Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Từ vựng cũ, phân tích mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.01 KB, 28 trang )

Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

88

T7 v8ng cũ, phân tích m=i
Nguyễn Văn Ưu

Đi tìm từ nguyên theo lối nhìn tổng thể thường đòi hỏi việc tạm quên mối liên hệ giữa ngữ từ và
ngữ nghĩa theo hiểu biết thông thường. Và dưới một khía cạnh nào đó, lối nhìn tổng thể lại có thể
nhìn vào hoặc phát hiện rất nhiều chi tiết, đa phần là mới, và thường không dựa vào tiên kiến,
hoặc kiến thức dựa trên sách vở. Thí dụ cầu Thê Húc ở hồ Hoàn Kiếm đã được lí giải theo ngơn
ngữ là nơi đậu của ánh sáng ban mai, trong đó, thê (棲 [qi][xi]) mang nghĩa đậu, chỗ để nghỉ, và
húc (旭 [xu]), nghĩa ánh sáng mặt trời mới mọc, và Thê Húc, tức Húc Thê, mang nghĩa nơi đậu
của tia sáng ban mai. Âm quốc ngữ [thê] rất gần với âm Ngô Việt (Chiết Giang) [tsij] cho chữ 棲,
và [húc] gần với âm tiếng Hẹ [hiuk], chữ 旭 [1]. Nhưng nếu để ý đến chính chiếc cầu (Thê Húc)
lúc nào cũng sơn mầu đỏ, thì mặt trời hay ánh sáng ban mai có khả năng biểu hiệu bằng cả chiếc
cầu. Nối tiếp với chuyện phong thủy của cả toàn thể cầu và nước hồ, sẽ thấy chữ thê có thể viết
bằng 淒 [qi] (thê), viết với bộ thủy 氵(nước), mang nghĩa vùng nước lạnh lẽo, và Thê Húc (淒旭)
sẽ mang nghĩa mặt trời mọc lên từ vùng nước lạnh lẽo. Và toàn bộ chiếc cầu được biểu hiệu bằng
chữ húc (旭), trong khi nước hồ lạnh lẽo (thê lương), bằng thê (淒), cầu Thê Húc.
Thử áp dụng phương pháp ê-ty (etymology), tức từ nguyên học của Tây Phương để truy tầm từ
nguyên của chữ chiên hay xào. Chữ xào tự nó là chữ Việt, bởi nó là một thứ ô-nô-ma
(onomatopoeia), tức từ nhại thanh, cũng giống với xèo trong bánh xèo. Chữ xào mang âm giống
với âm [caau] tiếng Quảng Đông (viết 炒), đọc như [tsảo], mang nghĩa chiên hay xào: chảo fàn
(cơm chiên), chow-mein (mì xào). Cũng có âm như đồng nguyên từ (cognate) với xào là âm
[tsao] hay [cao] 炒, tiếng Mân Nam tức Phúc Kiến [1]. Âm quan thoại tương đương là [chǎo] 炒
[2] rất gần với chảo tiếng Việt, tức cái wok, dụng cụ trong bếp dùng để chiên, xào. Ê-ty của xào
cũng cho thấy các từ “tương cận” là xáo hay tao, với âm [tao] gần với âm tiếng Hẹ [tau] cho
cùng Hán tự 炒 [1]. Động tác và kiểu nấu của xáo và tao khác với xào, và có thể nói các thinh


của xáo hay tao đều là thinh biến chuyển dùng để phân biệt với xào. Thật ra chữ chảo (nồi, niêu,
soong, chảo) trong tiếng Quảng nguyên là 炒鍋 [caau wo] hay 炒鑊 [caau wok] [4], tức frying
pan (chảo dùng để chiên), thường gọi là wok tiếng Anh, nhưng tiếng Việt rút còn chữ chảo, một
từ thuộc kiểu nhại thanh (onomatopoeia). Chữ wok tiếng Anh là một “từ vay mượn”, cũng rút
gọn từ 炒鑊 [caau wok]. Để ý lối đọc Hán Việt của chữ 炒鑊 [caau wok] là sao hoạch, nghe rất
lạ tai đối với người Việt và người nói tiếng Anh, so với chảo và wok. Lí do, âm [sao] gần âm
Mân Việt [cao] 炒, và [hoạch] gần âm Triều Châu [uêg] 鑊, trong khi [chảo] gần âm Bắc Kinh
[chǎo] 炒, và [wok] 鑊 giống y như âm Quảng Đông [wok] [4]. Tiếng Việt tương đương với xào
là chiên lại tương cận với lớp tiếng hạ tầng là tiếng Khmer [chiên], hay tiếng Hán 煎 [jian] (tiếng
Hẹ y hệt: [zien]). Theo lí thuyết ở đây, có thể khơng cần thiết để nói đến từ vay mượn, bởi việc
xác định bên (cho) vay bên mượn, cộng với chuyện cân nhắc trong vay mượn theo luật học,
trong một quá khứ xa xơi có thể gặp khó khăn, so với các từ vay mượn rất rõ, trong hiện tại, như
ô-tô, phôn, súp hay Tivi. Tuy vậy từ vay mượn thường vẫn là một chuyện khơng đoạn kết, tức từ
cho vay có thể là một từ mượn trước từ ngôn ngữ khác. Chuyện từ vay mượn cũng có thể mất ý


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

89

nghĩa rất nhiều nếu quan niệm tìm từ ngun được đồng hóa với việc tìm ngữ-nghĩa nguyên thủy
của ngữ-từ.
Một động tác ẩm thực khác hoàn tồn mang tính ơ-nơ-ma là [zhà] hay [zhá] 炸, âm Quảng [zaa],
âm Khmer [chha] [3], mang nghĩa chiên dầu (deep fry). Âm [zhà] nầy chính là chá trong dầu chá
quảy (quẩy), nhưng tính chất ơ-nơ-ma hồn tồn biến mất trong kí âm Hán Việt, kiểu quốc ngữ,
là tạc hay trác [2]. Cũng giống như từ ơ-nơ-ma cho tiếng chó sủa 汪 , đọc [uang] hay [uaon]
trong nhiều thứ phương ngữ tiếng Trung, nhưng đọc theo Hán Việt (quốc ngữ) là ng hồn tồn
khơng nhận ra tính ơ-nơ-ma của từ này. Thật ra từ [zaa] hay [zha] 炸, tức chiên dầu, có thể xem

như tương đương với sizzle tiếng Anh, miêu tả âm xèo xèo khi chiên thịt trên lò hay chảo thật
nóng. Từ ơ-nơ-ma, tức nhại thanh, xào, có thể hợp với nhiều chữ khác cho ra ngữ-nghĩa khác
nhau, thí dụ: xào xáo (bất đồng, tranh cãi, lớn tiếng), xì xào (đồn đại, rỉ tai), xào xạc (âm thanh
của gió thổi qua cây), xí xơ xí xào (nói năng ồn ào), v.v.. Để ý chữ xào dùng liên hệ với âm thanh,
tiếng nói viết với bộ khẩu (口): 吵, khác với xào trong chiên xào, viết với bộ hỏa (火): 炒, cả hai
đều là từ ô-nô-ma. Tiếng quốc ngữ Hán Việt của xào (吵) là [sảo] [2], đánh mất đi ít nhiều tính
ơ-nơ-ma của xào. Giống như con mèo có chữ mèo đánh mất tính nhại thanh (ơ-nơ-ma) của tiếng
kêu con mèo như từ [miao] hay [mao] 猫, tiếng Hán, hoặc ngay cả [maaeo] tiếng Thái. Để ý nhị
trùng âm (diphthong) tiếng Việt thường không giống với nhị trùng âm theo định nghĩa là bắt đầu
bằng một âm và kết thúc bằng một âm khác. Thí dụ sướng trong tự sướng (selfie) hay sung
sướng (happy) có nhị trùng âm [ướ] không hẳn là nhị trùng âm như trong ⾃相 [zi soeng] hay 充
暢 [cung coeng] (giống như [tsung tsoeng]), phát âm theo tiếng Quảng. Âm đôi [ướ] như trong
sướng, nếu muốn tránh nhị trùng âm, thì có thể gọi là nguyên âm kép. Tự sướng tức selfie viết
theo tiếng Hoa là 自相 [zixiang], với 相 [xiang] nghĩa hình ảnh, nhưng rất có khả năng, tự sướng
là một sáng tác tiếng Việt, ứng với tiếng Hoa 自拍照 [zìpaizhào], tự phách-chiếu, với pháchchiếu nghĩa chụp ảnh. Tương tự là xáo trong xào xáo, có âm Hán Việt là [tào] (嘈). Xào xáo, có
âm Hán Việt (sảo tào) đánh mất tính ơ-nơ-ma, mang nghĩa tranh cãi lớn tiếng, khả thi mang âm
gần tiếng Tiều [cào cáo/tsào tsáo] 吵嘈, hơn các tiếng khác, ngay cả quan thoại [chăo cáo] hay
Hán Việt [sảo tào]. Nhìn tổng thể, thinh của một ngữ từ có thể khác nhau cho cùng một thứ tiếng
và có khả năng rất khác biệt giữa các tiếng khác nhau. (Thinh thứ 3 tiếng phổ thông [chăo] 吵
gần với thinh dấu hỏi trong [sảo] nhưng khác với thinh dấu huyền trong [xào] hay [tsào] tiếng
Triều Châu.)
Những từ ô-nô-ma khác thường gặp là: con cóc (có thể liên hệ đến động từ to croak, kêu khàn
khàn), con ểnh ương (nhại tiếng kêu), con ong (bees, liên hệ đến to buzz giống tiếng ong bay và
phát thanh, theo tiếng Việt là o-o-ng-o-o-ong), v.v., đều là những thứ từ nhại theo tiếng kêu của
sự vật. Để ý, từ ô-nô-ma cho cùng một sự vật, thường khác nhau giữa hai thứ tiếng khác nhau.
Thí dụ như âm [ong] chỉ con ong (螉 hay 蜂), hoặc Ông (Mister) 翁, hay tiếng vo-ve 嗡 [ong], có
âm đầu [v]. Trừ chữ 蜂 [hong] (Phúc Kiến), ba chữ kia (嗡翁螉) đều có âm Triều Châu, Phúc
Kiến là [ong], và âm Ngơ Việt (Chiết Giang/ Thượng Hải) là [on] (rất giống [Ôn]). Nhưng âm 3
chữ nầy trong tiếng Hẹ là [vung] và tiếng quan thoại là [weng] có vẻ như khác với âm ô-nô-ma,
của âm [ong], hay [vung] (Hẹ), nhưng âm [vung] lại có thể gần [vù vù] hay [vo ve]. Chuyện âm

[ơng] (翁) theo tiếng Triều Châu, có thể phát âm là [ôn] theo tiếng Ngô Việt, dễ đưa đến một
nhận xét về chữ quốc ngữ. Đó là, những ngữ âm khác nhau, [ong] hay [on], theo từng khu vực sẽ
ứng với một ngữ từ, hay được viết với cùng một dạng chữ viết (翁), nhưng đối với quốc ngữ viết


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

90

theo chữ cái a-b-c, thì lại viết với các lối ráp vần khác nhau: [ông], [ôn], hoặc đôi khi [ôông].
Ráp vần kiểu [ôông] thật ra là kết quả của lối phát âm, theo qui ước, chọn 1 trong 2 giữa [ông] và
[ôn]. Thật ra [ôông] cũng khơng hồn tồn giống [ơn] hoặc [ơng], và ngữ âm của cả [ôn] và
[ôông] rất dễ phân biệt với [ông], không giống như giữa [an] và [ang]. Để ý, tiếng Jarai dùng để
chỉ tiếng ong hoặc côn trùng kêu là ong [5], có âm cũng gần giống như ŏng mang nghĩa you
(ông) dùng cho giống đực, hoặc ông dùng để chỉ giống đực nói chung. Chữ Ơng mang nghĩa you
(ơng) cũng có âm gần như chữ ne [ơng-nơ] mang nghĩa you (ơng) trong tiếng Rohingya ở
Myanmar (Miến) [6]. Có thể phân tích từ ngun của chữ Ơng tiếng Việt bằng kiểu noumenon
(bản thể), onomatopoeia (nhại thanh), metaphornym (ví phỏng từ) nhập lại, bằng cách liên kết:
(1) chữ ong là từ ơ-nơ-ma có nguồn từ tiếng ong kêu; (2) con ong mang nghĩa như ong thợ, đa
phần thuộc giống đực, nay viết bằng 螉 [ơng], và chữ nầy có cấu trúc dựa vào ngữ nghĩa của 虫
[chong] (sâu bọ, côn trùng), và ngữ âm của 翁 [ông] (ông lão). Chữ 翁 [ơng] nầy có thể khi xưa
là ngữ âm cho con ong, mang cấu trúc của ngữ âm và ngữ nghĩa là: 翁 [ông]= 公 [công] (đực)+
羽 [vũ]+羽 [vũ] (2 cánh), có âm gần với [vù-vù], hay [vùng-vùng], hay [vo-ve]; và (3) chữ Ông
(you) cũng là một thứ đại từ chỉ chung về người đàn ông (giống đực).
Xin nhắc lại, đối với từ ơ-nơ-ma (nhại thanh), khơng có từ nào giống từ nào dù rằng, cùng nhại
một thứ tiếng kêu, và nhiều khi từ ô-nô-ma của tiếng nầy dùng thành tiếng gọi sự vật cho tiếng
kia. Ở trên đã có thí dụ về con cóc kêu ứng với tiếng Anh the frog croaks, với động từ croak chỉ
cóc kêu, có âm [croak] rất gần với cóc. Thí dụ nữa là tiếng mưa rơi trong bản nhạc Rythmn of the

Rain (The Cascades) ghi theo ráp vần tiếng Anh là pitter patter pitter patter, trong khi trong các
bản nhạc Phố Buồn (Phạm Duy, 1954) và Mưa (Văn Phụng, 1956), tiếng mưa rơi là tí tách. Từ
咩 [mie], là từ nhại thanh của tiếng dê kêu, có âm [mie] viết lại là [myê] và chuyển sang tiếng
Việt là [dê], thành tên gọi con dê. Cũng ở phân tích nầy, có thể thấy từ ô-nô-ma “bì bạch” trong
câu đối Da Trắng vỗ Bì Bạch không phải là một từ chuẩn cho nhại thanh của tay vỗ vào da trong
lúc tắm, mà là một thứ từ “sáng tác” dùng cho câu đối, và có thể là một sang tác sau khi có quốc
ngữ. Do đó, người muốn đối lại câu đó cũng có thể sáng tác ra một từ ô-nô-ma tương tự miễn là
mang chút ít tính ô-nô-ma, chứ không cần đối chiếu với những gì có sẵn trong sách vở.
Với khuynh hướng tin liệu về ngôn ngữ trở nên dồi dào vào thế kỉ 21, ý nghĩa của từ nguyên
(etymon) tự nhiên sẽ khoác lên mình nhiều chiếc áo mới, tương ứng với những chiều hướng mới,
trong đó phải kể chiều hướng chú trọng đến ngữ âm. Thí dụ như hai ngữ âm tương đương với
nhau viết theo tiếng Việt là Phật và Bụt, như trình bày trong Bảng Đối Chiếu so sánh hai âm nầy
với các ngữ âm trong một số ngôn ngữ trong vùng. Bảng Đối Chiếu có thể cho thấy khác nhau
giữa mơ hình cây và cành thường dùng xưa nay, và mơ hình cây và đất, thường xun dùng
trong bài viết nầy. Trước tiên, chữ Bụt, có người cho là một từ Việt cổ hay thuần Việt, và thuần
Việt hơn là chữ Phật tức Buddha. Lí giải nầy xem như nằm trọn trong thuyết nền cây và cành,
hay một dân tộc một ngôn ngữ. Xem bảng đối chiếu các từ mang nghĩa Bụt của một số ngơn ngữ
như trình bày ở đây, sẽ thấy âm [but] gần với các âm [but] Phúc Kiến (Mân), hay [Buddha] các
thứ tiếng như Pali / Sanskrit / Anh ngữ, trong khi âm [Phật] gần với âm các phương ngữ ở Quảng
Đông.
Bảng Đối Chiếu Bụt và Phật


