Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

PHEP BIEN CHUNG DUY VAT potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.03 KB, 17 trang )

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT – PHƯƠNG PHÁP LUẬN
CỦA NHẬN THỨC KHOA HỌC & THỰC TIỄN
I. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÉP BIỆN CHỨNG & NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Khái quát lòch sử phép biện chứng
a) Phép siêu hình và phép biện chứng
 Vấn đề về bản tính của thế giới
- Thực chất: Vấn đề về bản tính của thế giới là vấn đề nói về mối quan hệ giữa sự liên hệ và tách biệt, giữa sự vận
động và đứng im. Vấn đề này đòi trả lời câu hỏi sau: Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới cô lập, tách biệt, đứng im, bất
động hay có liên hệ, ràng buộc lẫn nhau, không ngừng vận động, thay đổi?
- Cách giải quyết: Vấn đề về bản tính của thế giới có hai cách giải quyết đối lập nhau: Cách giải quyết siêu hình cho
rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới cô lập, tách biệt, đứng im, bất động. Cách giải quyết biện chứng cho rằng, mọi
sự vật, hiện tượng trong thế giới liên hệ, ràng buộc lẫn nhau, không ngừng vận động, thay đổi.
 Phép siêu hình
- Thực chất: Phép siêu hình là một phương pháp triết học đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự cô lập, tách
biệt, đứng im, bất động; còn nếu có sự liên hệ, vận động, thay đổi thì đó chỉ là sự liên hệ bên ngoài, sự vận động, thay đổi
đơn thuần về lượng,…. Phép siêu hình còn là một lý luận triết học bàn về những cái bản chất cô lập, bất biến của vạn vật
trong thế giới, tức Siêu hình học.
- Nguồn gốc, nguyên nhân tồn tại: Phép siêu hình xuất hiện là do việc xem xét một cách phiến diện, tuyệt đối hóa một
mặt hay một vài đặc tính nào đó của sự vật; là do việc xem xét tách rời, tuyệt đối hóa tính ổn đònh của sự vật (bản chất).
Phép siêu hình được hình thành còn do chúng ta tuyệt đối hóa, thần thánh hóa tri thức triết học.
 Phép biện chứng
- Thực chất: Phép biện chứng là một phương pháp triết học đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự liên hệ,
ràng buộc lẫn nhau, luôn vận động, phát triển. Phép biện chứng còn là một lý luận triết học bàn về mối liên hệ và sự vận
động, phát triển của vạn vật xảy ra trong thế giới.
- Hình thức: Phép biện chứng có ba hình thức cơ bản là: phép biện chứng chất phác, phép biện chứng duy tâm và phép
biện chứng duy vật.
 Cuộc đấu tranh giữa phép siêu hình và phép biện chứng là một động lực thúc đẩy sự phát triển lòch sử triết học. Cuộc
đấu tranh này làm cho phép siêu hình ngày càng tinh vi, còn phép biện chứng ngày càng sâu sắc. Đó cũng là cuộc đấu
tranh để hoàn thiện năng lực nhận thức, nâng cao năng lực tư duy lý luận và năng lực cải tạo thế giới của con người.
b) Khái quát các hình thức lòch sử của phép biện chứng
 Phép biện chứng chất phác


- Phép biện chứng chất phác xuất hiện trong nền triết học cổ đại; nó được hiểu như:
+ Cách nhìn nhận thế giới theo quan niệm nhân duyên, vô ngã, vô thường (Phật Thích Ca).
+ Đấu tranh - chuyển hóa của các mặt đối lập (Thuyết m dương); Sự vận động của vạn vật theo quy luật tương sinh,
quy luật tương khắc (Thuyết Ngũ hành).
+ Thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập; Sự vận động của vạn vật theo quy luật quân bình và quy
luật phản phục (Lão Tử).
+ Nghệ thuật đàm thoại, nghệ thuật tranh luận sáng tạo, dắt dẫn linh hồn nhận thức đến với chân lý – thế giới ý niệm
(Xôcrát - Platông).
+ Cách xem xét sự vật trong mối liên hệ, trong sự vận động, phát triển để nhận thức được cái lôgốt của sự vật hay bản
tính của thế giới. “Không ai hai lần tắm trong cùng một dòng sông” (Hêraclít).
- Phép biện chứng chất phác mang tính tự phát và mộc mạc
+ Tính tự phát: Phép biện chứng chất phác mới chỉ là sự cảm nhận trực tiếp thế giới như một hệ thống chỉnh thể (mọi
cái liên hệ, tác động lẫn nhau, luôn nằm trong quá trình sinh thành, biến hóa và diệt vong) mà chưa là hệ thống tri thức lý
luận chặt chẽ, nhất quán về sự liên hệ, ràng buộc, về quá trình vận động, phát triển xảy ra trong thế giới.
+ Tính mộc mạc: Phép biện chứng chất phác mới chỉ là những suy luận, phỏng đoán của trực giác hay dựa trên kinh
nghiệm đời thường mà chưa được chứng minh bằng tri thức khoa học, nhưng về căn bản những luận điểm mà nó đưa ra là
đúng.
+ Khi nhận đònh về phép biện chứng chất phác trong nền triết học cổ Hi Lạp, Ph.ngghen viết: “Những nhà triết học
Hi Lạp đều là những nhà biện chứng tự phát bẩm sinh, và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã
nghiên cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng”
1
“Trong triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với
tính chất thuần phác tự nhiên chưa bò khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu”, và “nếu về chi tiết, chủ nghóa siêu hình là
đúng hơn so với những người Hi Lạp, thì về toàn thể những người Hi Lạp lại đúng hơn so với chủ nghóa siêu hình”
2
.
 Phép biện chứng duy tâm
- Phép biện chứng duy tâm thể hiện trong triết học của Căntơ, triết học của Phíchtơ, triết học của Sêlinh, đặc biệt là
trong triết học của Hêghen, tức trong nền triết học cổ điển Đức.
+ Trong triết học của Căntơ chứa đựng tư tưởng biện chứng về sự thống nhất (thâm nhập) của các mặt đối lập tạo thành

động lực của sự vận động, phát triển.
+ Trong triết học của Phíchtơ chứa đựng tư tưởng biện chứng về mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động, phát triển;
và là bản tính của tư duy (tinh thần, nhận thức).
+ Trong triết học của Sêlinh chứa đựng tư tưởng biện chứng về mối liên hệ phổ biến; về sự đồng nhất, thống nhất, đấu
tranh của các mặt đối lập (các lực lượng tinh thần đối lập) trong giới tự nhiên.
+ Trong triết học của Hêghen chứa đựng tư tưởng biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển của cái tinh
thần. Phép biện chứng Hêghen là hệ thống lý luận về quá trình tự vận động, phát triển của ý niệm tuyệt đối [Ý niệm tuyệt
đối tự vận động trong chính nó (tư duy thuần túy), rồi nó tự tha hoá để biến nó thành cái khác nó (giới tự nhiên), sau đó, nó
tự khắc phục sự tha hóa đó để quay về với nó trong tinh thần tuyệt đối (xã hội)]. Phép biện chứng Hêghen bao gồm: Một là,
lý luận về tồn tại (cái bên ngoài, trực tiếp của ý niệm tuyệt đối, có thể nhận biết bằng cảm tính) thể hiện qua các phạm trù:
chất, lượng, độ; Hai là, lý luận về bản chất (cái bên trong, gián tiếp, đầy sự đối lập, mâu thuẫn của ý niệm tuyệt đối, chỉ
nhận biết bằng lý tính) thể hiện qua các phạm trù: hiện tượng – bản chất, ngẫu nhiên – tất nhiên, nội dung – hình thức, ;
Ba là, lý luận về khái niệm (sự thống nhất giữa tồn tại và bản chất) thể hiện qua các phạm trù: cái đơn nhất – cái đặc thù –
cái phổ biến, cái trừu tượng – cái cụ thể,…
- Phép biện chứng duy tâm là phép biện chứng tư duy, là phép biện chứng của khái niệm; nó mang tính tư biện, thần bí.
+ Phép biện chứng duy tâm là một hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù chuyển hóa lẫn nhau phản ánh mối liên
hệ và sự vận động, phát triển diễn ra trong thế giới tinh thần. Nó vừa là một hệ thống lý luận khá hoàn chỉnh về mối liên
hệ phổ biến và về sự phát triển vừa là một phương pháp tư duy triết học phổ biến. Phép biện chứng duy tâm đã hoàn thành
cuộc cách mạng về phương pháp, nhưng cuộc cách mạng đó xảy ra ở tận trên trời, chứ không phải xảy ra dưới trần gian,
trong cuộc sống hiện thực, do đó nó “không tránh khỏi tính chất gò ép, giả tạo, hư cấu, tóm lại là bò xuyên tạc”
3
.
+ Theo V.I.Lênin, những kết luận của phép biện chứng duy tâm trong nền triết học cổ điển Đức là những phỏng đoán
tài tình về “biện chứng của sự vật trong biện chứng của khái niệm”
4
.
+ “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở
thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở
Hêghen, phép biện chứng bò lộn đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái nhân hợp lý của nó ở đằng
sau cái vỏ thần bí của nó”

