Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

TÌM HIỂU SỰ GIAO LƯU VĂN HÓA QUA LỄ HỘI DÂN GIAN Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.69 KB, 33 trang )





TÌM HIỂU SỰ GIAO LƯU VĂN HÓA
QUA LỄ HỘI DÂN GIAN Ở MIỀN ĐÔNG
NAM BỘ










1
VNH3.TB4.46
TÌM HIỂU SỰ GIAO LƯU VĂN HÓA QUA
LỄ HỘI DÂN GIAN Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

ThS. Nguyễn Thị Nguyệt
Bảo tàng Đồng Nai
Đặt vấn đề
Miền Đông Nam Bộ bao gồm các tỉnh thành như: Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai,
Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh. Dân cư ở miền Đông Nam
Bộ ngoài người Việt chiếm đa số, còn có các dân tộc bản địa và nhập cư như: Chơro, Mạ,
Stiêng, Cơho, Hoa, Chăm, Khơmer, Tày, Nùng, Mường… Miền Đông Nam bộ có vị trí địa
lý thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp cũng như phát triển công nghi
ệp, kinh tế dịch


vụ và mở mang đô thị. Những địa phương dẫn đầu cả nước về phát triển công nghiệp đều
thuộc khu vực miền Đông như: Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương và thành phố
Hồ Chí Minh chứng tỏ tiềm năng kinh tế rất phát triển đặc biệt kinh tế công nghiệp trong
thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đ
ó, miền Đông Nam Bộ còn nổi
tiếng về tiềm năng phát triển du lịch như du lịch biển Vũng Tàu, du lịch về nguồn và thắng
cảnh núi Bà Đen ở Tây Ninh, du lịch trên sông Đồng Nai và du lịch vườn trái cây ở Lái
Thiêu (Bình Dương) Một trong những đặc điểm văn hóa, đó là những lễ hội dân gian
truyền thống của các dân tộc ở khu vực miền Đông Nam Bộ nổi tiếng nh
ư: lễ hội Bà Đen ở
Tây Ninh, lễ hội Dinh Cô ở Bà Rịa - Vũng Tàu, lễ hội Chùa Bà Thiên Hậu ở Bình Dương, lễ
hội mừng lúa mới của dân tộc Chơro, Mạ, Stiêng, lễ hội giỗ Tổ nghề Đá ở miếu Tổ sư ở
Đồng Nai, lễ hội Ông Bổn ở Lò chén Bình Dương, lễ hội Quan Thánh Đế ở Đồng Nai, lễ kỳ
yên đền thờ Nguy
ễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai, lễ hội Thiên Hậu miếu ở Đồng Nai, lễ hội Cầu
ngư ở Cần Giờ thành phố Hồ Chí Minh… Những lễ hội này đều mang tính đặc thù của các
dân tộc Việt, Chơro, Mạ, Stiêng, Chăm, Hoa, Khơmer… Tuy nhiên, trong từng lễ hội diễn
ra ở các cơ sở tín ngưỡng đều có sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, sự tiếp nhận v
ăn hóa
hình thành nên đối tượng thờ tự và hình thức lễ hội của dân tộc này có ảnh hưởng văn hóa
của dân tộc khác.
Phạm vi tìm hiểu của đề tài là những lễ hội tiêu biểu tổ chức ở các cơ sở tín ngưỡng
dân gian ở miền Đông Nam Bộ.
1. Khái niệm về “Giao lưu văn hóa”
Giao lưu văn hóa hay giao lưu tiếp biến văn hóa (acculturation) là quá trình các cộng
đồng người “gặp nhau”, tiếp xúc nhau trên cơ sở đó “tiếp nhận” những giá trị văn hóa. Sự
tiếp nhận này có vai trò như là một động lực làm cho một hay nhiều yếu tố truyền thống
trong văn hóa của họ luôn được điều chỉnh, biến đổi cách tân cho thích hợp.