Firmament

English
Buddha
Pali/Sanskrit
Buddha
Thai

พุทธ Phoot

Volume 15, No. 1, April 2022

Việt
Phật / Bụt
Phổ Thơng
fó, fú
Triều Châu
Huk

Hán Việt
Phật, Phất, Bột, Bật
Trung1
佛陀 Phật Đà
Nhật
Butsuda 仏陀 3

Mân Nam
But
Lao
ພຸ ດ pʰūt 2
Hindi
बु Buddh

91

Quảng
Fật, Fất, Bật
Khmer

ពុទ្ Put
Hàn
Bucheo 부처

Hẹ
Fut
Myanmar
Bou’ da̰
Sinhala
Budu

GHI CHÚ: 1. Nguyên chữ tương đương với [Buddha] là 佛陀, gọi Phật Đà hay Phật Tổ. Âm
chữ 陀 [tuo] (Đà) trong các tiếng Hẹ, Quảng, Tiều, Nam Kinh là [to] (xem [12]) rất gần [tổ] tiếng
Việt. Trong khi âm [đà] gần âm Hàn [ta]. 2. Nguyên chữ Buddha là ພຸ ດທະ [pʰūt tʰā], giống Phật
Đà. Âm [pʰūt] tiếng Lao rất gần [put] tiếng Khmer và [Fut] tiếng Hakka. 3. Một âm nữa của
tiếng Nhật là [futo] ふと (rất gần âm [Phật Tổ]), kí âm theo Kanji là 浮屠 hay 仏図 (xem [7]).
Nếu phải chọn từ căn, tức từ cho biết thêm ý nghĩa nguyên thủy, của hai chữ Phật và Bụt, có thể
sẽ chọn Bụt, bởi Bụt gần với Buddha, dẫn xuất từ động từ budh tiếng Sanskrit, mang nghĩa là
thức tỉnh, giác ngộ. Nhưng từ dùng theo tập quán vẫn là Phật, chia sẻ âm với ngữ âm tiếng
Quảng Đơng.
Tình hình thinh trong tiếng Nơm (Việt) thời chưa có quốc ngữ, trên cơ bản chắc hẳn khác rất
nhiều với thời tiếng Việt quốc ngữ mang kí âm a-b-c cùng với tính độc thể. Tức chữ Nơm hoặc
Hán tự khơng mang nhiều tính độc thể trong thinh hay ráp vần, so với chữ quốc ngữ. (Tính độcthể có thể hiểu đơn giản bằng câu nói: Nó phải như thế nầy, thế nầy.) Thí dụ bánh xu xê ngày
trước thường cho là liên hệ đến chữ phu thê (chồng vợ). Chính tả hiện đại cho rằng phát âm Việt
là su sê và phát âm Mường xu xê. Nhớ là tiếng Mường, tiếng Tay-Nùng (Tai-Nung), tiếng Quảng
Đông, tiếng Thái Lan, tiếng Lào khơng có âm tiếng Anh [sh] (Việt [s]) mà chỉ có âm [s] (tức gần
âm chữ X tiếng Việt), thí dụ: suy nghĩ người Mường-Bi gọi xy ngĩ, sửa soạn gọi xứa xoãn, xuất
giá là xất dả, so sánh là xo xảnh. Tất cả những tiếng này đều có 5 thinh, nhưng thành phần từng
thinh khác nhau trong tồng số 5 thinh. Tiếng Mường Bi khơng có thinh nặng, tiếng Mường
Thanh Hóa, tiếng Tày-Nùng và nhiều phát âm tiếng Việt (nhất là phía Nam) khơng có thinh ngã,

và nhiều thứ tiếng liên hệ đến tiếng Tai (cổ), như vài phương ngữ ở Cơn-Minh (Vân Nam), có
thể chỉ có thinh ngã mà khơng có thinh hỏi, hay ngược lại, chỉ có các thinh hỏi, nặng, sắc, huyền,
ngang, mà khơng có thinh ngã (xem quyển tự vị của Lê Ngọc Trụ [8])
Theo truy tìm từ ngun sát với mơ hình cây và đất chữ xu xê (hay su sê) trong bánh xu xê có thể
khơng tương đương với phu thê, ở chỗ chữ phu rất khó có thể tương ứng với [xu]. Xu trong xu xê
có âm liên hệ gần hơn với chữ 婿 [xu] trong Hán tự mang phát âm Quan thoại và Ngô Việt
(Thượng Hải) là [xu] hay [siu] [1], với nghĩa là chồng. Âm Hán Việt của [xu] là tế lại gần với âm
Hẹ, tức Hạc Việt hay Hakka, là [se]. Con rể tiếng Hán gọi là 女婿 [nu xu] tức nữ tế, chồng của
con gái. Trong khi thê trong [xu xê], còn gọi thế, tương ứng với [qi] hay [qì] quan thoại 妻, mang
nghĩa vợ, có phát âm Mân Việt (Phúc Kiến) là [xê] rất giống xê trong xu xê. Tổng kết bánh xu xê
có thể viết theo một tuồng chữ Hán là 婿 妻 , tương đương với gần một chục lối ráp vần khác
nhau theo kí âm dùng a-b-c, và hằng chục thinh khác nhau tùy theo phương ngữ.


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

92

Chuyện chữ Xu trong Xu xê không phải tương ứng với phu cũng giống như chữ chồng không
phải là một từ thuần Nôm mà là một phát âm gần giống với âm Hẹ [chong] (xem [9]) trong
[chong fu] 丈 夫 , tức trượng phu, âm Hán Việt quốc ngữ gần với phát âm [zoeng fu] tiếng
Quảng, tức là chồng do người vợ gọi. Một từ giống như chồng là chàng (Chàng với thiếp đêm
khuya trằn trọc/ Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người (Hồ Xuân Hương)), cũng liên hệ với từ 丈
trong 丈夫 (trượng phu), đọc [zhang] theo quan thoại [1], gần với chàng. Trượng, chàng, chồng,
zhang, chong, tsong, zeong, v.v. viết khác nhau theo a-b-c, có thể mang nhiều thinh khác nhau,
nhưng cùng tương ứng với một ngữ-nghĩa và một ngữ từ tiếng Hán 丈 [zhang].
Chữ quạ-ơ có thể là ơ-nơ-ma thời xưa, gồm hai âm [quạ] và [ô], nhại tiếng quạ kêu, rất giống
corbeau tiếng Pháp nếu tách rời hai âm chính thành [corb]-[eau]. Tiếng Việt tách quạ-ô thành 2

chữ, quạ chỉ con quạ, và ô chỉ màu đen của con quạ. Trong tiếng Hán ô tương đương với [wu] 烏,
mang hai nghĩa, quạ và đen. Phát âm Mân Việt (Phúc Kiến) cho từ [wu] 烏 là [ô] và phát âm
Triều Châu là [u], và có thể nói, âm [wu], [ơ], hay [u] đều đánh mất tính ơ-nơ-ma, tức nhại thanh,
của chim quạ từ tiếng quạ kêu, [quạ-ơ]. Nếu ơ (đen) có gốc là từ nhại thanh thì mực (đen) trong
chó mực là từ nhại ý dáng (tạm gọi, metaphornym). Chữ mực mang nghĩa con (cá) mực, mực để
viết, hay màu đen, đều bắt nguồn từ túi mực màu đen của con mực. Phát âm [mực] rất giống
[meuk] hay [bplaa meuk] (cá mực) trong tiếng Thái, và cũng giống tiếng Mường-Bi mâc. Tiếng
Hán là 墨 [mo], đọc theo Hán Việt là mặc rất gần âm Mân Việt (Phúc Kiến) là [mat][mak] hay
[miak], hay Quảng Đông [mak], cùng mang nghĩa con mực, màu đen, hay mực để viết. Mặc
cũng là tên họ như Mặc Tử (Ông Mặc) 墨子, sống thời Chiến Quốc bên Tàu. Giả thiết để giải
thích cận vị (collocation) trong lối dùng mực trong chó mực là trong âm cho chữ mực của các
phương ngữ đóng góp vào tiếng Việt, theo mơ hình cây và đất, có âm [mat], rất gần với âm
[maa] tiếng Thái mang nghĩa con chó, tức con má. Có thể rất tiện khi muốn nới rộng ngữ-nghịa
của chó má để chỉ chó đen bằng cách giữ nguyên âm [m] trong âm [má] (chó), và biến ra [mát]
(đen) rồi dần dà, tạo nên chữ chó mực, hồn tồn tương đương với chó đen. Trong câu đáp Chó
đen rú cẩu ơ cho Da trắng vỗ bì bạch, nên dùng chó đen thay vì chó mực theo cận vị, để cho đen
đối thẳng với trắng.
Từ gấu (con gấu) có thể bao gồm qua vài lớp cả từ nhại thanh lẫn từ nhại ý. Gấu đen trong tiếng
Hán là 狗熊 [gǒu xióng] (cẩu hùng) bởi gấu đen có điệu bộ rất giống con chó (cẩu/ gǒu), một từ
nhại ý, trong khi [gǒu], cẩu hay [gấu] (gấu gấu) chính là từ nhại thanh (ơ-nơ-ma) nhại theo tiếng
sủa con chó. Chuyển sang tiếng Việt, gấu hùng dẹp bỏ bớt chữ [hùng], theo kiểu dù tản/ô tản =>
dù / ô, và sáng tác ra ngữ từ [gấu] ứng với ngữ nghĩa con gấu (bear). Tiếng Tai-Nùng gọi gấu là
mi, rất giống âm [mị] chỉ con gấu, thuộc tiếng nước Sở xa xưa. Phân tích theo chi tiết, hay theo
từ nguyên ê-ty, sẽ thấy một ngữ từ như con gấu có thể liên hệ đến một chùm ngữ nghĩa khác
nhau, gồm: gấu đen, từ nguyên thủy có thể là cẩu hùng (theo quốc ngữ), nghĩa gấu trơng giống
chó hay gấu chó, chữ cẩu là từ vựng kiểu quốc ngữ tương đương với từ ô-tô-ma gấu hay gấu gấu
nhại tiếng chó sủa. Có hai chuyện cần để ý. Thứ nhất là việc chuyển từ vựng từ chỗ này đến chỗ
kia trong những môi trường thiếu chữ viết dễ lâm vào cảnh tam sao thất bổn, yũ tản (umbrella),
tức vũ tản theo quốc ngữ, thu ngắn là dù hay ô: 狗熊 [gau hung] (Quảng) hay cẩu hùng (quốc
ngữ), nghĩa nguyên thủy gấu đen, thành gấu. Thứ hai, âm ơ-nơ-ma thường thay đổi theo địa lí.

Thí dụ con chó theo tiếng Akha hay P’u Noi là [a-k’ừ] hay [khừ] rất gần âm [gừ] trong lối nói
chó gầm gừ. Âm [khừ] hay [a-khừ] có thể gần với âm [khuyển] cũng dùng để chỉ con chó


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

93

(khuyển gần tiếng Quảng [hyun] và Hẹ [k’iên] 犬). Chữ con chó có thể dính với từ nhại thanh
sủa của chó sủa trong các tiếng Mon-Khmer là [so:], âm đầu [s] biến thành [ch] (chó) có thể theo
lối đọc người Pháp qua chữ chien, và rất giống lối ráp vần theo a-b-c của tiếng Thai [cho] (จอ)
dùng để chỉ năm Con Chó (năm Tuất). Từ nhại thanh ơ-nơ-ma trong bối cảnh cây và đất có thể
giúp truy tầm một cách quốc tế như động từ to croak (ơ-nơ-ma của tiếng cóc kêu) biến ra chữ
Việt con cóc (frog), tức cóc tương đương với croak.
Lí giải về cận vị trong chữ chó mực có thể áp dụng cho cận vị trong ngựa ô tức ngựa đen. Âm [ô]
tương ứng với âm quan thoại [wu] 乌, mang nghĩa quạ hay đen. Âm [wu] quan thoại lại giống y
như [wu] 午, gọi Ngọ cho năm Ngọ tức năm con Ngựa. Trong mơi trường mà vai trị chữ viết
khơng thiết yếu, hay thiếu chữ viết, dùng ngụa ô thay vì ngựa đen có thể dễ nhớ hơn bởi nó chỉ
xài đi xài lại chữ [ô] để chỉ quạ-ô (đen) và ngựa đen. Kiểu lí giải trình bày ở đây đơi khi dựa vào
tính ăn khớp rất giống kiểu điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa. Thế còn mèo mun (mèo đen) thì
sao? Trước hết chữ mun chính là mun trong gỗ mun, tức gỗ mầu đen mun ebony dùng trong bàn
ghế tủ giường trong nhà. Mầu mun (đen) trong mèo mun, một âm đầu mơi-mơi [m], có khả năng
liên hệ đến chuyện tượng hình hay nhại ý, với chuyện tranh tối tranh sáng khi mặt trời vừa bắt
đầu ló dạng. Cặp mắt con mèo là những điểm sáng so với tồn thân mèo mun giống như mặt trời
ló dạng trong bóng tối đen. Tồn khung cảnh mặt trời mới vừa mọc được mô tả bằng Hán tự
mông (曚 [mong]), đọc theo tiếng Quảng và Hẹ là [mung], Tô Châu [mon], tất cả đều có thể móc
nối với mun trong mèo mun (mèo đen). Cũng có thể hình ảnh mặt trời vừa ló dạng trong màn
đêm (曚 [mong]) là gợi ý nguyên thủy cho từ 駹 [mang] (Quảng: [mong]), chỉ con ngựa ơ (đen)

có mặt trắng, gần âm [mun]. Chữ 駹 [mong] nầy gợi nên âm [mun] và từ chỗ nầy, có thể gọi
tiếng Việt là ngựa mun, để chỉ ngựa đen mặt trắng. Ngựa mun do đó khác với ngựa tồn mầu đen
thường gọi là ngựa ơ.
Thử dùng phương pháp cận vị để truy tìm cấu trúc bên trong của từ chỉ bị màu đen là bị hóng.
Trọng tâm của phương pháp nầy là tìm xem hai âm [bị] và [hóng] có những âm nào giống âm
nầy nhưng mang ngữ nghĩa gần nhau. Tổng qt, âm [bị hóng] gần như [bồ hóng] mang nghĩa
màu đen của, hay chính, chất nhọ hay lọ đóng trên nồi, niêu, son, chảo, mang chất cấu tạo là chất
carbon, tức than. Tiếng Hoa, 煤灰 [mei hui] (mơi hơi) có nghĩa soot (nhọ, lọ), tức bột than, và
碳⿊ [tan hei] (thán hắc), có nghĩa màu đen của than, hay chất nhọ. Cân vị trong bò hóng cũng
là gần nhau giữa âm [ka muk] tiếng Lao, hay [kʰá māo] tiếng Thai, mang nghĩa màu đen của nhọ
hay chất nhọ, và âm [mək] tiếng Palaung (Riang) mang nghĩa con bị, hay súc vật nói chung [3].
Thảo luận tiếng Việt trong khung đối chiếu với các thứ tiếng lân cận về địa lý và lịch sử ở đây
thật ra có liên hệ ít nhiều, nhưng hơi khác, với một lí thuyết do André-Georges Haudricourt đề ra
vào khoảng giữa thế kỉ trước. Đại khái, thuyết Haudricourt cho rằng tiếng Việt thuộc nhóm Nam
Á (Austroasiatic) có lớp hạ tầng là Mon-Khmer, và có thể là Tai (cổ). Trước đó vài chục năm,
những học giả như Henri Maspero cũng cho nhiều bài viết đề cập đến các thứ tiếng Mon-Khmer
và Tai (cổ), với ảnh hưởng trong từ vựng tiếng Việt. Cũng có nhiều tác giả Pháp ngày xưa, như
Maspero, Cadière và Taberd, cho rằng tiếng nước Nam chịu ảnh hưởng của tiếng Hán, trong hiểu
biết thời đó là tiếng Hán là một thứ tiếng duy nhất của người Trung Hoa tiêu biểu bằng Hán tự.
Vấn đề then chốt vẫn là nhiều từ Nôm mang liên hệ với Hán tự (như chồng hay chàng với trượng
trong trượng phu 丈夫), nhưng khó nhận diện là tương cận với Hán tự, và một con số lớn những


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

94

từ thường gọi Hán Việt, viết theo quốc ngữ, mà cách phát âm và ráp vần hãy còn nằm trong vòng

định đề, lướt qua các chu trình qua lại giữa chữ viết và tiếng nói, theo kiểu quả trứng và con gà,
diễn tiến khác nhau theo từng nơi, từng khu vực, và từng thời khoảng.
Những lí thuyết này ra đời trước thời đại internet và tồn cầu hóa khá lâu, và do đó thiếu thốn
nhiều dữ liệu, nhất là về từ vựng, để có thể kiểm chứng theo thực nghiệm, về các tầng lớp ngôn
ngữ đan xen hay chồng lên lớp hạ tầng Mon-Khmer và Tai (cổ). Mơ hình cây và đất ở đây, đặt
chú trọng đến một vài tiêu chí khác với học thuật về tiếng Việt có trước thời internet. Thí dụ, đối
với hai nhóm ngữ hạ tầng Mon-Khmer và Tai (cổ) trong tiếng Việt, lí thuyết ở đây chú trọng đến
cấu trúc các thinh trong nhóm ngữ: các thứ tiếng liên hệ đến Tai-cổ có 5 thinh, với phân bố
thường khác nhau, trong khi tiếng Chăm có 4 thinh, rất khó nhận diện khi sát nhập với tiếng Việt,
ngày nay xem là có 6 thinh. (Thí dụ [rạp] tiếng Chăm mang nghĩa vật che/chỗ che rất giống tiếng
Việt rạp hay rợp trong rạp hát hay hai hàng cây bên đường rợp bóng mát. Để ý hai từ rạp và rợp
có thể mang một ngữ-nghĩa cũng như ngữ-âm tương tự trong quốc ngữ, nhưng viết theo chữ
Nôm thường theo âm [lạp] hay [lợp] với tuồng chữ hồn tồn khác nhau.) Vấn đề khơng có thinh
hay có một thinh trong gần như tất cả các thứ tiếng Mon-Khmer có thể được xem như hãy còn
dấu vết trong tiếng Việt ngày nay qua việc một thinh duy nhất, thường là thinh nặng, nằm ở hạ
tầng, hay bao trùm, các thinh khác. Ứng dụng các điểm cơ bản về lí thuyết này lại cần ăn khớp
với phi-song-thể, với cái nhìn tổng thể khơng hồn tồn dựa vào kết luận có sẵn, khi kiểm chứng
từ vựng giữa các thứ tiếng khác nhau. Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là các thuyết ngôn ngữ về
tiếng Việt thường dựa vào tính định để của ngơn ngữ, xem như một định đề căn bản, bất biến.
Thử xem qua từ nguyên của hai thứ bánh người Việt thường dùng trong dịp Tết, là bánh chưng
và bánh tét. Cả hai đều có thể móc nối với chữ đất, bánh tế đất, bánh tạ ơn đất, tạ ơn thần đất,
trong một quá khứ rất xa xưa. Âm [tét] hay [tết] có lẻ có trước thời chữ Hán hay chữ Nơm cho kí
âm 節 [jie], tức tiết, giống âm Hẹ [tziet], mang nghĩa ngày lễ hội, thí dụ tiết ngun đán. Theo
kiến thức thơng thường Tết và Tiết trong Tiết Nguyên Đán xem như tương đương và viết chung
một chữ Nôm (節) nhưng, theo giải thích ở đây, có thể mang ngữ nghĩa ngun thủy khác nhau.
Theo quyển tự vị của Lê Ngọc Trụ [8] bánh tét cịn có tên gọi là bánh tày, và tét có đồng nghĩa
hoặc âm gần là tết. Âm [tày] trong bánh tày tức bánh tét rất gần với [ti:] hay [đây] trong tiếng
Khmer, mang nghĩa đất. Âm [tày] cũng rất giống tiếng Hangzhou [tay] cho chữ Hán 地 [di], tức
địa (đất), phát âm [tuē] hay [tè] trong tiếng Phúc Kiến (Mân Việt). Âm tày trong Tiếng Mường
của Tết là Thết, thật ra gần với từ tiếng Thái [thaat] mang nghĩa đất, dùng trong thuyết Ngũ

