Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

LUẬN VĂN: Thực trạng nhập khẩu của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội và một số kiến nghị pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.39 KB, 86 trang )











LUẬN VĂN:

Thực trạng nhập khẩu của Công
ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội và
một số kiến nghị


























LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra với tốc độ
nhanh chóng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, ở cả cấp độ khu vực và thế giới, với
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, sự phụ thuộc lẫn nhau về thương
mại và kinh tế giữa các quốc gia ngày càng sâu sắc. Trong cơ chế thị trường với
nền kinh tế mở và đang từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu vốn đã có vai trò thiết thực thì nay nó càng có một vai trò vô cùng
quan trọng. Nó là hoạt động kinh doanh mang tính quốc tế làm cầu nối giữa kinh
tế Việt Nam và kinh tế thế giới, góp phần đắc lực thúc đẩy tăng nhanh năng suất
lao động xã hội và tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ được lợi thế so sánh trong
trao đổi với nước ngoài. Nhập khẩu để bù đắp những mặt hàng còn thiếu mà nền
sản xuất trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng không đủ để đáp ứng
nhu cầu trong nước – ô tô là một mặt hàng như thế. Hoạt động kinh doanh nhập
khẩu ô tô không chỉ giữ vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc dân
phát triển thông qua việc đáp ứng nhu cầu giao thông vận tại, góp phần phát triển
kinh doanh thương mại mà còn đem lại lợi nhuận rất cao.
Thị trường ô tô hiện nay rất sôi động và kinh doanh mặt hàng này đang là
nguồi lợi cho nhiều công ty. Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội cũng tham gia vào
thị trường đó và hoạt động liên tục có lãi trong nhiều năm qua. Công ty có chức
năng chính là kinh doanh nhập khẩu ô tô. Qua thời gian thực tập tại Công ty, cùng

với kiến thức được trang bị tại nhà trường, với mục đích tìm hiểu thêm về hoạt
động kinh doanh nhập khẩu ô tô, thiết bị phụ tùng ô tô tại Công ty, em đã chọn đề
tài : “ Thực trạng nhập khẩu của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội và một số
kiến nghị “ cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục đích của chuyên đề là trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh
nhập khẩu ô tô tại Công ty để tìm ra những mặt đã đạt được và những mặt hạn chế
chủ yếu trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu ô tô của Công ty, từ đó đưa ra một số
kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục. danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề
gồm có 3 chương chính sau :
Chương 1 : Tổng quan về Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội.
Chương 2 : Thực trạng nhập khẩu của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội.
Chương 3 : Kiến nghị một số biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu của
Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội.
















CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN XNK Ô TÔ HÀ NỘI

1.1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty.
- Tên công ty: Công ty cổ phần xuất nhập khẩu ô tô Hà Nội.
- Địa chỉ trụ sở chính: Lô 4, khu 4, tập thể cục cảnh sát kinh tế, phường
Xuân La, Tây Hồ, Hà Nội
- Địa chỉ chi nhánh:
Chi nhánh 1 : 425 Nguyễn Văn Cừ - Long Biên – Hà Nội.
Chi nhánh 2 : 45 Hồ Tùng Mậu – Cầu Giấy – Hà
Nội.
Chi nhánh 3 : 27 Tô Hiệu – TP. Hải Phòng.
- Điện thoại: 046.2940307
- Fax: 043.7689622
- Website: www.hanoiauto.vn
- Giấy phép kinh doanh số: 0103023138 do phòng đăng ký kinh doanh số
1, Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp
ngày 24/03/2005.
- Mã số thuế: 0102694886
- Vốn điều lệ: 11.000.000.000 VND
Từ năm 2005 đến nay, Công ty cổ phần XNK ôtô Hà Nội có sự phát triển
mạnh mẽ về mọi mặt, đặc biệt là về nguồn vốn, nhân lực và năng lực kinh doanh,
cụ thể là:
- Trước năm 2005, công ty chỉ là một showroom nhỏ, làm đại lý mua bán và
trao đổi các loại ô tô đã qua sử dụng, và buôn bán các loại phụ tùng xe ô tô. Hoạt
động của công ty trong thời gian này rất nhỏ lẻ và manh mún.

- Năm 2005, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, công ty chính thức
đăng kí hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty cổ phần và soạn thảo điều lệ
hoạt động lần 1. Tuy nhiên, công ty vẫn hoạt động ở mức độ nhỏ hẹp, cấp cơ sở và

không được nhiều người biết đến. Lúc này công ty chỉ có một cơ sở chính đặt tại
Lô 4, khu 4, tập thể cục cảnh sát kinh tế, phường Xuân La, Tây Hồ, Hà Nội.
- Năm 2006, công ty mở thêm 2 chi nhánh mới : 1 chi nhánh tại 45 Hồ Tùng
Mậu – Cầu Giấy - Hà Nội và 1 chi nhánh tại 27 Tô Hiệu, thành phố Hải Phòng. Từ
đây, công ty là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân độc lập, hạch toán kinh tế độc
lập, có con dấu giao dịch riêng mang tên công ty, có tài khoản Việt Nam và ngoại
tệ tại Ngân hàng Nhà nước.
- Năm 2007-2009: Mặc dù gặp nhiều khó khăn và thử thách trong bối cảnh nền
kinh tế có nhiều yếu tố bất ổn định, nhưng có thể nói, đây là thời kì quan trọng và
có nhiều sự kiện nổi bật đánh dấu sự ra đời chính thức của công ty.
Công ty Cổ phần XNK ôtô Hà Nội là đơn vị kinh tế cơ sở, hoạt động theo
nguyên tắc tự quản, có tư liệu sản xuất và các vốn khác, tự quyết định mọi vấn đề
về sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về thu nhập và lỗ lãi.
Thời gian này do xu hướng phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu, dựa
vào những ưu đãi chính sách đầu tư phát triển của nhà nước, các chính sách pháp
luật, các hợp đồng kinh tế đã kí kết, kết quả nghiên cứu nhu cầu thị trường, thông
tin kinh tế của cấp trên. Công ty được toàn quyền chủ động xác định phương án
kinh doanh, lựa chọn mặt hàng, thiết bị công nghệ, hình thức dịch vụ, cơ cấu tổ
chức, thị trường tiêu thụ phù hợp với yêu cầu chuyên môn hoá cao, hiệp tác hoá và
kinh doanh tổng hợp công ty để đặt hiệu quả cao.
Công ty mở mối quan hệ liên doanh, liên kết với mọi tổ chức, cá nhân,
không giới hạn địa bàn và thành phần kinh tế, công ty cũng sẵn sàng hợp tác với
các tổ chức, cá nhân nước ngoài dưới hình thức xuất, nhập khẩu, trao đổi hàng
hoá, sản phẩm, hợp tác kinh doanh…theo đúng qui định của nhà nước.
Công ty đã thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức ngoại thương
nhà nước để xuất, nhập khẩu các sản phẩm của công ty, nhập khẩu hàng hoá, vật

tư nguyên liệu, thiết bị toàn bộ, thiết bị bán lẻ, phụ tùng thay thế để phục vụ cho
sản xuất kinh doanh.
- Từ 2005 – 2008: vốn điều lệ của công ty là :9.000.000.000 VND

