
sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Đặc
sắc trong những trang văn của Nguyễn Tuân
vẫn luôn là cách sử dụng từ ngữ chính xác,
độc đáo, ơng đã huy động hàng loạt động từ
như một đội qn ngơn ngữ hùng hậu “Nắm,
ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè,…” hị reo theo
từng nhịp tiến của ơng đị. Chính nhờ sự
mưu trí và tài năng ấy, ơng đị đã vượt qua
hết các cửa tử, đánh sập vòng vây của lũ đá,
đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với
bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua
đó, ta thấy được vẻ đẹp trí dũng song tồn
của người lái đị thăng hoa trên mặt trận

vượt thác, hiên ngang, làm chủ thiên nhiên,
kết tinh vẻ đẹp của con người lao động trong
thời đại mới, thời đại xây dựng Chủ nghĩa Xã
hội những năm sáu mươi của đất nước.


Còn một trùng vây thứ ba nữa. Dường như
bị thua ở hai trận trước nên sông Đà càng
trở nên hung dữ và nham hiểm hơn khi chỉ
còn cơ hội duy nhất để đánh bại con thuyền.
Câu chữ miêu tả ít hơn nhưng mức độ hiểm
ác lại tăng khi nó ít cửa hơn nhưng bên trái
bên phải đều là luồng chết, luồng sống nằm
ngay giữa bọn đá hậu vệ. Sự sống của ơng
lái đị càng trở nên mong manh. Sự hiểm ác
được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ
tài hoa về cổng đá cánh mở cánh khép - đó
là cả một mặt trận đá trùng điệp, trong đó
bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá
hậu vệ kết hợp với những mũi tấn công ào
ạt, tới tấp không ngừng nghỉ của sóng dữ.
Nhiệm vụ của ơng đị là phải phóng thẳng
thuyền, chọc thủng một luồng sinh duy nhất
ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ,
trong khoảnh khắc cánh “cổng đá” mở giữa
những đợt sóng thác dữ dội.
Nhưng “trong cái khó lại ló cái khơn”, tài
năng của ơng đị được tỏa sáng, ơng đã biến
chiếc thuyền sâu bơi chèo thành một mũi
tên, cịn ơng giống như một cung thủ

“phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa.
Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép,


vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong
cùng. Thuyền như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động
lái được, lượn được”. Một loạt các động từ
“Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên
nhanh, lái được, lượn được..” phối hợp với
các danh từ nối tiếp “cánh mở, cánh khép”,
“cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng” và
âm thanh “vút vút” thể hiện một tốc độ phi
thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái,
vừa xuyên, vừa lượn của ơng đị khơng chỉ
như một mũi tên tre mà còn được gợi tả tinh
tế qua màn hơi nước mà con thuyền xun
qua. Con thuyền khơng cịn lướt trên mặt
nước mà đã thực sự bay trong làn hơi nước
trên mặt sóng. Với cách đánh nhanh thắng
nhanh, người lái đị vượt trùng vi đầy phi
thường.
Câu văn “Thế là hết thác” ngắn gọn như
một tiếng thở phào nhẹ nhõm, mang âm
hưởng nhẹ nhàng, thư thái của ơng đị khi
thực hiện xong một cuộc giao chiến với Sông
Đà. Khép lại trận chiến với một chiến thắng
ngoạn mục nhưng người anh hùng sông
nước không hề vỗ ngực, kể lể công trạng mà
chỉ là một sự thư thái thực sự bởi lẽ cuộc



