Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam trong quá trình đổi mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.56 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - KINH DOANH QUỐC TẾ

BÀI THẢO LUẬN

Môn: Triết học Mác-Lênin
Giảng viên giảng dạy: Đặng Minh Tiến
Nhóm thực hiện: Nhóm 4
Lớp học phần: 2172MLNP0221
Đề tài thảo luận: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Sự vận dụng của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước.
Hà Nội – 2021


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 4

STT

Họ và tên

Mã sinh viên

Ghi chú

1

Nguyễn Thị Thu Hiền

21D130253


Nhóm trưởng

2

Nơng Thị Phương Hoa

21D130503

3

Nguyễn Thị Hương

21D130255

4

Nguyễn Minh Khang

21D130210

5

Trần Thu Hiền

21D130502

6

Quách Thị Xuân Hồng


21D130254

7

Trần Đăng Lâm

21D130003

8

Nguyễn Thị Nhật Lệ

21D130257

9

Nguyễn Thị Quỳnh Hoa

21D130208

10

Đặng Tùng Lâm

21D130256

11

Liễu Thị Lệ


21D130211

12

Lê Thu Hương

21D130209


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................................1
NỘI DUNG .................................................................................................................................2

PHẦN I: PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT & Ý THỨC
VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN ..................................................................................2
I.

Phạm trù vật chất và ý thức ...........................................................................................2

II. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.................................................................................6
III. Ý nghĩa phương pháp luận ............................................................................................10

PHẦN 2: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
VÀO TRONG THỰC TIỄN ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM ........................................................14
I.

Đổi mới giữa kinh tế và chính trị ..................................................................................14

II. Phát huy nhân tố con người trong công cuộc CNH, HĐH ..............................................22
KẾT LUẬN ...............................................................................................................................25

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................26


1

LỜI MỞ ĐẦU
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan trọng nhất của Đảng và nhân
dân ta hiện nay vì chỉ có thực hiện được mục tiêu này, chúng ta mới có thể xây dựng được một nước Việt
Nam mà theo cách nói của Hồ Chí Minh là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”.
Và cũng chỉ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới có thể làm thoả mãn ham muốn tột cùng,
ham muốn cuối đời của Người đó là: “Làm sao cho dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành …”. Vậy chúng ta phải làm thế nào để thực hiện mục tiêu trên? Từ thực tế hiện nay cùng với con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản, mà tại đại hội VII của Đảng
ta lần đầu tiên đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim
chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Tức là, chúng ta phải: dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ
nghĩa Mác – Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc
điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần tìm hiểu được quy luật phát triển của Cách
mạng Việt Nam, định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của Cách mạng xã hội chủ nghĩa
phù hợp với tình hình nước ta.
Làm đề tài tiểu luận này, với tư cách là một sinh viên, một cơng dân của nước Cộng hồ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, một mặt tôi muốn cùng mọi người tìm hiểu sâu hơn và kĩ hơn về Triết học Mác – Lênin
phần chủ nghĩa duy vật biện chứng. Cụ thể hơn, đó là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức.
Mặt khác, tơi cũng muốn góp một phần cơng sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp cách mạng lớn lao của
toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay- sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội- mà nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa
Mác – Lênin. Đó là, mọi sách lược, chiến lược cách mạng của chúng ta phải được xuất phát từ thực tế
khách quan, phát huy được tính năng động chủ quan và đồng thời chống chủ quan duy ý chí. Đây được
coi là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi nó quyết định sự thành công hay thất bại trên con đường đi tới
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều này sẽ được lý giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài.



2

NỘI DUNG
PHẦN I: PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT & Ý
THỨC VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
I. Phạm trù vật chất và ý thức
1. Phạm trù vật chất
1.1 Khái niệm

- Vật chất là phạm trù cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa duy vật, nội dung của phạm trù vật chất
luôn được bổ sung, phát triển cùng sự phát triển của khoa học, của thực tiễn và nhận thức con người.

- Kế thừa thành tựu của các nhà duy vật trong lịch sử, đặc biệt là quan điểm của C. Mác và Ph.
Ăngghen, V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa nổi tiếng về vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

- Ở định nghĩa này, V.I. Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng:
o Trước hết là phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của khoa
học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật
chất với tư cách là phạm trù triết học dùng chỉ vật chất nói chung, vơ hạn, vơ tận, khơng sinh ra, khơng
mất đi; còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và
mất đi để chuyển hóa thành cái khác.
o Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất chính là thuộc
tính khách quan. Khách quan, theo V.I. Lênin là "cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác
của con người". Trong đời sống xã hội, vật chất "theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức
xã hội của con người". Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất khơng có nghĩa gì khác hơn: "thực
tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh".
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:


▪ Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể
sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.

▪ Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác
quan của con người.

▪ Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
1.2 Các dạng cụ thể của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại
của mình bằng vận động, khơng gian, thời gian.

o Vận động


3

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động khơng chỉ là sự thay đổi vị trí trong
khơng gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi
sự biến đổi, "là thuộc tính cố hữu của vật chất", "là phương thức tồn tại của vật chất". Điều này có nghĩa
là vật chất tồn tại bằng vận động. Với tính cách "là thuộc tính cố hữu của vật chất", theo quan điểm của
triết học Mác - Lênin, vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn
nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Vật chất là vô hạn, vô tận, không sinh ra, khơng
mất đi và vận động là một thuộc tính khơng thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng khơng
thể bị mất đi hoặc sáng tạo ra.
Ví dụ: trong định luật bảo tồn chuyển hóa năng lượng trong vật lý, vận động của vật chất được
bảo toàn cả về mặt lượng và chất. Nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu nảy
sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận động chuyển hóa lẫn nhau, cịn vận
động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph. Ăngghen đã phân chia vận động thành
5 hình thức cơ bản. Đó là:

▪ Vận động cơ học VD: sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
▪ Vận động vật lý VD: vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử.
▪ Vận động hóa học VD: vận động của các ngun tử, q trình hóa hợp và phân giải các chất.
▪ Vận động sinh học VD: trao đổi chất giữa cơ thể sống và mơi trường, q trình quang hợp.
▪ Vận động xã hội VD: sự thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội.
Đối với sự phân loại vận động của vật chất thành 5 hình thức xác định như trên, cần chú ý về mối
quan hệ giữa chúng là:

▪ Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã hội
là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu
vật chất.

▪ Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm hình
thức vận động thấp hơn. Trong khi đó, các hình thức vận động thấp khơng có khả năng bao hàm các hình
thức vận động ở trình độ cao hơn. Bởi vậy, mọi sự quy giản các hình thức vận động thấp đều là sai lầm.

▪ Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau,
đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.

o Khơng gian, thời gian
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng chiếm một ví trí
nhất định, có một kích thước nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương quan với những
khách thể khác. Các hình thức tồn tại như vậy của khách thể vật chất được gọi là không gian. Mặt
khác, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biểu hiện ở mức độ lâu dài hay mau chóng, ở sự
kế tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động được gọi là thời gian. Không gian và thời gian gắn


4

bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất. Quan điểm của triết

học duy vật biện chứng như trên đã được xác nhận bởi những thành tựu của khoa học tự nhiên. Chẳng
hạn: Bútlêrốp đã phát hiện ra những đặc tính khơng gian lệ thuộc vào bản chất vật lý của các vật thể vật
chất. Đặc biệt thuyết tương đối của A. Einstein đã xác nhận rằng, không gian và thời gian khơng tự nó tồn
tại, tách rời vật chất mà nằm trong mối liên hệ qua lại phổ biến khơng thể phân chia. Khơng gian và thời
gian có những tính chất cơ bản sau đây:

▪ Tính khách quan: Vật chất tồn tại khách quan, do đó khơng gian và thời gian là thuộc tính của
nó nên cũng tồn tại khách quan.