2

Giao lưu văn hóa (exchange culture) là khái niệm nói về một hiện tượng phổ biến
mang tính quy luật thường xuyên chi phối quá trình vận động, phát triển trong mọi nền văn
hóa dân tộc trên thế giới. Giao lưu văn hóa là hệ quả của sự tiếp xúc và là điều kiện cho sự
hội nhập của các nền văn hóa khác nhau khi có dịp gặp nhau trong bối cảnh lịch sử nhất
định. Giao lưu văn hóa chính là quá trình của s
ự gặp gỡ các giá trị văn hóa của dân tộc khác
nhau. Trong những điều kiện lịch sử cụ thể, sự tiếp xúc văn hóa có thể trực tiếp hoặc gián
tiếp, lâu dài hoặc ngắn ngủi, tự nhiên hoặc cưỡng bức… là những nhân tố trong quá trình
giao lưu, tiếp xúc văn hóa để hình thành nên những đặc trưng văn hóa mới, phù hợp cho cả
hai nền văn hóa ấy.
2. Những lễ hội dân gian tiêu biểu ở miền Đông Nam Bộ
Lễ hội dân gian là hệ thống những lễ hội được tổ chức mang tính chất dân dã, phổ
biến trong cộng đồng xã hội nhằm phục vụ cho nhu cầu về tâm linh của con người cầu
mong cho cuộc sống được tốt lành, may mắn.
2.1. Lễ hội núi Bà Đen- Linh Sơn Thánh mẫu (Tây Ninh)
Núi Bà Đen cách thị xã Tây Ninh 11km, có diện tích rộng 24km
2
gồm ba ngọn núi là:
núi Heo, núi Phụng và núi Bà tạo thành. Núi Bà Đen cao 986m là ngọn núi cao nhất Nam
Bộ. Nhìn từ xa, do luôn được bao phủ bởi những đám mây trắng trên đỉnh núi, Bà Đen trông
giống như được khoác một tấm lụa mỏng. Trên núi, có nhiều hang động, cây cỏ xanh tươi,
nước chảy theo khe róc rách tạo nên phong cảnh sơn thủy hữu tình giống như một bức
tranh thủy mặc.
Rải khắp từ chân núi lên đến đỉnh là những qu
ần thể kiến trúc gồm điện, chùa, miếu,
tháp hầu hết đều phản ánh những đặc trưng của văn hóa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian.
Núi Bà Ðen có điện thờ Linh Sơn Thánh Mẫu (Điện Bà), bên trong có bức tượng đồng Bà
Đen - Linh Sơn Thánh Mẫu. Bên cạnh các tượng Phật còn có hệ thống các tượng thờ tín
ngưỡng dân gian như: Quan công, Tứ vị Sơn thần, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Ông
Địa, Ông Tà, Tứ v

ị Thiên vương. Đặc biệt hệ thống thờ Mẫu - Nữ thần đông đảo như: Cửu
Thiên Huyền nữ, Diêu Trì Kim mẫu, Thiên Hậu Thánh mẫu, Địa Mẫu, bà Chúa Xứ và cả
cậu Tài, cậu Quý, Cô Hồng, cô Hạnh và tượng Quán Thế Âm Nhưng trung tâm vẫn là
Linh Sơn Thánh Mẫu với nơi thờ chính tại điện Bà nằm ở vị trí lưng chừng núi (độ cao
khoảng 400m).
Nói đến núi Bà Đen, ng
ười ta nghĩ ngay đến Linh Sơn An Phước tự (chùa Hang),
Linh Sơn Tiên Thạch tự, Dốc Thượng, động Huyền Môn, động Thanh Long, động Ma Ha,
hang Gió, hang Ong Hổ Nhiều huyền thoại, truyền thuyết kể về Bà Đen nhưng phổ biến
truyền tụng trong dân gian là truyện Lý Thị Thiên Hương. Câu chuyện kể về một đôi trai tài
gái sắc ở vùng Quang Hóa (nay là huyện Tràng Bảng) nguyện ước đính hôn. Chàng trai tên
là Lê Sĩ Triệt, người con gái tên là Lý Thị
Thiên Hương. Giữa buổi loạn ly, chàng Triệt lên
đường tòng quân cứu nước, nàng Hương ở nhà thủ tiết chờ chàng. Trong một lần lên núi lễ
Phật, nàng bị bọn cướp hãm vây bức hiếp. Không để thanh danh hoen ố, nàng chống trả

3
quyết liệt và nhảy xuống vực sâu quyên sinh. Dân gian truyền rằng nàng Hương rất hiển
linh, đã báo mộng cho vị sư trụ trì trên núi đem thi hài nàng về mai táng. Sau này, những
quan binh đi đánh giặc hoặc dân tình chẳng may bị lạc trên núi thường được nàng báo mộng
chỉ đường ra khỏi rừng rậm, non cao. Vì vậy trong vùng lập đền thờ Bà trên núi. Từ đó núi
có tên gọi là núi Bà Đen.
Hàng năm, vào mùa xuân từ tháng giêng kéo dài đến tháng ba chính là mùa lễ hội núi
Bà Đen hay còn g
ọi là hội đền Linh Sơn Thánh Mẫu. Hội đền Linh Sơn Thánh Mẫu bắt đầu
từ 20 Tết trở đi và chính hội vào ngày 15 tháng giêng âm lịch, chính lễ Vía Bà là đêm 18 và
ngày 19 tháng giêng. Đặc trưng của hội là du xuân, lễ bái cầu mong một năm thịnh vượng.
Trước ngày chính lễ, vào lúc nửa đêm, người ta tiến hành lễ "Mộc Dục" (Tắm Bà).
Lễ tắm Bà với ba lần khăn lau (phải dùng toàn khăn mới), khăn phả
i được xông hương, tắm