Hành. Trong đa phần các ngôn ngữ dựa vào a-b-c âm [d] gọi là tắc âm tỏ (voiced stop) và [t], tắc
âm không tỏ (unvoiced stop). Nhưng trong nhiều tiếng khơng dựa vào kí âm theo kiểu Latin a-bc, như tiếng Thái và tiếng Trung, hai âm đầu [d] (tức đ tiếng Việt) và [t] ưa biến chuyển qua lại
với nhau. Chính Haudricourt cũng cho là gạch ngang trong chữ Đ quốc ngữ có lẻ dùng để nhắc
nhở là âm Đ rất giống âm chữ T. Lối viết chữ Đ tiếng Việt giống với chữ cái Đ (hay ð hoặc đ)
trong các tiếng như Iceland và Croatia, hay ð trong phiên âm quốc tế IPA, và nhất là đ trong
tiếng Croatia. Và đ trong tiếng Việt và tiếng Croatia giống d trong tiếng Anh, tiếng Pháp:
demand/demander: địi. Thí dụ: ca sỹ đoản mệnh Teresa Teng (tức 邓丽君 Đặng Lệ Quân) có
phát âm quan thoại là [Dèng Lìjūn] và âm Taiwan là [Teng Li-yun]; hoặc hướng Đông 東 [dong]
ngày xưa đọc theo phiên âm Wade Giles là [tung]. [Deng] và [Teng], [dong] hay [tung], có nghĩa


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

95

âm đầu [d] và [t] biến chuyển qua lại với nhau, trong ngôn ngữ không dựa vào a-b-c. Từ đó có
thể thấy khả năng, thời chưa có chữ viết, có thể kéo dài hằng nghìn hay hằng chục ngàn năm, chữ
tét trong bánh tét có thể phát âm như đét. Tức đét tương đương với đất. Chuyện này thật ra rất
khả thi khi nhớ tới Trời và Đất là hai thực thể linh thiêng nhất trong sinh tồn, xưa cũng như nay.
Và Trời-Đất có thể gọi bằng Chèng Đét theo tiếng Việt “cổ”: trời đất ơi tức là chèng đét ơi (hay
mèn(g) đét ơi) suy đoán theo kiểu ăn khớp.
Đét là tét (tết), là đất, nhưng móc nối giữa chèng với trời thì ra sao? Chèng cho ấn tượng là một
thứ từ bản địa nhưng có thể có liên kết với các ngơn ngữ chung quanh bời nhân loại đều có
chung một bầu trời và một Ơng Trời. Theo kiểu chồng=trượng (phu), chèng có thể mang âm gần
với [zhong][chong] (trùng/trọng) 重 trong cửu trùng (九重 – chin tầng mây), hay [tian] (thiên)
天 trong cửu thiên (九天 – trên trời cao), hoặc mang nghĩa trực tiếp với Trời qua 天上 [tian
shang], bao gồm các ngữ nghĩa: bầu trời, thượng đế, ông trời, trời. Cả hai âm pinyin quan thoại
[tian shang] 天上, chuyển qua phương ngữ có thể đọc gần như chèng, như [tiêng ziên] tiếng Tiều

hay [zhan] 上 (giống chèng) trong tiếng Wuxi (無錫) ở tỉnh Giang Tô (xem Wikipedia).
Thường thấy trong các từ liên quan đến tư tưởng hay tâm linh, một hay hai ngữ từ có thể liên kết
đến cả chùm ngữ nghĩa, như kiểu ngũ hành (thí dụ: hành Mộc chỉ hướng Đơng, màu xanh, gỗ và
cây cối, mùa xuân, v.v.), hoặc những từ như dukkha, dharma, v.v.. Ở khía cạnh này, Chèng đét có
thể là âm quốc ngữ “dính líu” tới tiếng Thái [chaawng khlaawt] (tức chèng hay yoni), và
[gra daaw] (tức đét hay linga) (xem [10]), nằm trong văn hóa phồn thực. Chèng đét do đó đồng
nghĩa với nõn nường hay nõ nường (nường=chèng; nõn=đét), trong lễ hội nõ nường. (Để ý lễ hội
nõn nường của văn hóa phồn thực có liên hệ ít nhiều đến tín ngưỡng cộng đồng, vào thời đại
chưa có sự cạnh tranh của Khổng giáo.) Trong ngữ bản thời phồn thực, đét tức đất có thể tiêu
biểu bằng nõn hay nõ (linga (bộ phận sinh dục nam)) và do đó mang hình dáng giống hình trụ,
giống như bánh tét, giống cái nêm có hình lăng trụ, và đất do đó mang giống đực (dương).
Tương tự, chèng (yoni) mang giống cái (âm), chỉ mặt trời, hình trịn, nang, mo nang, tương
đương với nường (yoni). Thứ tự hai từ chèng đét (trời đất) khác với tương đương nõn nường (đất
trời) có lẽ liên hệ đến vai trị quan trọng của dương khí hay âm khí tùy với cộng đồng và/hay thời
đại. Nếu mặt trời là biểu tượng âm khí thì thần mặt trời phải là nữ phái, như Amaterasu tức Thái
Dương thần nữ (Ōhirume-no-muchi-no-kami (⼤⽇孁貴神)), hay Thiên Mẫu. Tại rất nhiều cộng
đồng trên thế giới, đấng linh thiêng biểu tượng bằng mặt trời từ lâu vẫn được xem là phái nam,
như Ông Trời, Thượng Đế hay Trời Cao (Le Ciel). Nhưng cũng có nơi, từ chỉ mặt trời thuộc
giống cái, như [ka bneng] (ka= giống cái) tiếng Khasi [11], hoặc Die Sonne tiếng Đức, nghĩa mặt
trời, cũng giống cái.
Kiểm chứng bằng lối thay chữ hay ăn khớp sẽ thấy mèn(g) tương đương với chèng, bởi mèng đét
ơi có thể thay cho chèng đét ơi. Và mèn(g) mang nghĩa trời có thể móc nối với một từ hơi xưa là
旻 [mín], mang nghĩa trời, bầu trời, và hiện thường dùng chỉ mùa thu, trời mùa thu. Trong tiếng
Cua (Mon-Khmer) có từ kí âm là [mɨŋ] (phát âm gần với [miiuung]) mang nghĩa vươn lên trời.
Con dế mèn theo sinh vật học cùng giống với châu chấu, cũng gọi là ngựa trời. Dế mèn tức dế
nhũi (mole cricket) có thể gọi theo tiếng Hoa là 天 蝼 [tianlóu], với [tian] (thiên) mang nghĩa
Trời. Do đó mèn(g) hay chèng là những âm “xưa” có thể thay nhau với Trời, và Trời đất ơi
tương đương với Mèn(g) đét ơi hay Chèng đét ơi.



Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

96

Có thể bánh chưng khơng liên hệ đến văn hóa phồn thực như bánh tét, tức được phát minh không
cùng thời hay cùng chỗ với bánh tét, nhưng bánh chưng vẫn có thể mang biểu tượng của đất, mặt
đất, bằng dáng hình vng. Âm [chưng] gần với âm [zhĕn] ( 轸 ), mang nghĩa vuông, và với
[chén] 尘, mang nghĩa đất. Nghĩa nôm của bánh chưng dính đến cách nấu (hoặc hấp) trong nước
sơi trong một thời gian thật dài, chưng, tương đương với Hán tự 蒸 [zhēnɡ], mang nhiều phát âm
giống như [chưng] trong các phương ngữ tiếng Trung. Bánh Zongzi ( 粽 子 ) ở Trung Quốc và
bánh Bah-Chang (肉粽 ) ở Mã-Lai và In-đơ-nê-xia đều làm bằng bột nếp và có âm giống như
[chưng] trong bánh chưng. Chữ [bah] trong Bah-chang (肉粽) là âm Phúc Kiến ở Mãlai và Inđô
cho chữ 肉 [rou] tức nhục [nyục] hay dục [yục], theo các âm Việt, Hakka và Quảng Đơng, mang
nghĩa thịt, và bah-chang có nghĩa bánh nếp nhưn thịt, tức bánh chưng (mặn). Món ăn nổi tiếng
Mã-Lai Bah-kut-teh (肉骨茶) có chữ [kut] mang nghĩa xương (cốt), và [teh] mang âm giống thé
tiếng Pháp có nghĩa trà.
Có thể thấy, bằng lối nhìn tổng thể văn hóa phồn thực khơng chỉ đơn thuần chung quanh yoni và
linga, tức bộ phận sinh dục của nữ và nam, mà mang ý nghĩa yoni / linga biểu tượng cho hai
đấng thiêng liêng và tối cao định đoạt được sinh tồn và hạnh phúc cho loài người và thế gian. Hai
đấng tối cao này lại có hình thể mà cộng đồng thời tiến sử có thể thấy và cảm nhận được là Trời
và Đất. Và chuyện khá rõ là văn hóa phồn thực thịnh hành trong nhiều cộng đồng vào thời ngơn
ngữ hãy cịn trong trạng thái phơi thai, chưa dính liền với phát triển văn minh, có hay khơng có
chữ viết. Do đó ý nghĩa của gạch nối giữa yoni/linga với trời/đất dễ đánh mất. Cái còn lại cho
đến ngày nay là lễ phồn thực là một lễ hội lớn của cộng đồng vui tưởng đến ý nghĩa về giao hợp
giữa yoni và linga để nhân gian mãi mãi tồn tại trên thế gian.
Truy tầm từ nguyên của tét trong bánh tét cũng cho thấy chuyện một ngữ từ tương ứng với cả
chùm ngữ nghĩa, đa phần trong ngôn ngữ bất cần chữ viết hoặc không cần phải dựa vào chữ viết
hay văn tự, là một chuyện đáng quan tâm trong các nghiên cứu về ngôn ngữ nhất là về tiếng Việt.

Chùm ngữ nghĩa này gợi lên một cấu trúc mà trong đó các thành tố ln liên hệ chặt chẽ khăng
khít với nhau. Thêm một vài ví dụ về thành tố và cấu trúc trong ngôn ngữ, và bí quyết người xưa
khơng cần chữ viết mà có thể nhớ hay thiết lập thêm từ vựng mới. Chữ và (and) trong tiếng Việt
trước thời internet có thể xem như một từ thuần Nơm. Ngày nay có thể kiểm chứng nó y hệt như
chữ có âm [va] trong tiếng Ba Tư (Persia), tức Iran, mang cùng nghĩa là and tiếng Anh. Theo cấu
trúc của chùm ngữ nghĩa, chữ và có thể cùng gốc với [dva] tiếng Nga mang nghĩa số 2, và [dva]
(2) có thể cùng gốc với deva, gốc Ấn Độ (cổ), dịch nôm na là ông Trời. Trong tiếng Việt, số chin
(9) gọi là cửu, với âm cửu nằm giữa [kẩu] và [kỉu] (định lí [au]-[iu]), tương đương với 九 [jiu],
tiếng Quảng đọc [gau] và Hẹ, [giu]. Thật ra số 9 là số 4 đếm theo bàn tay thứ hai, bởi bàn tay kia
đã là số 5 rồi. Bởi số 9 có thể xem như số 4 (của bàn tay thứ 2), số 9 có thể làm “đại biểu” cho số
4, hay 4 chân hoặc con chó có 4 chân. Từ chỗ này có thể thấy âm chỉ con chó 狗 [ɡǒu] trong
tiếng Việt cẩu rất giống cửu (9), và y như tiếng Quảng và Hẹ [gau] và [giu] (cho cả hai từ 狗
(cẩu, chó) và 九 (cửu, chín)). Cấu trúc như vậy chưa thật vững nếu khơng chú ý đến một thứ âm
lịch ngày xưa đưa tháng Dần thành tháng Một, tức tháng Giêng. Tháng Dần (tháng thứ 3 đếm từ
Tí), là tháng bắt đầu năm âm lịch tính theo lịch nhà Hạ, khoảng 2070-1600 TCN, và được hiệu
đính khoảng năm 104 TCN thời nhà Tây Hán (206 TCN-9 SCN). Dần (寅) tương ứng với [yan]
tiếng Quảng và [yin] hay [zin] tiếng Hẹ, rất gần [giêng] trong tháng Giêng, tức Khảng Chiêng,
tiếng Mường. Chiêng tiếng Mường tương ứng với Chính tiếng Việt, và tiếng Hán có thể gọi


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

97

tháng Giêng là tháng Chính (Chánh) tức tháng đầu tiên, chính nguyệt 正月 [zheng yue]. Người
Hoa không gọi tháng Giêng là tháng Một, mà gọi tháng Dần hay tháng Chính. Tháng Tí (chuột)
mới là tháng Một theo một thứ lịch khác (lịch nhà Châu 1045-256 TCN), nhằm vào tháng 11, và
bời vậy cách đây trên nửa thế kỉ nhiều nơi ở Việt Nam hãy còn gọi tháng 11 là tháng 1. Nhiều

cộng đồng người Hmong hiện vẫn theo kiểu lịch nhà Châu, tính tháng đầu năm là tháng Tý,
nhằm vào tháng 11 âm lịch hiện nay. Nếu tháng Dần là tháng chính của lịch nhà Tây Hán, đếm là
số 1, như kiểu âm lịch thông dụng hiện nay thì tháng Tuất (con chó) sẽ chiếm vị trí số 9. Cửu (9)
gắn liền với cẩu (chó) qua số 4, 4 chân, và qua số 9, qua tháng Tuất (戌) tức tháng thứ 9 nếu tính
tháng Dần/Giêng là tháng đầu tiên. Cũng để ý Tuất tiếng Việt có âm gần với [tchuat] tiếng
Hmong mang nghĩa số 9.
Cấu trúc số 9 dính với con chó nằm trong một cấu trúc lớn thuộc loại chùm ngữ nghĩa của 12 con
giáp. Tức trong dạng nguyên thủy tên 12 con thú ứng với 12 con giáp rất có khả năng đồng nghĩa
với số đếm hay số thứ tự của chu kì 12 tháng trong âm lịch. Số đếm với chu kì 12 này không
phải là số đếm theo cơ 12 trong tốn học, và cũng có thể khơng phải do 12 con giáp tính theo
năm suy diễn xuống thành 12 tháng, mà ngược lại, từ 12 tháng âm lịch thành 12 con giáp trong
chu kì 12 địa chi ứng với 12 năm. Thử xem lại chùm ngữ nghĩa ứng với tháng Mùi ( 未 ), tức
tháng thứ 8 tính từ tháng Tí là tháng 1 (tức 11 âm lịch hiện nay), hay tháng thứ 6 tính từ tháng
Dần hay Giêng. Tháng thứ 6 tính từ tháng Giêng, là tháng 5+1 hay tháng 1 đếm theo bàn tay thứ
hai, bởi bàn tay thứ nhất đã là 5 rồi. Tháng Mùi (6 hay 1) phát âm tiếng Hải Nam là [muat] và
tiếng P’u Noi, [một] rất gần với số 1 (một) trong tiếng Việt. (Để ý một tiếng của dân bản địa
Aboriginal ở Úc có âm [mot] giống y như tiếng Việt, dùng chỉ số 1.) Trong tiếng Khmer số 1 gọi
là [mui] có âm rất gần với [mùi] trong tháng Mùi. Bởi mang nghĩa số 1, từ 未 [mei/wei – mùi/vị]
cũng có thể dùng cho thể phủ định (vị) giống y như bất: vị tiện (未便) giống như bất tiện (未不).
(Chi tiết về thể phủ định liên hệ đến số 1 không có trình bày ở đây.)
Có thể nhớ, trong nhiều thập niên ở thế kỉ trước, trường đại học Đông Dương, thành lập năm
1906, đào tạo hai giới chuyên viên về y khoa. Ngoài chuyện đào tạo bác sỹ y khoa, trường cịn
có chương trình Y sĩ Đơng Dương với năm học ít hơn và ngạch trật thấp hơn bác sĩ y khoa. Thật
ra khóa đào tạo Y Sĩ Đơng Dương có trước chương trình học ra Bác Sĩ Y Khoa đến khoảng 30
năm. Tiếng Hoa gọi Y Sĩ là Yi sheng (医生) dịch thẳng kiểu Hán Việt (quốc ngữ) là Y-Sinh, chứ
không phải Y Sĩ. Xem Hán Việt từ điển trên mạng (vietnamtudien.org), sẽ thấy ngữ nghĩa của
Sinh (生 [sheng]) thường khác với Sĩ (士 [shì]), và cũng khác với Sư (师 [shī]), và Sư mang
nghĩa chính là Thầy: Thầy Thuốc tức Y Sư (医师). Chữ Y Sư hay Y Sinh tiếng Việt đều gọi là Y
Sĩ. Kiểm chứng chuyện chuyển ngữ có vẻ sai trật này vào thời đại internet, sẽ thấy cả 3 từ 生
(Sinh), 士 (Sĩ) và 师 (Sư) đều có thể mang cùng một âm [si] tức Sĩ (hay Sỹ) xuyên qua các

phương ngữ khác nhau trong tiếng Trung. (Âm [s] tiếng Việt (sinh/sĩ/sư) gần với [sh] trong phát
âm quan thoại (sheng/shì/shī.), chứ khơng giống âm [s] của nhiều phương ngữ khác ở phía Nam.)
Thí dụ tiếng Phúc Kiến (Mân Việt) có âm [si] hay [ci], tức [sĩ], tương ứng với [sinh] hay [sanh]
(生), trong khi tiếng Quảng và tiếng Hẹ (Hạc Việt) đều có âm [si], tức [sĩ], tương đương với âm
[sĩ], viết 士, hay [sư], viết 师. Tức âm [sĩ] tiếng Việt có thể là âm tương đương với [sinh] hay
[sư] trong những phương ngữ khác, mặc dù có thể viết bằng những từ khác nhau theo tiếng Hán.
Chữ sinh hay sanh, với biến chuyển sinh/sanh không phải là biến chuyển phương ngữ tại Việt
Nam, mà là biến chuyển tự ở phía Bắc, mang rất nhiều nghĩa và khi đi với Y trong Y Sinh, mang