5
.
 Phép biện chứng duy vật
- C.Mác và Ph.ngghen cải tạo “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng duy tâm Hêghen theo tinh thần triết học duy vật
của Phoiơbắc, xây dựng phép biện chứng duy vật.
+ “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”
6
; “Phép biện chứng … là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”
7
.
1
C.Mác và Ph.ngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.34.
2
C.Mác và Ph.ngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.491.
3
C.Mác và Ph.ngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.41.
4
V.I.Lênin: Toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 2005, tr.209.
5
C.Mác và Ph.ngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.494.
6
C.Mác và Ph.ngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.455.
7
C.Mác và Ph.ngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.201.
+ “Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bò nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện,
học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”
8
.
+ Phép biện chứng duy vật bao gồm phép biện chứng khách quan và phép biện chứng chủ quan. “Biện chứng gọi là

khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là sự
phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông
qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập
kia”
9
.
+ Phép biện chứng duy vật vừa là thế giới quan duy vật biện chứng vừa là phương pháp luận biện chứng duy vật, vừa
là lôgích biện chứng vừa là nhận thức luận biện chứng duy vật. Về điều này, V.I.Lênin nhận xét như sau: “Mác không để
lại cho chúng ta “lôgíc học” (với chữ L viết hoa), nhưng đã để lại cho chúng ta lôgích của “Tư bản”, và cần phải tận dụng
đầy đủ nhất lôgích đó để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu. Trong “Tư bản”, Mác áp dụng lôgíc, phép biện
chứng và lý luận nhận thức (không cần ba từ: đó là cùng một cái duy nhất) của chủ nghóa duy vật vào một khoa học duy
nhất”
10
.
- Là đỉnh cao của tư duy nhân lọai, phép biện chứng duy vật mang tính tự giác, tính khoa học và tính cách mạng triệt để .
Nó được thể hiện trong một hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù chuyển hóa lẫn nhau phản ánh mối liên hệ và sự
vận động, phát triển xảy ra trong thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy con người).
2. Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
a) Nguyên lý là gì?
 Nguyên lý là những luận điểm xuất phát (tư tưởng chủ đạo) của một học thuyết (lý luận) mà tính chân lý của nó là
hiển nhiên, tức không thể hay không cần phải chứng minh nhưng không mâu thuẫn với thực tiễn và nhận thức về lónh vực
mà học thuyết đó phản ánh.
 Nguyên lý được khái quát từ kết quả hoạt động thực tiễn – nhận thức lâu dài của con người. Nó vừa là cơ sở lý luận
của học thuyết, vừa là công cụ tinh thần để nhận thức (lý giải – tiên đoán) và cải tạo thế giới.
 Ý nghóa phương pháp luận của nguyên lý thể hiện qua các nguyên tắc tương ứng. Nguyên tắc là những yêu cầu nền
tảng đòi hỏi chủ thể phải tuân thủ đúng trình tự nhằm đạt mục đích đề ra một cách tối ưu.
 Có hai loại nguyên lý: nguyên lý của khoa học (công lý, tiên đề, quy luật nền tảng) và nguyên lý của triết học. Phép
biện chứng duy vật có hai nguyên lý cơ bản. Đó là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
b) Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
 Mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến

- Mối liên hệ là sự tác động (ràng buộc, thâm nhập…) lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng mà trong đó, sự thay đổi của
cái này sẽ tất yếu kéo theo sự thay đổi của cái kia. Đối lập với mối liên hệ là sự tách biệt. Sự tách biệt cũng là sự tác động
qua lại giữa các sự vật, hiện tượng nhưng sự thay đổi của cái này sẽ không tất yếu kéo theo sự thay đổi của cái kia. Do vậy
mà mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới vừa tách biệt vừa liên hệ: Thế giới là một hệ thống thống nhất mọi yếu tố, bộ
phận của nó.
- Mối liên hệ mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng.
- Mối liên hệ có thể được chia ra thành: Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngòai; Mối liên hệ trong tự nhiên,
mối liên hệ trong xã hội và mối liên hệ trong tư duy; Mối liên hệ riêng, mối liên hệ chung và mối liên hệ phổ biến
- Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong mọi lónh vực hiện
thực.
- Mối liên hệ phổ biến mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quát sự vận động, phát triển của mọi sự
vật, quá trình xảy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.
- Mối liên hệ phổ biến được nhận thức trong các (cặp) phạm trù biện chứng như mối liên hệ giữa: mặt đối lập - mặt
đối lập; chất - lượng; cái cũ – cái mới; cái riêng – cái chung; nguyên nhân – kết quả; nội dung – hình thức; bản chất – hiện
tượng; tất nhiên – ngẫu nhiên; khả năng – hiện thực.
 Nội dung nguyên lý
- Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau.
8
V.I.Lênin: Toàn tập, T.23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 2005, tr.53.
9
C.Mác và Ph.ngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.694.
10
V.I.Lênin: Toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.359-360.
- Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến. Mối liên hệ phổ biến tồn
tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy
ra trong thế giới.
c) Nguyên lý về sự phát triển
 Sự vận động và sự phát triển
- Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động được hiểu như sự thay đổi nói chung.
“Vận động hiểu theo nghóa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của

vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vò trí đơn giản cho đến
tư duy”
11
.
- Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện, do việc giải quyết mâu thuẫn trong bản thân sự vật gây ra, được thực hiện thông qua bước nhảy về chất, và diễn ra
theo xu hướng theo phủ đònh của phủ đònh. Ở khía cạnh khác, phát triển được xem là một khuynh hướng vận động tổng hợp
của một hệ thống sự vật, trong đó, sự vận động có thay đổi những quy đònh về chất (thay đổi kết cấu - tổ chức) của hệ
thống sự vật theo xu hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự vận động có thay đổi những quy đònh về chất của sự vật theo
xu hướng thoái bộ và sự vận động chỉ có thay đổi những quy đònh về lượng của sự vật theo xu hướng ổn đònh giữ vai trò phụ
đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo trên. Theo cách hiểu này, trong quá trình phát triển của các hệ thống vật chất xảy ra
trong thế giới, không chỉ là sự thay đổi tiến bộ mà còn chứa trong mình những sự thay đổi thoái bộ tạm thời, không chỉ là sự
thay mà còn chứa trong mình những sự ổn đònh tương đối nữa.
+ “Hai quan điểm cơ bản… về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như lập lại; và
phát triển coi như sự thống nhất của các mặt đối lập. Quan điểm thứ nhất thì chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan điểm
thứ hai là sinh động. Chỉ có quan điểm thứ hai mới cho ta chìa khóa của “sự tự vận động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn
tại”; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của “sự chuyển hóa
thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”
12
.
+ Phát triển như sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập, giữa chất và lượng, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái riêng và cái
chung, giữa nguyên nhân và kết quả, giữa nội dung và hình thức, giữa bản chất và hiện tượng, giữa tất nhiên và ngẫu
nhiên, giữa khả năng và hiện thực.
+ Phát triển là qúa trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng: Phát triển trong giới
tự nhiên vô sinh; phát triển trong giới tự nhiên hữu sinh; phát triển trong xã hội; phát triển trong tư duy, tinh thần.
 Nội dung nguyên lý
- Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển.
- Phát triển mang tính khách quan - phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ thống vật chất, do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước
nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ đònh của phủ đònh.

3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
a) Quy luật là gì?
 Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, chung, lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng và chi phối
sự vận động, phát triển của chúng.
 Quy luật là sự phản ánh những mối liên hệ khách quan, bản chất… của hiện thực khách quan (giới tự nhiên, xã hội)
và hiện thực chủ quan (tư duy con người). Quy luật là đối tượng nghiên cứu của mọi ngành khoa học, là cốt lõi lý thuyết
khoa học. Quy luật và bản chất là những khái niệm cùng trình độ.
 Quy luật là công cụ tinh thần để nhận thức (lý giải – tiên đóan) và cải tạo thế giới. Dựa trên nội dung quy luật,
phương pháp luận xây dựng các quy tắc, phương pháp để chỉ đạo hoạt động của chủ thể trong quá trình nhận thức và thực
tiễn. Muốn hoạt động thành công phải hiểu đúng quy luật và làm theo quy luật, tức làm theo các các quy tắc, phương pháp,
…. do phương pháp luận đưa ra.
 Quy luật bao gồm quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật tư duy (dựa theo lónh vực tác động); hay quy luật
riêng, quy luật chung và quy luật phổ biến (dựa theo mức độ phổ quát). Có ba quy luật phổ biến cơ bản của phép biện
chứng duy vật; đó là: quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng
dẫn đến những thay đổi về chất, và ngược lại; và quy luật phủ đònh của phủ đònh.
b) Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
11
C.Mác và Ph.ngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.519.
12
V.I.Lênin: Toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.379.
 Mặt đối lập; thống nhất, đấu tranh, chuyển hóa của các mặt đối lập
- Mặt đối lập: Sự vật là một tập hợp các yếu tố (thuộc tính) tương tác với nhau và với môi trường. Kết quả của sự
tương tác này là các yếu tố tạo nên bản thân sự vật có một sự biến đổi nhất đònh, trong đó có vài yếu tố (biến đổi) trái
ngược nhau. Những yếu tố trái ngược nhau (bên cạnh những yếu tố khác hay giống nhau) tạo nên cơ sở của các mặt đối lập
trong sự vật. Mặt đối lập tồn tại khách quan và phổ biến.
- Thống nhất của các mặt đối lập là các mặt đối lập không tách rời nhau, tức mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm
điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại của mình; là các mặt đối lập đồng nhất nhau, tức trong chúng chứa những yếu tố giống
nhau cho phép chúng đồng tồn tại trong sự vật; là các mặt đối lập tác động ngang nhau, tức sự thay đổi trong mặt đối lập
này tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi trong mặt đối lập kia, và ngược lại.
- Đấu tranh của các mặt đối lập: Dù tồn tại trong sự thống nhất, song các mặt đối lập luôn đấu tranh với nhau, tức