Giai đoạn này, công ty đã thực sự khẳng định vị trí của mình trên thị trường, kể
cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Công ty đã mở rộng quan hệ đối tác
với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có thị trường rộng lớn và có
trang thiết bị công nghệ hiện đại như: Nhật Bản, Hàn Quốc….
Doanh thu của công ty không ngừng tăng lên, mặc dù phải đối mặt với cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới, song công ty vẫn đạt được mức lợi nhuận tương đối
khả quan khoảng 10 tỷ đồng/ năm.
- Năm 2009 công ty soạn thảo và thông qua điều lệ hoạt động lần thứ 2.
Với số vốn điều lệ tăng lên đến mức 11.000.000.000 đồng.
Mặc dù nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, song với những bước đi đúng
đắn, sự quyết tâm của toàn công ty trong việc mở rộng quan hệ hợp tác với bên
ngoài, tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu, việc tăng cường đầu tư phát triển
công ty, tăng cường đầu tư cho nguồn nhân lực có trình độ cao, thiết nghĩ những gì
công ty đã đạt được và việc đề ra trong kế hoạch phát triển công ty trong những
năm tiếp theo là hoàn toàn khả thi và khẳng định sự đóng góp ngày càng nhiều các
khoản thu từ hoạt động đầu tư từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cho
Nhà nước.
1.2.Chức năng và nhiệm vụ của công ty.
Chức năng :
Như đã trình bày ở trên, trước khi trở thành công ty, với chức năng như
một showroom nhỏ chuyên buôn bán và trao đổi xe đã qua sử dụng và các phụ tùng
xe. Sau khi chính thức đăng ký hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty cổ
phần, công ty đã và đang thực hiện tốt các chức năng kinh doanh theo ngành nghề
được phép như sau :
- Đại lý mua bán thiết bị, phụ tùng ô tô.
- Dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng ô tô.

- Buôn bán ô tô du lịch, ô tô vận tải, máy cẩu, máy xúc, máy ủi, máy nâng hạ.
- Nhận đặt hàng các dòng xe nhập khẩu.
- Xuất nhập khẩu các mặt hàng công ty kinh doanh.

Trong đó, công ty đặc biệt chú trọng tới hoạt động chính phù hợp với chức
năng và chuyên môn của mình, đó là : nhập khẩu và buôn bán ô tô.
Nhiệm vụ :
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh doanh của công ty theo
quy chế hiện hành.
- Nghiên cứu khả năng cung cấp, nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế ,
thực hiện hoàn thiện các hoạt động nhập khẩu ô tô và phụ tùng để không ngừng
nâng cao chất lượng, thay đổi mẫu mã các loại xe để đáp ứng thị hiếu người tiêu
dùng.
- Tuân thủ các chính sách chế độ luật pháp của Nhà nước và thực hiện
nghiêm chỉnh các hợp đồng mua bán trao đổi, và các văn bản pháp lý khác mà
công ty đã tham gia ký kết.
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, tự chủ về tài chính.

1.3.Đặc điểm ngành hàng và mặt hàng kinh doanh của công ty.
Chúng ta thấy rằng ô tô ngày càng xâm nhập vào đời sống kinh tế xã hội
của toàn cầu, Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài xu thế này. Hơn 10 năm
trở lại đây, thị trường ô tô đã thực sự sôi động trở lại bởi sự có mặt của các nhà
đầu tư nước ngoài. Họ đã liên tục tung ra nhiều chủng loại xe với kiểu dáng hấp
dẫn, tiện nghi, chất lượng cao đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng trong nước.
Công ty Cổ phần XNK ô tô Hà Nội chủ yếu hoạt động trên lĩnh vực nhập
khẩu ô tô và thiết bị phụ tùng ô tô, là nhà cung cấp các loại xe ô tô nhập khẩu tại
thị trường Việt Nam, là cầu nối giữa thị trường ô tô trong nước và thế giới. Công
ty chủ yếu nhập khẩu mặt hàng chính là xe hơi. Công ty cũng là đại lý cho nhiều
hãng xe nổi tiếng thế giới như: Ford, Toyota, Honda, Deawoo, Mitsubishi…Các
sản phẩm mà công ty kinh doanh luôn đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng phát
triển của khoa học về vấn đề an toàn và vệ sinh môi trường.
Ô tô là một mặt hàng có tính đặc thù riêng : Đặc điểm nổi bật của ô tô là
sản phẩm mang giá trị rất cao. Chiếc ô tô từ rất lâu đã không còn được coi chỉ là
phương tiện đi lại mà đơn thuần các nhà chế tạo không ngừng trang bị cho nó vô

số tiện ích khác, khiến cho ô tô giờ đây như một mái nhà di động, một biểu tượng
của sự giàu có, thịnh vượng, phù hợp với người tiêu dùng có mức sống và thu
nhập cao cùng với điều kiện đường sá của thành phố lớn. Mỗi một chiếc ô tô có
đến 20000 – 30000 chi tiết, bộ phận khác nhau. Các chi tiết, bộ phận lại được sản
xuất với những công nghệ có đặc điểm khác nhau : chi tiết phụ tùng của loại xe
này không thể sử dụng cho các loại xe khác. Đây cũng là một mặt hàng được bảo
hộ mạnh qua thuế quan. So với vốn đầu tư vào các mặt hàng khác thì vốn đầu tư
vào ô tô lớn hơn rất nhiều. Ngành sản xuất ô tô gắn liền với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, một ngành phát triển như vũ bão. Chính vì thế đồng vốn bỏ ra đầu tư
vào ô tô dù có khả năng sinh lời cao nhưng đi kèm với nó là rất nhiều rủi ro không
những chỉ là thu hồi chậm mà còn có thể không thu hồi được nếu không bắt kịp
với thời đại.
1.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty.