▪ Tính vĩnh cửu và vơ tận
▪ Khơng gian ln có ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao), cịn thời gian chỉ có một
chiều (từ q khứ tới tương lai).
2. Phạm trù ý thức
2.1 Khái niệm

- Các nhà duy tâm cho rằng: ý thức sinh ra vật chất, quyết định vật chất chứ không phải là sự phản
ánh vật chất.

- Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin:
+“ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là q trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện
thực khách quan của óc người” (V.I. Lênin)

+ Ý niệm (ý thức) chẳng qua là cái vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải
biến đi ở trong đó (C. Mác)

- Khác với vật chất là cái tồn tại khách quan, ý thức là cái tồn tại chủ quan.
- Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy: “ý thức là hình thức phản ánh
cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử”.
o Để hiểu bản chất của ý thức, trước hết, chúng ta thừa nhận cả vật chất và ý thức nhưng giữa
chúng có sự khác nhau mang tính đối lập: ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh; còn vật chất là cái

được phản ánh. Cái được phản ánh - tức là vật chất - tồn tại khách quan, ở ngoài và độc lập với cái phản
ánh tức là ý thức. Cái phản ánh - tức ý thức - là hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan quy định, nó khơng có tính vật chất. Vì vậy
khơng thể đồng nhất, hoặc tách rời cái được phản ánh - tức vật chất, với cái phản ánh - tức ý thức.
o Thứ hai, khi nói cái phản ánh - tức ý thức - là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, thì
đó khơng phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động về sự vật. Ý thức là của con người, mà
con người là một thực thể xã hội năng động sáng tạo. Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động
cải tạo thế giới, cho nên ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực
tiễn xã hội. Theo C. Mác, ý thức "chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người


5

và được cải biến đi trong đó". Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái
đã có trước, ý thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể dự báo tương lai, có thể tạo ra những
huyền thoại, những giả thuyết lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao. Ý thức ra đời trong
quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ
óc người là q trình năng động sáng tạo thống nhất ba mặt sau:
➢ Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính
chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thơng tin cần thiết.
➢ Hai là, mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất, đây
là quá trình "sáng tạo lại" hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý
tưởng tinh thần phi vật chất.
➢ Ba là, chuyển mơ hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hóa tư
tưởng, thơng qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất
trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động
thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ các quy luật sinh học mà chủ yếu là của quy luật xã hội, do nhu cầu
giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định, mang bản chất xã hội.
2.2 Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức tạp, chúng ta chỉ nghiên cứu kết cấu ý

thức theo hai hướng: theo các yếu tố hợp thành và theo chiều sâu của nội tâm.
o Theo các yếu tố hợp thành
Theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm
tin, lý trí, ý chí... trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi. Tri thức là kết quả quá trình nhận thức
của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của
thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngơn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác. Tri thức khoa học
phản ánh trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực. Ngày nay, đa số các ngành kinh
tế dựa vào tri thức, vì vậy, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài
hạn. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh thực tại; nó phản ánh quan hệ của con người đối
với nhau, cũng như đối với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và
giữ một vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con người. Tình cảm có thể mang tính chất
chủ động, chứa đựng sắc thái cảm xúc tích cực, cũng như trở thành thụ động, chứa đựng sắc thái cảm xúc
tiêu cực. Tri thức kết hợp với tình cảm hình thành nên niềm tin, nâng cao ý chí tích cực biến thành hành
động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.
o Theo chiều sâu nội tâm
Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức,
vô thức.


6

➢ Tự ý thức: Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự nhận
thức bản thân mình. Những cảm giác của con người về bản thân mình trên mọi phương diện giữ vai
trị quan trọng trong việc hình thành tự ý thức. Chính trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn xã
hội và qua những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần do chính con người tạo ra, con người phải tự ý thức
về mình để nhận rõ bản thân mình, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn xã hội.
➢ Tiềm thức: Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm sốt của chủ
thể, song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ
thể ấy, là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ
năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.

➢ Vô thức: Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành
vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên
trong, chưa có sự kiểm tra, tính tốn của lý trí. Nó góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần
của con người. Nhờ vơ thức mà con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần thiết khi làm việc
"quá tải", chuẩn mực con người đặt ra được thực hiện một cách tự nhiên. Thực ra, vô thức là vô thức nằm
trong con người có ý thức. Giữ vai trị chủ đạo trong con người là ý thức chứ không phải vơ thức. Nhờ có
ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân, thiện, mỹ.
II. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1. Các quan điểm trước Mác về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
1.1 Quan niệm chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật của phạm trù vật chất:
o Quan điểm duy tâm:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản
nguyên tinh thần nào đó, có thể là “ý chí của Thượng đế” là “ý niệm tuyệt đối”
Các nhà triết học duy tâm, cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan, từ thời
cổ đại đến hiện tại tuy buộc phải thừa nhận sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng của thế giới nhưng lại
phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của chúng. Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận sự tồn tại hiện
thực của giới tự nhiên, nhưng lại cho rằng nguồn gốc của nó là do sự tha hóa của “tinh thần thế giới”. Chủ
nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng đặc trưng cơ bản nhất của mọi sự vật, hiện tượng là sự tồn tại lệ thuộc
vào chủ quan, tức là một hình thức tồn tại khác của ý thức. Do đó về mặt nhận thức luận, chủ nghĩa duy
tâm cho rằng con người hoặc là không thể, hoặc là chỉ nhận thức được cái bóng, cái bề ngồi của sự vật,
hiện tượng. Thậm chí theo họ, q trình nhận thức đi “tìm lại” chính bản thân mình dưới hình thức khác.
o Quan điểm duy vật:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới này là vật chất, cái tồn tại một cách
vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
Quan điểm nhất quán từ xưa đến nay của các nhà triết học duy vật là thừa nhận sự tồn tại khách quan
của thế giới vật chất, lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích tự nhiên.