chúng luôn tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ đònh hay loại bỏ lẫn nhau. Hình thức và mức độ đấu tranh của các
mặt đối lập rất đa dạng, trong đó thủ tiêu lẫn nhau là một hình thức đấu tranh đặc biệt của các mặt đối lập.
- Chuyển hóa của các mặt đối lập (giải quyết mâu thuẫn biện chứng): Sự thống nhất mang tính tương đối gắn liền với
sự ổn đònh của sự vật; Sự đấu tranh mang tính tuyệt đối gắn liền với sự vận động, thay đổi của bản thân sự vật. Mâu thuẫn
biện chứng phát triển tương ứng với quá trình thống nhất các mặt đối lập chuyển từ mức độ trừu tượng sang cụ thể; còn sự
đấu tranh các mặt đối lập chuyển từ mức bình lặng sang quyết liệt. Điều này làm xuất hiện các khả năng chuyển hóa của
các mặt đối lập. Khi điều kiện khách quan hội đủ, một trong các khả năng đó sẽ biến thành hiện thực, các mặt đối lập tự
thực hiện quá trình chuyển hóa. Mâu thuẫn biện chứng sẽ được giải quyết khi các mặt đối lập tự phủ đònh chính mình để
biến thành cái khác. Có hai phương thức chuyển hóa: một là, mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt đối lập kia ở một trình
độ mới; và hai là, cả hai mặt đối lập cùng chuyển hóa thành những cái thứ ba nào đó mà quy luật khách quan và điều kiện,
tình hình cho phép.
- Mâu thuẫn biện chứng, tức sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, tồn tại khách quan, phổ biến và rất đa
dạng (mâu thuẫn bên trong - mâu thuẫn bên ngoài; mâu thuẫn cơ bản - mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn chủ yếu - mâu
thuẫn thứ yếu; mâu thuẫn trong tự nhiên - mâu thuẫn trong xã hội - mâu thuẫn trong tư duy). Sự tác động của mâu thuẫn
biện chứng lên bản thân sự vật là nguồn gốc, động lực của mọi sự tự vận động, phát triển xảy ra trong thế giới.
 Nội dung quy luật
- Các mâu thuẫn biện chứng khác nhau tác động không giống nhau đến quá trình vận động và phát triển của sự vật;
- Mỗi mâu thuẫn biện chứng đều trải qua các giai đoạn: từ sinh thành (sự xuất hiện của các mặt đối lập), sang hiện
hữu (sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập), rồi giải quyết (sự chuyển hóa của các mặt đối lập);
- Mâu thuẫn biện chứng được giải quyết, cái cũ mất đi, cái mới ra đời với những mâu thuẫn biện chứng mới hay thay
đổi vai trò, tác động của các mâu thuẫn biện chứng cũ;
- Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển. Do đó, vận động và phát triển trong thế giới
vật chất mang tính tự thân.
c) Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, và ngược lại
 Chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy
- Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy đònh vốn có của sự vật, đặc trưng cho sự vật là nó, giúp phân biệt nó
với các sự vật khác.
- Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy đònh vốn có của sự vật, biểu thò về mặt quy mô, tốc độ của sự vận
động, phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính (chất) của nó.
- Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm cho chất thay đổi căn bản,

chất cũ chưa mất đi và chất mới vẫn chưa xuất hiện.
- Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ mốc (giới hạn) mà sự thay đổi về lượng vượt qua nó sẽ làm chất thay đổi
căn bản.
- Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra. Bước
nhảy là giai đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của bản thân sự vật, nó tồn tại khách quan, phổ biến, đa dạng. Bước
nhảy có thể chia thành: Bước nhảy toàn bộ - bước nhảy cục bộ; Bước nhảy đột biến - bước nhảy dần dần; Bước nhảy trong
tự nhiên - bước nhảy trong xã hội - bước nhảy trong tư duy.
 Nội dung quy luật
- Mọi sự vật đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa chất và lượng.
- Sự vật bắt đầu vận động, phát triển bằng sự thay đổi về lượng (một cách liên tục hay tiệm tiến); nếu lượng chỉ thay
đổi trong độ, chưa vượt quá điểm nút thì chất không thay đổi căn bản; khi lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì chất
sẽ thay đổi căn bản, bước nhảy nhất đònh sẽ xảy ra.
- Bước nhảy làm cho chất thay đổi (một cách gián đoạn hay đột biến); Chất (sự vật) cũ mất đi, chất (sự vật) mới ra đời;
Chất mới gây ra sự thay đổi về lượng (làm thay đổi quy mô tồn tại, tốc độ, nhòp điệu vận động, phát triển của sự vật).
- Sự thay đổi về lượng gây ra sự thay đổi về chất, và sự thay đổi về chất gây ra sự thay đổi về lượng là phương thức
vận động, phát triển của mọi sự vật trong thế giới. Phát triển vừa mang tính liên tục vừa mang tính gián đoạn.
d) Quy luật phủ đònh của phủ đònh
 Phủ đònh biện chứng, phủ đònh của phủ đònh
- Phủ đònh biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ một mắt khâu của quá trình tự phát triển của sự vật đưa đến sự
ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái cũ lỗi thời bò phủ đònh. Phủ đònh biện chứng cũng là sự khẳng đònh – khẳng đònh
các yếu tố tích cực (chứa trong cái cũ) có lợi cho sự tồn tại tiếp theo của sự vật (cái mới). Phủ đònh biện chứng gắn liền với
giải quyết mâu thuẫn và bước nhảy về chất xảy ra bên trong sự vật; nó mang tính khách quan - nội tại, tính kế thừa – tiến
lên.
- Phủ đònh của phủ đònh là phạm trù triết học dùng để chỉ sự xác lập lại cái cũ, tức khẳng đònh lại cái đã bò phủ đònh, ở
một trình độ cao hơn trong quá trình tự phát triển của bản thân sự vật. Trong sự phủ đònh của phủ đònh, cái cũ bò phủ đònh
trong lần phủ đònh thứ nhất đưa đến sự ra đời của cái mới; cái mới này chứa sự phủ đònh mình trong lần phủ đònh sau đó.
Lần phủ đònh nào làm xuất hiện cái mới, nhưng trong cái mới này có lặp lại (yếu tố) cái cũ đã bò phủ đònh trong lần phủ
đònh thứ nhất, sự vật quay trở về cái ban đầu (cái cũ) nhưng ở một trình độ cao hơn thì lần phủ đònh đó được gọi là phủ đònh
của phủ đònh. Phủ đònh của phủ đònh mang tính chu kỳ hở.
- Qua nhiều lần phủ đònh biện chứng (có cả phủ đònh của phủ đònh) sự vật loại dần cái tiêu cực, tích lũy dần cái tích

cực, làm cho cái mới ra đời quay về với cái cũ, cái khẳng đònh quay trở lại với cái bò phủ đònh ở một trình độ cao hơn. Phát
triển, vì vậy mà diễn ra theo khuynh hướng xoắn ốc tiến lên.
 Nội dung quy luật
- Mọi sự vật đều liên hệ lẫn nhau và luôn vận động, phát triển; phát triển là một chuỗi các lần phủ đònh biện chứng có
gắn liền với việc giải quyết mâu thuẫn và thực hiện bước nhảy về chất xảy ra bên trong sự vật.
- Là vòng khâu liên hệ giữa cái mới với cái cũ, cái mới (cái được khẳng đònh) ra đời trên cơ sở loại bỏ những yếu tố
tiêu cực, đồng thời lưu giữ, cải tạo những yếu tố tích cực của cái cũ (cái bò phủ đònh); Phủ đònh biện chứng mang tính khách
quan - nội tại, tính kế thừa – tiến lên.
- Qua một số lần phủ đònh biện chứng xuất hiện phủ đònh của phủ đònh, xác lập lại cái cũ (khẳng đònh lại cái đã bò phủ
đònh) ở một trình độ cao hơn; Phủ đònh của phủ đònh mang tính chu kỳ hở.
- Phủ đònh của phủ đònh vạch ra khuynh hướng phát triển xoắn ốc tiến lên của mọi sự vật trong thế giới.
4. Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật
a) Phạm trù là gì?
 Phạm trù là hình thức tư duy phản ánh một cách trừu tượng và khái quát nhất một mặt, một thuộc tính cơ bản nhất
của một lónh vực hay toàn bộ hiện thực nói chung.
 Phạm trù được hình thành từ trong quá trình hoạt động nhận thức của con người. Chúng là những “bậc thang”, những
“nút mạng” của quá trình nhận thức, mà trước hết là của nhận thức triết học và nhận thức khoa học…. Chúng không chỉ là
công cụ tinh thần để nhận thức (tức để lý giải, để tiên đóan) mà còn là công cụ tinh thần để chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải
tạo thế giới. Cùng với sự vận động và phát triển của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người, phạm trù
cũng luôn vận động và phát triển. Chúng vừa là kết quả, vừa là điểm tựa cho hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức
của nhân loại.
 Có hai nhóm phạm trù:
- Nhóm phạm trù khoa học mang tính khu biệt, vì chúng phản ánh một cách trừu tượng và khái quát nhất một mặt, một
thuộc tính cơ bản nhất của một lónh vực hiện thực nhất đònh mà một ngành khoa học nào đó nghiên cứu, và chúng chủ yếu
chỉ được dùng cho ngành khoa học đó.
- Nhóm phạm trù triết học mang tính đặc biệt, vì chúng phản ánh một cách trừu tượng và khái quát nhất một mặt, một
thuộc tính cơ bản nhất của toàn bộ hiện thực nói chung; chúng thường xuất hiện từng cặp và được dùng trong mọi ngành
khoa học. Phép biện chứng có sáu cặp phạm trù. Đó là: cái riêng và cái chung, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu
nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực.
b) Cái riêng và cái chung