Bà bằng nước thơm nấu bởi các loại hoa: sen, lài, sứ, quế do các lễ sĩ dâng lên. Lễ sĩ là
những thiếu nữ được chia thành cặp trong các bộ lễ phục đẹp lộng lẫy, chân bước nhẹ, nhịp
nhàng "đăng đài" theo bộ "chữ Tâm" trong tiếng nhạc lễ qua các làn điệu Xuân, Đảo Nam
Bộ.
Mỗi dịp xuân về, lễ hội núi Bà Đen lạ
i thu hút hàng triệu lượt du khách trên khắp mọi
miền đất nước.
Ngoài ra còn một lễ Vía Bà vào ngày mồng 6 tháng 5 âm lịch. 0 giờ đêm ngày 5
tháng 5 âm lịch, diễn ra lễ Tắm Bà tại Điện thờ có màn che bên ngoài. Một số phụ nữ lớn
tuổi làm các nghi thức như: thắp hương xin phép Bà, lau Bà bằng nước dừa nấu với hoa, lá
và nước hoa, thay trang phục mới cho Bà, lễ Bà. Tắm xong, nhang đèn được thắp lên và cửa
đền rộng mở
đón khách thập phương đến viếng Bà. Lễ vật cúng Bà là hương, đăng, trà, quả,
rượu, bánh
Buổi sáng sớm ngày 6/5 Ban tổ chức làm lễ Trình Thập Cúng với 10 món lễ vật gồm:
hương, đèn, hoa, trà, quế, rượu, bánh ít chay, cặp dây chuyền, xuyến, bông tai (nữ trang
bằng vàng mã). Các lễ vật do các vị sư nhà Phật và Ban tế lễ (mặc áo thụng xanh, thắt đai
đen, mang hài và đội mũ tế) thực hiện trong tiếng nh
ạc lễ, trống, chiêng vang lên rộn rã
Buổi tối biểu diễn hát Bóng rỗi (múa Mâm vàng, Mâm bạc, Mâm đồ chơi ), hát
Chặp Địa Nàng.
Ngày 6/5 âm lịch nghi lễ theo Phật giáo, các hòa thượng tụng kinh sám hối, cúng
Ngọ, thí thực cô hồn Trước đây còn tổ chức hát Bội vào các ngày 7 và 8 tháng 5 âm lịch.
Có thể nói, lễ Vía bà Đen gồm cả hai lễ lớn vào dịp Rằm tháng giêng và ngày 6/5 âm
lịch. Lễ hội kết hợp với leo núi, vãn cảnh chùa tạo nên hoạt độ
ng văn hóa du lịch độc đáo
ở danh lam thắng cảnh này. Lễ hội núi Bà Đen với những lễ nghi và phần hội thể hiện sự
đan xen giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người dân Nam Bộ.
2.2. Lễ hội đình thần Thắng Tam (Bà Rịa - Vũng Tàu)


4
Đình thần Thắng Tam là một quần thể kiến trúc gồm có ba di tích: đình Thắng Tam,
miếu Bà Ngũ Hành, lăng ông Nam Hải. Theo truyền thuyết đình thần Thắng Tam thờ chung
cả ba người đã có công xây dựng nên ba làng Thắng ở Vũng Tàu, đó là: Phạm Văn Dinh, Lê
Văn Lộc và Ngô Văn Huyền.
Chuyện kể rằng: thuở ấy hải tặc Mã Lai và Tàu Ô thường hay đột nhập cửa sông Bến
Nghé đón đường c
ướp bóc tiền bạc, hàng hóa, bắt cóc người trên các thuyền buôn. Để bảo
vệ thương thuyền của người Việt, vua Gia Long liền phái ba đội quân đi trên ba chiếc
thuyền. Mỗi đội quân do một viên xuất đội thống lĩnh. Khi tới bán đảo Vũng Tàu, họ đổ
quân, lập trại và đặt tên cho doanh trại, đồn binh của mình là Phước Thắng. Ba đội quân
Phước Thắng vừa làm nhiệm vụ bảo vệ bờ biể
n, vừa khai hoang lập làng. Chỉ trong vòng
vài năm, phần lớn hải tặc Mã Lai và Tàu Ô bị diệt trừ. Số ít còn lại không dám sách nhiễu
thương thuyền của Đại Việt nữa. Năm 1822, Minh Mạng ban chiếu khen thưởng chức tước,
phẩm hàm cho các đội quân, giải ngũ và ban thưởng những phần đất mà họ có công khai
phá. Từ ba vị trí của ba đội quân, đã dần dần hình thành nên ba làng Thắng Nhất, Thắng Nhì
và Thắng Tam.
Sau khi ba đội ông Ph
ạm Văn Dinh, Lê Văn Lộc và Ngô Văn Huyền chết, triều đình
đã ban sắc phong cho ba ông là những vị thần thành hoàng làng Thắng này.
Ngoài những giá trị mang ý nghĩa lịch sử, văn hoá, đình thần Thắng Tam còn bảo tồn
những lễ hội dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Hàng năm đình thần Thắng Tam
tổ chức lễ hội trong 4 ngày từ 17 đến 20 tháng 2 âm lịch. Đây là lễ hội cầu an, là th
ời điểm
kết thúc và mở đầu cho một mùa thu hoạch tôm cá.
Phần lễ diễn ra rất cầu kỳ: cúng tế, lễ vật tế thần, dâng hương quỳ lạy, chiêng trống,
kèn nhạc và có rất nhiều điều kiêng kỵ như heo dùng để tế lễ phải có bộ lông cùng màu,
người có tang không được tham gia vào việc nghi thức tế lễ. Ngoài ra, phần hội có nhiều trò
vui chơi giải trí như múa lân, hát bội