7


1.2 Quan niệm chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình
o Chủ nghĩa duy tâm:
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tâm thức
và thuộc về tâm thức, thường được đặt đối lập với chủ nghĩa duy vật. Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm
là sự tuyệt đối hóa một hình thức hay một giai đoạn của q trình nhận thức dẫn đến tách nhận thức và ý
thức khỏi thế giới hiện thực khách quan; thông thường là lợi ích và sự phản kháng của các giai cấp, các
lực lượng bảo thủ trước tiến bộ xã hội. Sự tách rời và địa vị thống trị của lao động trí óc đối với lao động
chân tay trong các xã hội cũ đã tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tinh thần. Các giai cấp
thống trị và những lực lượng xã hội phản động ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận
cho những quan điểm chính trị - xã hội.
Các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm:
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan của hiện thực và coi nó là
một cái gì đó hồn tồn do tính tích cực của chủ thể qui định. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính
thứ nhất của ý thức con người, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức
hợp của những cảm giác. Gioocgiơ Béccli (1684 - 1753) - Nhà triết học duy tâm, vị linh mục người Anh
dựa vào quan điểm của các nhà duy danh luận thời trung cổ để khẳng định rằng, khái niệm về vật chất
không tồn tại khách quan, mà chỉ tồn tại những vật cụ thể, riêng rẽ; sự tranh cãi về khi niệm vật chất là
hoàn tồn vơ ích, khái niệm đó chỉ là cái tên gọi thuần túy mà thơi. Ơng đưa ra một mệnh đề triết học nổi
tiếng "vật thể trong thế giới quanh ta là sự phức hợp của cảm giác". Đavít Hium (1711 - 1766) - Nhà triết
học Anh tiếp tục đường lối duy tâm chủ quan của Béccli. Nhưng khác với Béccli, Hium đi đến chủ nghĩa
hồi nghi và thuyết “khơng thể biết”. Hium không thừa nhận bất cứ một thực thể nào. Thực thể, theo ông,
chỉ là một sự trừu tượng giả dối được hình thành trên cơ sở của thói quen tâm lý giản đơn. Duy tâm chủ
quan cho rằng nếu khơng có cảm giác chủ quan của chủ thể, tức cảm giác của mỗi cá nhân con người thì
khơng thể nhận thức được sự vật, rồi từ đó phủ nhận sự tồn tại thực sự của vật chất, coi cảm giác là thực
tại duy nhất.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận ý thức và tinh thần là thuộc tính thứ nhất (có trước), vật
chất là thuộc tính thứ hai (có sau), và coi cơ sở tồn tại không phải là tâm thức con người theo như quan
niệm của Chủ nghĩa duy tâm chủ quan mà là một tâm thức nào đó ở bên ngồi thế giới như "tinh thần
tuyệt đối", "lý tính thế giới". Quan niệm các vị thánh duy tâm khách quan: "Tồn tại" theo Platon là cái phi
vật chất, cái nhận biết được bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Cịn "khơng tồn tại" là vật

chất, cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất; theo Hêghen: "ý niệm tuyệt đối" là điểm khởi đầu
của tồn tại, tự tha hóa thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. "Tinh thần, tư
tưởng, ý niệm là cái có trước, cịn thế giới hiện thực chỉ là một bản sao chép của ý niệm". Ngoài ra, các
Triết học tinh thần: "Ý niệm tuyệt đối" phủ định tự nhiên, trở về bản thân - tiếp tục biến hóa nhưng chỉ


8

trong tư duy con người. Cấp này bao gồm cả ý thức cá nhân và ý thức xã hội, nó đạt đến nhận thức cao
nhất qua tôn giáo, nghệ thuật, triết học.
Dẫn chứng: Người Duy tâm khách quan thì cho rằng sự vật chỉ tồn tại do một ý thức khách quan là
Thượng Đế. Do đó, chủ nghĩa Duy tâm thường trực tiếp hay gián tiếp gắn liền với tôn giáo, nên gọi là chủ
nghĩa Duy linh (linh là linh hồn). Con người có cái tâm hay linh hồn là chủ yếu, nó tồn tại vĩnh viễn, điều
khiển mọi hoạt động của thể xác. Thể xác chỉ là khối vật chất, khi có linh hồn ngự trị thì thể xác sống và
hoạt động; khi thể xác chết thì linh hồn xuất ra trở về cõi thiêng liêng, còn thể xác thì tan rã trở thành đất.
Thế giới vật chất này cũng như sự sống trong thế giới đều do quyền năng sáng tạo của Thượng Đế. Dù
không biết rõ Thượng Đế nhưng không thể phủ nhận quyền năng của Ngài.
Ta có thể thấy rằng, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau:
Thế giới quan duy vật, khoa học và thế giới quan duy tâm, tôn giáo. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa các
giai cấp, các lực lượng xã hội đối lập nhau. Như vậy, trong lịch sử tuy những quan điểm triết học biểu
hiện đa dạng nhưng suy cho cùng, triết học chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Lịch sử triết học cũng là lịch sử đấu tranh của hai trường phái này.
o Chủ nghĩa duy vật siêu hình:
Thừa nhận đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời với các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau
có một ranh giới tuyệt đối. Thừa nhận đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đấy chỉ là biến
đổi về mặt số lượng, nguyên nhân của mọi sự biến đổi nằm ngoài đối tượng. Thuật ngữ Siêu hình có gốc
từ tiếng Hy Lạp metaphysique. Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy
vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII và đỉnh cao vào thế kỉ thứ XVII, XVIII.
Phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy sự vật riêng biệt mà không thấy mối liên hệ qua lại giữa chúng; chỉ

thấy sự tồn tại mà khơng thấy q trình sự phát sinh và tiêu vong. (Về bản chất là không hiểu được mối
quan hệ giữa vận động và đứng im, hay đứng im chỉ là một hình thức vận động đặc biệt). Tư duy của nhà
siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung nhau được, họ nói có là có, khơng là khơng.
Về bản chất ý thức: Quan điểm duy vật siêu hình coi ý thức là một dạng vật chất; “óc tiết ra ý thức cũng
như gan tiết ra mật”. Tích cực: Góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo,
nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời Phục Hưng ở các nước Tây. Hạn chế:
Chưa phản ứng đúng hiện thực trong mỗi liên hệ phổ biến và sự phát triển. Ví dụ: Các quan niệm của
Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế kỉ XVIII.
2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
2.1 Vật chất quyết định ý thức

- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Theo quan điểm Triết học Mác – Lênin thì vật
chất sinh ra ý thức vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người, mà con người là kết quả
của một quá trình phát triển và tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Vật chất


9

tồn tại khách quan và độc lập với ý thức và vật chất cũng là nguồn gốc sinh ra ý thức. Đầu óc của con
người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Sự vận động
của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc con người.

- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức: Thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những
quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức. Thế giới khách quan
mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính khách quan của loài người là yếu tố quyết định nội
dung mà ý thức phản ánh. “Ý thức khơng bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức”. Ý
thức chỉ là hình ảnh thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về chiều sâu và bề rộng
là động lực để quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức con người qua
các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại.


- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức: Sáng tạo và phản ánh là hai thuộc tính khơng tách
rời trong bản chất của ý thứ. Sự phản ánh của con người là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thơng qua
thực tiễn. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất là thế giới của con người hoạt động
thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biên thế giới con người – là cơ sở để phát triển,
hình thành ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và
sáng tạo trong phản ánh.

- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức: Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức
đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất, vật chất thay đổi dẫn đến việc ý thức cũng phải thay đổi
theo. Cùng với mỗi bước phát triển của sản xuất, tư duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng,
đời sống tinh thần của con người ngày càng phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, mà
còn ý thức được cả những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả trong tương lai, trên cơ sở khái quát
ngày càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy của họ. Sự vận
động, biến đổi không ngừng của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, sự biến
đổi của tư duy, ý thức của con người.
VÍ DỤ:
• Có nhà Triết học đã từng nói rằng “Người sống trong nhà lầu suy nghĩ khác với người ở nhà
tranh”. Nhà lầu ở đây là muốn ám chỉ đến những người được sinh ra và lớn lên trong gia đình giàu có,
đầy đủ về vật chất, từ đó nó có tác động lớn tới suy nghĩ và hành động của họ. Họ có thể sẵn sàng dùng
một số tiền lớn để thỏa mãn sở thích, nhu cầu của bản thân. Khác với “nhà lầu”, “nhà tranh” chính là
những người có điều kiện khó khăn hơn vì vậy cách tiêu xài của họ cũng sẽ khác với người giàu. Ta có
thể thấy mỗi ý thức đều được hình thành từ mơi trường tự nhiên, mơi trường văn hóa, mơi trường vật
chất xung quanh. Nói tóm lại ý thức được hình thành từ vật chất.
2.2 Ý thức tác động trở lại vật chất

- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức được thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới vật
chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống riêng”,


10


có quy luật vận động, phát triển riêng, khơng lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra
đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi
song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới
vật chất.

- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất phục vụ cho cuộc
sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì khơng thể biến đổi được hiện thực.

- Từ đó mà con người dựa vào những tri thức thế giới quan, hiểu biết những quy luật khách quan để
đặt ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm thực hiện được những mục tiêu đã đề ra.

- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có
thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng
hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán một cách đúng đắn cho hiện thực, có thể hình thành những lý
luận định hướng chính xác và được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm
năng sáng tạo. Từ đó mà sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội lần. Tuy nhiên, ý thức cũng có thể tác
động tiêu cực khi nó phản ánh sai hiện thực.

- Thứ tư, vai trò của ý thức lớn dần theo sự phát triển của xã hội loài người, nhất là trong thời đại
ngày nay, thông tin, kinh tế, tri thức, … tất cả mọi thứ đều dễ dàng tiếp cận thì tri thức được xem như lực
lượng sản xuất trực tiếp. Vậy nên, vai trò của tri thức khoa học, tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn hết
sức quan trọng.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức là vơ cùng quan trọng, to lớn nhưng nó khơng thể vượt qua
tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào điều kiện khách quan và năng lực chủ
quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều đó chúng ta sẽ rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan,
duy tâm, duy ý chí và sẽ không tránh khỏi sự thất bại trong hoạt động thực tiễn.
VÍ DỤ:
• Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy hơn 1000 độ C thì con người đã tạo ra các nhà

máy gang thép để sản xuất các loại thép với đủ kích cỡ chủng loại khác nhau, chứ không dùng phương
pháp thủ công như trước đây.
• Nhà máy xử lý rác thải của Đồng Tháp là một ví dụ điển hình, từ việc khơng khảo sát thực tế khách
quan hay đúng hơn nhận thực về việc xử lý rác vô cơ và rác hữu cơ là chưa đầy đủ vì vậy khi vừa mới
khai trương nhà máy này đã không xử lý nổi và cho đến nay nó chỉ là một đống phế liệu cần thanh lý.
III. Ý nghĩa phương pháp luận
1. Phát huy tính năng động chủ quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
-Tính năng động chủ quan
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy tính tích cực sáng tạo của ý thức trong quá trình
phản ánh sự vật, hiện tượng để tìm ra bản chất quy luật của nó và đề ra đường lối, biện pháp cải biến nó


11

phục vụ lợi ích của con người. Bên cạnh đó không thụ động mà phải biết tạo ra những điều kiện thích
hợp, làm cho điều kiện này tác động vào điều kiện khác để nảy sinh ra điều kiện cần thiết cho hoạt động
của con người.
-Phát huy tính năng động chủ quan trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Ở Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức ngày càng đầy đủ, đúng đắn hơn về vai trò của nhân
tố con người cũng như tầm quan trọng của việc phát triển con người.Trước hết, cần khẳng định rằng,
những nhận thức đúng đắn, đầy đủ của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề con người và phát triển con
người, dựa trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như
được đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới.
2. Xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng quy luật khách quan
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, triết học Mác – Lenin đã rút ra nguyên tắc phương pháp luận
là phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan tức là xuất phát từ tính khách quan của vật chất, chúng ta phải xuất phát
từ bản thân sự vật, không thể tùy tiện gán cho sự vật cái mà nó khơng có hoặc là nó chưa có. Trong hoạt

động thì chúng ta phải ln ln xuất phát từ thực tế khách quan, mọi chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật, mục tiêu, phương hướng thì đều phải xuất phát từ thực tế khách quan. Tơn trọng vai trị quyết
định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người.
Như vậy, xuất phát từ thực tế khách quan, tơn trọng khách quan có ý nghĩa rất lớn cho hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn.

- Tơn trọng khách quan là tơn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội.
Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực tế
khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. V.I. Lênin đã nhiều lần nhấn
mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, khơng được lấy tình cảm làm điểm xuất
phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt
cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.

+ Trong mọi hoạt động, khi đề ra phương hướng hoạt động phải căn cứ vào điều kiện khách quan,
quy luật khách quan để đảm bảo hoạt động đạt hiệu quả và không bị các yếu tố khách quan cản trở.

+ Khi xác định phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động phải căn cứ vào các quy luật khách quan
để lựa chọn phương pháp, cách thức phù hợp với từng điều kiện khách quan đảm bảo cho sự phát triển
của đối tượng tác động.

+ Có kế hoạch điều chỉnh mục tiêu của bản thân cho phù hợp khi điều kiện khách quan có sự biến
đổi để phát huy ý thức của bản thân luôn năng động và sáng tạo trong mọi điều kiện khách quan.


12

- Phát huy tính năng động chủ quan: theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì ý thức khơng
thụ động mà nó có tính độc lập, tương đối với vật chất và nó tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Bản chất của ý thức mang tính năng động, sáng tạo.


+ Tri thức khoa học và vận dụng tri thức khoa học có vai trị vơ cùng quan trọng trong cuộc sống
của mỗi người. Vì tri thức khoa học giúp cho hành động của mỗi người trở đúng quy luật và có hiệu quả
hơn.

+ Ln phát huy tính tích cực của ý thức và tìm tịi cái mới, phương pháp mới. Vì những yếu tố này
giúp ta phát triển bật phá, khác biệt so với những cá nhân khác luôn hoạt động theo quy luật mà không
chịu đổi mới.