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

98

nghĩa chính là học vấn, học giả: Nho Sinh, môn sanh, học sanh, học sinh, sinh viên. Chữ Sĩ khi là
Y Sĩ cũng mang ngữ nghĩa liên quan đến học vấn, hay chuyên nghiệp: hộ sĩ, binh sĩ, thạc sĩ, nha
sĩ, bác sỹ, dược sĩ, dũng sĩ, và là bậc thấp nhất trong giới có chức hay phẩm hàm: thiên tử, chư
hầu, đại phu, sĩ và thứ nhân. Trên Sĩ một bậc là đại phu và ở nhiều nơi bên nước Trung, người ta
vẫn gọi Bác Sĩ là Đại Phu (大夫 [dai fu]). Nhưng phải nhớ người Hoa không gọi bác sĩ y khoa là
Bác Sĩ (博士 [bo shi]), mà dành từ này cho học vị tiếng Việt gọi là Tiến Sĩ (进士), tức PhD hay
Doctorat trong tiếng Pháp. Chữ Bác (博) trong bác sĩ mang nghĩa chính là kiến thức sâu rộng hay
uyên bác, chứ khơng dính dáng trực tiếp đến y khoa, ngồi danh hiệu của học vị (Tiến sĩ quốc
gia) ngày xưa theo kiểu Pháp.
Chữ cầu (bridge) thường cho là từ Nôm tương đương với Hán Việt kiều hay kiêu (喬), tức tuân
theo luật biến chuyển [au]-[iu]. Sự thật âm Hán Việt kiêu rất giống âm Quảng Đông [kiu] hay âm
Hakka (Hẹ) [kieu] và [kiau], và [kiau] ( 桥 ) tiếng Hẹ lại gần với từ Nôm cầu. Như đã đề cập,
đồng âm dị nghĩa trong tiếng Việt rất khó nhận diện bởi tính độc thể của kí âm theo tiếng La Mã
a-b-c. Thí dụ, chữ canh có thể mang nghĩa canh, món nước ăn với cơm, canh trong bánh canh,

canh trong canh một, canh hai, canh ba, canh trong 10 Thiên Can (Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ
Canh Tân Nhâm Quí), v.v.. So với chữ Hán, canh (súp) có thể đọc là [gang] (羹) tiếng Hẹ, rất
giống từ 梗, cũng phát âm [gang], mà ở đây xem như tương đương với phát âm quốc ngữ canh,
mang lí giải ở đây là canh trong bánh canh. Cả hai từ 羹 và 梗 mang phát âm [geng] và [ɡěnɡ],
theo thứ tự, trong tiếng phổ thông, nhưng cùng một âm [kan] trong tiếng Thượng Hải. Bánh canh
dễ có giải thích là bánh làm bằng bột gạo ăn với nước canh. Kiểu giải thích nầy đưa từ canh
(súp) thành từ chính yếu trong bánh canh, bánh với canh ( 羹 ), bánh với nước súp trong. Chữ
canh nếu xem như viết bằng từ 梗 [ɡěnɡ], sẽ mang nghĩa cọng, hay sợi to, rất giống như sợi mỳ
(hay bún) udon (Nhật). (Âm [don] trong udon chính là đồn 饨 trong hồn đồn (wonton, hoành
thánh.) Phát âm Hán Việt của canh trong bánh canh là ngạnh khá tối nghĩa, và xa lìa với âm bình
dân canh trong bánh canh, tức bánh gạo sợi to, bánh cọng gạo, bánh cọng, …bánh canh. Âm
tiếng Thái mang nghĩa cọng/que là [gaan] rất gần với âm [canh] trong bánh canh. Nếu xem âm
của từ canh và cành, khác nhau bằng thinh (tone), thinh ngang và thinh huyền, có thể thấy kích
cỡ bình quân của cành cây hay nhánh cây và cọng bánh canh gần bằng với nhau. Canh trong
bánh canh mang nghĩa gốc rất gần với cành hay cọng. Và bánh canh mang nghĩa là bánh cọng
gạo, bánh cọng hay bánh canh.
Chuyện hai từ mang nghĩa gần nhau nhưng mang ngữ âm khác nhau bằng thinh có thể được dẫn
giải bằng hai từ mua và bán. Mua/Bán ứng với tiếng Hán Việt là Mãi/Mại ( 買 賣 hay 买 卖
[măi/mài]). Mãi/Mại có phát âm giống tiếng Quảng Đơng nhất [maai]5/[maai]6). Trong tiếng
Hmong theo kí âm a-b-c, hai từ 买 [măi] (mua) và 卖 [mài] (bán) có âm [muas] và [muag], theo
thứ tự. Chữ [s] và [g] theo sau [mua], [muas] và [muag], trong tiếng Hmong chính là dấu hiệu
cho thinh có chức năng giống như các dấu như sắc hỏi ngã nặng huyền trong tiếng Việt. Âm
[mua] ngoài việc cùng gốc với tiếng Hmong còn cùng gốc với tiếng Mân Nam tức Phúc Kiến, và
trong tiếng Mân, Mua/Bán tương ứng với âm [muế] (买) và [muê] (卖). Bằng cách thế chỗ, tức
ăn khớp, có thể thấy ngay bn trong bn/bán mang cùng nghĩa với mua/bán, tức buôn đồng
nghĩa với mua. Nhưng bn trong đi bn có thể bao gồm mua và bán. Trong hai chữ buôn và
bán âm đầu môi-môi [b] đã thế chỗ với âm môi-môi [m], như trong mãi/mại (mua/bán). Theo
kiểu dáng hay mơ thức, bn/bán có thể tương đương với [buan]/[buán], hoàn toàn cùng âm



Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

99

nhưng khác thinh. Trong tương đương buôn/bán và mãi/mại (mua/bán), âm đầu môi-môi [b] thay
thế cho [m], đều thể hiện rõ trong tiếng Triều Châu, Phúc Kiến và Taiwan: [bué] và [buē], tương
đương với 买 [măi] và 卖 [mài], tức [buôn] và [bán] hay mua/bán. Từ bán trong mua/bán có thể
cùng gốc với [buē] (卖) hay [buán] trong vài phương ngữ miến biển ở phía Bắc. Buôn bán ưa đi
đôi nhau trong tiếng Việt, thường dùng để chỉ việc mua đi bán lại trong ngành thương mại, hay
trên chốn thương trường. Trong tiếng Ta’Oi tập trung tại Lào và một hai khu vực gần Huế, buôn
bán tương đương với [buan bʌaːn] của phương ngữ Kriang (Ngeq), theo tài liệu về tiếng MonKhmer của Chương trình SEAlang [3]. Theo từ nguyên tiếng Hán, từ 買 (mãi/mua) có thể phân
tích thành, phần dưới là từ 貝 [bei] (âm đầu [b]) mang nghĩa vỏ sò hay tiền tệ ở cổ thời, và phần
trên, từ 罒 hay 网 [wang] mang nghĩa cái lưới, cái giỏ, tức mua là đem tiền mua đồ vật để trong
giỏ bằng lưới. Phát âm kiểu ON trong tiếng Nhật viết theo Katakana là バイ [bai] giống y như
tiếng Anh to buy. Chữ bán tức [mại] 賣, phổ thông đọc [mài], cũng viết y như chữ [mãi](mua) 買
nhưng có chữ [sĩ] 士 nằm ở trên (賣). Sĩ ở đây không phải mang nghĩa như sĩ trong học sĩ, tiến
sĩ, thạc sĩ, mà mang nghĩa một nghề chun biệt, một chức năng, một cá tính gì hơi chuyên biệt:
lực sĩ, nữ sĩ, võ sĩ, ẩn sĩ, văn sĩ, thi sĩ, v.v. Ngữ nghĩa của 買 [măi] và 賣 [mài] phiên dịch từ Hán
tự, do đó có thể hiểu là, mua thì ai mua cũng được nhưng muốn bán, vào thời xa xưa, không phải
ai muốn bán cũng được. Trong tiếng Việt, một động từ mang nghĩa giống như mua là tậu, và
chữ tậu này cò vẻ cùng gốc với tạu trong tiếng Tày-Nùng, gần với [seuu] tiếng Thái. Tậu cũng
có thể cùng gốc với 打 [to] theo phát âm Wuxi (Ngô Việt) [1], mang một nghĩa là mua. Thế cịn
mua sắm thì sao? Nhìn chung, có thể thấy trong tiếng Anh buy hơi khác với purchase ở chỗ mua
(buy) thì đồ vật có vẻ ít tiền (mua đường cát trắng) và không cần sự lựa chọn giữa các món hàng,
như kiểu mua (purchase) căn nhà, căn hộ, hay mua ô-tô. Dùng ăn khớp sẽ thấy sắm trong mua
sắm có thể tương đương với sự lựa chọn rồi mới mua như trong 选 购 [xuan gou] (select and
purchase – chọn mua), trong đó 选 [xuan] tức là tuyển (chọn) trong tiếng Việt, có âm nam Quảng
Đơng [süng], gần với sắm, nhưng không gần bằng [sɑmraŋ] trong tiếng Mon có nghĩa tuyển

chọn (sắm).
Truy tầm từ nguyên ở đây dùng lối nhìn tổng thể, và kiểm chứng theo kiểu ăn khớp chứ khơng
phải theo thống kê hay luận lí. Thật ra, ăn khớp rất khó xếp vào phân loại lơ-gích hay thống kê
tức thực nghiệm trong các phương pháp khoa học. Có thể hiểu nơm na, ăn khớp giống như trị
chơi ghép hình tức bính đồ hay jigsaw puzzle hoặc điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa. Trên cơ
bản, ăn khớp có vẻ như độc lập với hiểu biết và giáo dục, tức mang tính bẩm sinh (innate). Thí
dụ về bẩm sinh và ăn khớp: Để trước mặt con chó một cái chuồng nhỏ hơn kích cỡ của chó
nhưng lại hợp với con mèo, thì con chó sẽ khơng thử chui mình vơ đó. Trên thực tế ứng dụng của
ăn khớp lại thường dựa vào hiểu biết về những chiều hướng khác nhau và luôn cả tổng thể về sự
vật. Lấy thí dụ về truy tầm tương đương giữa bánh tráng và bánh đa, xuyên qua các phương
ngữ. Tráng trong Bánh tráng là từ biến đổi bằng thinh từ chữ trang (张 [zhang]) như trong trang
giấy. Tráng có thể là động từ: tráng một lớp mỏng, và bánh tráng mang nghĩa bánh làm bằng bột
gạo trải ra (spread, 张 [zhang], trang) một lớp mỏng. (Từ trang có dạng cận vị là trang trải, như
trang trải nợ nần.) Có một từ nữa rất ít dùng một mình để chỉ lớp mỏng hay trang (sheet), nhưng
có thể dùng nhiều hơn trong các phương ngữ, mang nghĩa chính là đơn độc và nghĩa phụ là trang
(sheet) nhất là khi dùng trong từ kép: 单张 [dan zhang] (tờ bướm), 床单 [chuáng dan] (tấm ga
(drap), bed sheet. (Để ý âm đầu [r], trong drap tiếng Tây, có biến chuyển qua lại với âm [g],
[drap] thành ra [ga]). Từ 单 [dan] khi đứng chung với tử (cái hay con), 单子 [danzi] sẽ mang


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

100

nghĩa là sheet (trang hay tấm), tức một từ dùng để đếm: một trang giấy, hai trang giấy. Trong
tiếng Triều Châu từ 单 [dan] mang phát âm là [dua] có thể tương đương với đa trong tiếng Việt
quốc ngữ, và bánh đa sẽ là bánh đan/đơn hay bánh tráng. Đa hay tráng đều mang nghĩa tiếng
Anh là sheet, và bánh đa mang nghĩa tượng hình y chang như bánh tráng.

Nếu tìm từ nguyên chữ Bắc, hay hướng Bắc theo kiểu xưa, người ta sẽ có khuynh hướng quy nó
vào chữ 北 [běi] hay [bèi] phát âm [bak] trong tiếng Phúc Kiến hay tiếng Quảng Đông rất gần
với Bắc. Theo tiền đề định để của ngôn ngữ, như thế là xong. Nhưng nếu theo kiểu ăn khớp nới
rộng ra nhiều chiều hướng khác nhau, chuyện đầu tiên là nhận xét là người xưa có vài phương
pháp “vừa chơi vừa học” để định hướng Đông Tây Nam Bắc. Người nói tiếng Bengali định
hướng Đơng bằng cách nhìn vào nơi mặt trời mọc và gọi đó là hướng Đơng. Từ đó, hướng Bắc
tương ứng với cánh tay trái và hướng Nam là cánh tay phải. Từ mang nghĩa Bắc trong tiếng
Bengali giống như từ mang nghĩa bên Trái: uttar, và từ này có cùng gốc với tiếng Sanskrit. Uttar
trong tiếng Bengali cũng có nghĩa là phía trên, ăn khớp với khí hậu lạnh hơn khi lên trên núi
hoặc lên miền Bắc. Đối với người Hoa, bởi mặt trời di chuyển ở phía Nam của đất nước Trung,
nên phía Nam được biểu tượng bằng mặt trời, tức mạng Hỏa, màu đỏ, trong Ngũ Hành. Nhìn về
phía Nam sẽ cho cánh tay trái làm đại diện cho hướng Đông, tay mặt, hướng Tây. Và hướng Bắc
chính là cái lưng. Lưng tiếng Anh là back mang âm giống y như Bắc hay [bak] của một số
phương ngữ tiếng Trung. Để kiểm chứng, xem từ 背 [bèi/ bēi] (Việt: bối/bội), mang nghĩa cái
lưng, có dính dáng đến hướng Bắc hay khơng, hãy phân tích ê-ty hay từ nguyên của chữ 背
[bối/bội], thành ra hai thành phần. Thứ nhất, ngữ căn 月 [rou] thường dùng kèm theo từ khác để
chỉ bộ phận cơ thể, và thứ hai, từ chính yếu 北 [bei] cho âm và nghĩa, hướng Bắc, tượng hình
bằng hai người ngồi đâu lưng với nhau, tức hường vị trí của Lưng của một người nhìn về phía
Nam. Âm [bei] chỉ hướng Bắc và cái lưng cũng cho ra từ 揹 [bei] tức bội, rất giống [boi] tiếng
Hẹ, mang nghĩa vác trên lưng.
Trường hợp hướng Bắc tương ứng với lưng (back) cho thấy cả một cấu trúc và chùm ngữ nghĩa
dính liền với một âm chính, gần như có trước, hay có thể độc lập với, chữ viết. Nhân tiện thử
quan sát cụm từ chung lưng đấu cật để có thể tìm hiểu thêm vấn đề đồng âm khác nghĩa trong
tiếng Việt. Trước hết, chung lưng có nghĩa nối liền lưng với nhau, hợp sức với nhau. Chung có
thể là từ cùng gốc với 从 hay 從 [cong] mang phát âm rất gần [chung] trong tiếng Hakka (Hẹ),
có rất nhiều nghĩa trong đó có nối liền. Cũng rất gần âm tiếng Thái [cheuuam] mang nghĩa nối
liền, kết nối. Lưng trong chung lưng có lẻ là từ Nơm tương đương với 背 [bội] hay [bối], tiếng
Hán Việt, có từ cùng gốc là [lăng] tiếng Thai hoặc [lâng] tiếng Mường. Nhưng có vẻ khó có
chuyện cật trong đấu cật mang nghĩa là thận (kidney) bởi đấu thận hay đấu cật rất khó mang
nghĩa gần giống với chung lưng trong cụm từ bộ tứ chung lưng đấu cật. Đấu, viết theo tiếng Hán

là 鬥 [dou], trong đấu cật ngồi nghĩa chính là đánh nhau, tương tranh, còn mang một nghĩa
tương phản là gom lại, chắp nối với nhau, rất giống kiểu tương phản trong chữ against tiếng
Anh, hay chống đỡ với chống trả. (Để ý chữ chống mang tương đương tiếng Hán Việt (quốc
ngữ) là xung 衝 (hay 冲) mang phát âm [chòng] (giống chống) tiếng phổ thông, và [cung] (giống
xung) tiếng Quảng và Ngô Việt (Chiết Giang)). Đấu cũng có thể cùng gốc với hai từ 糾 và 都
phát âm [dau] và [dou] theo tiếng Quảng Đông, cũng mang nghĩa tụ tập, họp lại, tất cả. Chữ cật
trong nghĩa thuần Nơm chính là thận, quả cật, nhưng rất gần với [kaq] theo âm Ngô Việt
(Thượng Hải), và [kaq] tương đương với âm phổ thông [jia] cho từ 胛 (giáp – HV) mang nghĩa