Lễ hội đình thần Thắng Tam là một hoạt động văn hoá đặc sắc của ngư dân miền
biển Vũng Tàu. Lễ hội góp phần bảo tồn và làm phong phú cho sinh hoạt văn hóa tinh thần
ở miền Đông Nam bộ trong cuộc sống hiện đại hôm nay.
2.3. Lễ hội Nghinh Cô (Bà Rịa - Vũng Tàu)
Lễ hội Nghinh Cô nằm trong hệ thống lễ hội thờ Mẫu - nữ thần tiêu biểu củ
a ngư dân
Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhưng đây không đơn thuần chỉ thờ nữ thần mà là sự kết hợp của lễ hội
Cầu Ngư với tục thờ cúng Thần Biển (Bà Thủy Long, cá voi của người Chăm) và tín
ngưỡng thờ Mẫu - nữ thần của cư dân địa phương.
Hàng năm, cứ đến ngày mồng 10 tháng hai âm lịch, hàng chục ngàn người ở khắp
các miền quê tề
tựu về Dinh Cô (thị trấn Long Hải, Bà Rịa - Vũng Tàu) tham dự lễ hội. Đây
là một trong những lễ hội lớn nhất của ngư dân ven biển Nam Bộ.

5
Lễ hội diễn ra ở Dinh Cô, dưới mỏm núi Thùy Vân thuộc ấp Hải Sơn, thị trấn Long
Hải, huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Người dân địa phương thường gọi đây là lễ
hội Dinh Cô.
Dinh Cô trước còn gọi là miếu thờ Bà Cô được xây dựng và trùng tu khoảng năm
1930. Diện tích khoảng 100m
2
. Bên trong thờ

tượng Bà Cô cao khoảng 0,5m mặc áo choàng
đỏ, đội mão gắn hột màu trắng. Bên cạnh Bà Cô, người ta còn thờ các vị thần thánh khác
như: Diêu Trì Phật Mẫu, Chúa Cậu hay Nhị vị công tử (cậu Tài, cậu Quý con Bà Chúa
Ngọc), Ngũ Hành nương nương, Tứ Pháp nương nương, Ông Địa, Thần Tài Ngoài ra, còn
các miếu nhỏ xung quanh thờ Cửu Thiên Huyền nữ, Chúa Ngọc nương nương, Chúa Tiên
nương nương, Quán Thế Âm bồ tát, Hỏa Tinh Thánh mẫu, Quan Thánh Đế quân Tất c


các đối tượng thờ tự này có nguồn gốc khá đa dạng, đại diện cho nhiều dòng văn hóa khác
nhau của các dân tộc Việt, Hoa, Chăm Các đối tượng phối tự này nằm xung quanh của
trục trung tâm là “Bà Cô”- một Nữ thần địa phương.
Dinh Cô với lễ hội Nghinh Cô ở Long Hải gắn liền với những truyền thuyết dân gian
thu hút sự hiếu kỳ của nhiều người. Truyền thuyết k
ể rằng, có một cô gái tên là Lê Thị
Hồng, quê ở Phan Rang, là con gái duy nhất của ông Lê Văn Khương và bà Thạch Thị Hà.
Trong một lần theo cha vào Nam buôn bán, cô bị nạn trên biển. Sau ba ngày tìm kiếm
không thấy con gái, người cha buồn bã quay về quê nhà. Vài hôm sau, người ta thấy xác cô
trôi dạt vào Hòn Hang. Ngư dân Phước Hải chôn cất cô trên đồi cát gần nơi tìm thấy xác (đó
là mộ Cô bây giờ).
Trong một lần khi dịch bệnh đang hoành hành trong làng, có người nằm mơ thấy Cô
báo mộng về ch
ỉ cách giúp dân làng vượt qua khỏi dịch khí. Dân làng thấy vậy liền thắp
hương cầu khấn Cô, quả nhiên dịch bệnh qua khỏi. Sau sự việc ấy, bà con địa phương đã
xây am thờ phụng Cô, cầu mong Cô độ trì cho dân làng làm ăn phát đạt cuộc sống an lành.
Hàng năm lễ hội Dinh Cô được ngư dân Long Hải tổ chức rất long trọng suốt ba
ngày từ 10 đến 12 tháng 2 âm lịch là ngày giỗ Cô theo phong tục truyền thống ở đị
a
phương.
Vào ngày lễ, Dinh Cô được trang hoàng hết sức rực rỡ, trang nghiêm, chăng đèn kết
hoa. Các nhà trong vạn ghe đều đặt bàn hương, trên có nhang đèn, bánh trái, mâm xôi Ban
đêm có treo đèn lồng. Các tàu thuyền của ngư phủ đều đậu ở bến, mỗi chiếc đều treo đèn
giấy nhiều màu, kết hoa từ mũi đến lái, kể cả cột buồm. Những chiếc thuyền ghe từ các làng
cá như Long Hải, Phước Hả
i, Phước Tỉnh, Vũng Tàu và một số thuyền ghe từ miền Trung
vào đều trở nên lộng lẫy. Vì thế, ban đêm ở đây hiện ra cảnh nhộn nhịp huy hoàng của đêm
hội hoa đăng. Thuyền ghe nào ở đây cũng hướng mũi vào trước Dinh Cô để thực hiện nghi
thức "Chầu Cô".
- Vào ngày đầu tiên của lễ hội (ngày 10 tháng hai), Ban quý tế và ngư dân đã tề tựu

về Dinh Cô để chuẩ
n bị cho lễ Nghinh Cô.