+ Luôn phát huy tính sáng tạo vì sáng tạo mới giúp phát triển trí tuệ và tạo nên đột phá, biết dự đoán
một cách khoa học, phù hợp quy luật khách quan khi đó chúng ta có thể đối phó với những biến đổi của
quy luật khách quan.
Vận dụng tôn trọng khách quan xuất phát từ thực tế khách quan phát huy năng động chủ
quan
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng phải xuất phát từ thực tế khách quan, nguyên tắc này đòi hỏi
chúng ta khi nhận thức và hành động phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của mình làm cơ sở định ra chính
sách, khơng lấy ý chí để áp đặt thực tế. Nắm vững nguyên tắc khách quan địi hỏi phải tơn trọng sự thật,
tránh thái độ nóng vội, định kiến khơng trung thực và chủ quan duy ý chí đồng thời phải tơn trọng quy
luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan. Thực tế khách quan ở đây là đất nước Việt Nam
là một đất nước nằm ở khu vực địa lý giáp ranh với nhiều nước và điều kiện khí hậu cận nhiệt đới, cho
nên con người Việt Nam thấp bé hơn các nước trong khu vực. Do vậy, nhận thức được tính cấp thiết của
việc tập luyện TDTT nâng cao thể lực và tầm vóc con người Việt nam Đảng ta luôn coi trọng việc rèn
luyện thân thể của nhân dân và phát triển các môn thể thao dân tộc đồng thời tiếp cận hịa nhập các mơn
thể thao hiện đại.
Vì vậy, con người hoạt động trong lĩnh vực TDTT cũng cần phải tơn trọng khách quan, đồng thời
phát huy tính năng động chủ quan của mình. Tơn trọng khách quan là tơn trọng tính khách quan của vật
chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động
của mình. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh khơng được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách,
khơng được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát
từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh

chủ quan duy ý chí. Trong TDTT, tại thế vận hội Bắc Kinh 2008 thì VĐV Hồng Anh Tuấn ở mơn cử tạ
đã đem về tấm huy chương bạc cho thể thao Việt Nam, điều đó thể hiện cái gì? Trước hết phải quay lại
lịch sử tập luyện của VĐV này, các HLV đã đưa ra các bài tập khoa học, 1 chế độ ăn uống nghỉ ngơi và
tập luyện hợp lý và đấu pháp thi đấu khôn ngoan, vào thi đấu VĐV này tôn trọng các đấu thủ vì các VĐV


13

khác cũng rất mạnh tức là tôn trọng khách quan, VĐV này dù muốn hay khơng thì thực tế khách quan vẫn
có các VĐV khác đến tham dự mơn cử tạ. Nhưng VĐV này đã biết phát huy tính năng động chủ quan, đó
là sức mạnh của ý chí, của tình u với đất nước Việt Nam, tơn trọng các đấu thủ khác vì chưa biết sức
mình sức người. Đấu pháp thi đấu khôn ngoan (tức là tôn trọng các quy luật tự nhiên và xã hội – bài thi
của VĐV này đi từ hạng cân nhẹ tới nặng dần) đã đem lại cho VĐV này tấm huy chương bạc cho thể thao
Việt Nam.
Thế nhưng chỉ sau 1 năm cũng chính VĐV này vì những ánh hào quang của 1 năm trước mà xuất
phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực VĐV này đã phải
trả giá đắt cho bài học chủ quan duy ý chí của mình. VĐV này đã thất bại ở cả 3 lần nâng tạ khi không
thể nâng tạ ở 1 mức tạ khởi điểm cao hơn mức mà ban huấn luyện đề ra. Thế rồi không tôn trọng các quy
luật khách quan, không xuất phát từ thực tế khách quan, không phát huy tính năng động chủ quan của bản
thân dẫn tới việc bản thân ngày càng sa sút, không nhận thức của quy luật phủ định của phủ định, để rồi
đến ASIAD 16 VĐV này đã bị dính Doping, việc dính Doping đó có thể do nhiều nguyên nhân, cái đó
chúng ta cịn phải chờ kết quả của những người làm cơng tác chun mơn, nhưng đó là bài học cho VĐV
đó nói riêng và cho những người làm cơng tác TDTT nói chung, khơng được mắc phải những việc sai lầm
đáng tiếc như vậy. Phải biết tôn trọng khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy tính năng
động chủ quan.
3. Phát huy điều kiện khách quan và tính năng động của nhân tố chủ quan

- Điều kiện khách quan là tiền đề xác định mục tiêu, phương hướng, nội dung, biện pháp phù hợp làm
cơ sở cho hoạt động thực tiễn của chủ thể từng bước cải biến theo mục đích đặt ra. Vì vậy, phát huy điều
kiện khách quan cũng tức là để phát huy tính năng động của nhân tố chủ quan. Vì ý thức ln gắn liền

nhưng khơng thể vượt qua tính quy định của những tiền đề vật chất đã định. Chỉ khi thế giới vật chất ngày
càng phát triển, ý thức của con người cũng ngày càng trở nên năng động và phát triển theo.

- Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức, cũng
tức là phát huy vai trị tích cực của con người trong mọi hoạt động xã hội. Phát huy và nâng cao tri thức
khoa học, chính trị, nhân văn... để con người cải tạo thế giới quan tốt hơn, bồi dưỡng tinh thần phấn đấu,
xây dựng ý thức lành mạnh, không ngừng nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận
dụng vào trong hoạt động thực tiễn của con người. Con người cần chủ động tìm kiếm cách thức, phương
pháp, phương tiện vật chất... để đạt được mục tiêu. Điều này đòi hỏi con người phải “đổi mới tư duy”.
Nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố tinh thần, tạo thành sức mạnh
tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao. Chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, bảo
thủ, trì trệ... Vận dụng vào việc giáo dục và bồi dưỡng ý chí cách mạng cho cán bộ, nhân dân, nhất là
trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, tồn cầu hóa hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn
luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri
thức khoa học. Đồng thời, để phát huy tính năng động chủ quan, con người cần nhận thức và giải quyết


14

đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải
có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động
của mình.

PHẦN 2: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC VÀO TRONG THỰC TIỄN ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
I. Đổi mới giữa kinh tế và chính trị
1. Sự tác động lẫn nhau giữa kinh tế và chính trị
Biện chứng giữa kinh tế với chính trị
Trong triết học Mác - Lênin, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một nội dung được quan tâm
nhiều nhất. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thường được biểu hiện trong đời sống xã hội, trong

đường lối chính sách của Đảng cộng sản. Nó là cơ sở phương pháp luận để người lãnh đạo chỉ đạo cách
mạng. Chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin ra đời năm 1921 như một cẩm nang làm cho nước Nga thốt
khỏi tình hình “Ngàn cân treo sợ tóc”, là đường lối chiến lược và sách lược để xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước Nga. Mặc dù ra đời cách đây gần 100 năm, nhưng những tư tưởng nhất là tư tưởng về mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị của NEP vẫn còn ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay.
1.1 Biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong chính sách kinh tế mới của Lênin
Mối quan hệ đó được Lênin khái quát như sau: “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế” và “Chính
trị khơng thể khơng giữ vị trí ưu tiên so với kinh tế”.
1.1.1. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế
Thứ nhất, với tư cách là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, chính trị sẽ do cơ sở kinh tế quyết
định. Cơ sở kinh tế có vai trị rất to lớn đối với tư tưởng chính trị và hệ thống tổ chức chính trị. Chính cơ
sở kinh tế quy định sự xuất hiện, quyết định nội dung, tính chất, mục tiêu, các nguyên tắc của chính trị.
Cịn mạnh mẽ hơn thế nữa, cơ sở kinh tế cịn có vai trị quyết định đến sự thay đổi và phát triển của đường
lối chính trị, hệ tư tưởng chính trị và cơ cấu của hệ thống chính trị... Thực tiễn của cuộc cách mạng XHCN
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước trên thế giới và ngay cả ở nước ta đã chứng minh một cách hùng
hồn về vai trị của kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với chính trị.
Thứ hai, do chính trị là biểu hiện tập trung của nền kinh tế, nên mọi chính sách chính trị đúng đắn
đều phải xuất phát từ tình hình hiện thực, phản ánh sát, đúng với trạng thái hiện thực của nền kinh tế và
chính sách đó xét cho cùng cũng do tình hình kinh tế quyết định. Tình hình kinh tế là cơ sở xuất phát cho
việc lựa chọn các phương tiện, chính sách kích thích nền sản xuất phát triển nhằm hồn thiện nền sản xuất
xã hội. Đồng thời kinh tế cũng có vai trị quyết định cả việc lựa chọn chính sách phân phối và sự dụng
hợp lý tổng sản phẩm xã hội, sản phẩm thặng dư dưới hình thức giá trị và hiện vật. Luận điểm này đã
được V.I. Lênin áp dụng để chỉ đạo việc xây dựng xã hội mới


