Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

LUẬN VĂN: Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công ty chè Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.49 MB, 100 trang )
















LUẬN VĂN:

Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu chè ở Tổng Công
ty chè Việt Nam






Lời nói đầu

Xuất phát từ tình hình đổi mới của nền kinh tế thế giới, với những kinh nghiệm
thực tiễn và bài học của nhiều nước trên thế giới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
đã đề ra 3 chương trình mục tiêu lớn: “ Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và


hàng xuất khẩu”. Khẳng định vị trí hàng đầu của ngành nông nghiệp nước ta trong vài
thập kỷ tới. Tiếp đến Đại hội VIII và IX lại khẳng định lại một lần nữa 3 chương trình
kinh tế trên trong đó nông lâm nghiệp phải phát triển sản xuất hàng hoá theo hướng
thị trường gắn với công nghiệp chế biến đáp ứng nhu cầu trong nước, đẩy mạnh xuất
khẩu, phát huy lợi thế so sánh, bảo vệ tài nguyên môi trường…
Trong số 10 mặt hàng nông sản, sản xuất xuất khẩu thì chè đang có xu hướng
ngày càng gia tăng. Cây chè được trồng nhiều ở các tỉnh miền núi phía bắc và Lâm
Đồng. Sản xuất chè trong nhiều năm qua đã phần nào đáp ứng được nhu cầu về chè
uống trong nước, đồng thời còn xuất khẩu đạt kim ngạch hàng chục triệu USD mỗi
năm. Tuy có những thời điểm giá chè giảm làm cho đời sống của những người trồng
chè gặp không ít khó khăn nhưng nhìn tổng thể thì cây chè vẫn giữ vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận
đáng kể nhân dân vùng trung du, miền núi, vùng cao, vùng xa và góp phần bảo vệ
môi trường sinh thái. Vì vậy việc sản xuất và chế biến chè xuất khẩu là một hướng
quan trọng nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp và kinh tế nông thôn
nước ta.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều lợi thế để phát triển cây chè hơn các nước
khác, chúng ta có điều kiện về khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp cho cây chè phát triển,
có nguồn lao động dồi dào trong nông nghiệp và thị trường tiêu thụ tiềm tàng trong và
ngoài nước. Tuy nhiên lượng chè xuất khẩu còn rất hạn chế chỉ chiếm 2% tổng sản
lượng xuất khẩu của toàn thế giới. Vì vậy, để ngành chè Việt Nam nói chung và
Tổng Công ty chè Việt Nam nói riêng có được những bước phát triển mới trong việc
xuất khẩu chè ra thị trường Thế giới đó là một vấn đề hết sức cấp thiết.




Thực tế trong những năm vừa qua mặc dù đã có sự cố gắng nỗ lực trong việc
giải quyết vấn đề xuất khẩu chè, nhưng Tổng Công ty vẫn đang gặp không ít khó
khăn, vướng mắc cần phải được giải quyết. Chính vì vậy, qua thời gian nghiên cứu lý

luận, tôi mạnh dạn chọn đề tài:
“Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công ty
chè Việt Nam ”.
Mặc dù thời gian qua đã có những nhiều Đề tài khoa học, luận án, chuyên đề…
nghiên cứu vấn đề này, nhưng chuyên đề này sẽ cố gắng phân tích một cách hệ thống
các vấn đề xuất khẩu chè và đưa ra các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè của Tổng
Công ty Chè Việt Nam .
Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận gồm ba chương:
Chương I : Xuất khẩu và vai trò của hoạt động xuất khẩu chè đối với
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè.
Chương II : Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công
ty chè Việt Nam .
Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu chè
trong thời gian tới.

Do hạn chế về thời gian cũng như trình độ, nội dung chuyên đề chắc còn nhiều
thiếu sót, nhiều vấn đề tiếp tục phải nghiên cứu và trao đổi, tôi mong muốn nhận được
các ý kiến đóng góp.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội, tháng 9 năm 2002.
Nguyễn Nam Hưng












Chương I
xuất khẩu và vai trò của hoạt động xuất khẩu chè
đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè


I. Khái niệm xuất khẩu và vai trò của nó đối với doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh chè
1. Khái niệm về xuất khẩu
Thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng là quá trình trao đổi
hàng hoá giữa các nước thông qua mua bán nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Trao
đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các
quốc gia. Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia
vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Ngày nay, xuất khẩu không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là sự
phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy phải coi
trọng xuất khẩu cũng như xem thương mại quốc tế như một tiền đề, một nhân tố phát
triển kinh tế trong nước, trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động
và chuyên môn hoá quốc tế.
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương trong đó hàng hoá và
dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Đây là hoạt động kinh
doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, nó không chỉ là một hành vi buôn bán đơn lẻ
mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức bên trong và bên





ngoài nhằm mục đích lợi nhuận, thúc đẩy hàng hoá sản xuất phát triển, chuyển đổi cơ
cấu nền kinh tế, ổn định và nâng cao mức sống của nhân dân. Mặt khác hoạt động
này dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể lại gây ra thiệt hại lớn vì nó phải đối
đầu với một hệ thông kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia
xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.
Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ
xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị cho
đến các máy móc công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình đến hàng hoá vô hình.
Tất cả đều nhằm mục tiêu đem lại lại lợi ích cho các quốc gia tham gia.
Hoạt động này diễn ra trong phạm vi rất rộng cả về không gian và thời gian.
Nó có thể diễn ra trong một ngày hay kéo dài hàng năm; có thể diễn ra trên phạm vi
lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia khác nhau.
Nếu xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình
thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh
quốc tế. Mọi Công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình
ra nước ngoài. Do vậy mà xuất khẩu được xem như chiến lược kinh doanh quan trọng
của các Công ty.
Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các Công ty thực hiện xuất khẩu trong đó
có thể là:
+ Sử dụng khả năng vượt trội (hoặc những lợi thế) của Công ty.
+ Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản
xuất.
+ Nâng cao được lợi nhuận của Công ty.
+ Giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu.
Khi một thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan, hạn ngạch, các quy định về
tiêu chuẩn kỹ thuật hay năng lực của các tổ chức kinh doanh quốc tế chưa đủ thực hiện
các hình thức cao hơn thì hình thức xuất khẩu được chọn vì ở xuất khẩu lượng vốn ít
hơn, rủi ro thấp hơn và thu được hiệu quả kinh tế cao trong thời gian ngắn.





Đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu trước khi bước vào
nghiên cứu thực hiện các nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng
hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, giá cả và xu hướng biến
động của nó. Những điều này phải luôn trở thành nếp thường xuyên trong tư duy của
mỗi nhà kinh doanh xuất khẩu, để có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh trong
Thương mại Quốc tế.
Như vậy, hoạt động xuất khẩu phát triển chắc chắn sẽ góp phần to lớn trong sự
đi lên của đất nước, hội nhập cùng vào nền kinh tế thế giới.
Để có thể hiểu rõ hơn về hoạt động xuất khẩu, ta có thể tham khảo một số tư
tưởng của các trường phái sau
2. Các lý thuyết về hoạt động xuất khẩu
2.1. Lý thuyết của trường phái trọng thương
Lý thuyết trọng thương là nền tảng cho các tư duy kinh tế vào khoảng những năm
1450 đến năm 1650. Lý thuyết này cho rằng sự phồn vinh của một quốc gia được đo
bằng bằng lượng tài sản mà quốc gia đó cất giữ và thường được tính bằng vàng. Theo lý
thuyết này chính phủ nên xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu và nếu thành công họ sẽ nhận
được giá trị thặng dư mậu dịch tính theo vàng từ các nước khác.
Để một nước có thể thặng dư mậu dịch thì:
+ Thặng dư (mậu dịch) thương mại phải được thực hiện bởi các Công ty buôn
bán độc quyền của Nhà nước, hoạt động nhập khẩu bị hạn chế và hoạt động xuất khẩu
được trợ cấp.
+ Các cường quốc thực dân luôn cố tìm cách đạt được thặng dư mậu dịch với
các thuộc địa của họ. Họ coi đây như là một phương tiện khác để có thu nhập. Đồng
thời để thực hiện điều này không chỉ bằng cách giữ độc quyền thương mại thực dân
mà còn ngăn cản các nước thuộc địa sản xuất. Do đó mà các nước thuộc địa phải xuất
khẩu nguyên liệu thô, với giá trị kém hơn nhưng lại nhập khẩu những sản phẩm có
giá trị cao.





Lý thuyết trọng thương mang lại lợi ích cho các cường quốc thực dân, vì thế
chính sách ngoại thương của trường phái này theo hướng:
- Giá trị xuất khẩu càng nhiều càng tốt, nghĩa là không những số lượng hàng
hoá xuất khẩu phải nhiều mà còn phải ưu tiên xuất khẩu những hàng hoá có giá trị
cao. Đồng thời đánh giá thấp việc xuất khẩu nguyên liệu và cố sử dụng nguyên liệu
để sản xuất trong nưóc rồi đem xuất khẩu sản phẩm.
- Giữ nhập khẩu ở mức độ tối thiểu, giành ưu tiên cho nhập khẩu nguyên liệu,
hạn chế hoặc cấm nhập khẩu thành phẩm nhất là hàng xa xỉ.
- Khuyến khích chở hàng hoá bằng tàu của nước mình vì như vậy vừa bán
được hàng và tận dụng được cả những món lợi nhuận khác như: cước vận tải, phí bảo
hiểm
ảnh hưởng của lý thuyết trọng thương đã bị mờ nhạt đi sau năm 1650. Lúc này
các cường quốc thực dân thường hạn chế sự phát triển công nghiệp của các nước
thuộc địa của họ, nhưng các thủ đoạn hợp pháp vẫn buộc chặt quan hệ thương mại
của các nước thuộc địa với chính quốc. Tuy nhiên quan điểm “Nội thương là hệ thống
ống dẫn, ngoại thương là máy bơm. Muốn tăng của cải phải có ngoại thương nhập
dẫn của cải qua nội thương”, cho đến nay vẫn luôn được các quốc gia khai thác và
phát triển một cách tối ưu nhất.
2.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Khác với trường phái trọng thương, AdamSmith cho rằng: “ Sự giàu có của mỗi
quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có sẵn hơn là phụ thuộc vào vàng”.
Theo Adam Smith, nếu thương mại không bị hạn chế theo nguyên tắc phân công
thì các quốc gia có lợi ích từ thương mại quốc tế - nghĩa là mỗi quốc gia có lợi thế về mặt
điều kiện tự nhiên hay do trình độ sản xuất phát triển cao sẽ sản xuất ra những sản phẩm
mà mình có lợi thế với chi phí thấp hơn so với các nước khác. Ông phê phán sự phi lý
của lý thuyết trọng thương và chứng minh rằng: mậu dịch sẽ giúp cả hai bên đều gia
tăng tài sản. Theo ông, nếu mỗi quốc gia đều chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất





mà họ có lợi thế tuyệt đối, thì họ có thể sản xuất được những sản phẩm có chi phí thấp
hơn so với nước khác để xuất khẩu, đồng thời lại nhập khẩu những hàng hoá mà nước
này không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng có chi phí cao hơn giá nhập khẩu.
Nhờ sự chuyên môn hoá các nước có thể gia tăng hiệu quả của mình bởi vì người
lao động sẽ lành nghề hơn do công việc được lặp lại nhiều lần, họ không mất thời gian
trong việc chuyển sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác, do làm một công việc lâu
dài nên người lao động sẽ có nhiều kinh nghiệm, các sáng kiến và các phương pháp làm
việc tốt hơn.
Mặc dù Adam Smith cho rằng, thị trường chính là nơi quyết định nhưng ông
vẫn nghĩ lợi thế của một nước có thể là do lợi thế tự nhiên hay do nỗ lực cả nước đó.
Lợi thế tự nhiên liên quan đến các điều kiện tự nhiên và khí hậu. Lợi thế do nỗ lực là
lợi thế có thể có được do sự phát triển của kỹ thuật và sự lành nghề.
Ngày nay người ta thường buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá đã được sản xuất
công phu hơn là các nông phẩm hay tài nguyên thiên nhiên nguyên khai thác hoặc sản
phẩm thô. Quá trình sản xuất ra loại hàng hoá này phần lớn phụ thuộc vào lợi thế do nỗ
lực, thường là kỹ thuật chế biến và khả năng sản xuất các loại sản phẩm khác biệt với
những sản phẩm khác.
Lợi thế tuyệt đối so sánh số lượng của một loại sản phẩm được sản xuất ra ở hai
nước khác nhau với cùng một điều kiện sản xuất. Giả sử Việt Nam có lợi thế tuyệt đối so
với Hàn Quốc về sản xuất gạo trong khi đó Hàn Quốc có lợi thế tuyệt đối về sản xuất vải.
Đó là lợi thế tuyệt đối tương hỗ, trong trường hợp nếu mỗi nước chuyên môn hoá loại
sản phẩm mà nước đó có lợi thế tuyệt đối thì tổng sản phẩm của cả hai nước có thể tăng
lên.
2.3. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
Theo lý thuyết này, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia
khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia

vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích. Nói cách khác trong điểm bất lợi vẫn có
những điểm thuận lợi để khai thác khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu, những quốc
gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra các loại hàng hoá sẽ có thể chuyên môn




hoá sản xuất hàng hoá ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác và nhập về
những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó gặp rất nhiều khó khăn và bất lợi. Từ đó tiết
kiệm được nguồn lực của mình và thúc đẩy sản xuất trong nước. Ta có thể giải thích
rõ điều này thông qua ví dụ sau:
Giả sử 2 quốc gia Việt Nam và Mỹ có năng lực sản xuất vải và máy tính như
sau:









Ta thấy cả hai quốc gia đều sản xuất hai mặt hàng vải và máy tính. Tuy nhiên
nếu phân tích cụ thể thì ta sẽ thấy năng suất lao động của ngành chế tạo máy tính của
Mỹ gấp 6 lần của Việt Nam trong khi đó ngành dệt chỉ gấp 2 lần. Như vậy, giữa chế
tạo máy tính và sản xuất vải thì Mĩ có lợi thế tương đối trong việc sản xuất máy tính
còn Việt Nam có lợi thế tương đối trong việc sản xuất vải. Theo quy luật của lợi thế
so sánh hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu mỗi quốc gia chuyên môn hoá sản xuất loại
sản phẩm mình có lợi thế so sánh hơn sau đó tiến hành trao đổi một phần sản phẩm
cho nhau.

Giả sử tỉ lệ trao đổi là 6 máy tính lấy 6 m vải thì Mỹ vẫn có lợi 2 m vải tức là
đã tiết kiệm được 1/2 giờ công còn Việt Nam tiết kiệm được 3 giờ công do có lợi 3
máy tính.
Như vậy qua ví dụ trên ta thấy được lợi ích của việc trao đổi sản phẩm giữa các
quốc gia thông qua việc xuất nhập khẩu hàng hoá. Sự chuyên môn hoá sản xuất những
sản phẩm mà mình có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu những sản phẩm bất lợi hơn sẽ

Qu
ốc Gia


Mặt hàng
M




Việt Nam
V
ải ( m/ 1 giờ công )


Máy tính (cái/ giờ
công)
4


6
2



1




giúp cho việc sử dụng tốt nhất, hiệu quả nhất nguồn lực của mỗi nước. Bên cạnh đó còn
làm tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện mở rộng khả năng tiêu dùng
của mỗi quốc gia. Vì vậy đây chính là tính tất yếu của việc mở rộng hoạt động xuất nhập
khẩu này.
3. Vai trò hoạt động xuất khẩu chè
3.1. Đối với nền kinh tế quốc dân nói chung
Với xu thế ngày nay, trong sự khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường và nền
kinh tế Thế giới đã khẳng định: Một đất nước có được thiên nhiên ưu đãi đến đâu đi
nữa, nhưng nếu không hội nhập vào thương mại quốc tế, thì nền kinh tế tự cung tự
cấp đó sẽ bị kiệt quệ, yếu kém, không tài nào có thể vực dậy được, không theo kịp
được xu hướng phát triển của nền kinh tế quốc tế và sẽ bị tụt hậu. Vì thế ở Đại hội VI
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức một cách
sâu sắc là: Chỉ có mở rộng ngoại thương, hội nhập thương mại quốc tế mới cho phép
chúng ta đánh giá đúng khả năng trình độ, sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Vì
vậy xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và hoạt động
xuất khẩu chè cũng là sự đóng góp không nhỏ góp phần vào hoạt động xuất khẩu Việt
Nam .
- Xuất khẩu chè tạo nguồn vốn không nhỏ cho nhập khẩu thiết bị, công nghệ
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải công
nghiệp hoá, hiện đại hoá để khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu chậm phát triển. Tuy
nhiên, quá trình công nghiệp hoá đòi hỏi phải có một số lượng vốn rất lớn để nhập khẩu
máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến.
Thực tế cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu, một nước có thể sử dụng nguồn

vốn huy động chính như sau:
+ Đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ.
+ Thu từ các hoạt động du lich, dịch vụ thu ngoại tệ trong nước.
+ Thu từ xuất khẩu.




Tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ nhận được,
song việc huy động chúng không phải dễ dàng. Sử dụng nguồn vốn này, các nước đi vay
thường phải chịu thiệt thòi, phải chịu các o ép và sẽ phải trả những khoản nợ sau sau này.
Thực tế trong những năm vừa qua xuất khẩu chè của Việt Nam đã mang lại hàng
chục triệu USD cho quốc gia. Một phần của lượng tiền này được đầu tư vào quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, phần còn lại được đầu tư tiếp cho quá trình tái
sản xuất chè. Bởi vậy, xuất khẩu là nguồn vốn quan trọng nhất. Xuất khẩu tạo tiền đề cho
nhập khẩu, quyết định đến quy mô, tốc độ tăng trưởng của hoạt động nhập khẩu. ở một
số nước, một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển là do thiếu
tiềm năng về vốn do đó nguồn vốn từ bên ngoài được coi là nguồn chủ yếu, song mọi cơ
hội đầu tư vay nợ và viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho
vay thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu - nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành hiện
thực.
- Xuất khẩu chè thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang
và sẽ thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế:
Thứ nhất, chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng nội địa.
Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển sản xuất về cơ bản chưa đủ
tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong

một phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát
triển. Thực tế trong những năm vừa qua thì số lượng chè sản xuất ra trong nước đã phần
nào đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, ngoài ra còn khoảng 27% sản lượng sản
xuất để phục vụ cho xuất khẩu.
Thứ hai, coi thị trường thế giới là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu.
Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất, thể
hiện:




+ Xuất khẩu chè tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển.
Chẳng hạn, khi sản xuất chè xuất khẩu phát triển thì nó cần rất nhiều sự hỗ trợ của
các ngành khác như : công nghiệp chế tạo máy móc, công nghiệp điện, giao thông vận
tải… và nó cũng đỏi hỏi chính sự phát triển của các ngành này
+ Xuất khẩu chè tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm chè, góp phần ổn
định sản xuất, tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô.
+ Xuất khẩu chè tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất
chè, tăng thêm về nguồn nguyên liệu cho sản xuất và chế biến, mở rộng khả năng tiêu
dùng của một quốc gia. Ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt
hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần giới hạn sản xuất của quốc gia đó.
+ Xuất khẩu chè còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả
sản xuất chè của Việt Nam trên thị trường thế giới. Nó cho phép chuyên môn hoá sản
xuất chè phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Ngày nay đối với việc sản xuất những
sản phẩm công nghệ cao thì : mỗi một loại sản phẩm người ta nghiên cứu thử nghiệm ở
nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và
thanh toán thực hiện ở nước thứ năm. Như vậy, hàng hoá sản xuất ra ở một nước và tiêu
thụ ở nhiều nước khác nhau cho thấy tác động ngược trở lại của hoạt động xuất khẩu đối
với việc chuyên môn hoá sản xuất, tạo điều kiện cho chuyên môn hoá sâu. Đối với việc
sản xuất chè xuất khẩu ở Việt Nam để được thị trường thế giới chấp nhận thì đòi hỏi cần

có một sự chuyên môn hoá không về mặt sản xuất mà còn có chuyên môn hoá về thương
mại cho sản phẩm chè.
Với đặc điểm quan trọng là tiền tệ được sử dụng làm phương tiện thanh toán,
xuất khẩu chè cũng góp một phần làm tăng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam. Đặc biệt là
đối với Việt Nam một nước đang phát triển, đồng tiền không có khả năng chuyển đổi
thì ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà về
cung cầu ngoại tệ, ổn định sản xuất, qua đó góp phần vào tăng trưởng và phát triển
kinh tế.




- Xuất khẩu chè có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm, xoá
đói giảm nghèo cải thiện đời sống nhân dân tại các vùng đặc biệt là người lao động
ở trung du, miền núi
Những năm gần đây với việc triển khai giao đất và khoán vườn chè cho người
lao động theo nghị định 01 - CP của chính phủ cùng với những giải pháp của ngành
chè Việt Nam để giải quyết đủ việc làm cho cán bộ công nhân viên, cùng với cơ chế
và phương thức mua chè thuận lợi cho người lao động đã tạo động lực khuyến khích
người lao động phấn khởi chủ động đầu tư thâm canh vườn chè để đạt năng suất và
chất lượng cao, ở trung du và miền núi người dân có tập quán trồng lúa nương, sẫn
…Với thu nhập lúa nương trung bình 2-3 triệu/ha, còn trồng 1 ha chè trên vùng đồi
núi khô cằn thu được 10-12 triệu /ha, sau khi đã trừ đi các chi phí đầu tư ban đầu 1 ha
chè thu hoạch được bằng 3-4 lần lúa nương. Nhờ vậy đời sống người làm chè được
cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân toàn ngành năm 1996 chỉ đạt 250.000
đồng/người/tháng, năm 1997 đã tăng lên 350.000đồng /người /tháng, năm 1998 là
400.000 đồng /người /tháng, năm 1999 đã đạt năm 500.000 đồng /người/ tháng, năm
2000 là 550.000 đồng /người /tháng. Trong sản xuất nông nghiệp thu nhập bình quân
năm 1997 đạt 400-500 nghìn đồng / người/tháng, năm 1998 là 500-600 nghìn đồng
/người/ tháng, cho đến năm 1999 đã đạt 700-800 nghìn đồng /người/ tháng, năm 2000

đạt 850-900 nghìn đồng/người/tháng. Một số đơn vị sản xuất chè có thu nhập rất cao
như :Trần Phú, Nghĩa Lộ, Yên Bái, Phú Sơn, Mộc Châu.
Để tăng thêm thu nhập cải thiện người làm chè, các hộ làm chè đã kết hợp làm
kinh tế gia đình theo mô hình VAC gắn liền kinh tế vườn nhà, vườn đồi, đem lại
nguồn thu nhập đáng kể góp phần quan trọng để ổn định đời sống nhất là những khi
việc sản xuất kinh doanh của xí nghiệp gặp khó khăn. Nhiều gia đình ở Công ty chè
Sông Cầu, Phú Sơn, Trần Phú , …đạt mức thu nhập kinh tế gia đình (VAC) từ 18-
223 triệu đồng /năm/hộ , đặc biệt là Công ty chè Mộc Châu vùng đặc sản cây mơ,
cây mận có giá trị kinh tế cao hàng năm có tới 30-40% số hộ gia đình có thu nhập từ
cây mơ, cây mận đạt từ 12-18 triệu đồng/ năm, có gia đình thu nhập đạt 40-50 triệu
đồng /năm .Nhờ có thu nhập từ các cây trồng khác và làm kinh tế phụ đã giúp cho




cây chè phát triển ổn định, lâu dài và tạo thành một vùng sản xuất hàng hoá lớn. Do
sản xuất và kinh doanh có hiệu quả mà đời sống vật chất và văn hoá của người làm
chè được nâng lên. Theo báo cáo năm 1999 của Tổng Công ty chè thì có khoảng 30%
hộ khá, giàu, 55% số hộ trung bình và số hộ nghèo đói là 15%, cho đến năm 2000 con
số này lần lượt là 33% , 60%, 7%. Đây là dấu hiệu tích cực đối với ngành chè và
người lao động.
- Xuất khẩu chè là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có mối tác động qua lại phụ
thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu chè là một loại hoạt động chủ yếu cơ bản và là
hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó nó thúc đẩy các mối quan hệ
khác phát triển theo như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế Ngược
lại, sự phát triển của các ngành này lại là những điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất
khẩu phát triển.
Xuất khẩu nói riêng và ngoại thương nói chung dẫn tới sự thay đổi của những

loại hàng hoá có thể tiêu dùng được trong nền kinh tế bằng hai cách:
+ Cho phép khối lượng hàng tiêu dùng khác với số hàng hoá được sản xuất ra.
+ Cho phép một sự thay đổi có lợi cho phù hợp với các đặc điểm của sản xuất.
+ Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác động
của xuất khẩu đối với các quốc gia này không giống nhau.
- Xuất khẩu chè góp một phần tăng GDP, GNP.
Thật vậy, năm 1998 sản lượng chè búp của Việt Nam đạt 53 ngàn tấn, xuất
khẩu 33,5 ngàn tấn, thu về 48,9 triệu USD, năm 1999 sản lượng thu được là 56 ngàn
tấn, xuất khẩu 31,8 ngàn tấn và thu về 43 triệu USD, năm 2000 xuất khẩu 34,6 ngàn
tấn, thu về 48,65 triệu USD, năm 2001 xuất khẩu 35 ngàn tấn và thu về 50 triệu USD
3.2. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè
Ngày nay, xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của
tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp, việc xuất khẩu chè đã mang mang lại cho
doanh nghiệp sản xuất chè rất nhiều lợi ích cụ thể là:




- Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp sản xuất chè trong nước có cơ hội
tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường chè thế giới về giá cả và chất lượng chè.
Những yếu tố đó đòi hỏi các doanh nghiệp chè phải hình thành một cơ cấu sản xuất
của mình phù hợp với thị trường thế giới. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp tự nâng cao
năng lực và trình độ sản xuất của mình để tạo ra những sản phẩm chè có chất lượng
cao, phù hợp với nhu cầu của từng thị trường.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất chè mở rộng thị trường,
mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong nước và nước ngoài, trên cơ sở
hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro,
mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp chè phải luôn đổi mới và hoàn thiện công
tác quản trị kinh doanh, luôn tìm tòi và đưa ra mô hình sản xuất, chế biến, tổ chức,

tiêu thụ sao cho có hiệu quả nhất. Thêm vào đó hoạt động xuất khẩu còn khuyến
khích sự phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp chè chẳng hạn như
hoạt động đầu tư nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản xuất, marketing và sự
phân phối, sự mở rộng trong việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu các mặt hàng khác.
- Sản xuất chè xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo
ra thu nhập ổn định, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng, các dây chuyền
công nghệ có liên quan đến sản xuất và chế biến chè, vừa đáp ứng được nhu cầu ngày
càng cao của nhân dân và thu được ngoại tệ để phục vụ cho qua trình tái đầu tư.
- Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu chè có cơ hội mở rộng quan hệ
buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài có thể thông qua đối tác tiêu thụ chè
của mình mà doanh nghiệp có được những thông tin, nguồn sản phẩm mới, công nghệ
mới mà ngay thị trường trong nước đang cần. Thông qua hoạt động xuất khẩu chè mà
doanh nghiệp có điều kiện, cơ hội để liên doanh, liên kết hợp tác để sản xuất, tiêu thụ
những loại sản phẩm mới ngay tại nước mình hoặc các nước khác.
Ngoài ra việc xuất khẩu đưa mặt hàng chè ra thị trường quốc tế còn giúp ngành
chè hiểu, xác định được mình nên chú trọng vào loại chè nào. Cần nâng cao chất




lượng, đổi mới mẫu mã, bao bì và hạ giá thành cho phù hợp nhất với thị hiếu của thị
trường quốc tế nhằm thu được lợi nhuận tối đa.
II. Các hình thức xuất khẩu chè
Với mục tiêu là đa dạng hoá các hình thức kinh doanh xuất khẩu, nhằm phân
tán và chia sẻ rủi ro, từ trước tới nay các doanh nghiệp chè thường lựa chọn các hình
thức xuất khẩu chủ yếu là:
1. Xuất khẩu trực tiếp
Kinh doanh xuất khẩu chè trực tiếp là việc xuất khẩu các loại chè do chính
doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước sau đó xuất
khẩu những mặt hàng này ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của doanh nghiệp

mình. Đây là hình thức mà các doanh nghiệp ở Việt Nam thường áp dụng nhất kể từ
khi nhà nước cho phép mọi doanh nghiệp đều được tham gia xuất khẩu.
Các bước tiến hành một thương vụ xuất khẩu chè trực tiếp trong trường hợp
doanh nghiệp không tự sản xuất ra chè để xuất khẩu.
- Ký hợp đồng với các doanh nghiệp chế biến chè khác trong nước, mua
hàng và trả tiền.
- Ký hợp đồng xuất khẩu chè với các doanh nghiệp nước ngoài, giao hàng và
thanh toán tiền .
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận mà đơn vị kinh doanh xuất khẩu chè
thường cao hơn các hình thức khác. Doanh nghiệp đứng ra với vai trò là người bán
trực tiếp, do đó nếu mặt hàng chè có quy cách, chất lượng, mẫu mã tốt sẽ nâng cao
được uy tín cho doanh nghiệp mình trên thị trường, nhất là trong điều kiện hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, trước hết hình thức này đòi hỏi doanh
nghiệp phải xuất khẩu phải có vốn khá lớn ứng trước để tự sản xuất, thu mua, chế
biến mặt hàng chè xuất khẩu nhất là những hợp đồng có giá trị lớn. Đồng thời loại
hình xuất khẩu này lại cũng có những rủi ro lớn như : chè kém chất lượng, sai quy
cách phẩm chất, mẫu mã không đạt yêu cầu dẫn tới không xuất khẩu được, đặc biệt là
đối với những loại chè mà doanh nghiệp thu mua để xuất khẩu thì tỷ lệ này rất cao, do




công tác kiểm tra chất lượng chè khi thu mua kém, không chu đáo, làm việc thiếu
chất lượng… hoặc là kiểm tra bị khiếu lại do thanh toán chậm, do doanh nghiệp chế
biến gặp khó khăn, do thiên tai, mất mùa nên ký hợp đồng song không có hàng để
xuất khẩu, hoặc do biến động của tỷ giá hối đoái hoặc do lãi xuất ngân hàng tăng….
2. Xuất khẩu uỷ thác
Trong hình thức xuất khẩu chè uỷ thác doanh nghiệp ngoại thương đóng vai
trò là trung gian xuất khẩu làm thay cho các doanh nghiệp sản xuất chè những thủ tục
xuất khẩu cần thiết để xuất khẩu chè được hưởng phần trăm(%) theo giá trị lô hàng

xuất khẩu. Tỷ lệ phần trăm này là do hai bên tự thoả thuận và ký kết hợp đồng, thông
thường là 0,5%giá trị. Hình thức này chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp xuất khẩu
một lượng hàng nhỏ hoặc trước kia doanh nghiệp không có giấy phép kinh doanh
xuất nhập khẩu trực tiếp.
Hình thức xuất khẩu uỷ thác được tiến hành theo các bước sau:
- Ký hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu chè cho doanh nghiệp chế biến trong
nước.
- Thay mặt ký hợp đồng với phía nước ngoài, làm thủ tục giao hàng và thanh
toán tiền.
- Về phần tìm kiếm doanh nghiệp nhập khẩu chè ở nước ngoài là do sự thoả
thuận giữa doanh nghiệp chế biến chè và doanh nghiệp ngoại thương.
- Nhận phí uỷ thác xuất khẩu chè từ doanh nghiệp chế biến trong nước.
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là mức độ rủi ro thấp do không phải chịu
trách nhiệm về giá cả tăng hay giảm bất thường, người đứng ra xuất khẩu chè không
phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Đặc biệt, với tình hình khan hiếm vốn như
hiện nay các doanh nghiệp ngoại thương thường áp dụng hình thức này do không cần
huy động vốn để mua chè. Tuy nhận tiền ít nhưng nhận tiền nhanh cần ít thủ tục và
tương đối tin cậy.
3. Xuất khẩu theo nghị định thư giữa hai chính phủ
Đây là hình thức xuất khẩu chè (thường là để trả nợ) được ký theo nghị định
thư giữa hai chính phủ. Xuất khẩu chè theo hình thức này có nhiều ưu đãi như : khả




năng thanh toán chắc chắn ( do nhà nước trả cho doanh nghiệp chế biến chè xuất
khẩu), giá cả chè nhìn chung có thể chấp nhận được, doanh nghiệp chế biến không
phải lo nghĩ về đầu ra cho chè mà mình sản xuất …Trên thực tế hiện nay, thì hình
thức này rất ít được áp dụng. Nhà nước chỉ giao nhiệm vụ cho doanh nghiệp nào có
khả năng về tài chính, năng lực sản xuất nhất. Thông thường thì Tổng Công ty chè