sống của ơng là ngày nào cũng chiến đấu
với dịng sơng nên khơng có gì hồi hộp và
đáng nhớ. Đó là suy nghĩ rất đỗi bình dị
nhưng rất đáng trân trọng. Đến đây, người
lái đị đã khiến cho khơng chỉ nhà văn, người
đọc mà có lẽ là cả đội quân đá trên Sơng Đà
phải hồn tồn tâm phục khẩu phục. Tài tài
năng của ơng đị bao hàm cả trí tuệ, sức
mạnh thể lực, sự trải nghiệm và một bản
lĩnh kiên cường, thể hiện một trình độ chèo
lái điêu luyện, siêu phàm như đua tài cùng
tạo hóa. Ơng thực sự là một tay lái ra hoa,
một nghệ sĩ chèo đò vượt thác, thậm chí làm
xiếc trên con thuyền. Ơng lái đị chính là
hiện thân của người lao động đã đổ biết bao
mồ hơi nước mắt, thậm chí cả tính mạng,
vật lộn với thiên nhiên để giành lại sự sống.
Trí tuệ, khéo léo, dũng cảm và mạnh mẽ,
ơng đị đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tài hoa
nghệ sĩ và trí dũng phi thường khi cùng
thuyền vượt qua ghềnh thác, khi bao giờ
cũng giữ thế chủ động để tìm cho mình một
của sinh duy nhất giữa bát ngát của tử của
những trùng vi thạch trận hiểm ác , dữ dằn,
khi không bao giờ cho phép mình chùn
bước , sợ hãi hay sai lầm dù chỉ một khoảnh



khắc ; khi ln có thể trình diễn nghệ thuật
lái đị điêu luyện của một tay lái ra hoa .
Ơng lái đị đến với dịng sơng khơng phải chỉ
là một kẻ thù số 1 mà còn là người bạn lắm
chứng nhiều tật. Hiểu bạn nên sau những
phút giây giận dỗi, họ lại tới với nhau như
một cố tri. Đến khúc sơng hiền hịa , ơng lái
đị lại bng xi mái chèo để hịa mình vào
khơng khi êm đềm, thơ mộng của Đà giang.
Kết thúc trận chiến sinh tử với sông Đà ,
ơng lái đị lại trở về cuộc sống thường nhật ,
bình dị , chất phác với những thú vui như đốt
lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, bàn
về cá dầm xanh, cá anh vũ. Đặc biệt, chẳng
ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng
vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân
tợn vừa rồi . Cuộc sống của họ là ngày nào
cũng chiến đấu với sơng Đà dữ dội nên nó
cũng khơng có gì là hồi hộp đáng nhớ. Như
vậy qua đoạn trích được đề cập, ta thấy
được hình ảnh một người lái đị hay những
con người lao động khác trên Sông Đà vừa
tài hoa, vừa trí dũng, vừa bình dị vừa phi
thường, hay đó cũng chính là “thứ vàng
mười đã qua thử lửa” nơi con người Tây Bắc


mà cả một đời Nguyễn Tuân say mê tìm
kiếm.
Tác giả ca ngợi người lái đị cũng chính là

ca người vẻ đẹp của con người lao động Tây
Bắc . Qua hình tượng nhân vật trong tác
phẩm, ta có thể hình dung trên các miền đất
thiên nhiên hung dữ có hàng nghìn hàng vạn
những con người quả cảm và nghệ sỹ như
người lái đị trên dịng sơng cuối trời Tây
Bắc, họ vẫn luôn ngày đêm thầm lặng và
chiến đấu trên khắp mọi vùng đất tổ quốc
Việt Nam. Qua đó, ta cảm nhận được tình
u thiên nhiên, đất nước kín đáo của
Nguyễn Tn.
Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go, gay
cấn, ta cứ cảm tưởng mình vừa coi một bộ
phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng
phút giây, mà ơng lái đị chính là nhân vật
chính. Với lối dựng cảnh đặc sắc, cách kể
chuyện kịch tích, các phép liên tưởng tưởng
tượng độc đáo thú vị, các biện pháp tu từ so
sánh, nhân hóa, điệp ngữ, sử dụng ngơn ngữ
ở nhiều lĩnh vực kiến thức như điện ảnh, võ
thuật, thể thao, nhà văn đã huy động đội


quân chữ nghĩa “vốc lấy hơn ba trăm động
từ” để đưa vào đoạn văn tạo nên khơng khí
chiến trận hào hùng, làm nổi bật hình ảnh
một người lái đị với sức mạnh, trí thơng
minh và lịng quả cảm đã xuất sắc chế ngự
con Sơng Đà hung bạo, hiểm ác. Có thể
thấy, Nguyễn Tuân là một nhà văn sẵn sàng