15

Thứ ba, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Song, chính trị khơng phải là sự phản ánh giản
đơn, trực tiếp quá trình kinh tế, mà là sự phản ánh một cách sáng tạo, phản ánh tập trung các hiện tượng
kinh tế. Chính trị phản ánh về tư tưởng những nhu cầu của kinh tế trên lập trường lợi ích chung của giai

cấp, là tập trung ý chí, sức lực, hành động của giai cấp để thực hiện một cách thực tế lợi ích chung đó. Sự
biểu hiện tập trung, khái quát của kinh tế trong chính trị được thể hiện trước hết thơng qua lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế biểu hiện như là cái kích thích hoạt động thực tiễn của con người. Trong lịch sử xã hội loài
người, khi các quan hệ xã hội mang tính chất chính trị thì điều chắc chắn là kinh tế khơng bao giờ tự nó
phát triển được hay khơng một thứ kinh tế nào phát triển ngồi chính trị. Chính trị giữ vai trị lãnh đạo,
điều khiển, quản lý, định hướng phát triển kinh tế. Tất cả sự phát triển kinh tế có sự tác động của chính trị
thơng qua quyền lực chính trị và thiếu nó thì sự phát triển kinh tế có thể dẫn đến hỗn loạn. Do thế, chính
trị phải là sự phản ánh chủ động, tập trung trở thành một hệ thống điều khiển kinh tế và điều khiển tồn
bộ xã hội.
1.1.2 Chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí hàng đầu
Trong hoạt động thực tiễn ở nước Nga, V.I. Lênin đã kiên quyết đấu tranh với phái “kinh tế” để bảo
vệ quan điểm chính trị chiếm vị trí hàng đầu. Người đã nhiều lần nhấn mạnh và bảo vệ quan điểm này.
V.I.Lênin viết: “Từ chỗ các quyền lợi kinh tế đóng vai trị quyết định, tuyệt nhiên khơng thể kết luận được
rằng các cuộc đấu tranh kinh tế lại có một tầm quan trong bậc nhất, vì những quyền lợi chủ yếu “quyết
định” của các giai cấp, nói chung, chỉ có thể thỏa mãn được bằng những cuộc cải biến chính trị căn bản;
còn quyền lợi kinh tế trọng yếu của giai cấp vơ sản nói riêng chỉ có thể thỏa mãn được bằng một cuộc
cách mạng chính trị thay thế chuyên chính của giai cấp tư sản bằng chun chính vơ sản”. Vị trí hàng đầu
của chính trị so với kinh tế thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, điều kiện tiên quyết cho những về chất và
phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Đó là một trong những điều kiện tất yếu đảm bảo sự thống trị về mặt
chính trị của giai cấp công nhân, đảm bảo cho nhân dân lao động thực hiện có kết quả quyền lực chính trị
và quản lý các q trình hoạt động của xã hội, trong đó có kinh tế. Vì vậy, vai trị hàng đầu của chính trị
đối với kinh tế là nhân tố quan trọng nhất để thực hiện lợi ích căn bản của giai cấp cơng nhân, là địi hỏi
của xã hội nhằm phát triển nền kinh tế có hiệu quả, vì lợi ích tất cả mọi thành viên trong xã hội.
Thứ hai, chính trị có tác động trở lại đối với kinh tế theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm, nếu quan
điểm chính trị mà sai lầm thì nó có thể làm tiêu vong tồn bộ những thành tựu kinh tế, làm cho nền kinh
tế phát triển chệch hướng. V.I. Lênin đã nói: “… cố nhiên là tơi đã, đang và sẽ cịn nói mong muốn rằng
chúng ta làm chính trị ít hơn, và làm kinh tế nhiều hơn. Nhưng cũng dễ hiểu rằng muốn cho lòng mong
muốn thành sự thực thì cần phải khơng có những nguy cơ về chính trị và những sai lầm chính trị”. Vì vậy,
muốn để kinh tế phát triển phát triển đồng thuận với sự tác động của chính trị, địi hỏi phải quan tâm tới

cả ba phương diện: đường lối, chính sách kinh tế; thể chế kinh tế và chủ thể kinh tế.


16

Thứ ba, chính trị đóng vai trị định hướng và tạo mơi trường chính trị xã hội ổn định cho phát triển
kinh tế. Muốn có một xã hội phát triển tồn diện thì chính trị phải trở thành phương tiện quan trọng, chính
trị phải bảo đảm sự lãnh đạo đúng hướng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống – xã hội. Sau khi giai cấp
công nhân đã giành được chính quyền, trọng tâm chính trị chuyển dần vào lĩnh vực kinh tế, chính trị ngay
trong kinh tế. Sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, để chiến thắng thù trong giặc ngoài, bảo vệ thành
quả cách mạng, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “... mỗi bước dẫn chúng ta tiến tới ngày thắng lợi bọn bạch vệ,
đều chuyển dần trọng tâm đấu tranh vào chính trị trong lĩnh vực kinh tế” và người đã nhấn mạnh: “Chính
trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng nước nhà về mặt kinh tế để tích góp được nhiều lúa mì hơn,
để sản xuất được nhiều than hơn, để sử dụng lúa mì và than, đó là hợp lý hơn sao cho khơng cịn người
đói nữa” .
Quan hệ chính trị với kinh tế là quan hệ cơ bản, nhảy cảm và phức tạp. Để giải quyết tốt quan hệ
này cần tránh khuynh hướng tuyệt đối hóa kinh tế vì như vậy, kinh tế sẽ phát triển tự phát, vơ chính phủ
và khuynh hướng tuyệt đối hóa chính trị vì theo khuynh hướng này nền kinh tế bị áp đặt, không theo quy
luật khách quan. Tuy nhiên, nếu đồng nhất chính trị với kinh tế sẽ làm chính trị trở nên cứng nhắc, giáo
điều.
1.2 Sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong Chính sách kinh
tế mới của Lênin trong thời kỳ đổi mới
Sự vận dụng NEP như thế nào, điều đó phụ thuộc vào sự nhận thức và điều kiện hoàn cảnh cụ thể của
mỗi nước. Đối với Việt Nam, mặc dù điều kiện, hồn cảnh lịch sử khơng hồn tồn giống nước Nga Xôviết trong thời điểm thực hiện NEP, song có nét tương đồng. Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm của
NEP Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo, tài tình mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của NEP vào
cơng cuộc đổi mới đất nước.
Một là, duy trì và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chủ trương này là sự vận dụng
sáng tạo quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong NEP vào điều kiện nước ta. Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ
quá độ là một nền kinh tế nhiều thành phần, đã được nhận thức từ Đại hội VI của Đảng, và tư tưởng này
được các Đại hội VII, VIII, IX, X, XI của Đảng tiếp tục tái khẳng định, bổ sung và hoàn thiện với nhiều

nội dung, biện pháp, chính sách mới, như giữ vững vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước, khuyến khích
phát triển và định hướng thành phần kinh tế tư nhân theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội, sử dụng chủ nghĩa
tư bản nhà nước và phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Thực tế cho thấy, nền kinh tế thị trường
ln có hai mặt tích cực và tiêu cực. Vì vậy, việc chọn kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nhằm hạn chế
tiêu cực và phát huy tích cực của kinh tế thị trường là sự lựa chọn sáng suốt của Đảng ta. Đảng chỉ rõ:
“Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đó là mơ hình kinh tế tổng quát của nước ta trong