Việt Nam thực hiện hình thức này. Hình thức này còn thực hiện là việc trả nợ cho
Nga và các nước Đông Âu, theo chương trình đổi dầu lấy lương với iraq của Liên
Hợp Quốc.
III. Nội dung hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè
Nội dung cơ bản của hoạt động xuất khẩu chè cũng tương tự như nội dung cơ
bản của hoạt động kinh doanh chè trong nưóc, nhưng khác biệt là có yếu tố nước
ngoài tham gia và mang tính phức tạp, nhiều rủi ro hơn so với hoạt động mua bán
trong nước.
Hoạt động trên thị trường quốc tế, tất cả các doanh nghiệp chè dù đã có nhiều
kinh nghiệm hay mới bắt đầu tham gia vào kinh doanh đều phải tuân thủ một cách
nghiêm túc những công đoạn của một thương vụ làm ăn thì mới có khả năng tồn tại
lâu dài được.
Hoạt động xuất khẩu chè được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều
khâu. Mỗi nghiệp vụ này đều phải được nghiên cứu một cách đầy đủ, kỹ lưỡng và đặt
trong mối quan hệ lần nhau, tranh thủ nắm bắt được những lợi thế nhằm bảo đảm cho
hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao.
Để việc tổ chức xuất khẩu chè được tốt và có hiệu quả thì các doanh nghiệp chè
phải nắm được những vấn đề cơ bản của hoạt động xuất khẩu.
1. Lựa chọn thị trường
Đây là một quá trình hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Trong
nhiều trường hợp, doanh nghiệp không thể hoạt động trên toàn bộ thị trường của quốc
gia nào đó mà chỉ có thể hoạt động trên một đoạn hoặc một số đoạn thị trường nào đó,
dựa vào việc phân đoạn thị trường trên cơ sở các tiêu thức dùng để phân loại. Tuy
nhiên, cũng có nhiều trường hợp doanh nghiệp có thể hoạt động trên phạm vi quốc




gia, khu vực hoặc toàn cầu. Việc lựa chọn thị trường xuất khẩu chè đòi hỏi doanh
nghiệp phải phân tích tổng hợp nhiều yếu tố bao gồm cả những yếu tố vĩ mô, những

yếu tố vi mô và khả năng của doanh nghiệp, thường đó là các yếu tố về văn hoá - xã
hội, luật pháp, kinh tế, chính trị, khoa học công nghệ và các yếu tố thuộc môi
trường tài chính. Đây cũng là một quá trình đòi hỏi nhiều thời gian chi phí.
2. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu
Sau khi lựa chọn được thị trường phù hợp với doanh nghiệp mình thì doanh
nghiệp phải xác định những loại chè nào mà mình định kinh doanh. Trên thực tế,
doanh nghiệp có sự lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chè như sau:
- Doanh nghiệp xuất khẩu những loại chè mà mình sản xuất.
- Doanh nghiệp xuất khẩu những loại chè mà thị trường cần.
- Doanh nghiệp sản xuất những loại chè giống như thị trường thế giới không
phân biệt sự khác nhau về văn hoá, xã hội, ngôn ngữ, phong tục tập quán và biên
giới quốc gia.
Sản phẩm chè cũng giống như các sản phẩm khác là cũng tồn tại một chu kỳ
sống của sản phẩm. Chu kỳ này là tiến trình phát triển việc tiêu thụ một loại chè cụ
thể bao gồm 4 giai đoạn như sau : Thâm nhập – Phát triển – Bão hoà - Thoái trào.
Việc xuất khẩu chè đang ở giai đoạn 1 và 2 gặp thuận lợi nhất. Tuy nhiên, có khi sản
phẩm chè đã ở giai đoạn 4 nhưng nhờ việc thực hiện các biện pháp xúc tiến tiêu thụ
(quảng cáo, cải tiến hệ thống tổ chức tiêu thụ, giảm giá bán, khuyến mãi…) người ta
có thể đẩy mạnh được xuất khẩu.
Ngày nay, xu hướng xuất khẩu những loại chè mà thị trường cần và xuất khẩu
những loại chè giống nhau ra các thị trường là phổ biến. Còn xuất khẩu những loại
chè mà doanh nghiệp sản xuất ra chỉ bó hẹp trong một lĩnh vực…
Như vậy, việc lựa chọn loại chè xuất khẩu, ngoài yêu cầu phải đạt tiêu chuẩn
chất lượng quốc tế, đáp ứng nhu cầu thị trường thì còn phải phù hợp với khả năng
cũng như kinh nghiệm của từng doanh nghiệp chế biến chè xuất khẩu. Điều này đòi
hỏi phải có sự phân tích đánh giá cẩn thận những đặc điểm nội tại của doanh nghiệp
chế biến chè xuất khẩu đó cũng như dự đoán được cơ hội hay bất lợi khi đưa sản





phẩm chè của mình ra thị trường quốc tế. Đồng thời doanh nghiệp cần dự đoán xu
hướng biến động của thị trường cũng như cơ hội và thách thức mà mình sẽ gặp phải
trên thị trường thế giới.
3. Lựa chọn khách hàng
Sau khi đã lựa chọn được loại chè và thị trường xuất khẩu phù hợp, doanh
nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường đó thì cần phải lựa chọn các đối tác đang hoạt
động trên thị trường đó để thực hiện các kế hoạch kinh doanh của mình. Việc lựa
chọn đúng đối tác giao dịch sẽ tránh cho doanh nghiệp sản xuất chè những phiền toái
không đáng có, những mất mát, rủi ro dễ gặp phải trong quá trình kinh doanh chè xuất
khẩu trên thị trường quốc tế.
Là những người xuất nhập khẩu trực tiếp với bạn hàng kinh doanh thì doanh
nghiệp sẽ không phải chia sẻ lợi nhuận kinh doanh. Tuy nhiên trong trường hợp thị
trường hoàn toàn mới thì cách tốt nhất là phải thông qua các đại lý hoặc các Công ty
uỷ thác xuất khẩu, trung tâm giao dịch chè để giảm bớt chi phí cho việc thâm nhập thị
trường. Do vậy, cần phải lựa chọn bạn hàng với những đặc điểm sau:
+ Quen biết, uy tín trong kinh doanh.
+ Có thực lực tài chính.
+ Có thiện chí trong quan hệ làm ăn.
Để có thể tìm hiểu chính xác được bạn hàng làm đối tác, ngoài việc dựa trên
những mối quan hệ bạn hàng có sẵn, đã hiểu biết và có uy tín kinh doanh với nhau thì
cần phải thông qua các Công ty tư vấn, các sở giao dịch, Phòng Thương mại và Công
nghiệp các nước có quan hệ buôn bán.
Việc lựa chọn bạn hàng có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực hiện
thắng lợi các hợp đồng kinh doanh song nó cũng phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm
của người giao dịch
4. Lựa chọn phương thức giao dịch
Phương thức giao dịch là những cách thức mà doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh chè sử dụng để thực hiện các mục tiêu và kế hoạch kinh doanh của mình trên
thị trường thế giới. Những cách thức này quy định thủ tục cần thiết, các điều kiện