đua tài với tạo hóa, mà gặp cảnh vượt thác
ngoạn mục, li kì, ngịi bút ơng càng được dịp
thăng hoa với nghệ thuật, phơ bày tất cả
những gì đặc sắc nhất.
Huy-gơ đã từng nói: “Bình thường là cái
chết của nghệ thuật”. Có lẽ điều mà Nguyễn
Tuân sợ nhất là sự nhợt nhạt. Nhà văn đã
vượt qua được quy luật nghiệt ngã của sự
sáng tạo nghệ thuật, vượt lên trên cái bình
thường để cho ra đời hình tượng ơng lái đị
tài hoa, trí dũng cùng con Sông Đà hùng vĩ
mãi bất tử trong lòng người đọc qua cảnh
vượt thác chân thực sống động. Gần hai
mươi năm sau khi bài tùy bút ra đời, những
kỹ sư, công nhân đã tận dụng sức nước, sự
hung bạo dữ dội của Sông Đà để xây dựng
nhà máy thủy điện Sông Đà. Họ đã bắt con
thủy quái này quy phục để dâng tặng nguồn


điện năng phục vụ cho công cuộc phát triển
của đất nước.
CÁC U CẦU PHỤ
*Nhận xét cách nhìn mang tính phát
hiện về con người của nhà văn
- Qua nhân vật ông lái đị Nguyễn Tn có
cách nhìn mang tính phát hiện về người
lao động mới. Ơng đị tiêu biểu là người
anh hùng, cũng là nghệ sĩ trong môi
trường làm việc và trong cơng việc của

mình khi dám đương đầu với thử thách
và đạt tới trình độ điêu luyện trong cơng
việc. Nhà văn đã phát hiện ra “chất vàng
mười đã qua thử lửa” của ơng đị bằng
phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác
với thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện thực,
vừa tràn ngập cái tơi phóng túng đầy
cảm hứng, say mê…
- Qua cách nhìn nhân vật ơng đị, nhà văn
bày tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng, tự
hào về con người lao động Việt Nam.
Nếu trước đây, ông thường khắc họa


người anh hùng trong chiến đấu, người
nghệ sĩ trong nghệ thuật và thuộc về
q khứ “vang bóng một thời” thì đến
tác phẩm này, ơng tìm thấy anh hùng và
nghệ sĩ ngay trong con người lao động
bình thường. Nguyễn Tn cịn khẳng
định với chúng ta rằng chủ nghĩa anh
hùng cách mạng đâu phải chỉ dành riêng
cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm mà
còn thể hiện sâu sắc trong việc xây dựng
đất nước và chinh phục thiên nhiên.

*Nhận xét “thứ vàng mười đã qua thử
lửa” của người lao động miền Tây Bắc
mà Nguyễn Tuân đang tìm kiếm
- Qua cuộc chiến đấu giữa ơng đị với sóng

nước sơng Đà, tác giả ca ngợi vẻ đẹp
người lao động miền Tây Bắc. Đó là vẻ
đẹp của sự ngoan cường, lịng dũng cảm,
ý chí quyết tâm vượt qua những thử
thách khốc liệt của cuộc sống và vẻ đẹp