17

thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa”. “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy, có thể nói, quan điểm của Đảng ta về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước chính là sự tiếp tục cuộc cách
mạng trên lĩnh vực quan hệ sản xuất trong điều kiện mới, đảm bảo thích ứng của quan hệ sản xuất với
trình độ hiện có của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Hai là, đổi mới kinh tế là trọng tâm, tùy theo thành quả và yêu cầu của đổi mới mà từng bước đổi mới
chính trị. V.I. Lênin cho rằng: Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa lĩnh vực quan trọng nhất là lĩnh vực
kinh tế. Vai trò lãnh đạo của Đảng phụ thuộc vào hiệu quả lãnh đạo kinh tế. Vì vậy phải quan tâm mối
quan hệ giữa chính trị và kinh tế. Trong cơng cuộc đổi mới của chúng ta, trước hết phải đổi mới về kinh
tế và từng bước đổi mới hệ thống chính trị nhắm tuân thủ các nguyên tắc mà trong NEP đã chỉ ra. Đảng
ta thực hiện từng bước đổi mới về chính trị, cụ thể là đổi mới hệ thống chính trị. Để đảm bảo chính trị là
động lực mở đường cho kinh tế phát triển thì bản thân chính trị - mà cụ thể là hệ thống chính trị, phải tiến
hành đổi mới, nâng lên ngang tầm với đổi mới kinh tế. Nếu khơng thì hệ thống chính trị khơng thể định
hướng cho kinh tế và nguy cơ chệch hướng kinh tế hồn tồn có thể xảy ra. Trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Đảng ta đã chỉ rõ: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo

lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong
Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức
mạnh tổng hợp của tồn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá
hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển”.
Ba là, đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu qủa quản lý của Nhà nước.
Đây là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng ta có sự đổi mới nhận thức về sự
tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa trong thời kỳ quá độ, chuyển nền kinh tế tự cung, tự cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đi liền với đó, Đảng ta chủ trương đổi mới cơ chế
quản lý, xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước; đổi mới cơng tác kế hoạch; thực hiện hạch tốn kinh doanh và giao quyền tự chủ
cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh của Nhà nước; ổn định tiền tệ, khắc phục có hiệu quả lạm phát; cải
cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực quản lý của bộ máy nhà nước... Đảng ta cho rằng, để tăng
cường xây dựng Đảng về chính trị nhằm nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng thì phải: “Tiếp tục
đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức Đảng; tăng cường sử dụng hợp
lý các tổ chức, cán bộ nghiên cứu để tham mưu cho Đảng trong việc xây dựng, lãnh đạo và kiểm tra việc


18

thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và nhà nước phải thực sự
nâng cao vai trò lãnh đạo, quản lý kinh tế thị trường, chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có đủ phẩm
chất, năng lực, trình độ công tác”.
Như vậy, theo quan điểm của V.I. Lênin, trong mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị - cơ sở hạ tầng
với kiến trúc thượng tầng, thì kinh tế quyết định chính trị và chính trị tác động trở lại kinh tế. Vận dụng
mối quan hệ đó trong thời kỳ đổi mới ở nước ta, Đảng ta khẳng định: Một là, duy trì và phát triển kinh tế
thị trường định hướng XHCN; Hai là, đổi mới kinh tế là trọng tâm, tùy theo thành quả và yêu cầu của đổi
mới mà từng bước đổi mới chính trị; Ba là, đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước. Sự vận dụng đúng đắn này nhằm đảm bảo mục tiêu xây dựng nền kinh tế

chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta
trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Sự vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm của NEP đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của
công cuộc đổi mới đất nước. Trong gần ba mươi năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh; hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị, xã hội ổn định; quốc
phịng và an ninh được giữ vững.
2. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Trong thời kỳ đổi mới, vận dụng và phát triển những quan điểm lý luận của Lê nin về xây dựng đảng
trong điều kiện đảng cầm quyền, lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển
kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam thu
được nhiều thắng lợi. Đảng ta đã phát triển, làm phong phú thêm lý luận về đảng cầm quyền của Lê nin.
Đó là đóng góp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin về
đảng cầm quyền nói chung và lý luận xây dựng Đảng nói riêng.
Đảng ta từng bước xác định đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về vị trí, nội dung, nhiệm vụ công tác xây dựng
đảng trong điều kiện đảng cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tạị và phát triển
của Đảng.
2.1 Đổi mới trong thời kì quá độ
Khi chủ nghĩa xã hội hiện thế giới lâm vào khủng hoảng, mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ, nhưng với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng ta đã phân tích một cách khoa học tình hình thế
giới và trong nước và đi đến khẳng định lấy chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng ta.


19

Đại hội VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam là mốc quan trọng đánh dấu công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước. Tại Đại hội này, Đảng ta đã đưa ra một loạt quan điểm mới có tính đột phá về nhiều vấn

đề hệ trọng, căn bản trong tiến trình phát triển của đất nước trong điều kiện, bối cảnh lịch sử mới. Đó là
những nhận thức mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ trương xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung,
quan liêu, bao cấp; phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện các chính sách kinh tế và xã hội
hướng vào mục tiêu phát triển con người...
Coi chủ nghĩa Mác - Lênin là cái cốt của Đảng, “cái gốc của Đảng”, Đại hội lần thứ II (năm 1951),
Đảng ta xác định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Tiếp theo, Đại hội lần thứ III
(năm 1960), Đảng khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành
động cách mạng. Đặc biệt đến Đại hội lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta chính thức khẳng định chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Việc
chính thức bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh cho nền tảng tư tưởng của Đảng là đánh dấu một bước tiến
mới, một bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận. Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn
vai trị, vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phát triển tư tưởng đó, từ sau Đại hội VII, Đảng ta nhất quán với chủ trương đồn kết, hợp tác, hữu
nghị và hịa bình để phát triển, Việt Nam mong muốn là bạn của tất cả các nước, sẵn sàng hợp tác song
phương và đa phương.
Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước và trong suốt q trình phát triển. Cơng bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu
phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi
người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình"
Từ đại hội VI đến Đại hội XI, vấn đề bản chất, mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội được
Đảng ta bổ sung, hoàn thiện đầy đủ hơn các tiêu chí: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định dứt khoát rằng, chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội "do nhân dân lao động làm
chủ", "con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân". Vì thế, phương hướng
và mục tiêu lớn nhất của các chính sách xã hội, như Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, là "...phát huy
nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo cơng bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp
tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các
nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội".