 Khái niệm
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một trong những sự vật riêng lẻ, xác đònh mà trong chúng có chứa những
thuộc tính, yếu tố chung.
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ một mặt (thuộc tính, yếu tố) không chỉ có ở trong cái riêng (sự vật) này
mà còn được lập lại trong những cái riêng (sự vật) khác nữa.
+ Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ một mặt (thuộc tính, yếu tố) chỉ có ở trong một cái riêng nào đó nhất
đònh mà không có trong những cái riêng khác.
+ Cái phổ biến là phạm trù triết học dùng để chỉ một mặt (thuộc tính, yếu tố) không chỉ có ở trong cái riêng này mà
còn có trong mọi cái riêng khác.
 Mối quan hệ biện chứng
- Cái chung chỉ tồn tại trong những cái riêng, và thông qua những cái riêng mà cái chung biểu hiện sự tồn tại của chính
mình.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ dẫn đến cái chung, và thông qua cái chung mà những cái riêng có liên hệ,
chuyển hóa lẫn nhau.
- Cái chung chỉ là một bộ phận của cái riêng, do đó, cái riêng không gia nhập hết vào trong cái chung, bên trong cái
riêng còn có chứa cái đơn nhất.
- Trong những điều kiện xác đònh, cái đơn nhất và cái chung (cái đặc thù hay cái phổ biến) có thể chuyển hóa lẫn
nhau:
+ Cái mới thường xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất, qua quá trình phát triển mở rộng, cái mới sẽ chiến thắng cái cũ và
trở thành cái chung / cái phổ biến.
+ Cái cũ ban đầu thường tồn tại dưới dạng cái phổ biến / cái chung, sau đó nó ngày càng suy yếu, thu hẹp dần thành
cái đơn nhất và cuối cùng mất đi.
c) Nguyên nhân và kết quả
 Khái niệm
- Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tương tác giữa các sự vật hay giữa các yếu tố, bộ phận của chúng
mà có gây ra những biến đổi nhất đònh kèm theo (tức kết quả).
- Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi nhất đònh do sự tương tác giữa các sự vật hay giữa các yếu
tố, bộ phận của chúng (tức do nguyên nhân) gây ra.
+ Mối liên hệ nhân quả mang tính khách quan, phổ biến, tất yếu: Mọi sự thay đổi xảy ra trong thế giới đều có nguyên
nhân, do mối liên hệ nhân quả chi phối. Nguyên lý nhân quả là cơ sở của quyết đònh luận: Những nguyên nhân nhất đònh

tác động trong những hoàn cảnh nhất đònh chỉ có thể gây ra những kết quả nhất đònh.
 Mối quan hệ biện chứng
- Nguyên nhân nào kết quả nấy
+ Nhiều nguyên nhân khác nhau cùng tác động để sinh ra nhiều kết quả khác nhau. Trường hợp một nguyên nhân duy
nhất tác động để sinh ra một kết quả duy nhất chỉ là sự trừu tượng hóa trong nhận thức của con người.
+ Các nguyên nhân khác nhau (nguyên nhân cơ bản - nguyên nhân không cơ bản, nguyên nhân chủ yếu - nguyên nhân
thứ yếu, nguyên nhân bên trong - nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân khách quan - nguyên nhân chủ quan,…) có vai trò
khác nhau trong việc sản sinh ra kết quả.
+ Những nguyên nhân tác động cùng hướng sẽ tăng cường tác dụng của nhau; những nguyên nhân tác động khác
hướng sẽ làm suy yếu hay triệt tiêu tác dụng của nhau.
- Sự tác động của kết quả lên nguyên nhân của nó: Kết quả (là một quá trình) có thể ảnh hưởng ngược lại nguyên nhân
(cũng là một quá trình) sinh ra nó.
- Nguyên nhân và kết quả thay đổi vò trí cho nhau: Kết quả do nguyên nhân trước sinh ra, sẽ trở thành nguyên nhân mới
sản sinh ra kết quả mới…; quá trình cứ như thế tiếp diễn tạo nên chuỗi nhân quả vô tận. Chuỗi nhân quả đơn tuyến chỉ là sự
trừu tượng hóa trong nhận thức của con người. Trong thế giới tồn tại các chuỗi nhân quả đa tuyến đan xen tạo nên màng
lưới nhân quả; thông qua màng lưới nhân quả, vạn vật ảnh hưởng, tác động lẫn nhau và làm cho nhau thay đổi, phát triển.
d) Tất nhiên và ngẫu nhiên
 Khái niệm
- Tất nhiên là phạm trù triết học dùng để chỉ cái (sự vật, hiện tượng, quá trình) phải xảy ra như thế chứ không thể thế
khác được. Tất nhiên do những nguyên nhân cơ bản, bên trong; do những quy luật động lực học (quy luật phản ánh cái tất
nhiên dưới dạng “thuần tuý”) chi phối; do đó, tất nhiên hay quy luật động lực học bao giờ cũng thể hiện tính nhân quả
thẳng, tức tính nhân quả đơn trò.
- Ngẫu nhiên là phạm trù triết học dùng để chỉ cái (sự vật, hiện tượng, quá trình) có thể xảy ra như thế này nhưng cũng
có thể xảy ra như thế khác. Ngẫu nhiên do những nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của hoàn cảnh; do những quy
luật thống kê - xác suất (quy luật phản ánh cái xác suất, tức phản ánh sự thống nhất tất nhiên với ngẫu nhiên) quy đònh; do
đó, ngẫu nhiên hay quy luật thống kê - xác suất biểu thò tính nhân quả phân nhánh, tức tính nhân quả đa trò.
 Mối quan hệ biện chứng
- Tính thống nhất giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Quá trình vận động và phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng bò chi phối chủ yếu bởi cái tất nhiên, nhưng cái
ngẫu nhiên có ảnh hưởng làm cho quá trình vận động và phát triển ấy diễn ra nhanh hơn hay chậm hơn.

+ Cái tất nhiên bao giờ cũng “vạch đường” cho mình đi xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên; cái ngẫu nhiên chỉ là hình
thức biểu hiện của cái tất nhiên. Bản thân cái tất nhiên chỉ có thể được tạo nên từ những cái ngẫu nhiên. Còn tất cả những
gì trong hiện thực được coi là ngẫu nhiên đều ẩn giấu trong mình cái tất nhiên nào đó.
- Sự chuyển hóa giữa giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Trong những điều kiện nhất đònh, cái ngẫu nhiên có thể chuyển hóa thành cái tất nhiên; và ngược lại, cái tất nhiên
có thể chuyển hóa thành cái ngẫu nhiên.
+ Ranh giới giữa cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên là tương đối; ranh giới này phụ thuộc vào điều kiện tồn tại cụ thể của
bản thân sự vật.
e) Nội dung và hình thức
 Khái niệm
- Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ tất cả các mặt, các yếu tố, các quá trình tồn tại theo một hình thức nhất
đònh tạo nên sự vật.
- Hình thức là phạm trù triết học dùng để chỉ một hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững ổn đònh, tạo nên cấu
trúc nội tại của nội dung, và là phương thức tồn tại của bản thân sự vật. Phép biện chứng duy vật rất chú trọng đến hình
thức bên trong của bản thân sự vật, tức hình thức gắn liền với nội dung.
 Mối quan hệ biện chứng
- Tính thống nhất giữa nội dung và hình thức
+ Không có hình thức nào không chứa nội dung; và ngược lại, không có nội dung nào không được thể hiện qua một vài
hình thức nhất đònh.
+ Cùng một nội dung, trong những điều kiện khác nhau, được thể hiện bằng những hình thức tồn tại khác nhau; và
ngược lại, cùng một hình thức, trong những điều kiện khác nhau, thể hiện được nhiều nội dung khác nhau.
- Nội dung giữ vai trò quyết đònh so với hình thức (nội dung nào thì hình thức nấy).
+ Nội dung là mặt động, không ổn đònh, dễ biến đổi; Hình thức là mặt tónh, khá ổn đònh, ít biến đổi.
+ Sự vận động và phát triển của bản thân sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi của nội dung. Khi nội dung biến
đổi đến một mức độ nào đó sẽ tạo ra sự không phù hợp (tức sự xung đột hay mâu thuẫn) giữa nội dung và hình thức.
+ Sự xung đột hay mâu thuẫn này đòi hỏi phải giải quyết bằng cách phá bỏ hình thức cũ, xác lặp hình thức mới, sao
cho phù hợp với nội dung (ở một trình độ) mới. Điều này làm cho sự vật chuyển sang một trạng thái mới về chất.
- Hình thức có tính độc lập tương đối; nhờ tính độc lập tương đối mà hình thức có thể tác động ngược trở lại nội dung.
+ Khi phù hợp với nội dung, hình thức thúc đẩy sự phát triển của nội dung;
+ Khi không phù hợp với nội dung, hình thức sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung; Tuy nhiên, sự kìm hãm này chỉ