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

101

vai (shoulder). Trọn cụm từ chung lưng đấu cật do đó có thể phiên dịch thành chung lưng kề vai
hay chung lưng sát vai. Một số ngơn ngữ, trong đó có tiếng Pháp (rein/reins), cho thấy mối liên
hệ giữa thận và lưng hay đau lưng, thí dụ, trong tiếng Nyaheun (Mon-Khmer) ở Lào, có từ [kuh
suaj] dùng để chỉ cả thận và lưng (xem [3]). Như vậy, cật trong chung lưng đấu cật vẫn có nghĩa
là lưng, và cụm từ 4 chữ này mang tính lặp lại, đơi với đơi. Truy tìm từ ngun một từ thuần
Nôm như cật bắt buộc phải xử dụng đến cận vị, tức phải xem qua hai chữ quả cật hay trái cật.
Trái cật có hình giống bầu dục (oblong), tức khơng trịn như hình cầu và có kích thước trên dưới
10cm. Hình dáng giống bầu dục của quả cật chỉ được nhại dáng sau khi quả cật được hiểu biết
rõ, như chữ kidney beans (đậu quả cật), chứ tên quả cật hay hình dáng khá độc thể của quả cật,
trong rất nhiều ngôn ngữ, không thể nhại vào một sự vật nào khác, vào thời ngôn ngữ đang hoặc
mới vừa phát triển. Đặc biệt trong tiếng Việt cật trong quả cật có thể dựa vào một thứ trái cùng
kích cỡ (khoảng 10cm), cùng dáng dấp giống bầu dục, và cùng một thứ âm, nhất là vào thời chưa
có quốc ngữ. Đó là quả gấc thường dùng trong xơi gấc. Gấc đã được Anh ngữ hóa là gac với tên
khoa học là Momordica cochinchinensis (xem Wikipedia). Trái cật rất có khả năng mang nghĩa

nguyên thủy là trái giống quả gấc.
Cật giống với gấc có lẻ sẽ dừng ở đó theo như nguyên tắc định để, nhưng nếu không, lại phải
dựa vào một hai ngun lí khác nữa trong khung hình của cấu trúc, của tính hữu cơ, của chuyện
nới rộng ngữ từ và ngữ nghĩa tạo nên từng chùm ngữ nghĩa. Trước hết, có một biến chuyển giữa
âm đầu [k] và [g] (cật và gấc) xuyên qua các thứ tiếng láng giềng khác nhau, như kiểu Toyota
biến chuyển qua lại với Tozota. Đó là kiểu kẻ qua lại với gã (tiếng Quảng [keoi], tiếng Hẹ [gi] 佢:
nó, hắn, cơ ấy), cao qua lại với [gao] ⾼, cảo tiếng Mường tương đương với gạo (rice) tiếng
Việt. (Để ý ăn khớp rất khó đi đơi với thống-kê, và thống-kê rất khó xun qua dữ liệu các thứ
tiếng hay phương ngữ khác nhau.) Cật giống gấc ở kích cỡ và hình dáng, nhưng khơng giống về
màu sắc. Quả gấc mang mầu sắc có thể giống qt tangerine, tiếng Quảng Đơng gọi là [gat] 桔.
Để ý tiếng Việt gọi quả cam từ chữ 柑 [gam] (Quảng) mà nhiều từ điển ghi là quít, liên hệ đến
cam (甘) mang nghĩa ngọt. Qt lại có phát âm giống trái cẩm quất (kumquat 金橘). Và quất
trong cẩm quất cũng có phát âm [gwat] hay [gat] tiếng Quảng, với [gat] gần giống [gấc]. Từ chữ
gấc có thể thấy trạng từ gấc như trong đỏ gấc, và những từ nhại ý dáng thường xảy ra giữa màu
sắc và sự vật. Thí dụ, trắng như gạo đưa ra từ [khaaoR] chỉ màu trắng, và [khaaoF] chỉ gạo, trong
tiếng Thái. Tương đương với tiếng Việt, màu trắng là mầu của trăng (giống tiếng Mường
tlắng/tlăng); tiếng Mã Lai [bulan] chỉ mặt trăng, giống blanc tiếng Tây, màu trắng; tiếng Khmer
và tiếng Hoa [bai] 稗 chỉ gạo màu trắng với [bai] ⽩ tiếng Phổ thông mang nghĩa màu trắng. Quả
cam người Hoa cũng gọi là 橙 [chéng][chén][dèng], chuyển qua quốc ngữ là [tranh] hay [đắng],
tương đương với tiếng Thái [daeng] (cam) và [sĕe daeng] là sắc màu cam.
Trở lại chuyện từ Nôm lưng tương đương với từ Hán Việt quốc ngữ bối hay bội, hay phổ thông
[bèi]/[bei] ( 背 ), liên hệ đến back (lưng/phía sau) tiếng Anh, và Bắc (hướng Bắc) tiếng Việt.
Trong cận vị tiếng Việt cịn có chữ lưng chừng tức nửa vời, tương ứng với tiếng Mường lâng
chầng. Nếu nhìn vào một người từ phía sau, sẽ thấy rõ hơn vị trí của lưng là vị trí ở giữa, ở lưng
chừng. Chứ nhìn vào người từ phía trước sẽ nhận diện ra ngay người đó từ khn mặt và tay
chân. Vị trí của lưng rõ hơn khi nhìn người nào cũng như người nào, từ phía sau. Và lưng nằm ở
khoảng chính giữa thân thể con người, miêu tả từ phía sau. Theo con gà và quả trứng, rất khó
biết lưng hay lưng chừng thứ nào có trước, thứ nào có sau. Chỉ nhớ là lưng trong lưng chừng



Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

102

mang nghĩa ở giữa có tiếng Thai tương đương là [glaangM] (xem từ điển tiếng Thái: thailanguage.com hay thai2english.com trên mạng), trong khi lưng nghĩa phía sau, tiếng Thai là
[lăng] (Mường lâng). Cịn chừng trong lưng chừng, giống như chầng trong tiếng Mường lâng
chầng, thấy rõ mang tính biến âm theo với âm đầu lưng hay lâng. Hiểu như vậy sẽ thấy chừng và
chầng là biến âm và thinh của chung hay trung, tức 中 [zhong], hoặc [zung] đọc theo tiếng
Quảng, mang nghĩa giữa, chính giữa. Chừng trong lưng chừng cũng có thể cùng gốc với từ 正
[zheng] có âm gần với chầng hay chừng, mang nghĩa ở giữa. Còn chừng trong khoảng chừng,
ước chừng lại mang nghĩa là cận (gần) 近 giống tiếng Pháp à peu près, có âm trong tiếng
Thượng Hải [djin] rất gần với chừng. Chừng trong lưng chừng lại khác với chừng trong chừng
nào (khi nào). Tiếng Mường của chừng nào là chầng nò tương đương với tiếng Hán 何尝 [hé
cháng], với phát âm [ghou jan] trong tiếng Ngơ Việt có [jan] rất gần [chầng], và chầng/chừng
cũng có âm gần với [chəlɔˀ] tiếng Mon mang nghĩa chừng nào.
Có lẽ quyển sách giáo khoa phổ biến nhất cho những người học chữ Hán vào thời xưa là quyển
Tam Thiên Tự (Ba nghìn chữ) rất dễ nhớ với những câu chú giải như: Thiên là trời, Địa là đất.
Kiểu học “sinh ngữ” của Tam Thiên Tự vơ hình chung đã đưa Hán ngữ, tiếng Hán Việt, và tiếng
Việt nói chung vào một hình thái độc thể, nói theo kiểu văn hoa là “A là A”, và rất có khả năng
đó là lối học chữ Nho của các nhà Nho của nhiều thế hệ trước. Thử lấy thêm một thí dụ để có thể
suy nghiệm về hội chứng Tam Thiên Tự (3T). Theo kiến thức về tiếng Hán Việt, từ viễn (遠) có
tương đương trong tiếng Nơm là xa. Cịn viễn (遠 hay 远) có âm gần với kí âm jyutping (Việt
phiên) cho tiếng Quảng Đông là [jyun] (đọc như [yuiễn]), hay [yuan] tiếng phổ thơng. Như vậy,
một từ Hán Việt như viễn có kí âm dựa thẳng vào phát âm của tiếng Hoa qua các phương ngữ,
cộng với những hiệu đính về chữ quốc ngữ của các giáo sĩ Tây Phương, nhất là theo ấn bản của
Pigneau de Béhaine và Taberd (1838), đưa chữ cái V làm âm đầu cho viễn. Theo tiếng Tây Ban
Nha (Spanish) hai âm đầu [b] và [v] có thể biến chuyển qua lại với nhau. Và âm đầu [b] trong
tiếng Việt trước thế kỉ 19 có thể đi đôi với [yờ], như: [đi byào] viết là đi vào. Âm thường xem là

thuần Nôm như xa lại cũng gần giống với âm tiếng phổ thông [xia] (遐) cũng mang nghĩa là xa.
Hội chứng 3T cũng dễ che khuất một từ thơng dụng để chỉ xa, viễn, và đó là [dầu] tương ứng với
[yau] tiếng Hẹ và [yao] phổ thông, viết 遙. Chữ 遙 [dầu] có phiên âm theo quốc ngữ (Hán Việt)
là diêu hay dao. Diêu dựa vào âm tiếng Quảng [yiu], và dao dựa vào phổ thông hay Mân Việt
[yao]. Nếu thử xóa bỏ hội chứng 3T, địa danh Thủ Dầu Một ở gần Sài-gịn có Dầu mang nghĩa
xa, Thủ mang nghĩa nhất hay đứng đầu (thủ khoa, thủ lĩnh, thủ tướng, thủ trưởng), và Một, một
từ cùng gốc ở tiếng Khmer xưa ưa dùng để chỉ biên giới, hay làn ranh giữa nước và đất. Thủ Dầu
Một do đó mang nghĩa vùng biên giới xa nhất (thủ: nhất; dầu: xa; một: biên giới). Để ý đến chùm
ngữ nghĩa chung quanh ngữ từ một trong mọi thứ ngôn ngữ, rất khó trình bày trong khn khổ
chật hẹp của bài viết. Chỉ xin tóm tắt, một, un, uno, yách, ichi, one, ein, on, yak, i, ak, ek, wahid,
we, ib, neung, il, v.v., chuyển đạt rất nhiều ngữ nghĩa, nhất là trong thời tiền sử. Tóm tắt, khơng
có phân biệt giữa số đếm và sô thứ tự; số một biểu tượng cho mặt trời, cho cá thể, cho từng
người, cho sự thay đổi giữa khơng và có, 0 và 1, tức thấy số 1 thì sẽ thấy biến chuyển giữa trạng
thái A sang B. Thí dụ: một mang nghĩa làn ranh giới trong Thủ dầu Một. Trong tiếng Quảng
[một] chính là [mut] và [mut yau] 沒 有 mang nghĩa không có. Thí dụ khác, tiếng Anh
unbelievable (khơng tin được) có tiếp đầu ngữ [un], tiêu biểu cho thể phủ định, hay biến chuyển
từ tin đến không tin, và tiếp đầu ngữ [un] viết y như chữ un tiếng Pháp mang nghĩa số 1. Cũng
giống như incroyable (không tin được) tiếng Pháp, có chữ [in] mang nghĩa số 1 trong một số thổ


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

103

ngữ ở Pháp, viết khác chữ un nhưng lại đọc giống như un tiếng Pháp. Thấy số 1 thì nghĩ ngay
đến biến chuyển từ trắng sang đen, cũng giống như thấy mặt trời (số 1) mới mọc thì thấy ngay
đêm sẽ trở thành ngày. Số 1 là mặt trời mới mọc (rạng đơng) thì số 2 sẽ làm biểu tượng cho ban
ngày, cả ngày. Tiếng Anh day là ngày có phát âm và ráp vần y như [day] tiếng Khmer mang

nghĩa tay tức số 2 (người có 2 tay). Bởi số 1 cũng là biểu tượng của cá thể, nhiều số đếm có âm
giống như các đại danh từ, nhưng khổ nỗi là các từ này lại thường chạy từ ngôn ngữ này sang
ngôn ngữ kia, rất khó nhận diện và khơng thể xử lý bằng thống kê học. Thí dụ Ich trong tiếng
Đức mang nghĩa là tôi lại tương ứng với ichi tiếng Nhật mang nghĩa số 1. Chữ ai (who) tiếng
Việt có âm giống như I (tôi) tiếng Anh, và giống như số 1, ais hay eis, trong một số phương ngữ
ở Đức hay Âu Châu. Âm [il] chỉ số 1 tiếng Hàn giống như Il (Pháp) mang nghĩa đại danh từ ngôi
thứ 3 (ơng ấy, nó). Chữ i mang nghĩa số 1 trong một số ngôn ngữ, và nghĩa số 2 trong tiếng Hàn,
lại được dùng để chỉ đại danh từ ngôi 3 trong tiếng Việt (Y) hay tiếng Anh (He), (xem số đếm
của 5000 ngôn ngữ: zompist.com/numbersu.htm). Đây là một trong vài đóng góp chính của lí
thuyết dùng ở đây.
Khác biệt chính, giữa ăn khớp và thống kê là ăn khớp tuy khơng địi hỏi nhiều dữ liệu nhưng lại
cần đến cấu trúc mang nhiều chiều hướng hơn dữ liệu dùng trong thống kê. Thống kê, mặt khác,
thường bị hạn chế trong chỉ một thứ tiếng hay phương ngữ kể cả tiếng “chuẩn”, và một chiều
hướng duy nhất trong ngữ nghĩa. Thí dụ: liên hệ giữa chừ (bây giờ) với từ hay tư (兹), rất giống
với liên hệ giữa chữ với tự hay từ (字 hay 詞). Ăn khớp ở đây là giữa hai cặp chừ/từ và chữ/tự.
Giống nhau này nằm ngồi ráp vần của quốc ngữ và có thể có trước quốc ngữ, giữa hai ngôn ngữ
lân cận nhau, và cũng là tương quan giữa chữ thuần Nôm và từ Hán Việt. Ăn khớp rất thích hợp
với ý niệm về chùm ngữ nghĩa, và có khả năng cho thấy nhiều liên hệ thiết lập thời xưa có thể
được kiểm nghiệm lại khá nhanh chóng. Thí dụ: thất (số 7) thường được xem là từ Hán Việt của
Hán tự 七 đọc là [qi] tiếng phổ thông. Thất xem ra giống âm Quảng Đông [cat] hay [tsat] nhiều
hơn âm quan thoại [qi], và [cat] (đọc [tsat]) có vẻ mang ít nhiều liên hệ về âm chakra của tiếng
Sanskrit, dính dáng đến 7 huyệt điểm chính của cơ thể con người. (Âm [c] trong phiên âm quốc
tế, cho [cat] (thất), giống như chữ [c] thứ hai trong successful (thành công) tiếng Anh.) Trong khi
âm [qi] (七) tiếng phổ thông lại gần với âm [qi] (气) tương đương với khí (khất) hay hơi tiếng
Việt. Để ý âm [khất] rất có thể là âm tạo dựng bằng phiên thiết dựa trên quan hệ [qi] (七) và thất
(7). Âm khí (气) rất gần với chữ khỉ (monkey), và khỉ tương ứng với tháng Thân mang vị trí thứ
7 nếu dùng tháng Dần là tháng đầu tiên (tháng Giêng), theo âm lịch hiện đại. Rất ngộ là chữ khỉ
có âm gần giống như [ky] trong tiếng Ai Cập cổ. Để ý tiếng Anh có [key] trong Monkey gần âm
với khỉ, trong khi tuồi Thân 申 [shen] có âm Phúc Kiến và Hakka [sin], gần ráp vần với singe
(khỉ) trong tiếng Pháp. Âm [qi] (七) (bảy/7) cũng gần với âm [ji] (箕) tức Ki tiếng Việt, chỉ sao

Ki, ngôi sao thứ 7 trong nhị thập bát tú (28 sao). Âm [qi] cũng có thể đọc [kì] như trong tinh kì
(星期) [xing qi] có nghĩa tuần lễ gồm 7 ngày.
Âm [khí] đối với [qi] (气) có tương đương với tiếng Việt là hơi, tiếng Quảng Đông [hei]: 汽車
[qi che] (khí xa) hay [hei ce] (xe hơi) Quảng/Việt. Nghĩ đến khí và hơi qua khí cơng (qigong) và
hơi thở sẽ liên tưởng đến mũi, lỗ mũi và con số 2. Trong kiến thức khoa học của thời tiền sử, số 7
cũng chính là số 2, đếm hai ngón tay của bàn tay thứ 2, và bàn tay kia đã là số 5 rồi, tức 7=5+2,
và 2 mới là con số định vị cho số 7, một số lớn hơn 5. Tương tự âm [hơi] gần với âm [hợi] chỉ
tuổi Hợi, tháng Hợi, tháng 12 tức số 2 của bàn tay nữa thêm vào hai bàn tay tiêu biểu cho số 10.