Trong quá trình đổi mới, Đảng ta coi trọng công tác nghiên cứu lý luận, học tập kinh nghiệm nước
ngoài và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong nước, từng bước làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm
quyền, về chủ nghĩa xã hội và tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, đến Đại hội


20

đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã bổ sung, phát triển mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, từ đó xác định các
phương hướng cơ bản và các mối quan hệ lớn cần giải quyết để phát triển xã hội, phát triển đất nước.
Nhìn lại tiến trình 35 năm đổi mới và nhiệm kỳ vừa qua, Đại hội XIII của Đảng đã tổng kết 5 bài học
lớn; trong đó, bài học hàng đầu là về xây dựng, chỉnh đốn Đảng: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố,
tăng cường đồn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng,
thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh tồn diện; hồn thiện cơ chế kiểm sốt chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh
phịng, chống suy thối, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phịng, chống
tham nhũng, lãng phí. Công tác cán bộ phải thực sự là “then chốt của then chốt”, tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ
càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương”
2.2 Vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức ngày càng được chú trọng
Đảng ta quan tâm đến công tác xây dựng Đảng khi xác định xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, xây
dựng đảng về tổ chức, xây dựng đảng về đạo đức đức, lối sống và sự nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng
viên, trong đó, xây dựng đội ngũ cán bộ là khâu then chốt.
Từ những thành tựu phát triển của nhân loại và thực tiễn 70 năm xây dựng CNXH của các nước, Đảng
ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành

phần kinh tế, hình thức tơt chức kinh doanh và hình thức phân phối. Đảng ta xác định phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm.
Đảng ta chỉ ra tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng
không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngồi nên “tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có
mặt, có bộ phận cịn diễn biến tinh vi phức tạp hơn...”, đồng thời chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân sâu xa là sự hạn chế của công
tác giáo dục lý luận: “Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và
học tập chủ nghĩa Mác – Lê nin chưa đáp ứng yêu cầu”. “Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên về chủ nghĩa Mác –Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng


21

chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi
mới; chưa tạo ra được sự thống nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thối, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” và những hậu quả gây ra”.
Từ đó, Đảng ta chỉ ra những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò,
tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; đẩy mạnh cơng tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn khắc phục tình trạng yếu kém,
lạc hậu của cơng tác lý luận; tổ chức học tập, bồi dưỡng nhằm không ngừng nâng cao trình độ lý luận đối
với cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.3 Xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ có vai trị quyết định
Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Để giữ vững và khơng ngừng nâng cao vai
trị của người lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, khẳng định tính chính đáng, chính danh cầm
quyền, cùng với việc xây dựng Cương lĩnh chính trị cho sự phát triển của đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn luôn quan tâm xây dựng phương thức và không ngừng đổi mới phương
thức lãnh đạo phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế thị trường.

Trong đổi mới phương thức lãnh đạo, Đảng ta coi trọng việc phân định rõ chức năng của Đảng và của
Nhà nước. Đảng lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, song khơng làm thay vai trị của Nhà nước; đồng thời, cần
thực hiện chủ trương tinh gọn bộ máy đi đôi với tinh giản biên chế một cách thiết thực và hiệu quả. Thành
tựu lớn nhất trong giải quyết phương thức lãnh đạo của Đảng là giải quyết mối quan hệ giữa đảng lãnh
đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Đảng ta từng bước nhận thức đầy đủ hơn về xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đảng lãnh đạo là
phải đề ra chủ trương, đường lối, tuy nhiên trong điều kiện nhà nước pháp quyền, trong lãnh đạo xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng ta coi trọng việc sử dụng và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Đảng ta cho rằng, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân cơng và phối hợp giữa lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Trong khi đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, Đảng ta cảnh báo, từng
bước xây dựng và hồn thiện cơ chế, kiểm sốt quyền lực nhà nước nhằm ngăn chặn những biểu hiện lạm
dụng quyền lực, sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, vì vậy có
cơ chế để kiềm chế, ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực, tham nhũng, lãng phí.
Đảng cầm quyền khơng chỉ là bằng chủ trương, đường lối và Cương lĩnh mà phải thơng qua đội ngũ
cán bộ của mình để quản lý nhà nước và xã hội. Vì vậy, phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ là công
việc gốc của Đảng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Trong q trình đổi mới, Đảng ta coi trọng
cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược từ quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển cán bộ được đẩy mạnh hơn. Đảng ta coi đây là nhiệm vụ then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Để lựa chọn những người có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín vào cấp ủy một cách dân chủ, nghiêm túc,
đúng Điều lệ, làm cho Đảng ta thực sự là một tổ chức cách mạng chặt chẽ, đoàn kết, kỷ cương, thống nhất


22

cao, vì vậy, Đảng ta ln coi trọng cơng tác bầu cử, xem đây là một khâu quan trọng trong cơng tác cán
bộ, có nhiều đổi mới cơng tác bầu cử trong Đảng, đáp ứng các yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong
điều kiện phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
II. Phát huy nhân tố con người trong công cuộc CNH, HĐH

Một trong những nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ là xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, trong đó vấn đề mấu chốt là phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Rút ra những bài học khơng thành cơng của cơng nghiệp hóa theo mơ hình truyền thống của những
năm 60 trong đó, đổi mới, Đảng ta đã xây dựng một quan niệm mới về cơng nghiệp hóa gắn liền với hiện
đại hóa. Đó là cơng nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, tận dụng lợi thế so sánh, chú trọng cơng nghiệp nơng
nghiệp gắn liền với đơ thị hóa nơng thơn, có chiến lược phát triển tồn diện nơng nghiệp - nông thôn và
nông dân. Đại hội VIII, IX, X và Đại hội XI đã có những phát triển lý luận mới về vấn đề này.

- Những việc đã làm để phát huy nhân tố con người:
+ Vào thời điểm khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tun bố với cả thế giới rằng con người có những quyền cơ bản là quyền được sống và mưu cầu
hạnh phúc. Khi đất nước cịn đang phải đối mặt với vơ vàn khó khăn, Bác cũng đã khẳng định rằng ham
muốn tột bậc của Người là “làm sao cho dân ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”. Tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện truyền thống nhân văn, nhân
đạo và chú trọng yếu tố con người của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng phát triển con người, thường xuyên
chăm lo cho hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình ln được Đảng Cộng sản Việt Nam đặt lên hàng
đầu. Điều này hoàn toàn phù hợp với tôn chỉ của Đảng được xác định ngay từ khi mới thành lập và giữ
vững trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng: ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng
Cộng sản Việt Nam khơng có lợi ích nào khác. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt
là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã nhận thức, bổ sung và phát triển ngày càng đầy
đủ hơn, đúng đắn hơn những tư tưởng sâu sắc, có ý nghĩa chỉ đạo và định hướng về vấn đề phát triển con
người trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Bao trùm tồn bộ đường lối,
các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế, chính trị, văn hố và xã hội của Đảng là quan điểm vừa mang
tính khoa học, vừa chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc - quan điểm coi con người là mục tiêu, đồng thời
là động lực của sự phát triển xã hội.

+ Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định dứt khoát rằng, chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội "do nhân dân lao động
làm chủ", "con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao

động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân". Vì thế, phương


×