mang tính tạm thời, đến một lúc nào đó, nội dung sẽ “tự giải phóng” mình ra khỏi sự kìm hãm đó.
f) Bản chất và hiện tượng
 Khái niệm
- Bản chất là phạm trù triết học dùng để chỉ cơ sở bên trong của hiện tượng. Bản chất là cái chung, tất yếu, bên trong,
khá ổn đònh, mang tính quy luật; bản chất là cái quy đònh xu hướng vận động và phát triển của bản thân sự vật; Bản chất
thường là sự kết hợp của các quy luật cùng chi phối sự vận động, phát triển của sự vật (quy luật và bản chất là các khái
niệm cùng trình độ, cùng biểu thò sự nhận thức sâu sắc các hiện tượng đa dạng xảy ra trong thế giới).
- Hiện tượng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thể hiện bản chất ra bên ngoài. Hiện tượng là cái cá biệt, ngẫu
nhiên, bên ngoài, bất ổn, biểu thò sự tồn tại cụ thể của sự vật trong điều kiện xác đònh.
 Mối quan hệ biện chứng
- Tính thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
+ Bản chất được bộc lộ qua hiện tượng; Hiện tượng biểu hiện ít nhiều về bản chất; về căn bản, chúng phù hợp với
nhau.
+ Những bản chất khác nhau bộc lộ ra thành các hiện tượng khác nhau.
+ Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng của nó cũng thay đổi; Khi bản chất biến mất thì hiện tượng của nó cũng không
còn.
- Tính mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng
+ Sự tương tác giữa bản thân sự vật và môi trường tồn tại xung quanh sự vật đã đưa vào hiện tượng của sự vật những
nội dung từ bên ngoài sự vật đó, nghóa là sự tương tác này đã làm cho hiện tượng của sự vật không thể hiện được bản chất
của nó. Như vậy, bản chất và hiện tượng (của sự vật) không phù hợp hoàn toàn, tức hiện tượng không biểu hiện y nguyên
bản chất.
+ Bản chất và hiện tượng là những cái đối lập nhau; nhưng bản chất là cái sâu sắc hơn hiện tượng, còn hiện tượng bao
giờ cũng phong phú hơn bản chất. Một bản chất được thể hiện qua vô số hiện tượng, trong đó có cả các hiện tượng xuyên
tạc bản chất (giả tượng) lẫn những hiện tượng thể hiện rõ bản chất (hiện tượng điển hình).
+ Sự xung đột hay mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng ở cấp độ hiện tượng (sinh động, dễ nhận biết) là sự xung đột
hay mâu thuẫn giữa giả tượng và hiện tượng điển hình.
g) Khả năng và hiện thực
 Khái niệm
- Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ cái (sự vật, hiện tượng, quá trình) chưa có, chưa tới nhưng sẽ có, sẽ tới
khi điều kiện tương ứng hội đủ.

- Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ cái (sự vật, hiện tượng, quá trình) hiện có, đang tồn tại thực sự.
+ (Cái) tiền đề là điều kiện tiên quyết cho một cái gì đó xuất hiện, do bản thân nó phải tồn tại thật sự nên nó là cái
hiện thực, chứ không là cái khả năng.
+ Ngẫu nhiên là cái có thể xảy ra nhưng cũng có thể không xảy ra trong bất cứ thời điểm nào (dù trong quá khứ, trong
hiện tại hay trong tương lai); còn khả năng là cái nhất đònh sẽ xảy ra, tức biến thành hiện thực trong tương lai khi điều kiện
tương ứng hội đủ; nên không được đồng nhất chúng với nhau.
+ Xác suất là khái niệm nói lên mức độ tất yếu của sự hiện thực hóa khả năng (biến cố) nào đó; bất cứ một khả năng
nào cũng có một mức độ tất yếu hiện thực hóa nhất đònh gắn liền với xác suất hiện thực hóa nó; khi xác suất của biến cố
bằng 1 thì khả năng sẽ biến thành hiện thực; do vậy, xác suất và khả năng có liên hệ mật thiết với nhau.
+ Khả năng bao gồm khả năng ảo (tức khả năng mà xác suất hiện thực hóa nó trong điều kiện xác đònh bằng không)
và khả năng thực (tức khả năng mà xác suất hiện thực hóa nó trong điều kiện xác đònh khác không). Khả năng ảo còn được
gọi là phi khả năng; Khả năng thực thì bao gồm khả năng tất nhiên (khả năng gần hay khả năng xa) vàø khả năng ngẫu
nhiên …
+ Hiện thực bao gồm hiện thực khách quan (hiện thực vật chất) và hiện thực chủ quan (hiện thực tinh thần).
 Mối quan hệ biện chứng
- Tính thống nhất của khả năng và hiện thực
+ Hiện thực (bao gồm cả bản thân và điều kiện tồn tại của sự vật) sinh ra nhiều khả năng có mức độ tất yếu hiện thực
hóa khác nhau.
+ Hiện thực (bao gồm cả bản thân và điều kiện tồn tại của sự vật) biến đổi sẽ làm biến đổi các khả năng (bao gồm cả
sự biến đổi mức độ hiện thực hóa của khả năng).
- Sự chuyển hóa giữa khả năng và hiện thực
+ Khi điều kiện hội đủ, khả năng biến thành hiện thực mới; Hiện thực mới sinh ra các khả năng mới hay thay đổi mức
độ hiện thực hóa của các khả năng cũ… Quá trình cứ thế tiếp diễn mãi. Do vậy, phát triển là quá trình chuyển hóa giữa khả
năng và hiện thực.
+ Điều kiện làm tăng hay giảm mức độ hiện thực hóa của khả năng, tức chi phối quá trình hiện thực hóa khả năng:
Trong tự nhiên, quá trình hiện thực hóa khả năng có thể xảy ra hoàn toàn khách quan (điều kiện khách quan) nhưng có
trường hợp vẫn có sự can dự ít nhiều của con người (điều kiện chủ quan). Trong xã hội, quá trình hiện thực hóa khả năng
đòi hỏi cả điều kiện khách quan lẫn điều kiện chủ quan, tức khả năng sẽ không bao giờ được hiện thực hóa nếu không
thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của con người.
II. KHÁI QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP, PHƯƠNG PHÁP LUẬN; MỘT SỐ NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN

CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Khái quát về phương pháp và phương pháp luận
a) Khái quát về phương pháp
 Đònh nghóa: Phương pháp là hệ thống các yêu cầu mà chủ thể phải tuân thủ đúng trình tự để đạt mục đích đặt ra một
cách tối ưu.
- “Phương pháp là hệ thống các nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất đònh”
13
.
- Phương pháp như “ngọn đuốc soi đường cho người đi trong đêm tối” [Ph.Bêcơn].
- Phương pháp là “linh hồn của đối tượng” [Hêghen].
 Nguồn gốc, chức năng: Từ hiểu biết về thuộc tính, quy luật của sự vật, hiện tượng thuộc các lónh vực khác nhau mà
các phương pháp khác nhau được xây dựng; và sau đó, chúng được vận dụng như công cụ tinh thần vào quá trình hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiệu quả thế giới của nhân loại.
 Phân loại: Sự đa dạng của các đối tượng phải nghiên cứu hay cải tạo dẫn đến sự đa dạng của phương pháp.
- Dựa theo phạm vi áp dụng, phương pháp được chia thành phương pháp riêng (phương pháp áp dụng cho từng ngành
khoa học), phương pháp chung (phương pháp áp dụng cho nhiều ngành khoa học) và phương pháp phổ biến (phương pháp
áp dụng cho mọi ngành khoa học, cho toàn bộ hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, tức các phương
pháp của triết học).
- Dựa theo lónh vực áp dụng, phương pháp được chia thành phương pháp chỉ đạo hoạt động thực tiễn (trước hết là thực
tiễn cách mạng cải tạo thế giới) và phương pháp hướng dẫn hoạt động nhận thức (trước hết là nhận thức khoa học hiện
đại).
- “Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản của là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng
trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong
của chúng”
14
. Phép biện chứng duy vật không chỉ đưa ra hướng nghiên cứu chung, đưa ra các nguyên tắc tiếp cận sự vật,
hiện tượng nghiên cứu, mà đồng thời còn là điểm xuất phát để đánh giá những kết quả đạt được. Mọi nhận thức thế giới
của Mác – đó không phải là học thuyết mà là phương pháp. Nhận thức thế giới của Mác không mang lại những giáo điều
có sẵn, mà chỉ mang lại những điểm xuất phát để tiếp tục nghiên cứu và là phương pháp cho việc nghiên cứu đó.