Nhìn vào sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty có thể thấy mối quan hệ giữa
cấp trên với cấp dưới là một đường thẳng (trực tuyến), các bộ phận thực hiện chức
năng của mình và chịu giám sát của phó giám đốc, giám đốc và giám đốc chịu
trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trước Nhà nước. Cơ cấu
tổ chức của công ty tương đối gọn nhẹ, phù hợp với tính chất của một doanh
nghiệp thương mại. Các phòng ban tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình,
đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban tạo ra các hoạt động nhịp
nhàng trong doanh nghiệp đưa công ty ngày một kinh doanh có hiệu quả. Cụ thể,
chức năng nhiệm vụ của các phòng ban như sau:

Sơ đồ 1 : Cơ cấu tổ chức bộ máy Công ty

- Giám đốc: là người đại diện cho công ty trước pháp luật và trước khách
hàng, tổ chức và điều hành mọi hoạt động của công ty theo nghị quyết và quyết
định của HĐTV, là người được quyền tuyển dụng hoặc cho thôi việc người làm
công không đáp ứng nhu cầu kinh doanh, người vi phạm nội quy và quy chế họat

động của công ty. Ngoài ra, giám đốc còn là chủ tài khoản của công ty, thay mặt
công ty ký kết các hợp đồng kinh tế với khách hàng. Giám đốc chịu trách nhiệm
trước HĐTV về hiệu quả hoạt động của công ty, chịu trách nhiệm trước Nhà nước
về việc chấp hành pháp luật trong công ty.
Giám đốc
Phó giám đốc
hành chính
Phó giám đốc
kinh doanh
Trụ sở chính Văn phòng đại diện
Phòng kế toán
Phòng hành

chính

Phòng chăm sóc
khách hàng

Phòng kinh doanh

- Phó giám đốc: Giúp giám đốc quản lí hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty, chịu trách nhiệm trước giám đốc về công tác quản lí hoạt động kinh doanh
và hoạt động tài chính của công ty. Công tác thực hiện các mục tiêu kế hoạch sản
xuất kinh doanh của công ty đã đặt ra và đưa ra các biện pháp tối ưu.
- Phòng tài chính kế toán: có nhiệm vụ căn cứ vào kế hoạch thực hiện sản
xuất kinh doanh của công ty để lập kế hoạch cấp vốn đủ cho các hoạt động sản
xuất. Theo dõi tình hình tài chính của công ty, quản lý quỹ tiền mặt và thu chi tiền
mặt theo nguyên tắc chế độ. Quản lí chứng từ sổ sách có liên quan đến hoạt động
tài chính của công ty. Theo dõi việc thực hiện các hợp đồng kinh tế, thanh quyết
toán các khoản công nợ, phối hợp với ban giám đốc của công ty quản lí toàn bộ tài

sản trang thiết bị máy móc của công ty.
- Phòng chăm sác khách hàng: Xây dựng tổ chức quản lý các công việc tại
Phòng đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng. Quản lý, duy trì mối quan
hệ giữa công ty với các khách hàng hiện đang giao dịch đảm bảo mục tiêu doanh
số của công ty giao và các khách hàng mới.Tổ chức, triển khai thực hiện các
chương trình xúc tiến bán hàng trên phạm vi được giao. Kiểm soát các cơ chế
chính sách bán hàng phù hợp nhằm thúc đẩy doanh số và giảm công nợ khách
hàng. Tổ chức thực hiện nâng cao chất lượng dịch vụ, chăm sóc khách hàng theo
kế hoạch, chiến lược của công ty. Theo dõi đôn đốc, xử lý mọi thông tin liên quan
đến khiếu nại khách hàng. Tổ chức giao nhận hàng hoá cho khách hàng đáp ứng
được nhu cầu khách hàng. Tiếp nhận mọi thông tin của khách hàng; phân loại xử
lý thông tin; quản lý hàng hoá của công ty, đôn đốc và triển khai cung cấp hàng
cho khách hàng và chi nhánh của công ty theo yêu cầu.
- Phòng hành chính: Tham mưu cho giám đốc về lập kế hoạch quỹ tiền
lương, các hình thức chi trả lương thưởng, đảm bảo công tác bảo hiểm xã hội,
quan tâm đến những người có công trong phát minh sáng chế cho công ty. Quản lí
lưu trữ hồ sơ văn thư bảo mật, điều động phương tiện giao và nhận hàng.
- Phòng kinh doanh: Đảm nhận với chức năng tham mưu Ban Lãnh đạo
trong việc phát triển mở rộng thị trường, thị phần; hoạt động nhập khẩu; nghiên

cứu chiến lược thị trường, nghiên cứu và phát triển sản phẩm, dịch vụ mới giữ
gìn và gia tăng giá trị thương hiệu của đơn vị. Và một số nhiệm vụ khác.
Ngoài ra, còn có một số bộ phận khác như bảo vệ, vệ sinh… cũng góp
phấn quan trọng trong việc đảm bảo các hoạt động diễn ra thuận lợi, thúc đẩy quá
trình phát triển của công ty.
1.5. Đặc điểm thị trường và khách hàng.
1.5.1.Đặc điểm thị trường :
Thị trường Miền Bắc là thị trường chủ yếu của công ty. Doanh thu tại khu vực
này liên tục tăng và ổn định qua các năm. Ở khu vực này, công ty xây dựng cho
mình thị trường trọng điểm là Hà Nội và Hải Phòng. Đây là hai khu vực phát triển

nhất Miền Bắc về kinh tế, dân cư có mức thu nhập. Khai thác được lợi thế vị trí
địa lý Cảng Hải Phòng là một cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, là cửa ngõ
quốc tế của Việt Nam, điều này không chỉ tạo thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu
của công ty cũng như việc giao nhận và vận chuyển được nhanh chóng, an toàn,
giảm chi phí ( việc nhập khẩu hàng hóa của công ty chủ yếu thông qua cảng Hải
Phòng ). Tại khu vực này công ty đã tồn tại và phát triển nhờ vào những lợi thế của
riêng mình. Tuy nhiên, hiện nay với xu thế phát triển nhanh chóng thì ngày càng
nhiều cơ sở mọc lên ở khu vực này với quy mô khác nhau và sự đa dạng trong chủng
loại mặt hàng : công ty TNHH, công ty cổ phần,…Điều này nguy cơ làm mất dần thị
trường của công ty.
Thị trường thứ hai của công ty là các tỉnh Miền Trung trong đó tập trung chủ yếu
là ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Mặc dù tại khu vực này đã có nhiều công ty và chi nhánh
cung cấp mặt hàng ô tô nhập khẩu, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của người
tiêu dùng, vẫn có một lượng khách hàng có nhu cầu mua hàng tại Hà Nội. Bởi đây
là mặt hàng có giá trị cao, khách hàng luôn có nhu cầu tìm hiểu thông tin về mặt
hàng tại thị trường lớn, đa dạng về chủng loại sản phẩm, mẫu mã và giá cả. Công
ty chưa có chi nhánh tại khu vực này, doanh thu trên thị trường này chưa đáng kể.
Hiện nay, công ty đang có kế hoạch đầu tư vào thị trường này.