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

104

Hợi trong tháng Hợi có tiếng Trung là 亥 [hài], nếu không kể thinh, rất gần với hai trong tiếng
Việt (số 2), tức số 12 theo hai ngón của bàn tay thứ 3 dùng để đếm. Đó là theo âm lịch cũ tính
tháng 1 từ tháng Tí nhằm vào tháng 11. Nhưng nếu theo âm lịch hiện đại cho tháng Dần là tháng
1 thì tháng Hợi sẽ rơi vào tháng thứ 10. Tức Hợi có thể biểu hiệu bằng số 12 hay 10. Heo hay
Lợn theo tiếng Thai là [mŏo] hay [muu] rất gần âm [mười] (10) trong tiếng Việt, con lợn nằm vị
trí số 10 hay 12 tùy theo loại âm lịch. Một từ khác dùng để chỉ con lợn là 豨 [xi] mang âm Quảng
Đông là [hei] tức hợi, âm Triều Châu [hi] gần với Việt [hai] (2). Chữ [ba] 豝 mang nghĩa con lợn
lớn được 2 năm hay con heo nái, có âm [ba] là âm chỉ số 2 của một số tiếng thuộc nhóm MonKhmer. Trong khi từ 豕 [shi] cũng dùng để chỉ con lợn, có âm [shi] rất giống âm [shi] của số 10
(十). Trở lại số 7 trong tiếng Việt (bảy/ bẩy) chính là số 5 cộng với số 2, hoặc số 2 của bàn tay
thứ hai, và số 2 trong một số tiếng thuộc nhóm Mon-Khmer là [bař] hay [bar], hay [ba] rất giống
[bảy] (7) tiếng Việt. Trong tiếng Việt [bây], giống [bẩy] 7, cũng là một đại danh từ thuộc ngôi 2:
tụi bây, chúng bây (bây tức là 2, đại danh từ thứ 2, you guys).
Trong thứ tự của tinh tú thời huyền sử, mặt trời giữ địa vị số 1, mặt trăng giữ vị trí số 2. Chữ hai
trong tiếng Tai-Nùng mang nghĩa mặt trăng, phù hợp với ngày thứ hai trong tuần trong các lịch

Tây Phương thường gọi là ngày trăng: Monday (moon-day), Lundi (lundi tức la lune+di – trăng
+ [di] mang âm chỉ số 2 biểu tượng cho ngày (day), lundi là ngày trăng, ngày thứ hai). Mặt trăng
cũng mang biểu tượng là số 2 trong tiếng Burmese tức Myanmar. Trong tương quan yoni và
linga, đất cũng mang vị trí số 2 (phái nam), và mặt trời vẫn là số 1. Số 2 trong tiếng Trung
thường là [er] 二 hay [nhị] (giống âm Chiết Giang/ Ngơ Việt [nyi]) có âm rất gần với [er] 耳 hay
[nhĩ] (Ngô Việt: [nyi]) chỉ lỗ tai. (Tai trong tiếng Việt có lẻ là âm chỉ số 2 như [tay] (hand), hoặc
cùng gốc với [zai] trong tiếng Quảng [ji zai] 耳仔). Số 2 tiếng Hán [er] 二 hay [nhị] cũng có âm
gần giống hai (2) hay nhi trong nhi đồng 兒童 [er tong] (trẻ con) hay nhi tử 兒子 (con trai).
Triển khai thêm, sẽ thấy số 2 cũng dùng để chỉ con cái (兒女 [er nu], trai và gái) và từ đó thằng
Hai sẽ mang nghĩa thằng con đầu lòng. Tiếp theo thằng hai sẽ là con ba hoặc thằng ba. Điều nầy
có nghĩa số 2 tiêu biểu cho con đầu lịng đã có rất lâu, và rất có khả năng có trước con cả hoặc
con trưởng bởi dạng thức ngôn ngữ dựa vào số thứ tự 1 và 2 là dạng thức mộc mạc và đơn sơ
nhất của ngôn ngữ, vào thời ngôn ngữ mới vừa phát triển. Tóm tắt, số 1 chỉ mặt trời, số 2 (hai)
chỉ mặt trăng, và số 2 (theo một số tiếng Mon-Khmer là [ba]) cũng chỉ đất (ba). Diễn dịch theo
kiểu chùm ngữ nghĩa ở thời mẫu hệ xưa thật xưa, sẽ thấy Mẹ/Má/Mạ/Mợ mang số 1 ([mà] tiếng
Mường nghĩa số 1, [neung] tiếng Thái số 1, giống như [niang] 娘 tiếng Hoa (nương, Việt) chỉ
Mẹ). Số 2 kiểu Ba dành cho Cha, và số 2 kiểu Hai dành cho con cái: thằng hai, 女⼉ [nǚ ér] (nữ
nhi/con gái), 儿子 [ér zi] (nhi tử/con trai).
Ngơn ngữ thời mẫu hệ cũng có thể khác với ngôn ngữ thời phụ hệ. Bằng chứng là vào thời xa
xưa danh từ Ông Ngoại là dùng để chỉ thân phụ của người Cha, tức Ông Nội thời nay, hay ngược
lại, Bà Nội là Mẹ của Mạ. Ngoại là ngồi (外 [wai], có phát âm tiếng Hẹ là [ngoi] giống tiếng
Việt ngoại/ngoài), và Nội là bên trong, phe ta, viết chữ Hán là 內, đọc y hệt [noi] trong tiếng
Quảng. Thêm thí dụ là chữ con rể tức chồng của con gái, có chữ rể mang đầy ý niệm của thời
mẫu hệ. Hiểu từ nguyên của ở rể sẽ hiểu ngay tại sao gọi rể, con rể. Người Mỹ nổi tiếng có thời
ở rể là ơng Harry Truman, tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ (1945-1953). Ở rể có chữ ở cùng gốc
với tiếng Nam Kinh [u] (寓) hay Ngô [ua?], Nam Kinh [ho] (活), hoặc Phổ thơng [yu] (寓) (tức
[yuu] Thai, [dú] Tay-Nung). Và Rể có cùng gốc với từ xưa 羈 phát âm [gei] theo tiếng Quảng


Firmament


Volume 15, No. 1, April 2022

105

Đông. Âm [gei] biến chuyển sang các phương ngữ khác có thể thành [kei] tức [ki] trong tiếng
Hán-Hàn, và là ké tiếng Việt, và ở rể đồng nghĩa với ở ké, tức cư ngụ tại một nơi khơng phải của
gia đình mình hay của mình. Biến chuyển [R] (rể) với [G] [gei] 羈 là biến chuyển giống như tấm
ga với drap (tiếng Pháp), tức tấm trải giường. Âm đầu [R] đổi ra [G] tiêu biểu nhất là chữ rẻ
trong giá rẻ, tức giá thấp như rễ cây, như gốc cây, tức…giá gốc. Và gốc hay rễ mang âm [g]
trong tiếng Quảng [gei] (基), tức rễ hay roots tiếng Anh. Thế rẻ rề thì sao? Đổi rẻ thành rễ, thì rẻ
rề trở thành rễ rề, một thứ lặp-lại, giống như mau mau, chầm chậm, có khi tăng có khi giảm
cường độ. Âm đầu [G] [gei] cũng có thể biến chuyển với [K]. như tiếng Hải Nam gọi chàng rể là
[you kei] tức người ở rể ([kei]). Và tiếng Việt có kế mẫu tương đương với mẹ ghẻ, 繼母, đọc [ki
mou] theo Tứ Xuyên, [kei mo] Hán-Nhật, và [gai mou] tiếng Quảng Đông với âm [g] cho [gai],
giống [ghẻ] tiếng Việt.
Nhiều người viết có khuynh hướng bỏ bớt chữ ăn, và chỉ dùng chữ khớp khi muốn nói ăn khớp.
Ngồi việc từ khớp mang âm gần giống khiếp trong khiếp sợ, việc tránh né từ ăn ở đây có thể bắt
nguồn từ những phức tạp của chữ ăn, một từ có liên kết với nhiều chữ kép mang tính đồng âm dị
nghĩa nhất nhì trong tiếng Việt theo kí âm quốc ngữ a-b-c. Tự điển của L’Abbé le Grand de la
Liraÿe xuất bản năm 1868 ghi đến hơn 20 từ vựng dùng đến chữ ăn. Đại khái: ăn mày, ăn trộm,
ăn tết, ăn chơi, ăn cắp, ăn bớt, ăn gian, ăn năn, ăn hiếp, ăn mặc, v.v.. Con số 20 từ vựng này có
thể so với cũng cùng con số đó trong tự điển tiếng Việt đầu tiên của Alexandre de Rhodes (1651),
nhưng lại thua xa với khoảng 40 từ vựng về ăn liệt kê trong tự điển Taberd, xuất bản năm 1838,
hoặc hơn nữa trong tự vị của Hnh Tịnh Của (1895). Ngồi ra, những ngữ từ hay cụm từ liên hệ
tới ăn chiếm đến gần 5 trang giấy với 2 cột chữ nhỏ trong bộ tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức
xuất bản vào năm 1931. Trong khi tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính cho 5 từ Nơm, thường dựa
vào âm chính của chữ [an] 安, nghĩa bình an, và gần như từ nào cũng mang nghĩa là ăn (eat,
thực, manger, thời, xơi), viết theo tượng hình. Nhớ là hiểu và viết được chữ Nơm là biểu tượng
có thể nói như tột đỉnh của chuyện học vấn thời xa xưa. Bởi muốn hiều cấu trúc và viết được chữ

Nơm thì phải thơng thạo chữ Hán tức chữ Nho. Tức phải học thêm hai ba thứ tiếng, mang tiếng
là tiếng mẹ đẻ, nhưng thật ra khó hơn tiếng ngoại quốc như tiếng Anh tiếng Pháp. Hiểu ngược
lại, bất cứ ai viết được chữ Nơm đều đương nhiên thuộc giới ê-lít.
Chữ Nơm viết cho ngữ từ ăn thường thấy nhất trong các tự điển là 咹 (viết bằng 口[kou] miệng+
安[an] yên), chữ 安 [an] dùng để chỉ âm [ăn], mang nghĩa yên bình, an toàn, yên tĩnh, v.v. Trong
chùm ngữ nghĩa thời cổ đại, ngữ nghĩa ăn và uống ưa dùng chung một thứ ngữ từ. Từ Hán 用
[yong] mang nghĩa xài, dùng, ăn, uống, v.v., có âm Quảng là [yung] rất gần dùng, âm Mân Việt
hay Triều Châu [eng] hay [êng] gần với ăn và Ngô Việt [iong] gần uống. Giống với ăn nhất có lẻ
là âm [än] tiếng Miến (Myanmar), cũng mang nghĩa ăn như [sa:]. Chữ bình dân sực tương ứng
với Hán Việt thực có cùng gốc với 食 [shi], tiếng Quảng gọi [sik]. Trong khi xơi hay thời có thể
cùng gốc với 蝕 [shi] tương đương với Ngô Việt [sha?] giống âm tiếng Mon [cɛˀ] hay tiếng
Myanmar [sa:]. Mon [cɛˀ] hay Myanmar [sa:] ngồi nghĩa ăn cịn mang nghĩa sinh sống, sống
bằng, làm để sống, làm ăn, ăn bài (đánh bài, cờ bạc), ăn mòn, ăn tiền trợ cấp. Tiếng Hán 蝕 hay
蚀 [thực] ngồi nghĩa ăn (eat) cịn dùng trong nghĩa mòn, oen rỉ, ăn mòn, hay ăn trong ăn hối lộ.
Chữ nhẫm như trong nhẫm xà (uống trà), viết 飲 [yin] có âm Quảng Đơng là [yam], Mân Việt là
[i-ing], và Weitou tức Nam Quảng Đông là [ien] rất gần với ăn, ngoài nghĩa ăn và các nghĩa khác
còn mang nghĩa ăn trong ăn học, và ăn tức nhận trong ăn tiền trợ cấp xã hội. Thế còn ăn khớp


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

106

thì sao? Từ đi với [ăn] mang nghĩa thích hợp, vừa vặn, vừa khít lại là [an] (yên), viết 安 [ang]
tiếng Triều Châu, và [khớp] có thể là âm phương ngữ [khap] tiếng Mân Việt (Phúc Kiến) tương
đương với hạp hay hợp tiếng Việt và tiếng Quảng Đơng (合), mang nghĩa hợp vào, thích hợp.
Tóm tắt, có thể thấy một bức tranh rất lớn về từ ăn, mà rất nhiều ngữ nghĩa đồng qui về ngữ từ
ăn từ nhiều từ vựng xuyên qua biên giới ngơn ngữ, hay đã phân tán vào lúc chưa có biên giới

ngôn ngữ, khi xưa dưới những dạng thức khác đã chia sẻ một ngữ nghĩa chung là ăn.
Đọc quyển sách về người Mường của Jeanne Cuisinier (1890-1964) [14], nhà nhân chủng học
người Pháp, sẽ thấy rất nhiều tài liệu về người Mường ít khi được trích dẫn suốt trong những
năm kể từ khi quyển sách ra đời (1946). Trong quyển sách, có truyền thuyết về một ơng “bua”
người Mường tên là Lương Wong có bà vợ là Ngu Kơ, sau một thời gian chung sống rồi cũng đi
đến chia tay, rất giống truyền thuyết Lạc Long Quân và bà Âu Cơ trong ấn bản của người Kinh.
Xin tóm tắt truyền thuyết người Mường về Lương Wong và Ngu Kơ, thuật lại trong quyển sách
của Cuisinier, như sau. Ngày xửa ngày xưa, có một nàng cơng chúa xứ Mường tên là Ngu Kơ,
mang tiền kiếp một con nai có đốm sao, cưới một ơng hồng tử con “byua” Yịt tên Lương Wong,
gốc vốn lồi cá. Ít lâu sau, Ngu Kơ sinh được 50 con gái và 50 con trai. Nhưng rồi cơm không
lành canh chẳng ngọt. Từ ở chỗ con cái không đủ đồ ăn thức uống, Ngu Cơ và Lương Wong ưa
cãi vã với nhau. Cuối cùng, Ngu Kơ và Lương Wong đành phải chia tay, đôi ngả đôi ta. Ngu Kơ
dẫn 50 người con lên miền rừng núi, và Lương Wong dẫn 50 người con kia xuôi về miền sông
biển. Ngu Kơ và đám con tạo nên những dòng vua chúa mặc áo màu đen, và Lương Wong, các
gia đình vua mặc áo màu vàng. Dân Mường thờ kính bà Ngu Kơ như mẫu tổ và thường làm cờ
có hình con nai đốm sao, như một vật tổ để tưởng nhớ đến bà. Điểm khác biệt chính yếu giữa
truyền thuyết Mường và Việt, là bản Việt có mang dấu ấn Lạc Long Quân và Âu Cơ xuất xứ từ
những khu vực thuộc nước Sở xa xưa, và 100 người con của Ông Lạc và Bà Âu đều là con trai,
chứ không phải 50 trai, 50 gái như truyền thuyết Mường.
Cũng trong quyển sách nầy, có một bản đồ địa lý (Carte 4) về những khu vực cư ngụ của người
Kinh và người Thượng, ở phía Bắc. Người Thượng theo tác giả gồm cả người Thai, Mường,
Kha, Miêu, v.v., và về mặt địa lí, có địa bàn chiếm hơn 50% diện tích Bắc bộ. Trên căn bản này,
và theo sát với mơ hình cây và đất, thử xem tiếng Mường là một thành phần đóng góp vào việc
hình thành tiếng Việt, nhất là vào thời chưa có chữ quốc ngữ kí âm theo mẫu tự La-Tinh, rồi xem
qua mớ từ vựng mà Cuisinier mô tả trong chuyện lấy vợ gả chồng, chú rể và cô dâu. Để ý cả hai
chữ dâu và rể đều có ghi trong tự điển của Alexandre de Rhodes [15] xuất bản giữa thế kỉ 17.
Chú rể rất có khả năng bắt nguồn trong thời mẫu hệ, có lẻ dính liền với chuyện ở rể. Chữ ở (stay)
có âm và nghĩa rất giống với các từ: 獃 (đọc [oi] theo tiếng Quảng Đông), 活 (đọc [ua] tiếng
Mân, sinh sống), 寓 (đọc [yu] tiếng Phổ Thông). Riêng chữ 寓 [yu] (ngụ/cư ngụ) có thể tương
ứng tiếng Thái [yuu] và tiếng Tày-Nùng [dú]. Từ điển Hán Việt thường ghi chữ ở là 寓 hay 於