b) Khái quát về phương pháp luận
 Đònh nghóa: Phương pháp luận là học thuyết (lý luận) về phương pháp; nó vạch ra cách thức xây dựng và nghệ thuật
vận dụng phương pháp. Phương pháp luận còn được coi như “một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc xuất phát, những
cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn”
15
của con người.
 Phân loại: Dựa theo phạm vi áp dụng, phương pháp luận được chia thành phương pháp luận bộ môn (phương pháp
luận của khoa học chuyên ngành giúp giải quyết các vấn đề cụ thể của từng ngành khoa học), phương pháp luận chung
(phương pháp luận của khoa học liên ngành giúp giải quyết các vấn đề chung của một nhóm ngành khoa học) và phương
pháp luận phổ biến (phương pháp luận triết học - cơ sở để xây dựng phương pháp luận bộ môn và phương pháp luận
chung).
 Phương pháp luận biện chứng duy vật là một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc nền tảng chỉ đạo chủ thể trong việc
xác đònh phạm vi, khả năng áp dụng phương pháp một cách hợp lý và có hiệu quả. Do vậy, phép biện chứng duy vật vừa là
lý luận vừa là phương pháp luận phổ biến.
 Mọi nội dung lý luận của phép biện chứng duy vật đều có ý nghóa về mặt phương pháp luận. Chúng cho phép rút ra
các yêu cầu (nguyên tắc, quan điểm, phương pháp) để chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Các nhà phương pháp luận mácxít đưa ra số lượng và tên gọi cụ thể của từng nguyên tắc (quan điểm, phương pháp) có thể
khác nhau nhưng yêu cầu cụ thể thì giống nhau (vì chúng toát ra từ nội dung lý luận của phép biện chứng duy vật). Trong
quá trình hoạt động nhận thức (nhất là nhận thức khoa học hiện đại) hay hoạt động thực tiễn (nhất là thực tiễn cách mạng
cải tạo thế giới) các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật được vận dụng không tách rời nhau; tức
13
Hội đồng trung ương Chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia…: Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.378.
14
C.Mác và Ph.ngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.38.
15
Hội đồng trung ương Chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia…: Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.40.
chúng phối hợp với nhau tạo nên phong cách tư duy biện chứng. Tuy nhiên, để nghiên cứu chúng, chúng ta không thể
không trừu tượng hóa chúng ra khỏi sự tác động của các nguyên tắc khác. Điều này có thể làm sơ cứng tư duy biện chứng –
tư duy vận dụng tổng hợp các nguyên tắc biện chứng để chỉ đạo hoạt động của chủ thể trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Nhưng cách làm này giúp chúng ta hiểu thực chất của các nguyên tắc hay yêu cầu phương pháp luận của phép biện chứng

duy vật hơn. Sau đây là một số nguyên tắc hay yêu cầu cơ bản về mặt phương pháp luận của phép biện chứng duy vật.
2. Nguyên tắc toàn diện
a) Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến (xem: Mục I,2,b của Chương
này).
b) Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc toàn diện
 Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) đang chi phối sự
tồn tại của bản thân sự vật càng tốt.
- Phân loại để xác đònh những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên trong, cơ
bản, tất nhiên, ổn đònh…; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên ngoài,
không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn đònh…;
- Dựa trên những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn
đònh… để lý giải được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) còn lại. Qua đó xây dựng
một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…); phát
hiện ra quy luật (bản chất) của nó.
 Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) chi phối sự vật.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là
những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt,…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ, quan hệ (…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng… của
nó.
- Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) của bản thân sự
vật; kòp thời sử dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm
lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.
 Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ nghóa phiến diện, chủ
nghóa chiết trung, chủ nghóa ngụy biện, … trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
- Chủ nghóa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó mà không thấy được
nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật.
- Chủ nghóa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật nhưng không rút ra
được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật; mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô

nguyên tắc, tùy tiện.
- Chủ nghóa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu,…
hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
- Trong đời sống xã hội, nguyên tắc toàn diện có vai trò cực kỳ quan trọng. Nó đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ
nhận thức với nhận thức mà cần phải liên hệ nhận thức với thực tiễn cuộc sống; phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các
cá nhân hay các giai – tầng) khác nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ
bản; phải biết phát huy (hay hạn chế) mọi tiềm năng hay nguồn lực từ khắp các lónh vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính
trò, văn hóa,…) từ các thành phần kinh tế, từ các tổ chức chính trò – xã hội, v.v để có thái độ, biện pháp, đối sách hành
động thích hợp; mà không sa vào chủ nghóa bình quân, quan điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều
cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp.
 V.I.Lênin dạy rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các
mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”
16
, phải tính đến “tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với
những sự vật khác”
17
. Tuy nhiên, cũng theo V.I.Lênin, chúng ta không thể làm được điều đó hoàn toàn đầy đủ (bởi vì sự
vật luôn thay đổi, hơn nữa các mặt, các mối liên hệ cũng chỉ biểu hiện ra trong những điều kiện nhất đònh, và năng lực
16
V.I.Lênin: Toàn tập, T.42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1985, tr.364.
17
V.I.Lênin: Toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.239.
nhận thức của mỗi con người luôn bò chế ước bởi những điều kiện lòch sử cụ thể,…) nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả
mọi mặt sẽ đề phòng không phạm sai lầm và cứng nhắc.
3. Nguyên tắc phát triển
a) Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển (xem: Mục I,2,c của Chương này).
b) Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc phát triển
 Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Phát hiện những xu hướng biến đổi, chuyển hóa, những giai đoạn tồn tại của bản thân sự vật trong sự tự vận động và
phát triển của chính nó;

- Xây dựng được hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các xu hướng, những giai đoạn thay đổi của nó; từ đó, phát hiện
ra quy luật vận động và phát triển (bản chất) của sự vật.
 Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Chú trọng đến mọi điều kiện, khả năng … tồn tại của sự vật để nhận đònh đúng các xu hướng, những giai đoạn thay
đổi có thể xảy ra đối với nó;
- Thông qua thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ,
phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những điều kiện, phát huy hay hạn chế những khả năng … tồn tại của sự vật
nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo hướng hợp quy luật và có lợi cho chúng ta.
 Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc phát triển sẽ giúp chủ thể khắc phục được quan điểm (tư duy) siêu hình
trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
 Nguyên tắc phát triển đòi hỏi chủ thể phải sử dụng các nguyên tắc khác kèm theo mới làm sáng rõ bản tính vận động
và phát triển tự thân của sự vật như nguyên tắc (phân tích) mâu thuẫn, nguyên tắc phân tích lượng - chất, nguyên tắc phủ
đònh biện chứng,
3.1. Nguyên tắc mâu thuẫn
a) Cơ sở lý luận của nguyên tắc (phân tích) mâu thuẫn (còn được gọi là nguyên tắc phân đôi cái thống nhất) là nội dung
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (xem: Mục I,3,b của Chương này).
b) Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc (phân tích) mâu thuẫn
 Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Phân đôi sự vật thành các cặp mặt đối lập, khảo sát sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập để phát hiện ra
các mâu thuẫn biện chứng đang chi phối sự vật đó;
- Phân loại và xác đònh đúng vai trò của từng mâu thuẫn biện chứng đang chi phối sự vận động và phát triển của bản
thân sự vật;
- Xác đònh giai đoạn tồn tại cũng như xu thế phát triển tiếp theo của từng mâu thuẫn biện chứng;
- Phân tích kết cấu vàø điều kiện tồn tại của sự vật để xác đònh đúng quy mô và phương thức giải quyết của từng mâu
thuẫn biện chứng, dự đoán cái mới ra đời sẽ vận đng dưới sự tác động của những mâu thuẫn biện chứng nào.
 Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Hiểu rõ những mâu thuẫn biện chứng nào là nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của bản thân sự
vật; từ đó xây dựng các đối sách thích hợp;
- Thông qua thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ,
phương tiện, biện pháp vật chất) để can thiệp đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động và phát triển của