6
7 giờ sáng ngày 10 tháng 2 âm lịch, lễ Nghinh Bà Lớn (Thủy Long thần nữ) và Ông
Nam Hải (tức cá Voi) từ dinh Ông Nam Hải về Dinh Cô. Đoàn rước có Ban tế lễ, học trò lễ,
ban nhạc lễ, 12 bạn chèo (trang phục áo đỏ, nẹp vàng, nón lá vàng, tay cầm chèo), đội lân
với hai long đình (một ngôi Nghinh Bà lớn còn một ngôi Nghinh Ông) và cầm cờ ngũ hành.
Ngày đầu tiên cúng Tiền hiền, Hậu hiền và tụng niệm cầu quốc thái dân an được tổ chức
dưới sự
điều khiển của vị Chánh bái, có sự tham gia của các nhà sư Phật giáo đến tụng kinh
cầu an cầu mong làng xóm yên vui, mọi người khoẻ mạnh, nghề nghiệp thuận lợi, làm ăn
phát đạt…
- Ngày thứ hai (11 tháng 2 âm lịch) là phần hội thi chèo thúng và bơi lội. Buổi tối
cúng Tiên thường, các nhà sư Phật giáo chủ trì tụng kinh cầu an.
- Ngày thứ ba (ngày 12 tháng hai âm lịch) là Chính hội. Ngay từ buổi sáng ngư dân
đã tổ chức lễ Nghinh Cô (ngoài biể
n) về Dinh để nhập điện. Ghe Nghinh Cô được chuẩn bị
kỹ lưỡng, trang hoàng rực rỡ. Đoàn ghe Nghinh Cô gồm hàng trăm chiếc, trong đó có hai
ghe chính và 6 ghe hộ tống. Ở hai ghe chính có bày bài vị hương án và cúng phẩm. Phẩm
vật dâng Cô và thần thánh trong các lễ cúng gồm thịt heo sống để nguyên con, heo quay,
xôi, chè, các thứ đồ xào, hoa quả… Trên hai ghe chính có chủ tế, ban nhạc lễ, 12 lễ sinh và
12 bạn chèo.
Đúng 7 giờ đoàn ghe Nghinh Cô bắt đầu khơi hành, tiến th
ẳng ra khơi. Khi đoàn ghe
cách bờ hơn chừng 1km, chủ tế ra lệnh đoàn ghe dừng lại. Lúc ấy nghi lễ được bắt đầu. Chủ
tế niệm hương, ban nhạc lễ và lễ sinh xướng. Sau khi niệm hương xong, đoàn ghe tiếp tục
diễu hành một vòng lớn trên biển, đi qua miếu Bà Thủy Long rồi trở về bãi biển phía Tây,
cách Dinh Cô chừng trăm mét. Trên bờ hai "Bóng chàng" và 10 thanh niên cầm cờ ngũ hành
đứng thành hai hàng

đối xứng nhau đi rước bài vị, hương án Nghinh Cô về an vị tại Dinh.
Từ 8-10 giờ sáng, lễ tế chính thức theo truyền thống Nam Bộ với lễ vật chính là heo
quay cúng Bà Thủy Long, heo toàn sinh (thịt sống) cúng ông Nam Hải và các đồ chay cúng
Bà Cô. Một nghi thức khác xuất hiện trong lễ hội Nghinh Cô là lễ phóng sinh. Người ta mua
chim để trong lồng và tổ chức thả chim ra, tương tự việc phóng sinh vào các ngày rằm hay
mồng một.
Trong những ngày diễn ra lễ hộ
i Nghinh Cô ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Ban quý tế còn
mời các đoàn hát về diễn Tuồng và hát Bội. Buổi tối có diễn xướng dân gian gồm Chặp Địa
Nàng, múa bóng (mâm ngũ sắc, mâm vàng, mâm bạc)
Ngoài ra, người ta còn tổ chức múa lân sư rồng và các trò chơi dân gian khác như thi
bắt cá, bắt lươn và các môn thi đua thuyền, đua thúng… Các trò chơi dân gian này thường
thu hút đông đảo thanh niên ngư dân trong làng tham gia. Vì vậy mà trò chơi này thường
diễn ra rất hào hứng và sôi nổi vì sự cổ v
ũ nhiệt tình của người xem, giúp cho lễ hội thêm
phần náo nhiệt và hấp dẫn.
Như vậy, có thể nói nét độc đáo của lễ hội Nghinh Cô Long Hải chính là sự hội tụ,
ngưng đọng của nhiều dòng, nhiều nét đẹp văn hóa và hương vị riêng của mọi miền. Và

7
trong khoảnh khắc của không khí lễ hội thiêng liêng và tin cẩn này, người dự hội có cảm
giác khoảng cách giữa thần linh và đời sống dân dã dường như không còn nữa. Chính sự
quy mô và thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham dự lễ hội Nghinh Cô đã tạo ra một
diện mạo và tác động tích cực đối với lễ hội khác ở địa phương và trong vùng.
2.4. Lễ hội chùa Bà Thiên Hậu (Bình Dương)
Thiên Hậu cổ miếu hay th
ường gọi là chùa bà Thiên Hậu là một di tích văn hóa
người Hoa ở tỉnh Bình Dương. Miếu được kiến trúc theo lối cổ, đặc trưng của người Hoa
thờ nữ thần Thiên Hậu. Theo truyền thuyết được ghi ở tấm bia đá đặt ở chùa, Bà sinh vào
thời Tống Kiến Long nguyên niên (960), là con thứ 6 của gia đình họ Lâm ở huyện Bồ

Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Khi mới lọt lòng mẹ, bà đã t
ỏa ánh hào quang và hương
thơm. Lớn lên, Bà thường cưỡi thảm bay lượn trên biển và du ngoạn nhiều nơi. Năm 27 tuổi
Bà từ giã cõi trần và hiển linh. Đời Nguyên, Bà được phong là Thiên Phi, đến đời Thanh,
vua Khang Hy gia phong làm Thiên Hậu. Và danh hiệu Thiên Hậu tồn tại mãi cho đến nay.
Từ truyền thuyết dân gian đã chuyển hóa thành tín ngưỡng và Bà được những thế hệ
sau hương khói, phụng thờ ở nhiều nơi. Dân gian đều ca ngợi suy tôn Bà là một người phụ
nữ đức hạnh có lòng hiếu thảo xả thân cứu người đời và khi chết trở thành hiển linh, được
các triều đại phong kiến Trung Quốc phong tặng. Đề cao Bà Thiên Hậu, ngưỡng mộ và
phụng thờ Bà như một vị hiển thánh, bà con người Hoa muốn thông qua tấm gương của Bà
mà giáo dục cộng đồng của mình hãy học tập lòng hiếu thuận, đức nhân hậu của Bà, sống có
đạo nghĩa. Mặt khác, trên con đườ
ng vượt sóng gió biển khơi, đi về hướng nam tìm đất lập
nghiệp đầy gian truân, họ luôn cầu nguyện Bà giúp đỡ, phù hộ và sau khi đã định cư, ổn
định đời sống, sum họp đông vui, làm ăn phát đạt trên đất Việt Nam, quê hương thứ hai của
họ, họ cùng nhau lập đền thờ để tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với Bà.
Lễ hội chùa Bà hàng năm được tổ chức trong ba ngày từ
13 đến 15 tháng giêng âm
lịch. Đêm 13/1 âm lịch, nhân dân ở thị xã Thủ Dầu Một bày bàn ra trước nhà để cúng tế
chuẩn bị cho lễ rước Bà ngày hôm sau. Dân chúng các vùng lân cận cũng đổ về đây khá
đông.
Sáng 14/1 lễ rước Bà được tổ chức theo nghi thức cổ truyền: kiệu Bà được rước đi
khắp các đường phố cùng với những đội múa hẩu, lân, sư tử, rồng, cờ xí ngợp trời.
Ngày 15/1 dân chúng l
ại kéo nhau về chùa Bà để thắp hương cúng lễ, cầu phúc, cầu
lộc cho năm mới.
Hàng năm, vào ngày rằm tháng Giêng (và ngày vía Bà 23/3 âm lịch) lễ hội diễn ra tại
chùa bà Thiên Hậu trở thành ngày hội long trọng của cư dân người Hoa, người Việt tại Nam
Bộ với nhiều nghi lễ cùng bái, cầu phước lộc, rước kiệu Bà… thu hút hàng trăm ngàn khách
hành hương. Các đoàn hẩu, lân sư rồng của 4 bang người Hoa đều tề tựu, u

ốn lượn biểu diễn
trong tiếng trống tưng bừng, thu hút nhất là hội đấu giá đối với 12 chiếc đèn lồng, tượng
trưng sự may mắn cả năm.

8
Trọng tâm của lễ hội là phần diễu hành rước kiệu Bà. Toàn khu vực trung tâm thị xã
Thủ Dầu Một chìm trong dòng người, các ngả đường chật như nêm. Đoàn rước kiệu sắc
phục chỉnh tề, các tú nữ gánh hoa duyên dáng, rạng rỡ, hẩu, lân sư rồng ra sức phô diễn tài
nghệ trong tiếng trống, phèng la… tạo nên một lễ hội tưng bừng, sôi động rất độc đáo.
Khách hành hương viếng l
ễ hội đều tin rằng hạnh phúc, phước lộc và may mắn sẽ cùng theo
về với gia đình, mở đầu một năm mới sung túc, thịnh vượng.
2.5. Lễ hội vía Tổ Nghề (Đồng Nai)
Đây là một trong những lễ hội có quy mô nhằm tưởng nhớ những vị Tổ Nghề làm đá
của người Hoa ở Bửu Long, Biên Hòa, Đồng Nai. Ba năm một lần, lễ hội được tổ ch
ức lớn
gọi là lễ hội Chay kéo dài từ ngày 10 đến 13 tháng 6 âm lịch thu hút rất đông đảo bà con
người Hoa và người Việt từ khắp nơi về tham gia. Lễ hội tổ chức tại Thiên Hậu cổ miếu
(trước đây là miếu tổ sư nghề điêu khắc đá) của người Hoa bang Hẹ tại phường Bửu Long,
thành phố Biên Hòa. Chánh điện thờ tam vị tổ nghề gồ
m: Ngũ Đăng tiên sư - tổ nghề Đá,
Lỗ Ban tiên sư - tổ nghề Mộc và Uất Trì tiên sư - tổ nghề Rèn; hai bên thờ Thiên Hậu Thánh
Mẫu và Quan Thánh Đế quân.
Vào đám làm chay, Ban tổ chức mời những vị đạo sĩ Đạo giáo ở thành phố Hồ Chí
Minh về chủ trì với nhiều nghi thức gồm cả lễ và hội diễn ra suốt 3, 4 ngày đêm.
* Ngày 10 tháng 6 âm lịch: Khai lễ làm chay
Đầu tiên khai lễ là thỉ
nh chư thần, là lễ rước linh vị Tam vị Tổ sư, Thiên Hậu Thánh
mẫu và Quan Thánh Đế quân. Mục đích của việc làm chay là để cầu phước, cầu nghề
nghiệp và giải hạn cho cộng đồng trong ba năm qua, mong ước một cuộc sống an bình, may