[yu] với âm quốc ngữ là ư và ơ, âm Phúc Kiến [ỵ], rất khó nhận diện với âm bình dân là ở. Còn rể
đơn giản hơn, cùng gốc với 羈 [gei] tiếng Quảng, mang nghĩa nguyên thủy ở chỗ khác với nơi cư
trú thường xuyên. Âm “Hán-Việt” của 羈 [ji] là [cơ] hay [ki], và [ki] gọi bình dân là ké, và ở rể
tức là ở ké, tức ở chỗ không phải là nhà của mình hay của cha mẹ, tổ tiên. Cơ dâu, chị dâu, con
dâu, có vẻ phức tạp hơn và không thể truy tầm từ nguyên với định đề căn bản là ngơn ngữ mang
tính định để, tức do tiền nhân sáng tác và xếp đặt, bởi định để áp dụng cho tiếng Việt quốc ngữ sẽ


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

107

cho phép dừng lại ở bất cứ ngữ từ nào có âm thanh gần giống và mang ngữ nghĩa cũng khá giống
với từ cần tìm từ nguyên. Đặc biệt, tính định để trong ngữ học tiếng Việt ưa bị giới hạn ở chỗ
ngôn ngữ thường được xem gắn liền với chủng tộc, theo nới rộng từ mối liên hệ giữa thổ ngữ và
bộ lạc. Thí dụ: theo phương pháp dựa trên định để có thể nói dâu bắt nguồn từ tiếng Mường du,
hay nếu dùng văn minh (tức, đại khái, thiết lập được đời sống thành thị) là tiêu chí, thì du có thể
nói là từ vay mượn của dâu. Theo mơ hình cây và đất, thử tìm những ý nghĩa nguyên thủy của
dâu trong cô dâu, con dâu, nàng dâu, v.v., qua kiểu ăn khớp. Trước hết có thể thấy tiếng Việt hay
tiếng Mường có vẻ khơng phân biệt dâu mới cưới (bride) và con dâu (daughter-in-law) như trong
nhiều ngơn ngữ khác. Thí dụ, tiếng Hoa có thể dùng 新郎 [xin lang] tân lang, để chỉ chú rể, và
新娘 [xin niang] tân nương (hay 新婦 [xin fu] tân phụ) cho cô dâu, hay 女婿 [nǚ xu] nữ tế, cho
con rể (tức chồng (tế) của con gái), và 儿媳 [er xi] nhi tức để chỉ con dâu (vợ con trai). Phát âm
của [xu] trong [nǚ xu] và [xi] trong [er xi] trong một số phương ngữ có thể gần giống với xu xê
trong bánh xu xê. Chữ xê trong xu xê ngoài liên hệ với 媳 [xi], cịn dính dáng đến 妻 [xê] theo
phát âm Phúc Kiến, chuyển sang Việt thành thê, nhưng đặc biệt, xu khó có liên hệ ngữ âm với
phu, theo kiểu bánh xu xê là đọc trại từ bánh phu thê.
Theo Cuisinier, tập tục người Mường thời đó phân biệt hai thứ đám cưới khác nhau: khat yu hay

khat zu (cưới dâu) và khat bao (kén rể). Nếu dịch thẳng, khat có nghĩa gần giống như mua,
nhưng trên thực tế khat có thể mang nghĩa giống như nhìn nhận làm con nuôi, đặc biệt với quyền
thừa kế tài sản. Tuổi được lập gia đình có thể thay đổi tùy theo giai cấp, đại khái, thổ lang hay
dân đen. Có thể thấy chữ dâu tiếng Việt liên hệ mật thiết với yu hay zu tiếng Mường, và [jaao]
trong tiếng Thái hiện đại. Để ý biến chuyển [y]-[z] trong yu/zu chính là biến chuyển tiêu biểu
trong tiếng Hẹ, Việt, Mường, như Toyota/Tôzôta, và có thể nói các giáo sỹ Tây Phương đã chọn
chữ d cho mẫu tự tiếng Việt để thay cho cả [y] lẫn [z]: dù, dỡ, dụ, dùng, dấu giếm. Tập trung ở
chữ Mường yu, sẽ thấy yu có thể mang nghĩa chính là ở hay người ở, và tương ứng với các thứ từ
như 寓 hay 於 đọc [yu] theo tiếng Phổ Thông, “Hán-Việt” ngụ (寓), ư hay ô (tức ở) (於), cả hai
tương ứng tiếng Thái [yuu] và tiếng Tày-Nùng [dú]. Áp dụng ăn khớp sẽ thấy việc ở hay làm ở,
làm người ở, tức làm dâu, hoàn toàn mang nghĩa của một đơn vị kinh tế, khá quan trọng, trong
xã hội canh nơng. Nói theo kiểu thời nay, đó là một loại job thơm, và có thể kiểm chứng ngay
qua những kiểu nói người Mường và Việt: Ti là du pao nhà mễ đỉ khưởng rồi (Đi làm dâu vào
nhà bà ấy thì sướng rồi), hay Chua đố đảm du chảu nị to bằng đảm nì (Chưa thấy đám cưới nào
to bằng đám cưới này), trong đó, du= dâu, chảu= rể, và đảm du chảu= đám dâu rể= đám cưới
[12]. Còn bao trong khat bao (kén rể hay lấy rể) có thể liên quan mật thiết với từ Thai hiện đại
[baao] mang nghĩa thanh niên, giống như [saao], thiếu nữ; và [jaao baao], [jaao saao] chính là
chú rể và cô dâu. Hai chữ nầy, [jaao saao] (dâu) và [jaao baao] (rể) đều có từ chung là [jaao] có
âm gần giống với dâu, và [jaao] mang nhiều nghĩa, trong đó có hồng tử, cơng chúa, chủ nhân,
chủ nhà (xem: thai2english.com). Theo tiếng Hoa, âm [bao] có thể mang ý nghĩa nguyên thủy là
nuôi nấng, như từ 抱 [bao] (nuôi nấng, dưỡng dục), tân bão 新抱 [xin bao], cô dâu, người con
mới. Dâu và rể mang ý nghĩa giống như con mới hay con ni cũng có thể phản ánh trong tiếng
Chàm, với [mưtŏw kamĕy] là dâu và [mưtŏw likĕy], rể; trong đó “tiếp đầu ngữ” [mưtŏw]
(dâu/rể) có âm gần giống với [mưtuy] (mồ côi), và [mưtửh] (một nửa – [mưtŏw likĕy], con rể, có
thể hàm ý là con trai “bán phần”). Còn [kamĕy] và [likĕy] là những từ dùng để chỉ, theo thứ tự,
đàn bà con gái, và đàn ông con trai [13].


Firmament


Volume 15, No. 1, April 2022

108

Nét văn hóa vẫn thường phản ánh qua ngôn ngữ. Hôn nhân tiếng Trung viết 婚姻 [hun yin], với
婚 [hun], dùng để chỉ bên nhà gái, và 姻 [yin], bên nhà trai, tức mang thứ tự cô dâu chú rể hay
du chảu (cưới) tiếng Mường (du là dâu; chảu là rể); tức gái (dâu) đi trước trai (rể), giống như vợ
đi trước chồng trong tiếng Việt: vợ chồng. Đặc biệt chữ hôn (婚 [hun]), trong hôn nhân, bao gồm
chữ 女 [nữ] bên trái và 昏 [hơn], để cho âm, như hơn trong hồng hơn (chiều tối), và có thể
mang ngữ nghĩa đám cưới tổ chức buổi chiều hoặc tối. Có nhiều từ trong tiếng Hoa, cho thấy
nhiều “đám cưới” xảy ra thời xa xưa là do ở bắt cóc, thường xảy ra vào ban đêm, giống như đã
miêu tả trong một phim về Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan), thí dụ: 搶婚 [qiang hun] hay 搶
親 [qiang qin] đều mang nghĩa cô dâu bị bắt cóc mà sau đó nên “duyên” vợ chồng. (Chữ 搶
[qiang] mang nghĩa cưỡng đoạt, cướp đoạt, và 親 [qin], là thân có nghĩa như thành thân, hơn
nhân.) Vấn đề chuyển ngữ trong phiên âm từ ngôn ngữ nầy sang ngôn ngữ kia, gây nên những từ
đồng âm khác nghĩa, không phải chỉ dễ xảy ra khi chuyển âm từ gốc Hoa, xin tạm gọi như vậy,
sang kí âm quốc ngữ, mà vẫn có thể thấy trong tiếng Hàn Hangul. Thí dụ, cô dâu tiếng Hàn gọi
là 신부 [sinbu], chuyển sang tiếng Hoa có thể là 新婦 [xin fu] tân phụ, nhưng 신부 [sinbu] cũng
có thể chuyển thành 神父 [shen fu] tức thần phụ tức linh mục. Để ý âm [bu] trong [sinbu] tiếng
Hàn có thể ứng với từ Việt bu (mẹ) hay sau đó, bố (cha). Âm [bu] chỉ mẹ cũng cùng gốc với Ibu
(Mẹ) trong tiếng Mã Lai. Theo lí thuyết ở đây, vẫn có thể tìm thấy âm [bu] mang nghĩa số 6
trong các thứ tiếng ở Ấn Độ-Thái Bình Dương, tức số 1, bởi số 6 đếm theo 10 ngón tay cũng là
số 1 ở bàn tay thứ 2.
Quyển sách của Cuisinier về người Mường cũng có một bảng đối chiếu về mười hai con Giáp.
Âm tiếng Mường cho tuối Tuất là Tất, trong khi tiếng Khmer cho Tuất là [ča], và Thái là [čo],
viết theo kiểu bây giờ là [jor] và [cho], tức Chó. Riêng cho tuổi Hợi, người Mường thường gọi
con lợn là [kwi], [kul], hay [kun], viết theo quốc ngữ là cúi, củn, hay cún. Cúi hay cún tương ứng
với [Kaor] tiếng Khmer, [Kun] tiếng Thái, và [kûːl] tiếng Chứt thuộc nhóm Mon-Khmer. Để ý
đến kí âm [kwi] của Cuisinier dùng cho chữ cúi, cũng có thể dùng cho q (hay q), chỉ can thứ
10 trong 12 thiên can. Âm [kwi] cho can Quí cũng là âm gọi là Hán-Hàn, tức Sino-Korean, so

với Hán Việt (Sino-Vietnamese). Có nhiều câu chuyện ngơn ngữ liên quan đến chữ quý hay quí.
Trước hết khi kí âm chữ q, các tơn sư quốc ngữ, từ Alexandre de Rhodes (1651) cho đến
Taberd (1838), đều viết là qúi ([qú]+[i]), tức đọc [kúi] theo lối ráp vần tiếng Việt. Sau Taberd
chừng 30 năm, Trương Vĩnh Ký và Huình Tịnh Của thay đổi chữ viết thành quí, tức chuyển dấu
sắc từ âm [ú] sang [í]. Thuở đầu, những tơn sư như Alexandre de Rhodes và Taberd, đã mượn
mẫu tự a-b-c của tiếng Bồ (Portuguese) là [qu] thay cho kí âm [kw] như Cuisinier đã dùng trong
chữ [kwi] thay cho cúi. Thí dụ vần [qu] dùng trong tiếng Bồ thay cho [kw] là qrum (túc số)
giống [qu] trong tiếng Anh Queen (hồng hậu, nữ hoàng), [kwi:n]. Nhiều tác giả Tây Phương
tránh dùng âm Bồ [qu] thì họ vẫn dùng [kw], như trong kí âm tiếng Mon [kwi], tương đương với
tiếng Việt gói (wrap). Cũng giống như mượn âm [nh] tiếng Bồ để thay cho âm [ny] (phiên âm
quốc tế [ɲ]) trong các chữ nhà, nhung, nhớ, nha; tiếng Bồ banho (tắm) có thể đọc gần giống như
tiếng Việt [ba-nhơ]. Thật ra kí âm chữ qúi, viết trong tự điển Alexandre de Rhodes là [qú]+[i],
phải đọc như [kúi], bởi cũng tự điển đó đã viết chữ Cuội (chú Cuội) là Quội, nhưng lại viết chữ
quỉ (ma quỉ) với dấu hỏi trên chữ i, cũng như dấu huyền đánh trên i cho chữ quì trong quì gối.
Âm [qu] với dấu đánh trên nguyên âm [i] như trong quỉ hay quì sẽ trở lại tương đương với kí âm
[kw]: [kwỉ] (quỉ ma) và [kwì] (q gối), nhưng âm quội phải đọc [kuội], bởi cả hai cuội và quội
đều có trong cùng một từ điển.


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

109

Tương đương với chữ quý trong tiếng Hoa là âm [gui] (quan thoại) thường phát âm trong các
phương ngữ như [gui] hoặc [kue] hay [gwai], với phụ âm biến chuyển qua lại giữa [gu] và [kw]
nhưng thường gần [gui] hơn [kwi], Thí dụ: quý (quý giá) 贵 và tuổi (thiên can) Q 癸 có âm
tương đương với [gui] trong tiếng phổ thông, [kue] trong tiếng Ngô Việt, và [gwai] tiếng Quảng
Đông. Vấn đề trở nên phức tạp là âm [qu] trong tiếng Bồ thật ra khơng phải hồn tồn tương

đương với âm [kw] như q=[kwí], mà khi âm Bồ [qu] đứng trước mẫu tự [e] hay [i] (tiếng Bồ),
âm [qu] sẽ giống y như âm [k]. Thí dụ: questão [kes-taw] (câu hỏi), quiabo [ki-abu] (đậu nhớt,
okra), tức [qu] đọc như [k]. Từ đó có thể nói nếu đánh vần theo kiểu tiếng Bồ, [kwí] (con lợn) có
thể phát âm như q và cúi. Để ý chữ q, với nghĩa q giá, vẫn cịn viết với i-ngắn cho tới
khoảng những năm 1930-40, như có ghi trong tự điển Khai Trí Tiến Đức (1931). Thật ra âm [qu]
trong tiếng Việt trong buổi giao thời với kí âm quốc ngữ a-b-c cũng khơng thể nói hồn tồn
tương đương với [kw], qua kiểu viết kíu kuốc hay cứu cuốc thay cho kiểu chuẩn là cứu quốc.
Riêng tự điển Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 cũng viết quốc là cuốc (nước), và viết
quốn cho cuốn. Nếu dùng mơ hình cây và đất, sẽ thấy chữ Hàn Quốc có thể viết theo kí âm a-b-c
là Hankook hay Hanguk ( 한 국 ) tức 韩 国 [hanguo] theo chữ Hán, và như thế âm [quốc] hay
[kwốc] sẽ tương ứng với [kook] (trong Hankook) tiếng Hàn, và âm [kook] nầy gần với [kuốc]
hơn là [kwốc]. Âm [kuốc] cũng sẽ gần với âm [kueh] tiếng Wuxi (Jiangsu – Giang Tô), cho chữ
quốc 国 (nước). Biến chuyển qua lại giữa âm [qu], tức thông thường theo quốc ngữ là [kw], với
âm [k] còn thể hiện qua chữ quí (季) và cuối. Phát âm từ 季 [ji] (quý/quí) trong tiếng Tiều là
[kui] tức cuối, và trong tiếng Mân Việt (Phúc Kiến) là [gui], tiếng Quảng là [gwai] tương ứng với
Hán Việt [quí]. Chữ quí (季) ở đây thường có một nghĩa cốt lõi là cuối hay chót: tên anh em xếp
theo bá, trọng, thúc, q; hoặc 季女 (quí nữ - con gái út); hay 季春 (quí xuân – tháng cuối mùa
xuân), và quí tức là cuối, [qu] đọc như [k] ([kúi] hay cuối). Nới rộng nghĩa cuối (quí) thành ra
một cái mốc, hay đánh dấu của thời gian, sẽ thấy quí mang nghĩa khoảng thời gian nhất định
trong năm (dính với chu kì), như là mùa: 雨季 (vũ quí – mùa mưa), như là tam cá nguyệt, gọi
theo kiểu xưa. Cũng có một âm quý tiếng Việt, tương đương thẳng với pinyin [kui] (cúi) tiếng
Quan thoại, cũng như tiếng Triều Châu, Phúc Kiên và Hẹ là 愧 [kui] mang nghĩa làm thẹn, làm
nhục người khác, hoặc lấy làm xấu hổ.
Một thí dụ về biến chuyển giữa âm [k] và [kw] ([kuốc] và [kwốc] có thể kể đến một ông quan
bên Trung Hoa, tên là Tần Cối (秦檜) lên án xử tử viên tướng lỗi lạc là Nhạc Phi (岳飞) vào thời
Nam Tống ở thế kỷ 12. Việc làm xằng bậy của Tần Cối bị dân chúng nguyền rủa và từ đó có giả
thuyết là bánh dầu chá quảy, tức quẩy, mang nghĩa là dầu chiên Cối hay dầu Tần Cối. Tần Cối
đọc theo âm quan thọai là [qin hui] (秦檜), với [hui] tương ứng với [kui] tiếng Quảng, tức cối
[kối] tiếng Việt. Âm [hui] cũng tương ứng với âm Tô Châu [kwui] (biến chuyển [k]-[kw]), và
[kwui] sẽ gần với [kwỉ] (quỉ) hay [kwảy], trong dầu chá quảy. Và dầu chá quảy sẽ có thể thành

dầu chá Cối (chiên dầu Cối). Âm Việt [chá] ứng với [zhá] 炸 (chiên dầu) và có thể thay với
chiên, tức 煎 [zien] tiếng Hẹ. Âm chữ 煎 [zien] này trong nam Quảng Đông là [zing] [1] thật gần
với [qin] 秦, tức họ Tần của Tần Cối. Thay thế chá [zha] trong dầu chá quảy với chiên [zien], rồi
[zing] hay tần [qin], dầu chá quảy trở thành dầu Tần Cối. với nghĩa nôm na là thẩy Tần Cối vào
chảo dầu đang sơi. Cũng nhìn theo lăng kính nhiều chiều, việc chiên dầu cũng là một thứ hình
phạt thảm khốc thời xa xưa, và dầu Tần Cối do đó cũng là một thứ hình phạt được xảy ra thường
xuyên khi người Hoa phía Nam chiên bánh dầu chá quảy (dầu Tần Cối/ dầu chiên Cối)..