Thị trường Miền Nam là thị trường có tiềm năng lớn nhưng do có khoảng cách
địa lý đã hạn chế khâu vận chuyển cũng như việc nghiên cứu xâm nhập vào thị
trường này. Hơn nữa khu vực này đã có rất nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh hoạt
động khá lâu và có kinh nghiệm hơn tại khu vực này. Có thể nói rằng tại thị trường
này công ty vẫn chưa tạo dựng được một vị thế vững chắc để có thể đương đầu với
các đối thủ cạnh tranh xâm nhập vào thị trường lớn này.
Trong những năm qua, là một doanh nghiệp mới thành lập còn non trẻ, chưa có
nhiều kinh nghiệm nên thị trường tiêu thụ của công ty vẫn chỉ bó hẹp tại khu vực
Miền Bắc, công ty tập trung nhiều tại thị trường Miền Bắc mà chưa chú trọng tới
việc mở rộng thị trường sang hai thị trường tiềm năng còn lại đặc biệt là khu vực
Miền Nam.

1.5.2.Đặc điểm khách hàng :
Khách hàng của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội là các đại lý và khách hàng
tiêu thụ cuối cùng.
Khách hàng là các đại lý : có quan hệ chặt chẽ với các nhà phân phối. Họ là
những người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng do vậy hiểu rõ nhu cầu của khách
hàng , sức mua, khả năng tiêu thụ của mặt hàng, hiểu rõ về đặc điểm của hàng hóa.
Do đây là những nhà trung gian, mua sản phẩm không phải để thỏa mãn nhu cầu
của chính bản thân mình mà để bán lại trên thị trường, do vậy cái mà họ quan tâm
chính là lợi ích thu được khi tiêu thụ hàng hóa : tỉ lệ hoa hồng thu được. Lượng đặt
hàng, chất lượng và chủng loại sản phẩm của nhóm khách hàng này yêu cầu có ảnh
hưởng đến số lượng, chất lượng cũng như chủng loại mặt hàng nhập khẩu của công ty.
Khách hàng là người tiêu thụ cuối cùng : mua sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu
của chính họ. Người tiêu thụ cuối cùng chính là người hiểu rõ mục đích của họ và
biết được chủng loại mặt hàng nào phù hợp với nhu cầu của họ nhất. Vấn đề mà
họ quan tâm trước hết của đối tượng khách hàng này là chất lượng và giá cả của
mặt hàng. Tuy đây là những khách hàng không thường xuyên mà mua số lượng ít
nhưng hoạt động bán lẻ là một hoạt động mang ý nghĩa quyết định đối với sự tồn
tại và phát triển của công ty.

1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của công ty
1.6.1. Nhân tố bên trong công ty :
1.6.1.1. Nhân tố Bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính
Hoạt động nhập khẩu đòi hỏi cần phải có một bộ máy lãnh đạo hoàn chỉnh,
có tổ chức phân cấp quản lý, phân công lao động trong công ty sao cho phù hợp
với đặc trưng của công ty kinh doanh nhập khẩu. Nếu bộ máy quản lý cồng kềnh
không cần thiết sẽ làm cho việc kinh doanh của công ty không có hiệu quả và
ngược lại.
1.6.1.2. Nhân tố con người :
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập
khẩu nói riêng, tất cả các công đoạn từ khâu nghiên cứu tìm hiểu thị trường đến khâu

ký kết và thực hiện hợp đồng đòi hỏi cán bộ nhập khẩu phải nắm vững các chuyên
môn nghiệp vụ, năng động, đặc biệt khi kinh doanh với các đối tác nước ngoài.
Nhân tố con người đóng vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh
doanh của công ty, sự tồn tại và thành công của công ty.
1.6.1.3.Nhân tố vốn và công nghệ :
Vốn và công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
công ty nói chung cũng như hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng. Vốn và
công nghệ quyết định đến lĩnh vực kinh doanh cũng như quy mô kinh doanh của
công ty, vốn và công nghệ giúp cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty
được thực hiện có hiệu quả cao. Vốn và công nghệ có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, nếu công ty có nguồn lực tài chính lớn ( nhiều vốn ), đặc biệt là vốn lưu
động thì sẽ mua được (có được ) nhiều công nghệ hiện đại nâng cao năng suất và
hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và ngược lại.
1.6.2. Nhân tố bên ngoài công ty :
1.6.2.1. Nhân tố chính trị, luật pháp
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập
khẩu nói riêng là hoạt động giao dịch buôn bán trao đổi thương mại mang tính chất
quốc tế cho nên nó chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố chính trị, luật pháp của

mỗi quốc gia cũng như quốc tế. Chế độ chính sách, luật pháp của Nhà nước là
những yếu tố mà các công ty xuất nhập khẩu buộc phải nắm rõ và tuân thủ một
cách vô điều kiện vì chúng thể hiện ý chí của Đảng lãnh đạo mỗi nước, sự thống
nhất chung của quốc tế. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở
các quốc gia khác nhau, do đó nó không chỉ chịu sự tác động của chế độ, chính
sách, luật pháp trong nước mà còn chịu những điều kiện tương tự ở phía nước đối
tác.
Môi trường chính trị ổn định, luật pháp thông thoáng chặt chẽ không thay
đổi thường xuyên có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của nền kinh tế nói chung
và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Môi trường ổn định thúc đẩy hoạt động thương
mại quốc tế giữa các quốc gia với nhau và giữa các chủ thể kinh tế ở các quốc gia

với nhau.
Ngược lại, khi môi trường chính trị, luật pháp không ổn định nó sẽ hạn chế
rất lớn tới hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia nói chung và hoạt động xuất
nhập khẩu của công ty nói riêng.
Vấn đề đặt ra đối với các cán bộ nhập khẩu của công ty luôn phải trau dồi
kiến thức không chỉ về chuyên môn và cả về luật pháp, từ đó để tránh không bị vi
phạm luật pháp, hạn chế xảy ra tranh chấp và những hành vi lừa đảo của kẻ xấu
nhằm chuộc lợi.
1.6.2.2.Thuế quan nhập khẩu :
Nếu thuế nhập khẩu cao thì giá cả hàng hóa bị đội lên, và do đó làm hạn
chế sức cạnh tranh của mặt hàng của công ty. Ngược lại thuế nhập khẩu thấp, chi
phí cho việc nhập khẩu sẽ thấp làm tăng lợi nhuận nhập khẩu của công ty. Do vậy,
hiệu quả nhập khẩu của công ty được cải thiện. Chính phủ cần điều chỉnh thuế
quan thế nào cho dung hòa được lợi ích của các chủ thể kinh tế : người tiêu dùng,
doanh nghiệp và Nhà nước vì thuế là nguồn thu ngân sách chủ yếu, phù hợp với
mục tiêu tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.6.2.3.Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam với các đồng ngoại tệ có ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu, nó ảnh hưởng đến việc lựa
chọn đồng tiền thanh toán. Tỷ giá hối đoái không cố định, có sự biến động lên
xuống. Chính vì vậy công ty cần phải có sự nghiên cứu và dự đoán xu hướng biến
động của tỷ giá hối đoái để đưa ra các quyết định phù hợp cho việc nhập khẩu như
lựa chọn bạn hàng, lựa chọn đồng tiền tính toán, lựa chọn đồng tiền thanh toán,…
1.6.2.4.Yếu tố thị trường trong nước và ngoài nước :
Tình hình và sự biến động của thị trường trong và ngoài nước như : sự thay
đổi của giá cả, khả năng cung cấp hàng hóa, khả năng tiêu thụ và xu hướng biến
động của dung lượng thị trường… Tất cả các yếu tố này đều có ảnh hưởng tới hoạt
động nhập khẩu của công ty.
Sự thay đổi lên xuống của giá cả sẽ làm ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ

hàng nhập khẩu. Sự biến động của nguồn cung và dung lượng thị trường có ảnh
hưởng đến sự biến động của giá cả hàng nhập khẩu, từ đó ảnh hưởng tới khả năng
tiêu thụ và hoạt động nhập khẩu của công ty.
1.6.2.5.Yếu tố cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa quốc tế
Các yếu tố cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động mua bán trao
đổi hàng hóa quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến nhập khẩu như :
- Hệ thống giao thông vận tải, cảng biển : nếu hệ thống này được trang bị hiện
đại sẽ cho phép giảm bớt thời gian bốc dỡ, thủ tục giao nhận cũng như đảm bảo an
toàn cho hàng hóa được mua bán nhanh chóng, nâng cao tính kịp thời, nhanh gọn
trong quá trình nhập khẩu, tăng vòng quay của vốn.
- Hệ thống Ngân hàng : Hệ thống Ngân hàng càng phát triển thì các dịch vụ của nó
càng thuận tiện cho việc thanh toán quốc tế cũng như trong huy động vốn. Ngân hàng là
một nhân tố đảm bảo lợi ích cho nhà kinh doanh bằng các dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng.
- Hệ thống bảo hiểm, kiểm tra chất lượng : Cho phép các hoạt động mua bán hàng
quốc tế được thực hiện một cách an toàn hơn đồng thời giảm bớt được rủi ro cũng như

mức độ thiệt hại có thể xảy ra cho các nhà kinh doanh trong buôn bán thương mại quốc
tế.
1.6.2.6. Các quan hệ kinh tế quốc tế
Việc tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế như : ASEAN, WTO…đã
đem lại lợi ích thiết thực cho quốc gia. Các nhà sản xuất kinh doanh mở rộng thị
trường tiêu thụ ra nước ngoài. Hàng rào thuế quan và phi thuế quan dần nới lỏng
hay siết chặt phụ thuộc và mối quan hệ song phương giữa hai nước, giữa nước
nhập khẩu và xuất khẩu. Chính điều này thúc đẩy các quốc gia tích cực trong quan
hệ ngoại giao với nước khác, tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế
nhằm tạo được những mối quan hệ bền vững, xu hướng tích cực hoá quá trình
nhập khẩu, xuất khẩu hàng hóa của nước mình.
CHƯƠNG 2 :
THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU Ô TÔ CỦA CÔNG TY

CỔ PHẦN XNK Ô TÔ HÀ NỘI

2.1. Khái quát hoạt động nhập khẩu ô tô Việt Nam.
2.1.1.Tình hình nhập khẩu ô tô của Việt Nam.
Ô tô nước ta được cung cấp từ hai nguồn chính là nhập khẩu và do các doanh
nghiệp lắp ráp, chế tạo ô tô trong nước cung cấp. Mặc dù thời gian qua cùng với
sự lớn mạnh của các liên doanh với số lượng xe bán ra không ngừng gia tăng
nhanh chóng nhưng số lượng xe nhập khẩu cũng tiếp tục tăng.
Bảng 1 : Kim ngạch NK ô tô nguyên chiếc của Việt Nam qua các năm.
Đơn vị :nghìn USD

Năm
Số lượng xe NK

( chiếc )
% tăng trưởng
qua các năm
Kim ngạch
NK
% tăng trưởng
qua các năm
2005 18300 284900
2006 12200 - 33,3 208000 - 27
2007 28000 129,5 523000 151,4

2008 50400 80 1034000 97,7
2009 76300 51,4 1171000 13,2

( Nguồn : Tổng Cục Thống Kê Việt Nam các năm )
Năm 2005, số lượng xe ô tô nguyên chiếc được nhập khẩu vào Việt Nam là

18300 chiếc, với giá trị là 284900 nghìn USD. Nhưng đến năm 2006, kim ngạch ô
tô nguyên chiếc của Việt Nam đã giảm cả về số lượng và giá trị nhập khẩu. Cụ thể
: số lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu là 12200 chiếc, giảm 33,3% so với năm
2005, giá trị nhập khẩu năm 2006 là 208000 nghìn USD, giảm 27%. Điều này có
thể lý giải được bởi năm 2006 là một năm đầy biến động với thị trường ô tô Việt
Nam.
Thứ nhất: Giữa tháng 2, Nghị định 12 cho phép nhập khẩu ô tô cũ khiến không
ít người bắt đầu hy vọng về cơ hội sở hữu chiếc xe giá 5000 – 10000 USD. Hiệu
quả ngay lập tức là thị trường gần như đóng băng, phản ứng phổ biến của khách
hàng là ngừng mua xe, chờ ngày nghị định có hiệu lực.
Thứ hai : Sự xuất hiện của hàng loạt các tập đoàn ô tô lớn của Trung Quốc như
Lifan, Thượng Hải Auto tấn công vào thị trường Việt Nam.
Thuế nhập khẩu liên tục giảm, một lớp người giàu có phất lên từ cổ phiếu
khiến nhu cầu ô tô tăng mạnh là một trong những lý do đẩy lượng xe nhập khẩu vả
năm nhập khẩu năm 2007 tăng kỷ lục, số lượng xe nhập khẩu lên tới 28000 chiếc,
gấp gần 2,3 lần so với năm 2006; về giá trị nhập khẩu tăng 151,1% lên tới con số
523000 nghìn USD. Theo các nhà phân tích, nguyên nhân dẫn đến sự tăng mạnh
mẽ này là : đối với các loại xe nhập khẩu nguyên chiếc, 2007 là năm Việt Nam bắt
đầu thực hiện một số cam kết thương mại quốc tế, trong đó đáng chú ý nhất là việc
mở cửa thị trường cho các loại xe nhập khẩu và đặc biệt các quyết định giảm thuế
nhập khẩu. Riêng mặt hàng ô tô mới nguyên chiếc, trong năm 2007 Bộ Tài chính
đã đưa ra 3 quyết định giảm thuế, kéo theo mức thuế suất thuế nhập khẩu ô tô
nguyên chiếc giảm, đưa từ mức 90% xuống còn 60% - đây chính là “ đòn bẩy “
mạnh nhất đẩy thị trường ô tô nhập khẩu Việt Nam lên “ cao trào “. Xét về khía