giao dịch, các thao tác của quan hệ giao dịch kinh doanh. Có nhiều phương thức giao
dịch khác nhau. Nhưng phương thức giao dịch phổ biến và được sử dụng nhiều nhất
vẫn là phương thức giao dịch trực tiếp không thông qua trung gian. Phương thức
giao dịch này cho phép hai bên bàn bạc trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau, không phải
qua khâu trung gian do đó dễ dàng đi đến thống nhất, không làm mất đi cơ hội kinh
doanh của cả hai bên. Xét về mặt hiệu quả thì giảm được chi phí trung gian và do đó
tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp sản xuất và kinh chè. Hơn nữa hình thức này còn tạo
điều kiện cho cả người mua và người bán chủ động trong việc sản xuất kinh doanh
chè.
Nói chung với những khách hàng khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm của thị
trường và khả năng mà doanh nghiệp chè có thể lựa chọn những phương thức giao
dịch khác nhau.
5. Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu
Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu chè là một trong những khâu quan trọng
trong hoạt động xuất khẩu. Việc đàm phán phải căn cứ vào nhu cầu về sản phẩm chè
trên thị trường, đối thủ cạnh tranh, khả năng điều kiện và mục tiêu của doanh nghiệp
cũng như mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đối tác.
Có các hình thức đàm phán sau mà doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh chè
thường áp dụng:
+ Đàm phán qua thư tín
+ Đàm phán qua điện thoại
+ Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp…
6. Thực hiện hợp đồng, giao hàng và thanh toán tiền
Sau khi đã ký kết hợp đồng, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu chè phải thực
hiện hợp đồng mà mình ký kết, tiến hành sắp xếp những việc phải làm, ghi thành
bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng Đây là một công việc phức tạp đòi hỏi

phải tuân thủ luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng thời phải bảo đảm được quyền lợi quốc
gia và uy tín kinh doanh của đơn vị xuất khẩu.




IV. Đặc điểm cung cầu thị trường chè và Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến
xuất khẩu chè của Việt Nam
1. Đặc điểm thị trường tiêu thụ chè
Ngoài những đặc điểm của thị trường hàng hoá nói chung, thị trường tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm chè có những đặc điểm
riêng đó là:
- Tính ổn định và tương đối ít co giãn về mặt cung cầu.
Chúng ta đều biết các sản phẩm chè là loại phục vụ trực tiếp cho nhu cầu cơ
bản của đời sống con người, tuy nhiên không phải vì sản phẩm trên thị trường nhiều
và rẻ mà người tiêu dùng cần nhiều sản phẩm hơn, mà do những giới hạn về sinh lý
nên mỗi người cũng chỉ có thể tiêu thụ mỗi loại với những số lượng nhất định,
không phải có nhu cầu tiêu dùng lớn và đắt giá mà người sản xuất muốn cung ngay
một số lượng lớn cho thị trường được. Điều này không thể được vì do những đặc
điểm của sản xuất nông nghiệp, sản phẩm chè sản xuất đòi hỏi phải có thời gian, mà
thời gian sản xuất lại phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản phẩm.
Cho nên xét về khía cạnh cung- cầu của sản phẩm chè cho thị trường tương đối
ít co giãn. Để góp phần ổn định và phát triển thị trường sản phẩm chè, đặc điểm này
yêu cầu, một mặt phải nghiên cứu được nhu cầu để đẩy mạnh sản xuất, tăng cung, đáp
ứng nhu cầu một cách chủ động. Mặt khác, phải chủ động có những giải pháp để điều
hoà cung cầu một khi có biến động lớn trên thị trường bằng các giải pháp như bảo hộ,
bảo hiểm, dự trữ, tích trữ…
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm chè có tính thời vụ rõ nét
Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là có tính thời vụ cao, nhất là đối với
ngành trồng trọt. Chính vì vậy mà cung và cầu về sản phẩm chè trên thị trường không

cân bằng về thời gian và không gian. Thông thường, ngay sau vụ thu hoạch do nhu
cầu tiêu dùng để thực hiện quá trình tái sản xuất tiếp theo buộc người sản xuất phải
bán nông sản ra thị trường không kể giá thị trường cao hay thấp. Hơn nữa, hàng loạt
người sản xuất cùng thu hoạch và có cùng yêu cầu tiêu thụ sản phẩm trên thị trường
đã làm cho khối lượng cung tại thời điểm đó vượt quá cầu và giá thường giảm nhiều,




thậm chí có lúc giảm thấp hơn giá sản xuất. Nhưng vào thời kỳ chè đốn người sản
xuất bán ra ít, khối lượng cung nhỏ hơn cầu của xã hội dẫn tới giá thị trường tăng nên.
Song cũng không vì thế mà người sản xuất có thể tăng cung ngay để thu nhiều lợi
nhuận vì đất trồng vốn đã có giới hạn và cây trồng cũng cần có thời gian sinh trưởng
tự nhiên.
Do đặc điểm này mà người sản xuất nông nghiệp không những phải đối phó
với sự tác động của điều kiện tự nhiên mà còn phải đối phó các vấn đề khách quan
khác xuất phát từ thị trường. Sự biến động một cách tự phát trước biến động bất lợi
của thị trường là sự ra đi của lĩnh vực đang sản xuất, tìm nơi đầu tư có lợi hơn, hoặc
tăng giảm mạnh diện tích trồng cấy. Cơ chế biến động tự phát của giá cả tạo sự phá
hoại lực lượng sản xuất và gây tổn thất cho cả người sản xuất và người tiêu dùng sản
phẩm chè. Để hạn chế sự biến động của thị trường sản phẩm chè theo thời vụ thì :
Về phía người sản xuất phải tạo ra được các giống trái vụ, thay đổi cơ cấu mùa
vụ để thay đổi động thái cung đáp ứng tốt hơn, kinh tế hơn cho thị trường.
Về người kinh doanh phải biết phát triển công nghiệp chế biến, dự trữ hoặc
nhập khẩu để điều hoà cung cầu.
Về phương diện Nhà Nước phải có sự can thiệp để điều hoà cung cầu nhất là
đối với sản phẩm nông nghiệp thiết yếu có tác động đến đời sống dân cư bằng hệ
thống chính sách bảo trợ hàng nông sản.
- Để phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm chè cần phải gắn liền với việc
khai thác và sử dụng lợi thế so sánh các điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu và những