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

110

Nhìn chung, có thể nói lộn xộn giữa đánh vần quí và quý dính liền với các âm [gui], [kúi], và
[kwí], bắt nguồn sâu xa từ tập thể các tôn sư chữ quốc ngữ, đa phần mang tiếng mẹ đẻ là Bồ Đào
Nha (Portuguese) và tiếng Pháp. Chữ quốc ngữ ra đời trước tiên mang kí âm a-b-c viết theo lối
ráp vần của tiếng Bồ, do các giáo sỹ gốc Bồ thuyên chuyển sang nước Nam sau một thời gian
mục vụ ở Macau, tức Áo Mơn, thuộc địa của Bồ, trong đó phải kể Francisco de Pina (1585-1625)
và Gaspar do Amaral (1592-1645). Hai giáo sĩ Dịng Tên (Jesuit) nầy đều có cơng trình trước tác
về tiếng Việt. Dấu ấn của lối ráp vần trong tiếng Việt ở thời gian đầu do đó chịu ảnh hưởng của
ráp vần tiếng Bồ, rất rõ trong quyển tự điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes [15], xuất bản
vào năm 1651. Không sinh ra tại xứ Bồ (Portugal) như Francisco De Pina và Gaspar Do Amaral,
Alexandre de Rhodes có quê quán ở Avignon (1561), ngày nay thuộc miền nam nước Pháp. Tuy
vậy, lối ráp vần dựa theo tiếng Bồ vẫn được Alexandre de Rhodes giữ nguyên trong quyển tự
điển của ông. Những dấu ấn quan trọng tiếng Bồ trong ráp vần chữ quốc ngữ phải kể: (i) [nh]
thay vì [gn] như tiếng Pháp, [ñ] tiếng Tây Ban Nha, [ɲ] phiên âm quốc tế IPA, hoặc [ny] như
trong chữ canyon (vực sâu): nhà, nhớ, nha, nho (âm [nh] đọc trong tiếng Bồ banho (tắm) giống
như [nh] trong tiếng Việt nho); (ii) âm [oũ] là âm [ơng] ngày nay (Oũ Khỏũ= Ơng Khổng), [đoũ]

là [đơng]; hoặc [phàõ] là âm [phịng]; (iii) âm [qu] đem thẳng vào tiếng Việt, và rất có thể thuở
ban đầu, khơng có phân biệt rõ rệt như trong tiếng Bồ là [qu] đọc như [k] trước nguyên âm [e]
hay [i] (như quen hay quên, ghi trong tự điển Alexandre de Rhodes, đáng lẽ đọc [ken], [kên], như
questão (hỏi) tiếng Bồ, đọc [kes-tao]), và [qu] được đọc [kw] cho các nguyên âm khác với [e] và
[i], thí dụ: quatro [kwa-tru] tiếng Bồ, nghĩa bốn (4) hay tứ. Thế nhưng, tự điển Alexandre de
Rhodes khi viết quạ [kwạ] thì có vẻ giữ [qu]=[kw], và khi viết quội (thằng Cuội) thì [qu] lại
mang âm của [k].
Công việc của các giáo sỹ người Bồ vẫn duy trì các âm đầu bản địa như [bl] và [tl] như blời
(trời) và tlái (trái) (giống tiếng Mường) song song với âm bản địa [tr] có sẵn, như trí (trí khơn).
Bản quốc ngữ của các giáo sĩ gốc Bồ sau nầy được những giáo sỹ gốc Pháp, như Pigneau de
Béhaine và Taberd hiệu đính, với thay đổi quan trọng là hủy bỏ kiểu đánh vần [oũ] và thay thế
toàn bộ các âm đầu [bl] và [tl] bằng [tr], blời thành trời, tlai bằng trai (giai). Cũng quan trọng
trong cơng trình của Pigneau de Béhaine và Taberd, qua quyển tự điển xuất bản năm 1838, là
nhập hai âm đầu còn giữ trong thời De Rhodes là [b] (hay [by]) và [v] thành ra [v]. Trước thời
Taberd, Alexandre de Rhodes trong Phép giảng tám ngày, vẫn dùng âm đầu [b] và [v] biến
chuyển qua lại như trong tiếng Y Pha Nho (Spanish). Ơng viết chữ với bằng kí âm là [bvối] y hệt
như các từ có âm đầu [b] hay [v] trong tiếng Spanish (Tây Ban Nha), như vida (đời sống) phát
âm [bvida], hay gobernar (to govern – cai trị) với [ber] phát âm như [bver]. Tự điển Taberd
(1838) [16] xóa bỏ phân biệt giữa âm đầu [b] (hay [by]) và [v] bằng cách viết tất cả thành âm
đầu [v]: Thí dụ [tiền bốn] thành tiền vốn ([vốn] tức là [bổn]: tư bổn/ tư bản), hoặc [đi byào] thành
đi vào (chữ Nôm thường viết vào là
gồm 包[bao]+入[nhập], với âm đầu [b]). Taberd cũng
thay [w] (hay [u]) như trong [đi wir], [con woi] hay [con uoi], thành ra âm v: đi về, con voi.
Nhìn vấn đề âm [k] hay [kw] trong âm đầu [qu], của chữ qúi hay quí, trong tiếng Việt, có thể
thấy âm [qu] đọc thành [kw] (q) là kiểu ráp vần quốc ngữ, biến đổi từ dạng ban đầu là [k] (qúi
– [kúi]) trong các tự điển do người Tây Phương biên soạn cho tới khoảng giữa thế kỉ 19, khi kiểu
viết đưa dấu sắc lên trên chữ i trong từ quí được Trương Vĩnh Ký và Huình Tịnh Của đề xướng.


Firmament


Volume 15, No. 1, April 2022

111

Kiểu này thật ra biểu hiện tính độc thể trong quốc ngữ, theo sát hoặc tạo nên thực tại giống như
thuyết sinh tồn, chứ không liên hệ mật thiết với sự thực, bởi từ trước đến nay chưa hề có chứng
minh cụ thể là âm chữ q có thể là [kúi] hay [kwí], cũng như quốc trước thời chưa có quốc ngữ
hồn tồn được phát âm là [kwốc] chứ không phải [kuốc], từ nông thôn cho đến thành thị. Để ý
tiếng Việt cũng như nhiều tiếng Á Châu khác khơng phân biệt rõ rệt, ít lắm trong ngôn ngữ, giữa
thực tại và sự thực tức chân lý, như trong tiếng Anh giữa reality và truth, bời hai từ đều xài
chung chữ thực.
Thật sự cho dù có phân biệt giữa chân lý và thực tại, khoa học vẫn có thể vướng vào nghịch lí,
do ở nhiều yếu tố ẩn tàng trong khoa học, triết lý về khoa học, cũng như phương pháp khoa học.
Đáng để ý là định nghĩa về chân lý mà khoa học cố gắng vươn tới như mục đích tối thượng.
Thực tế cho thấy chân lý có vẻ khơng có một định nghĩa phổ quát và muôn thuở, nhất là phải dựa
trên ngôn ngữ. Thực nghiệm về độc thể của chữ true (thật, có thật) có thể thấy qua trả lời của câu
hỏi kiểu có thật hay khơng thường dùng ở tịa án, mà trả lời chỉ được chọn 1 trong 2: có hoặc
khơng, tức thật hay có thật ở trong dạng song thể hay độc thể. Trong khi muốn đề cập đến chân
lý hay sự thật rất có khả năng sẽ gặp khó khăn ngay từ chỗ định nghĩa cho đến mơ tả đầy đủ chi
tiết của chân lý. Khó khăn về chân lý cũng có thể tóm tắt là mặc dù chân lý theo truyền thống tư
tưởng, nhất là phía Tây phương, vẫn mang tính chất cốt lõi là độc thể, nhưng nếu nhìn chân lý
như một cấu trúc, thì chân lý có thể bước sang dạng phi-song-thể. Cũng trên thực tế, tiến trình
khoa học có thể dính vào cái vịng lẩn quẩn hay hồi luân (convolution) là tiến trình thường được
khởi xuất từ các tiền đề, và các tiền đề này, lí tưởng nhất, là phải mang tính định đề tức một sự
thật thường xuyên nhận thức được qua thực nghiệm hằng ngày. Nhưng không phải mọi thứ tiên
đề đều mang giá trị của một định đề vững chắc, như kiểu mọi người đều chết. Hồi luân do đó có
thể hiểu một cách đơn giản là kết quả của chứng minh hay tiến trình khoa học thường rập khn
với những gì đã có trong tiền đề. Nếu tạm chấp nhận một tiên đề khoa học là vững chắc, thì tiến
trình khoa học lại tùy thuộc vào chứng cớ bền chắc, thường tập trung ở lơ-gích và thực nghiệm,

và cả hai thứ nầy đều có khả năng vướng vào tình trạng một chiều, qua ảnh hưởng của song-thể
hay độc thể. Khoa học trong thế giới bao la của hàn-lâm và học thuật do đó có thể khơng tập
trung vào kết quả, thường là song thể hay độc thể, của tiến trình khoa học, mà là thử thách
thường xuyên, hoặc bất cứ lúc nào, về tiến trình, đường hướng của tiến trình, hay kết quả khoa
học. Riêng trong chuyện tiền đề, có thể thấy tiếng Việt quốc ngữ hàm chứa nhiều tiên đề hãy còn
trong tầm mức của giả định, như kiểu phân biệt Hán Việt và Nôm, rồi nguồn gốc phát âm tiếng
Hán Việt, hay các thứ tiếng Nôm, và nhất là tiên đề mang nhiều tính giả định là âm theo quốc
ngữ đa phần giống như âm theo chữ Nôm. Thường khơng có thắc mắc gì trong vấn đề then chốt
này, bởi học thuật về ngôn ngữ trong thế kỷ trước hãy còn thiếu thốn rất nhiều dữ liệu và tư liệu,
nhất là về các thứ tiếng ở Á Châu. Ngay cả những cách sắp xếp tiếng Việt vào các nhóm ngơn
ngữ của các học giả Tây Phương vẫn cịn điểm cần xem lại, ở vào thế kỷ 21, bởi phần lớn thường
dựa trên sắp xếp theo từ vựng hoặc văn phạm, cú pháp. Và từ vựng lại dựa vào việc so sánh các
từ cơ bản thuộc loại đầu mình tứ chi. Tiêu chí nầy sẽ tự tạo lên một số câu hỏi, đặc biệt khi nhìn
lại vấn đề dưới những góc nhìn khác, hoặc lí thuyết khác, như kiểu cây và đất, hay dùng ý niệm
cơ bản khác với kiểu song-thể hay độc-thể như ngữ từ / ngữ nghĩa. Ý niệm khác với ngữ từ / ngữ
nghĩa được trình bày ở đây là ý niệm về chùm ngữ nghĩa. Ý niệm nầy cho thấy những từ vựng
thường xem như cơ bản lại khơng phải cơ bản bởi chúng có thể được trộn lẫn với các thứ tiếng
khác nhau, hoặc đã thoát thai từ những từ vựng được tạo dựng từ lúc ngơn ngữ mới hình thành.


Firmament

Volume 15, No. 1, April 2022

112

Thêm vào đó các thí dụ hoặc kết quả trình bày ở đây cho thấy từ vựng, quan sát qua chùm ngữ
nghĩa, không chỉ đơn thuần xoay quanh ngữ từ và ngữ nghĩa mà còn liên hệ đến ngữ âm, ngữ từ
giống nghĩa, ngữ từ tạo dựng qua hài thanh, ngữ từ tạo dựng qua mô phỏng, ngữ từ trong cùng
một chùm ngữ nghĩa, và chùm ngữ nghĩa có thể biến đổi với thời gian và không gian, nới rộng

ra, hoặc co hẹp lại, nhất là khi có từ mới thay thế.
Trở lại câu chuyện chữ q và q, có thể thấy vấn đề trở nên phức tạp hơn nếu đặt câu hỏi là có
thật như vậy khơng, khi nói âm [q] thật sự tương đương với âm [cúi] và cúi chỉ con heo, theo
như kí âm Mường [kwí] hay Khmer [kaor]. Câu hỏi này thật ra chỉ có giải đáp với lí thuyết trình
bày ở đây, là trong hệ thống số đếm hay số thứ tự thời ngơn ngữ mới hình thành (thời kì này có
thể kéo dài thoải mái từ một nghìn năm đến vài chục ngàn năm), con lợn chiếm vị trí thứ 10 hay
thứ 12. Trong hệ thống 10 thiên can (Giáp Ất Bình Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Q), can Q
癸 [guǐ] đứng hàng thứ 10, cũng như có thể mang nghĩa số 10, có ngữ âm tương đương với con
lợn, tức con cúi. Trong 12 con giáp, tuổi Hợi đứng vào hàng 12, tức 2 (10+2) như tên gọi tiếng
Hán: 亥 [hai] (năm Hợi). Để ý, trong môi trường khơng có chữ viết, rất khó phân biệt âm [heo],
[hai] và [hợi]. Tiếng Thái hiện đại gọi con lợn là [muu] hay [muu bpa]. Âm [muu] tương đương
với 10 [mười], và [muu bpa] là 12, bởi [bpa] (Việt ba) là âm rất phổ thơng trong nhóm MonKhmer tiêu biểu chỉ số 2, [muu bpa]=10+2, và đơi khi có thể số 3, như trong tiếng Việt, ba. Âm
[ba] chỉ số 2, hoặc 12 trong thời tiếng nói vừa mới phát triển, cũng ứng với từ 豝 [ba] mang
nghĩa con heo nái, hoặc con lợn được hai (2) tuồi. Hai từ nữa dùng chỉ con lợn là 豨 [xi] và 豕
[shi]; 豨 [xi] có âm [hei] Quảng Đơng, gần với [hai] và [hợi], cịn 豕 [shi] có âm gần số 10: 十
[shi]. Tiếng Việt mười (10) kí âm kiểu khác là [muay] hay [mùi], chính là âm tiếng Khmer chỉ số
1, bởi nhìn trên 10 ngón tay, ngón thứ 10 cũng là ngón thứ 1 đếm ngược lại. Hay [mùi] chỉ tháng
Mùi, tháng số 6 chỉ là số 1 trên bàn tay thứ 2. Cũng giống như số năm (5) trong tiếng Việt thường
có âm [nəm], [ənəm]. [nam] hay [num] trong một số tiếng Nam-Đảo dùng để chỉ số 6, bởi cả 5
và 6 đều thể hiện bằng ngón tay chót của bàn tay. Thử thêm một thí dụ nói lên chuyện số thứ tự
dùng con thú là một trong những “tư tưởng” cơ bản của con người khi bắt đầu phát minh ngơn
ngữ. Tên con thú có thể phát hiện trước tiên qua đường ô-nô-ma (hài thanh từ) tức nhại theo âm
con vật để kiến tạo thành từ; thí dụ, tiếng chó sủa cấu-cẩu hay gấu-gấu tạo ra cẩu và [gǒu] 狗, là
từ dùng để chỉ con chó. Đặc điểm con chó là có 4 chân, và âm chỉ con chó có thể dùng để chỉ số
4 hay số 9 (5+4), tức 九 [jiu], cửu, có cùng âm [gau] như từ 狗 (cẩu, chó) trong tiếng Quảng
Đơng, và cùng âm [gao] hay [giu] trong tiếng Phúc Kiến (Mân Việt). Vị trí tháng Tuất cũng là
tháng thứ 9 nếu kể tháng Dần, tức tháng Giêng (Alexandre de Rhodes ghi là tháng gyâng rất gần
với Dần) là tháng đầu tiên, tức tháng theo số đếm là tháng số 1. Theo lịch tháng Dần là tháng 1,
vị trí của Ngọ (午) là thứ 5 tức ngũ 五 (5), và cả hai đều mang phát âm [wu] trong tiếng quan
thoại. Âm [wu] cũng ứng với can Mậu 戊 [wu], can thứ 5 trong 10 Thiên Can (âm Mậu là âm

giống [mou] (戊) tiếng Quảng Đơng). Nếu theo lịch tháng Tý là tháng 1, thì tháng Ngọ, tức ngựa
(mã), là tháng thứ 7 tức ứng với số 2 (7=5+2), và tiếng Hoa có từ 孖 [maa] (Quảng Đông), mang
nghĩa cặp, đôi, hay song sinh, tức số 2, giống như 馬 [maa], ngựa. Âm [maa] trong tiếng Quảng
mang hàm ý số 2, cũng là âm [maa] của từ 媽 [maa] chỉ người Mẹ. Tức trong một số ngơn ngữ
Mẹ có thể đóng vai số 2 hoặc số 1. Mẹ, mạ, má có thể ứng với số 1 qua âm [mà] hay [mầ] tiếng
Mường mang nghĩa 1 (số một). Trong khi âm [maa] mang nghĩa số 2 cịn có thể kể má, tức đơi
má (2 đơn vị, tức số 2), ứng với mả tiếng Mường. Đôi má tiếng Hán gọi là 腮 [sai], kí âm quốc
ngữ là tai, cũng là âm chỉ số 2 (hai tai).


×