cạnh giá trị, năm 2007 cũng là năm thị trường chứng kiến làn sóng xe độc về thị
trường, là năm có số lượng xe cao cấp, sang trọng nhập khẩu nhiều nhất, hàng loạt
mẫu xe có giá trị vài trăm nghìn USD/chiếc và thậm chí trên 1 triệu USD/chiếc.
Tốc độ tăng được tiếp tục duy trì đến năm 2008, về số lượng xe nhập khẩu tăng
lên 50400 chiếc với giá trị 1034000 nghìn USD, tương ứng với 80% và 97,7%

tăng trưởng so với năm 2007. Có thể nói năm 2008 là một năm đầy khó khăn, bị
ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường bị “ hãm “ mạnh song
kim ngạch nhập khẩu ô tô mạnh phần lớn là nhờ hệ quả từ năm 2007. Các nhà
nhập khẩu đã tiến hành nhập khẩu để tránh mức thuế mới trong khi người tiêu
dùng cũng tranh thủ mua để tránh mức giá mới.
Lượng ô tô nhập khẩu nguyên chiếc được nhập khẩu về Việt Nam năm 2009 leo
lên mức kỷ lục, 76300 chiếc. Và dù được nhập khẩu chính hãng hay không chính
hãng thì ô tô nhập khẩu đã trở thành một đối trọng thực sự với ô tô sản xuất hay
lắp ráp trong nước, với tỷ lệ 40% tổng số ô tô trên thị trường ( năm 2008 chỉ chiếm
31% ). Kết quả tăng trưởng này là do tác động từ gói kích cầu của Chính phủ. Khi
thuế VAT được giảm 50% từ 1/2/2009, và kế đến là phí trước bạ giảm từ 50% từ
ngày 1/5/2009, thị trưởng ô tô “nóng” lên và xe nhập ngoại liên tiếp lập kỷ lục.Mặt
hàng ô tô nhập khẩu tăng mạnh bắt đầu từ tháng 8, đỉnh điểm là tháng 11 nhập tới
11.500 chiếc với giá trị kim ngạch là 159 triệu USD, nhưng tháng 12 lượng ô tô về
Việt Nam giảm sút vì 31/12/2009 là thời điểm chấm dứt gói ưu đãi thuế VAT và
phí trước bạ, chỉ có 7000 chiếc với giá trị kim ngạch chỉ có 98 triệu USD. Các con
số phản ánh đúng diễn biến tình hình của thị trường ô tô nhập khẩu Việt Nam. Sau
khi “ dồn “ nhu cầu mua xe chạy thuế vào tháng 10 và tháng 11, sức mua trên thị
trường giảm mạnh vào tháng 12. Dù kim ngạch nhập khẩu ô tô chỉ chiếm 1,171 tỷ
USD trong tổng số kim ngạch nhập khẩu 68,7 tỷ USD trong năm 2009 nhưng với
mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô là số một, việc hạn chế nhập siêu sẽ ưu tiên hàng
đầu và ô tô sẽ luôn là “tầm ngắm” với nhiều biện pháp hạn chế nhập khẩu.
Chúng ta có thể thấy rằng, tốc độ tăng giá trị kim ngạch nhập khẩu luôn cao hơn
tốc độ tăng về số lượng xe, thể hiện ở đường biểu diễn giá trị kim ngạch có độ dốc

lớn hơn ( biểu đồ 1 ). Điều này phù hợp với sự phát triển chung của thị trường ô tô
thế giới và có thể lý giải được nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, khi
mà các hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ thì giá của hàng hóa ngày càng giảm,
khuyến khích nhu cầu tiêu dùng hàng nhập khẩu tăng lên không chỉ về số lượng
mà cả về chất lượng. Nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày

càng được nâng cao, mức thu nhập tăng lên, nhu cầu về những chiếc xe có giá trị
cao tăng lên một cách nhanh chóng. Để đáp ứng được nhu cầu này thì các hãng
sản xuất ô tô trên thế giới cũng như trong nước đã và đang không ngừng nâng cao
chất lượng sản phẩm, tung ra hàng loạt mẫu xe có giá rất cao trên thị trường.
Biểu đồ 1 : Kim ngạch NK ô tô nguyên chiếc của Việt Nam
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
80000
90000
2005 2006 2007 2008 2009
0
200000
400000
600000
800000
1000000
1200000
1400000
Số lượng xe NK
(chiếc)
Kim ngạch NK (nghìn
USD)

2.1.2. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu ô tô.

Quan điểm nhất quán bảo hộ ngành Công nghiệp ô tô và hạn chế nhập khẩu luôn
được Chính phủ Việt Nam triệt để duy trì và áp dụng. Điều này thể hiện rõ nhất
trong chính sách thuế Chính phủ đã đề ra. Về cơ bản, chính sách thuế quan được
xây dựng với các biện pháp thuế quan và phi thuế quan nhằm áp đặt mức thuế cao
đối với xe nhập khẩu và hạn chế tối đa nhập khẩu miễn thuế. Hàng rào thuế quan và
phi thuế quan đã tạo sự ngăn cách to lớn giữa xe nhập khẩu và xe lắp ráp trong
nước.

Bảng 2 : Biểu thuế và tỷ lệ bảo hộ ở Việt Nam theo mức độ hoàn chỉnh của xe
năm 1999

Mức độ hoàn chỉnh
( từ cao xuống thấp )
Thuế
NK
VAT
Thuế tiêu thụ
đặc biệt
Tỷ lệ
bảo hộ
Xe nguyên chiếc (CBU,
du lịch 5 chỗ)
100%
CIF
10% (hay
20% CIF)
100%(hay
220% CIF)
340%
Linh kiện lắp ráp dạng

CKD2, xe du lịch
20%
CIF
10% (hay
12% CIF)
5% ( hay 6,6%
CIF)
38,6%
CIF

( Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 1999)
Bảng 3 : Biểu thuế và tỷ lệ bảo hộ ở Việt Nam theo mức độ hoàn chỉnh của xe
năm 2007

Mức độ hoàn chỉnh
( từ cao xuống thấp )
Thuế NK VAT
Thuế tiêu thụ
đặc biệt
Tỷ lệ
bảo hộ
Xe nguyên chiếc (CBU,
du lịch 5 chỗ)
80% CIF 10%( hay
20% CIF)
45-60%
( hay 90-120%
CIF)
190-
220%

Linh kiện lắp ráp dạng
CKD2, xe du lịch
25% CIF 10% (hay
12% CIF)
5% ( hay 6,6%
CIF)
43,6%
CIF