bản thân sự vật để lèo lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta. Cụ thể:
+ Muốn sự vật thay đổi nhanh phải đẩy mạnh sự tác động (đấu tranh) của các mặt đối lập và tạo điều kiện thuận lợi để
chúng nhanh chóng chuyển hóa lẫn nhau, để mâu thuẫn biện chứng sớm được giải quyết;
+ Khi điều kiện đã hội đủ và mâu thuẫn biện chứng đã chín mùi phải cương quyết giải quyết nó, mà không nên chần
chừ hay do dự …
3.2. Nguyên tắc phân tích Lượng – Chất
a) Cơ sở lý luận của nguyên tắc phân tích Lượng – Chất là nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn
đến những thay đổi về chất, và ngược lại (xem: Mục I,3,c của Chương này).
b) Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc phân tích Lượng – Chất
 Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Phát hiện chính xác các quy đònh về chất và lượng của sự vật; thấy được sự thống nhất giữa chúng để xác đònh đúng
độ, điểm nút của sự vật;
- Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tại của sự vật để xác đònh đúng tính chất, quy mô, tiến độ của bước nhảy có thể
xảy ra;
- Hiểu rằng, chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút; còn nếu lượng chưa thay đổi vượt qua độ,
chưa qua điểm nút thì bước nhảy chưa thể xảy ra, chất chưa thay đổi căn bản được;
- Xác đònh được chất mới (sau khi sự vật thực hiện bước nhảy), qua đó xác đònh lượng, độ, điểm nút và bước nhảy mới,
tức đònh hình được sự vật mới phải ra đời thay thế sự vật cũ như thế nào.
 Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Hiểu rõ phương thức vận động và phát triển của sự vật; từ đó xây dựng các đối sách thích hợp;
- Thông qua thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ,
phương tiện, biện pháp vật chất) để can thiệp đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động và phát triển của
sự vật, lèo lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta. Cụ thể:
+ Muốn có sự thay đổi về chất phải kiên trì tích luỹ sự thay đổi về lượng;
+ Muốn duy trì sự ổn đònh của chất (sự vật) phải giữ được sự thay đổi về lượng trong phạm vi giới hạn độ;
+ Khi lượng thay đổi đạt giới hạn độ phải kiên quyết thực hiện bước nhảy…
3.3. Nguyên tắc phủ đònh biện chứng
a) Cơ sở lý luận của nguyên tắc phủ đònh biện chứng là nội dung quy luật phủ đònh của phủ đònh (xem: Mục I,3,d của
Chương này).
b) Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc phủ đònh biện chứng

 Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Phát hiện và xác đònh đúng cái mới, cái cũ trong quá trình vận động và phát triển của sự vật; Phân biệt được cái cũ
với cái truyền thống, cái mới với với cái quái dò;
- Coi quá trình vận động và phát triển của sự vật là một cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn, phức tạp giữa cái mới với
cái cũ; cái mới có thể thất bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ thắng lợi;
- Thấy được xu hướng vận động và phát triển xoắn ốc của sự vật xảy ra trong thế giới.
 Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Hiểu rõ xu thế vận động và phát triển của sự vật; từ đó xây dựng các đối sách thích hợp;
- Thông qua thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ,
phương tiện, biện pháp vật chất) để can thiệp đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động của sự vật lèo lái
nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta. Cụ thể:
+ Phải xác đònh đúng cái mới, phải khôn khéo, dũng cảm bảo vệ cái mới, và tạo điều kiện thuận lợi cho cái mới nhanh
chóng lớn mạnh;
+ Không bi quan, chán chường trước sự thất bại tạm thời của cái mới;
+ Phải mạnh dạn phê phán, khắc phục và loại bỏ dần cái cũ tiêu cực lỗi thời, để cái mới tích cực tiến bộ sớm chiến
thắng cái cũ,…
4. Một số yêu cầu phương pháp luận của các cặp phạm trù
Từ nội dung lý luận của các cặp phạm trù biện chứng (xem: Mục I,4,b-g của Chương này), phương pháp luận biện
chứng duy vật đã xây dựng những yêu cầu giúp chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Cụ thể như sau:
a) Cái chung và cái riêng
 Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn chủ thể cần lưu ý:
- Muốn phát hiện cái chung cần phải nghiên cứu từ bản thân của những cái riêng, tức từ các sự vật, tình hình cụ thể mà
không nên xuất phát từ ý muốn chủ quan của mình.
- Khi áp dụng cái chung vào (những) cái riêng cần phải cá biệt hóa nó cho phù hợp với điều kiện, tình hình cụ thể của
từng cái riêng mà không được tuyệt đối hóa hay áp dụng cái chung một cách giáo điều, máy móc.
- Muốn giải quyết hiệu quả những vấn đề riêng phải giải quyết các vấn đề chung, mà trước hết là các vấn đề lý luận
chung có liên quan đến những vấn đề riêng đó. Tránh lề thói tùy tiện, tình trạng mò mẫm, chủ nghóa kinh nghiệm.
- Nắm vững điều kiện, quy luật chuyển hóa giữa cái riêng hay cái đơn nhất và cái chung hay cái phổ biến để vạch ra
đối sách thích hợp, rồi thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng linh họat các công cụ, phương tiện vật chất can thiệp đúng
lúc, đúng chỗ vào tiến trình vận động và phát triển của sự vật để lèo lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.

b) Nguyên nhân và kết quả
 Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải phát hiện ra mạng lưới nhân quả. Cụ thể:
- Muốn hiểu đúng hiện tượng (kết quả) phải phát hiện ra những nguyên nhân sản sinh ra nó. Để phát hiện ra nguyên
nhân phải phân tích sự vật ra thành các yếu tố; khảo sát sự tương tác giữa chúng để thấy được sự tương tác nào là nguyên
nhân đã gây ra hiện tượng cần khảo sát, tức sinh ra kết quả. Phải phân biệt được nguyên nhân với nguyên cớ, nguyên nhân
với điều kiện.
- Phân loại các nguyên nhân, xác đònh chính xác vai trò, tính chất tác động của từng nguyên nhân trong việc sản sinh
ra các kết quả và phân loại kết quả.
- Vạch ra sự tác động ngược lại của kết quả đến nguyên nhân, cũng như sự thay đổi vò trí cho nhau của nguyên nhân
và kết quả.
- Tổng hợp các nguyên nhân và các kết quả để phát hiện ra mạng lưới nhân quả.
 Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải hành động theo mạng lưới nhân quả. Cụ thể:
- Muốn loại bỏ hoàn toàn một hiện tượng (kết quả) nào đó phải loại bỏ nguyên nhân sinh ra nó. Muốn một hiện tượng
nào đó xuất hiện cần tạo ra nguyên nhân (đặc biệt là các nguyên nhân cơ bản, chủ yếu, bên trong, tác động cùng chiều),
tạo ra nguyên cớ hay điều kiện cần thiết.
- Phải nắm được mối liên hệ nhân quả để có đối sách thích hợp, rồi thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng nhiều công
cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để can thiệp đúng
lúc, đúng chỗ vào tiến trình vận động và phát triển của sự vật, lèo lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.
c) Tất nhiên và ngẫu nhiên
 Trong hoạt động nhận thức muốn hiểu được xu hướng vận động và phát triển của sự vật, chủ thể phải nghiên cứu
những cái ngẫu nhiên để phát hiện ra cái tất nhiên ẩn giấu trong chúng. Từ đó khám phá ra cái bản chất, quy luật chi phối
sự vật.
 Trong hoạt động thực tiễn chủ thể:
- Muốn làm chủ tiến trình vận động và phát triển chung của sự vật, phải hành động dựa trên cái tất nhiên; tuy nhiên
không bỏ qua hay bất chấp mọi cái ngẫu nhiên mà phải biết khi nào, cái ngẫu nhiên nào cần cần loại bỏ, cái ngẫu nhiên
nào cần tận dụng và phát huy.
- Phải nắm vững điều kiện, quy luật chuyển hóa giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên để vạch ra đối sách thích hợp, rồi
thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ,
phương tiện, biện pháp vật chất) để can thiệp đúng lúc, đúng chỗ vào tiến trình vận động và phát triển của đối tượng, lèo
lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.

d) Nội dung và hình thức
 Trong hoạt động nhận thức muốn hiểu được thực trạng của sự vật chủ thể phải phát hiện được nội dung và hình thức
của nó trong sự thống nhất lẫn nhau mà không được tuyệt đối hóa cái này coi thường cái kia.
 Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Biết khai thác và sử dụng mọi hình thức có thể có để giải quyết tốt nhiệm vụ thực tiễn (nội dung) đặt ra; phải chống
lại cả quan điểm bảo thủ, đầu óc thủ cựu, chỉ biết làm theo kiểu cũ, duy trì hình thức cũ, lẫn quan điểm chủ quan nóng vội,
tuỳ tiện thay đổi hình thức một cách vô căn cứ.
- Thấy được vai trò quyết đònh của nội dung, biết xây dựng những nội dung phù hợp với hình thức và điều kiện sẵn có;
biết tác động đến sự thay đổi nội dung để cải biến sự vật.
- Nắm vững điều kiện, cách thức thay đổi của hình thức cũng như sự tác động ngược lại của hình thức đến nội dung để
vạch ra đối sách thích hợp, rồi thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà
trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để can thiệp đúng lúc, đúng chỗ vào tiến trình vận động và
phát triển của đối tượng, lèo lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.
e) Bản chất và hiện tượng
 Trong hoạt động nhận thức muốn hiểu thấu sự vật chủ thể phải nghiên cứu các hiện tượng để khám phá ra bản chất
của nó:
- Phải phân tích điều kiện tồn tại của sự vật để loại bỏ những giả tượng, tìm kiếm cho được hiện tượng điển hình;
- Từ hiện tượng điển hình phát hiện ra bản chất của sự vật.
- Đào sâu quá trình nhận thức từ chỗ vượt qua bản chất cấp một, phát hiện ra bản chất cấp hai, và từ bản chất cấp hai
vươn đến khám phá bản chất cấp ba, và mãi mãi.
 Trong hoạt động thực tiễn muốn thành công chủ thể phải xuất phát từ bản chất (chứ không nên xuất phát từ hiện
tượng), vạch ra đối sách thích hợp, rồi thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích
hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để can thiệp đúng lúc, đúng chỗ vào tiến trình vận
động và phát triển của sự vật, lèo lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.
f) Hiện thực và khả năng
 Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Lấy hiện thực làm đối tượng của mọi quá trình nhận thức.
- Nghiên cứu hiện thực để khám phá các quy luật, phát hiện bản chất chi phối sự vận động và phát triển của nó.
- Phân tích điều kiện tồn tại của hiện thực để phát hiện ra những khả năng tiềm ẩn trong hiện thực; xác đònh đúng các
khả năng có mức độ hiện thực hóa cao để thấy được xu hướng vận động và phát triển của bản thân sự vật.