điều kiện sản xuất khác…
Nhu cầu về sản phẩm chè của con người rất đa dạng cả về số lượng, chất
lượng, chủng loại, nhưng xét trên góc độ thị trường thì người ta chỉ chấp nhận mức
giá tối thiểu hợp lý. Trong khi đó xét về khía cạnh cung, mỗi loại sản phẩm chè chỉ có
thể phát triển thích hợp nhất với các điều kiện tự nhiên, cho nên mỗi vùng, mỗi quốc
gia chỉ có thể sản xuất và tung ra thị trường những sản phẩm mà họ có ưu thế hay lợi
thế so sánh thực sự. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường việc khai thcs lợi thế so
sánh đã buộc sản xuất nông nghiệp chỉ có thể cung cấp cho thị trường những sản




phẩm chè mà thị trường cần và điều kiện sản xuất cho phép. Bởi vì cây chè là cây
trồng chỉ có thể sinh trưởng, phát triển và cho sản phẩm kinh tế trong những môi
trường tự nhiên nhất định mà thôi. Chính vì vậy thị trường sản phẩm chè hình thành
nguồn cung theo luồng, theo tuyến hay khu vực và có thể phát sinh hiện tượng cạnh
tranh không hoàn hảo trên thị trường. Trong khi đó bất kỳ người sản xuất nào cũng
muốn đưa ra thị trường những sản phẩm chè mà mình có ưu thế nhất. Bởi vậy, cùng
một loại sản phẩm muốn cạnh tranh thắng lợi trên thị trường, con đường duy nhất là
các cơ sở sản xuất phải, các quốc gia phải biết tận dụng lợi thế của mình về đất đai,
thời tiết, khí hậu, về lao động, cũng như phải biết ứng dụng những thành tựu mới nhất
của khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất cây trồng,
nâng cao năng xuất lao động hạ giá thành sản phẩm là điều đảm bảo cho sự thành
công trên thị trường.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm chè cũng như thị trường sản phẩm nông nghiệp
nói chung là một thị trường bị chia cắt do hàng rào thuế quan và chính sách bảo hộ
mậu dịch của các nước.
Trên thị trường tiêu thụ sản phẩm chè cũng như nhiều nông sản khác trên thế
giới do nhiều yếu tố về kinh tế và chính trị chi phối, nhiều nước đã đưa ra một hệ
thống chính sách bảo hộ mậu dịch khắt khe đối với loại nông sản phẩm nhằm bảo vệ

lợi ích của người nông dân với Chính phủ. Đặc biệt đối với nhiều nước phát triển họ
dùng con bài nông phẩm như là một thứ vũ khí lợi hại để khuất phục các nước lạc
hậu. Do chính sách này đẫ làm cho khả năng mở rộng thị trường của các nước đang
phát triển vào các nước phát triển là hết sức khó khăn và cuộc đấu tranh giữa quan
điểm mậu dịch tự do và bảo hộ mậu dịch trên thị trường sản phẩm nông nghiệp thế
giới là cực kỳ gay gắt.
2. Cung cầu thị trường chè
2.1. Cung về sản phẩm chè
Cung về sản phẩm chè là số lượng sản phẩm chè mà ngành chè có khả năng
và sẵn sàng cung cấp ra thị trường ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất
định.




Cung về sản phẩm chè có thể do hai nguồn chủ yếu : hoặc do sản xuất chè
trong nước hoặc nhập từ nước ngoài. Tuỳ theo điều kiện của từng nước mà tỷ trọng
của những sản phẩm chè lưu thông trên thị trường do nguồn nào chiếm bao nhiêu là
không giống nhau. Việc xác định số lượng cung dựa vào diễn biến tình hình của thị
trường và số liệu thống kê hằng năm về diện tích, năng suất, và sản lượng hàng hoá
hàng năm của ngành chè. Theo tính toán của hiệp hội chè thì hiện nay Việt Nam đã có
không 100 nghìn ha trồng chè, hàng năm cho khoảng hơn 70 nghìn tấn/năm. Nếu như
đến 2010 mở rộng đến 130 nghìn ha thì lượng cung sẽ thừa cho nhu cầu tiêu dùng
trong nước. Đương nhiên khối lượng sản phẩm chè hàng hoá lại phụ thuộc vào bộ
phận sản phẩm chè được dùng để tiêu thụ nội bộ trong tổng sản phẩm chè được sản
xuất ra, cho nên tiết kiệm và tiêu dùng hợp lý bộ phận sản phẩm chè tiêu dùng nội bộ
là biện pháp quan trọng bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất chè để tăng khối lượng sản
phẩm chè cung ứng ra thị trường.
Khả năng cung thực tế của sản lượng chè hàng hoá phụ thuộc vào các yếu tố
cơ bản sau :

- Giá cả sản phẩm chè hàng hoá trên thị trường:
Trong đại đa số trường hợp, giá cả đóng vai trò là tham số điều chỉnh quan hệ
cung cầu và theo đó điều chỉnh dung lượng và nhịp độ tiêu thụ của thị trường .
- Giá cả của sản phẩm cạnh tranh : Sự xuất hiện các sản phẩm mới, sản phẩm
thay thế, và giá cả của chúng sẽ ảnh tới lượng cung của sản phẩm chè hàng hoá trên
thị trường .
- Giá cả các yếu tố đầu vào .
- Trình độ chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra vốn, công nghệ cũng ảnh hưởng tới cung sản phẩm chè hàng hoá trên
thị trường. Sự phát triển của công nghệ chế biến và mức độ tiếp cận với công nghệ và
kỹ thuật chế biến tiên tiến trên thế giới đã tạo ra những giá trị sử dụng mới, chất
lượng cao hơn, tạo ra những quan hệ mới trong cung – cầu, kích thích mở rộng và
phát triển thị trường .

×