( Nguồn : Bộ Tài Chính năm 2007 )
Tỷ lệ bảo hộ với xe nguyên chiếc là rất cao. Việc áp dụng đánh cả thuế nhập
khẩu, VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt làm cho giá bán xe nhập khẩu cao hơn rất
nhiều so với giá bán xe lắp ráp trong nước. Việc bảo bộ này đã làm đội giá xe ô tô
sản xuất hay lắp ráp của Việt Nam cao hơn nhiều so với giá xe sản xuất hay lắp
ráp ở nước ngoài. Đây chính là sự thiệt thòi lớn mà người tiêu dùng Việt Nam phải
gánh chịu. Để dung hòa lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của ngành và lợi ích

của Nhà nước bởi thuế là nguồn thu ngân sách chủ yếu của Chính phủ, năm 2003
Chính phủ đã quyết định tăng mức thuế nhập khẩu linh kiện.
Thế nhưng chính sách bảo hộ cao đã dần dần bộc lộ những hạn chế. Các doanh
nghiệp trong nước thì lắp ráp trong nước, doanh nghiệp liên doanh nước ngoài thì
ỷ lại việc được bảo hộ nên chậm chạp trong việc nội địa hóa và nâng cao tính cạnh
tranh. Thuế suất thuế nhập khẩu cao kích giá xe nhập khẩu lên cao nên các công ty
kinh doanh hạn chế nhập khẩu. Chính những điều này khiến cho quy mô thị
trường ô tô rất nhỏ.
Năm 2006, chính sách ưu đãi thuế quan theo tỷ lệ nội địa hóa đối với các sản
phẩm, phụ tùng ngành cơ khí – điện – điện tử ( được áp dụng từ năm 1999 ) chính
thức bị bãi bỏ. Biểu thuế nhập khẩu linh kiện phụ tùng ô tô sẽ được xây dựng theo
5 mức thuế suất là 30%, 20%, 10%, 5% và 0%; chênh lệch giữa mức thuế suất của
cụm chi tiết và chi tiết rời phần lớn là 5% hoặc 10% tùy theo chủng loại. Cũng

trong năm này, ô tô đã qua sử dụng được loại ra khỏi danh sách mặt hàng cấm
nhập khẩu. Cho phép nhập khẩu tô tô cũa là một yêu cầu bắt buộc khi chúng ta
tham gia hội nhập và thực hiện cam kết gia nhập WTO. Đây là cơ hội cho các
doanh nghiệp nhập khẩu ô tô để họ tham gia nhập xe cũ, bởi xe cũ được phép nhập
trong thời gian sử dụng chưa quá 5 năm nên chất lượng còn tốt, trong khi giá rẻ và
nhu cầu trong nước thì rất lớn. Việc nhập khẩu ô tô cũ là tất yếu nhưng không vì
thế mà để các loại ô tô cũ ồ ạt tràn vào Việt Nam.
2007 là năm Việt Nam chính thức gia nhập WTO, thuế quan nhập khẩu chịu
tác động trực tiếp nhất, đi tiên phong trong hội nhập. Ô tô, linh kiện ô tô cũng là
một trong những mặt hàng được điều chỉnh thuế. Thuế nhập khẩu ô tô nguyên
chiếc ( CBU, 5 chỗ ) giảm từ mức 100% năm 1999 xuống còn 80% năm 2009,
cũng trong năm 2009 thuế tiêu thụ đặc biệt mặt hàng này cũng giảm, mức thuế
suất vào khoảng 45 -60%. Trong khoảng thời gian từ năm 2003 trở lại đây, mặc dù
thuế nhập khẩu ô tô và thuế tiêu thụ đặc biệt giảm xuống kéo theo tỷ lệ bảo hộ
giảm, nhưng ô tô trong nước vẫn được bảo hộ ở tỷ lệ cao ( hơn 200% ). Việc đưa
tỷ lệ nội địa hóa mà làm mục tiêu phát triển của công nghiệp ô tô còn rất nhiều bất

cập vì thị trường Việt Nam chưa thích hợp để phát triển các ngành công nghiệp có
kỹ thuật cao như công nghiệp ô tô, tâm lý ưa chuộng hàng ngoại ăn sâu vào tâm lý
người tiêu dùng do đó một chiếc xe có linh kiện ngoại 100% sẽ hấp dẫn người tiêu
dùng Việt Nam nếu cùng một mức giá. Ngoài ra, nhà sản xuất thì không phân biệt
đâu là công nghiệp phụ trợ mà chỉ căn cứ vào thị trường để sản xuất. Như vậy, vô
hình trung chúng ta đã giúp sức cho các “đại gia” ngành xe hơi chiếm lĩnh thị
phần, từ đó góp phần “bóp chết” hoặc giảm thị phần những thương hiệu ô tô trong
nước. Thực tế cho thấy ngành công nghiệp ô tô Việt Nam vẫn chưa cho ra những
chủng loại xe thực sự phù hợp với môi trường và hoàn cảnh của riêng Việt Nam.
- Năm 2008, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
thế giới. Cuộc khủng hoảng đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa các
ngân hàng, nhiều ngân hàng không còn khả năng thanh khoản. Đối với thị trường
chứng khoán. Điều này tác động đến dự trữ ngoại hối và giá cả trên thị trường

chứng khoán, gián tiếp ảnh hưởng hoạt động nhập khẩu. Chính sách tài khóa,
chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
nhập khẩu.
- Ngoài công cụ thuế quan, Nhà nước tăng cường quản lý nhập khẩu bằng các
biện pháp Hải quan như : quản lý chặt tính giá thuế hàng nhập khẩu, tăng cường rà
soát thủ tục nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, các chỉ tiêu kỹ thuật để điều tiết việc
nhập khẩu. Tuy nhiên các chính sách của Nhà nước còn chưa đồng bộ và thiếu ổn
định, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu. Nhiều
chính sách còn mang tính nhất thời và chưa tính đến lợi ích lâu dài. Đòi hỏi các
nhà hoạch định chính sách phải có kế hoạch, chiến lược dài hạn nhất định phù hợp
với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
2.2.Hoạt động nhập khẩu ô tô của Công ty.
2.2.1.Hoạt động nghiên cứu thị trường.
Công tác nghiên cứu thị trường ở Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội luôn
được quan tâm chú ý tiến hành để xác định được chính xác nhu cầu của thị trường
đối với các mặt hàng của công ty. Các nhân viên kinh doanh của công ty thực hiện

nghiên cứu thị trường theo phương pháp điều tra trực tiếp : phát phiếu câu hỏi điều
tra, thăm dò ý kiến cho khách hàng tiêu thụ cuối cùng để tìm hiểu nhu cầu, tâm lý,
thị hiếu của họ, hoặc có thể dựa trên các thông tin do các đại lý cung cấp để xác
định sức mua của khách hàng. Do đặc điểm mặt hàng nhập khẩu của công ty là ô
tô và các linh kiện phụ tùng ô tô, đây là những sản phẩm của những hãng nổi tiếng
trên thế giới sản xuất như Toyota, Ford, Daewoo,…vì vậy, nghiên cứu thị trường là
một hoạt động quan trọng mà từ đó ta có thể biết được giá, chất lượng sản phẩm của
đối thủ cạnh tranh, qua đó có chiến lược kinh doanh phù hợp. Vì vậy, công ty đã và
đang đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường cũng như các nghiệp vụ kinh doanh
khác để tạo được vị trí trên thị trường, tăng năng lực cạnh tranh, khẳng định vị thế của
công ty.
Công tác nghiên cứu thị trường nhập khẩu được tiến hành bởi nhân viên của
phòng kinh doanh. Công ty chia thị trường thành hai nhóm chính : thị trường