của sự tài trí, tài hoa, giàu kinh nghiệm.
Đây chính là “thứ vàng mười đã qua thử
lửa” của người lao động miền Tây Bắc
mà Nguyễn Tuân đang tìm kiếm.
- Qua nhân vật ơng đị cho thấy sự thay
đổi trong cách tiếp cận con người của
Nguyễn Tuân sau cách mạng: Trước cách
mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới
ca ngợi là những “con người phi thường
trong hoàn cảnh bất thường. Sau cách
mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tn
có thể tìm thấy ngay trong công cuộc
chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân
dân.
*Cách nhìn mới về người lao động:
- Theo Nguyễn Tuân, người nghệ sỹ không
chỉ là người sáng tạo ra cái đẹp mà là
người biến cơng việc lao động của mình
trở thành một nghệ thuật…
- Qua hình ảnh người lái đị, Nguyễn Tuân
đã thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm



phục những con người lao động bình
thường, nhỏ bé nhưng đã góp phần
khơng nhỏ trong cơng cuộc xây dựng Tổ
quốc. Đó chinh là “Thứ vàng mười đã
qua thử lửa của tâm hồn con người lao
động”.

*Nhận xét quan niệm nghệ thuật về con
người của nhà văn Nguyễn Tuân:
- Vẻ đẹp của con người khơng chỉ ở
phương diện trí dũng mà cịn ở vẻ đẹp
tài hoa nghệ sĩ, khơng chỉ có ở lĩnh vực
nghệ thuật mà có ngay trong cuộc sống
lao động đời thường khi con người đạt
đến trình độ điêu luyện, thuần thục.
- Con người, bất kể địa vị hay nghề nghiệp
gì, nếu hết lịng và thành thạo trong
cơng việc của mình thì bao giờ cũng
đáng trọng. Đồng thời qua cảnh tượng
vượt thác của ơng đị, Nguyễn Tn
muốn nói với chúng ta một điều giản dị
nhưng sâu sắc: chủ nghĩa anh hùng cách


mạng đâu phải chỉ dành riêng cho cuộc
chiến đấu chống ngoại xâm mà còn thể
hiện sâu sắc trong việc xây dựng đất
nước và chinh phục thiên nhiên.
*Phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Tuân:

- TÀI HOA, UYÊN BÁC, ĐỘC ĐÁO, SUỐT
ĐỜI ĐI TÌM CÁI ĐẸP.
- Huy động kiến thức ở nhiều ngành nghề,
lĩnh vực.
- Khám phá đối tượng ở phương diện thẩm
mĩ, phát hiện vẻ đẹp của con người dù
làm ở bất kì ngành nghề, lĩnh vực nào thì
cũng thể hiện vẻ đẹp của một người
nghệ sĩ tài hoa ở lĩnh vực đó.
- Sử dụng ngơn ngữ cầu kì, trau chuốt.
- Trước cách mạng, Nguyễn Tuân cho rằng
cái đẹp chỉ thuộc về quá khứ, còn sau


cách mạng nhà văn đi tìm và khám phá
vẻ đẹp khơng chỉ trong q khứ mà ở
ngay chính cuộc đời thực tại và tương lai.
- Trước cách mạng, Nguyễn Tuân khám
phá vẻ đẹp của những con người phi
thường trong hoàn cảnh bất thường còn
sau cách mạng nhà văn hướng tới khắc
họa vẻ đẹp của những con người bình
thường giữa đời thường nhưng không
tầm thường.
- Sau cách mạng ông thành công với thể
tùy bút vì thể loại này phóng khống và
tự do phù hợp với tính cách vẻ đẹp tâm
hồn ơng.
 TỪ ĐÓ TA NHẬN RA DIỆN MẠO CỦA MỘT
NGUYỄN TUÂN MỚI MẺ KHÁT KHAO ĐƯỢC

HÒA NHỊP VỚI ĐẤT NƯỚC VÀ CUỘC ĐỜI
KHÔNG GIỐNG VỚI NGUYỄN TUÂN TRƯỚC
CÁCH MẠNG CON NGƯỜI CHỈ MUỐN XÊ
DỊCH CHO KHUÂY CẢM GIÁC “THIẾU QUÊ
HƯƠNG”.




×