 Trong hoạt động thực tiễn muốn thành công chủ thể phải:
- Xuất phát từ hiện thực, phát hiện ra các quy luật chi phối hiện thực để thấy được những khả năng nảy sinh từ trong
chính nó.
- Tính đến mọi khả năng, nhận thức đúng sự hình thành, biến đổi của khả năng (cũng như mức độ hiện thực hóa khả
năng) khi hiện thực thay đổi. Phân loại khả năng, chú ý đến các khả năng có độ hiện thực hóa cao, thời gian hiện thực hóa
gần.
- Nắm vững các điều kiện (chủ quan, khách quan) hiện thực hóa khả năng, biết phát huy hay hạn chế (mà không bỏ
qua hay tuyệt đối hóa) vai trò của chúng, vạch ra đối sách thích hợp, rồi thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng nhiều công
cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để can thiệp đúng
lúc, đúng chỗ vào tiến trình vận động và hát triển hiện thực, lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.
5. Nguyên tắc lòch sử - cụ thể
a) Cơ sở lý luận của nguyên tắc lòch sử - cụ thể là toàn bộ nội dung lý luận của phép biện chứng duy vật với tính cách là
khoa học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển, tức là một hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù nói về mối
liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra trong toàn bộ thế giới. Cơ sở lý luận này xuất phát từ sự phản ánh phương thức
tồn tại cụ thể của sự vật trong hiện thực: Một mặt, mỗi sự vật (hiện tượng) tồn tại trong hiện thực đều được tào thành từ
những yếu tố, bộ phận khác nhau; có muôn vàn mối liên hệ, quan hệ với các sự vật, hiện tượng khác nhau; qua đó nó bộc
lộ ra thành những đặc điểm tính chất không giống nhau. Mặt khác, mỗi sự vật (hiện tượng) đều tồn tại trong quá trình phát
sinh, phát triển và diệt vong của chính mình; quá trình này thể hiện một cách cụ thể bao gồm mọi sự thay đổi và sự phát
triển diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, tương tác với những sự vật (hiện tượng, quá trình) khác nhau,
trong những không gian và theo những thời gian khác nhau. Nguyên tắc lòch sử - cụ thể được coi là “linh hồn” phương pháp
luận của triết học Mác – Lênin, nó tổng hợp trong mình những nguyên tắc, quan điểm, yêu cầu mang tính phương pháp
luận của triết học Mác – Lênin, do đó, hiểu theo nghóa rộng, nó cũng chính là phương pháp biện chứng.
b) Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc lòch sử - cụ thể
 Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại và phát triển cụ thể của những sự vật
cụ thể trong những điều kiện, hòan cảnh, quan hệ cụ thể. Nghóa là:
- Phải biết được sự vật đã ra đời và đã tồn tại như thế nào, trong những điều kiện, hoàn cảnh nào, bò chi phối bởi
những quy luật nào;
- Hiện giờ sự vật hiện đang tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh ra sao, do những quy luật nào chi
phối;
- Trên cơ sở đó, phải nắm bắt được sự vật có thể sẽ phải tồn tại như thế nào (trên những nét cơ bản) trong tương lai….

 Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể, áp dụng cho những sự vật cụ thể, đang
tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể mà không nên áp dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ
sự vật nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào.
 Nguyên tắc lòch sử - cụ thể được V.I.Lênin cô động trong nhận đònh: “xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây:
một hiện tượng nhất đònh đã xuất hiện trong lòch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ
yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”
18
. Điều này có
nghóa là nguyên tắc lòch sử - cụ thể đòi hỏi phải phân tích sự vật cụ thể trong những tình hình cụ thể để thấy được:
- Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua những độ nào; đang (đã hay sẽ) thực
hiện những bước nhảy nào để tạo nên những chất, lượng mới nào?
- Sự vật đang (đã hay sẽ) bò tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu thuẫn đó đang nằm ở giai đoạn nào, có vai
trò như thế nào đến sự vận động, phát triển của sự vật?
- Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ đònh biện chứng nào; cái cũ nào đang (đã hay sẽ) phải mất đi, cái mới
nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện?
- Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái riêng hay cái đơn nhất, điều gì là cái
chung hay cái đặc thù / cái phổ biến; chúng quy đònh nhau, chuyển hóa lẫn nhau như thế nào?
- Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện tượng nào chỉ là giả tượng, hiện tượng
nào là điển hình…
- Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình thức nào; hình thức nào phù hợp với nội
dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp với nội dung, cái gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi?
- Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh ra những khả năng nào; mỗi khả năng
đó, trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất yếu hiện thực hóa ra sao?
 Nguyên tắc lòch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta phải bao được các sự kiện xảy ra trong nghiên cứu khoa học hay các biến
cố xảy ra trong các tiến trình lòch sử nhân loại. Tuy nhiên, nó không cho phép chúng ta kết hợp các sự kiện khoa học như
những cái ngẫu nhiên thuần túy của tự nhiên hay mô tả các biến cố lòch sử như những cái vụn vặt đơn lẻ của xã hội; mà nó
đòi hỏi chúng ta phải tái hiện chúng, mô tả chúng trên cơ sở vạch ra được cái tất yếu lôgích, cái chung (quy luật, bản chất)
của chúng, chỉ ra được những trật tự nhân quả quy đònh chúng. Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được bức
tranh khoa học về thế giới, để qua đó chúng ta nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong phú của lòch sử trong
sự thống nhất.

 Nguyên tắc lòch sử - cụ thể đã được các lãnh tụ của giai cấp vô sản vận dụng: Xuất phát từ tình hình cụ thể của chủ
nghóa tư bản ở giai đoạn tiền độc quyền, tự do cạnh tranh mà C.Mác cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghóa chỉ có thể thắng
lợi ở tất cả các nước tư bản chủ nghóa tiên tiến. Sang thế kỷ 20, chủ nghóa tư bản đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, đế
quốc chủ nghóa. Khi vận dụng nguyên tắc này vào xem xét tình hình thế giới lúc này, có những thay đổi lớn mà V.I.Lênin
đã đi đến kết luận đúng đắn là, cách mạng xã hội chủ nghóa chỉ có thể thắng lợi ở vài nước, ở khâu yếu nhất của chủ nghóa
tư bản. Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đang quán triệt và vận dung sáng tạo
nguyên tắc này vào thực tiễn cách mạng mỗi nước để xây dựng cho quốc gia mình một con đường riêng đi lên chủ nghóa xã
hội.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Anh/Chò hãy trình bày khái quát các hình thức lòch sử của phép biện chứng?
2. Lý luận? phương pháp? Mối quan hệ giữa chúng. Anh/Chò hãy nêu những yêu cầu phương pháp luận và phân tích
cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
3. Nguyên lý? nguyên tắc? Mối quan hệ giữa chúng. Anh/Chò hãy nêu những yêu cầu phương pháp luận và phân tích
cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
4. Anh/Chò hãy phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và vạch ra ý nghóa phương
pháp luận của nó.
5. Anh/Chò hãy phân tích nội dung quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, và
vạch ra ý nghóa phương pháp luận của nó.
6. Anh/Chò hãy phân tích nội dung quy luật phủ đònh của phủ đònh và vạch ra ý nghóa phương pháp luận của nó.
7. Bằng lý luận và thực tiễn, Anh/Chò hãy chứng minh rằng, cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ là một quá trình
khó khăn, lâu dài, phức tạp; cái mới có thể thất bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng cái cũ.
8. Anh/Chò hãy giải thích câu nói của V.I.Lênin: “Có thể đònh nghóa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự
thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những
sự giải thích và một sự phát triển thêm”.
18
V.I.Lênin: Toàn tập, T.39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 2005, tr.78.
9. Cơ sở nào để khẳng đònh nguyên tắc lòch sử - cụ thể là “linh hồn” phương pháp luận của triết học Mác – Lênin?
Nêu những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc lòch sử - cụ thể.

10. Phép biện chứng tư duy, tư duy biện chứng là gì? Mối quan hệ giữa chúng?

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×