truyền thống và thị trường tiềm năng. Mục tiêu của nghiên cứu thị trường truyền
thống là củng cố, phát triển mối quan hệ với bạn hàng đã có và bạn hàng tiềm
năng trong thị trường đó. Mục tiêu của nghiên cứu thị trường tiềm năng là mở
rộng đa dạng hóa hoạt động nhập khẩu. Nhân viên phòng kinh doanh tìm hiểu các
thông tin về sản phẩm trên các website các hãng, nghiên cứu biến động giá cả sản
phẩm của các hãng, lấy đó làm cơ sở cho các quyết định nhập khẩu mặt hàng nào,
nhập với mức giá là bao nhiêu và nhập từ thị trường nào… Ngoài ra, các nhân viên
kinh doanh cũng chủ động nghiên cứu, áp dụng các văn bản pháp quy khác của
Nhà nước liên quan đến lĩnh vực hàng hóa xuất nhập khẩu để đảm bảo hoạt động
nhập khẩu của công ty luôn tuân thủ pháp luật của Nhà nước.
2.2.2.Công tác nhà cung cấp.
Từ khi thành lập, thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm nhằm hướng
tới mọi đối tượng khách hàng. Ngoài các thị trường từ những bạn hàng nhập khẩu
truyền thống như: Nhật Bản, Hàn Quốc, công ty còn mở rộng ra các thị trường
mới để tìm đến những nguồn cung cấp mới như: Anh, Mỹ, Đức, Việc giao dịch

với các thị trường này không những giúp công ty tăng doanh số, kim ngạch xuất
nhập khẩu, mà còn giúp công ty nhập khẩu được những mặt hàng kỹ thuật cao.
Công tác nhà cung cấp đóng một vai trò hết sức quan trọng, việc kinh doanh có
được thuận lợi và hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào mức độ cam kết của
nhà cung cấp trong các hợp đồng ngoại thương. Cụ thể như số lượng, chất lượng
hàng có đúng quy định, tiến độ giao hàng , điều kiện thanh toán,…Công tác nhà
cung cấp của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội được phản ánh dưới bảng sau :
Bảng 4 : Tình hình các nhà cung cấp nước ngoài

STT Nhà cung cấp Sản phẩm
Loại tiền
thanh toán
Nhận xét
1 Đức BMW EUR Giao hàng đúng

2 Mỹ Ford, Lexus USD Giao hàng đúng
3 Italia Ferrari EUR Giao hàng chậm
4 Nhật Bản Toyota, Nissan USD Giao hàng đúng
5 Hàn Quốc Daewoo, Huydai

USD Giao hàng chậm

( Nguồn : Phòng Kinh doanh công ty )
Công tác quan hệ nhà cung cấp nước ngoài vẫn được công ty duy trì tốt. Các
nhà cung cấp nước ngoài chính của công ty là Toyota, Ford, Daewoo,… Đây là
những nhà cung cấp có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới và có uy tín, họ luôn
thực hiện đúng cam kết đã có trong hợp đồng ngoại thương. Trên đây là một số
nhà cung cấp thân quen với công ty. Đa phần các công ty đều giao hàng đúng thời
hạn quy định của hợp đồng, tuy nhiên vẫn còn một số nhà cung cấp do một số
nguyên nhân mà đôi khi họ đã giao hàng chậm như Italia, Hàn Quốc. Các sản
phẩm của nhà sản xuất nước ngoài đều là các mặt hàng chuyên dùng, có chất
lượng tốt, đặc biệt và rất khó tìm ở thị trường nội địa cũng như các nước trong khu
vực. Điều này giúp cho công ty có được nguồn hàng tốt và luôn được cung cấp ổn

định, đảm bảo công tác tạo nguồn mua hàng luôn diễn ra liên tục. Không chỉ tạo
điều kiện về cung cấp nguồn hàng có chất lượng cho công ty, các hãng còn hỗ trợ
về đào tạo kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, nhằm giúp nhà phân phối có được đội
ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao. Hơn nữa các hãng còn hỗ trợ nhà phân
phối trong việc triển khai các chương trình marketing, các chương trình xúc tiến
bán hàng. Các nhà cung cấp vẫn áp dụng thanh toán bằng L/C hơn cả do hình thức
này nhanh gọn và đảm bảo an toàn. Như vậy mối quan hệ giữa các hãng và Công
ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội rất bền chặt, đôi bên cùng hợp tác giúp đỡ nhau để
cùng phát triển.
Hiện nay công ty không ngừng khai thác, tìm nguồn hàng, có chất lượng tốt
giá cả phù hợp ở thị trường nước ngoài để đáp ứng được nhu cầu ngày càng phát

triển của thị trường nội địa.
2.2.3.Ký kết hợp đồng nhập khẩu.
Giao dịch và đàm phán về hoạt động nhập khẩu thường được công ty tiến
hành qua hình thức thư tín, Fax, điện thoại hoặc gặp gỡ trực tiếp đối với các
thương vụ lớn, phức tạp.
Công ty chủ yếu ký kết hợp đồng nhập khẩu bằng hình thức văn bản, mà nội
dung gồm các điều khoản chủ yếu : tên hàng ( Commodity ), số lượng (Quatity),
chất lượng ( Quanlity ), giao hàng ( Shipment, Delivery ), giá cả ( Price ), thanh
toán (Payment, Settlement ), bao bì, ký mã hiệu ( Packing and Marking ), bảo hành
(Warranty ), phạt và bồi thường thiệt hại ( Penalty ), bảo hiểm (Insurance), bất khả
kháng ( Forse Majeuce), khuyến mại ( Clain ), trọng tài ( Arbitratian )
Loại hợp đồng này thường ký kết giữa bên mua và bên bán. Trên thực tế, nhiều
hợp đồng còn có cả bên vận chuyển tham gia ký kết.
Việc ký kết hợp đồng nhập khẩu thường do ban giám đốc ký kết, trường hợp
giám đốc ủy quyền cho người khác ký kết thì phải có văn bản ( giấy ủy quyền ).
Đối với các mối giao dịch thân thiết hoạt động đàm phán ký kết hợp đồng được
giao dịch bằng thư tín. Phòng kinh doanh gửi cho các hãng đơn đặt hàng. Sau đó
các hãng kiểm tra lại lượng hàng hóa trong kho và thông báo lại cho công ty. Hai

×