mắn, người người khỏe mạnh, hạnh phúc, nhà nhà sung túc, nhóm hội đoàn kết, tương trợ.
Người chết thì được ơn siêu thoát, không còn vương vấn quấy phá xónm làng. C
ầu mưa
thuận gió hòa, quốc thái dân an, công việc thuận lợi, phát tài phát lộc…
Đi đầu là các đoàn lân sư rồng vừa đi vừa múa lẫn trong những người cầm cờ, trướng
dẫn đầu cuộc rước. Tiếp sau là dàn nhạc ngũ âm và bàn hương án và những người cầm bát
bửu. Đoàn rước từ Thiên Hậu cổ miếu lần lượt thỉnh các bài vị Bà Thiên Hậu ở miếu Cây
Quăn, bài vị
Tiên Cô nương nương ở miếu Nương Tơ, bài vị Thổ công ở miếu Thổ thần và
bài vị Thiên Hậu ở Thiên Hậu cung. Trên các con đường đoàn rước đi qua, các gia đình
người Hoa sắp sẵn một mâm hoặc cỗ đồ cúng hình tháp gồm giấy vàng bạc, nhang, đèn dầu,
bánh trái ở trước nhà để nghênh đón Tổ và các thần.
Khai quang điểm nhãn: Đạo sĩ chủ lễ tiến hành khai quang điểm nhãn t
ất cả các đồ
thờ và các vị trí trong miếu như: bàn thờ tam vị Tổ, Thiên Hậu, Quan Công, Phúc Đức
Chính thần, hương án Trương Thiên Sư, đèn lồng, cờ, trướng, hình nhân Phán Quan, cây
phướng (cây nêu) ngoài sân và Ông Tiêu. Sau khi điểm nhãn, các tượng hoặc hình nhân
trước đó phong kín mặt bắt đầu được mở ra.
* Ngày 11 tháng 6 âm lịch: Khai kinh cầu an

9
Rước các mâm cỗ cúng từ các gia đình về miếu để cúng cô hồn. Đúng 8 giờ, vị chủ tế
bắt đầu khai kinh cầu an. Lễ vật cúng gồm có trái cây, ba chung trà, ba chung rượu, nhang
và bông tươi. Sau ba tuần trà rượu, vái lạy, đốt giấy vàng bạc cho các thần. Lần lượt cúng
trước điện thờ ở rạp chay, Phán Quan, Ông Tiêu ngoài sân và cây nêu, các bàn thờ chính
trong miếu.
Lễ Ngọ môn đáp tướng: các đạo sĩ làm lễ nhập đàn, vái l
ạy, vẩy rượu tẩy uế, tụng
kinh múa dẻo bắt ấn trừ tà khí. Lễ Ngọ môn đáp tướng mang đậm sắc thái của Đạo giáo
theo triết lý âm dương ngũ hành nhằm cầu an cho cộng đồng. Sau mỗi tuần trà rượu, một

đạo sĩ lại đứng lên cầm sớ tụng kinh múa cờ lệnh rồi cắm vào hương án. Lần lượt các cờ
lệnh với đủ các màu xanh lục (tượng tr
ưng cho hành Mộc phương Đông), màu đỏ tượng
trưng cho hành Hỏa phương Nam, màu đen tượng trưng cho hành Thủy phương Bắc và cuối
cùng đạo sĩ chủ trì cầm kiếm lệnh cờ màu vàng tượng trưng cho hành Thổ ở trung tâm.
* Ngày 12 tháng 6 âm lịch: Chánh lễ làm chay
Khai Kim phong bảng: vị đạo trưởng xướng danh những người đóng góp tiền của tổ
chức lễ hội. Phần hội thỉnh đèn lồng mà tr
ước đây là tục đấu giá đèn lồng. Hàng trăm chiếc
đèn lồng lớn nhỏ treo ở trần sân lễ được bà con thỉnh về thờ. Thỉnh đèn cũng là nét đổi mới
trong việc cách tân lễ hội truyền thống của người Hoa ở Đồng Nai.
Buổi chiều lễ phóng thủy đăng cầu siêu cho âm hồn chết vì nước. Đoàn lễ tổ chức
bàn hương án rước đi ra b
ến sông gần cơ sở tín ngưỡng để cầu siêu phóng sanh giải thoát
cho âm hồn. Người ta bày một sân giấy vàng bạc trên đó đặt 28 chén đồ chay gồm 5 món
bắt buộc: bún gạo, tàu hũ, củ cải muối, đậu que xào, đậu trắng. Ngoài ra còn thêm các món
kiểm, bánh bao, thuốc rê, trái cây, trầu cau, cơm nguội, đèn hoa, ngựa giấy, chim cá phóng
sanh… Sau lễ cúng của pháp sư (lúc này đạo sĩ mặc trang phục màu vàng như Địa Tạng
Vương Bồ Tát), người ta th
ả 36 chiếc đèn hoa xuống sông, thả chim cá phóng sinh nhằm
tích đức làm phúc giải oan cho cô hồn, mong thần thánh hóa giải những điều xấu, cầu phúc
trong cộng đồng.
Vào buổi tối trên sân khấu ngoài trời, các đoàn nghệ thuật của người Hoa và người
Việt biểu diễn những tuồng tích lịch sử cho bà con xem. Những vở diễn như: hoạt cảnh chúc
thọ, Ngọc Kỳ Lân xuất thế, gia quan tấn tước, M
ộc Quế Anh dâng cây, Thất tinh mai…
Biễu diễn ca kịch luôn là phần hội thu hút đông đảo quần chúng địa phương đến xem.
Khoảng 9 giờ khuya bắt đầu nghi thức lập giàn chay và làm lễ bắc cầu thỉnh Mễ Đẩu
cầu phước. Người ta trải sẵn một tấm vải đỏ ngang 0,90m, dài khoảng 15m từ bàn hương án
ngoài rạp chay tới bàn thờ Tổ trong chánh điện miếu. Hai người lớn tuổi trong Ban trị

sự
miếu thỉnh Mễ Đẩu đi từ từ qua cầu vải vào trong chánh điện nơi bàn thờ Tổ. Mễ Đẩu là
một đấu gỗ đổ đầy gạo, bên trên cắm long đình chóp kiểu tứ trụ cao khoảng 70m, có bài vị
giấy, kiếm lệnh, một cây thước mộc treo chiếc gương nhỏ, một cây kéo, 5 tép chỉ ngũ sắc,
một cành dương liễu, một chiếc
đèn dầu nhỏ. Việc rước Mễ Đầu có ý nghĩa trăm họ cùng
đón Tổ về ban phước cho cộng đồng.

10
* Ngày 13 tháng 6 âm lịch: Kết lễ xô giàn làm chay
Hai giờ sáng, người ta sắp bàn hương án ngoài sân với hai đài cắm đèn cầy, một bình
bông, ba chung trà, ba chung rượu, một dĩa gạo, một dĩa muối, một dĩa tàu hũ ki, ba tháp
bàn tay Phật làm bằng rau cải, bánh bao chay và xôi nếp trắng. Đúng giờ, Pháp sư mặc áo
Bách gia Đạo bào màu vàng, đầu đội mão (giống trang phục đi phóng đăng phóng sanh)
tụng kinh cầu siêu, bắt ấn, rung chuông, tung giấy tiền vàng bạc… Giữa sân lễ
, người ta rải
kín giấy tiền vàng bạc với 3.600 bộ giấy áo, bên trên mặt đặt những chén đồ chay. Xô giàn,
Pháp sư phóng hỏa Ông Tiêu (Tiêu diện đại sĩ), Phán quan và các hình nhân. Lúc này,
người ta chen nhau giành giựt cho được lưỡi Ông Tiêu trước khi bị phóng hỏa. Ba tháp đồ
chay được quăng ra ngoài thí thực cho cô hồn. Người ta hạ cây nêu, đem 52 chiếc đèn lồng
ra đốt trong sự giành giật của đám đông, kết thúc nghi thức xô giàn.
Buổi sáng người ta bày một số l
ễ vật như: một con dê đực làm thịt để sống, một con
heo sống làm thịt, một con heo quay đỏ, gà luộc, trái cây, nhang đèn… trên các bàn thờ
trong miếu. Vị đạo trưởng làm lễ an vị các chư vị đưa trở về các miếu kết thúc lễ làm chay.
2.6. Lễ hội Nghinh Ông ở Cần Giờ (thành phố Hồ Chí Minh)
Đây là tín ngưỡng có nguồn gốc từ người Chăm được người Việt tiếp thu. Lễ h
ội
hàng năm diễn ra từ ngày 14 đến 17/8 âm lịch tại xã Cần Thạnh, huyện Cần Giờ, thành phố
Hồ Chí Minh. Lễ hội nghinh Ông là tục thờ cá ông phổ biến từ Quảng Bình trở vào Nam

(gồm cả Phú Quốc), là một trong những lễ hội lớn nhất của ngư dân. Lễ hội còn có các tên
gọi khác như: lễ rước cốt Ông, lễ cầu Ngư, lễ tế cá "Ông", lễ cúng "Ông", lễ nghinh "Ông",
l
ễ nghinh ông Thủy tướng Nhưng tất cả đều có chung một quan niệm rằng cá "Ông" là
Thần bảo trợ nghề cá và các nghề trên biển nói chung và từ đó trở thành tín ngưỡng của ngư
dân.
Hàng năm, tại lăng Ông Thủy tướng được vua Tự Đức ban sắc phong “Nam Hải
Tướng quân” (Cần Giờ) đều diễn ra lễ tế rất trang trọng của ngư dân Cần Giờ để tưởng nhớ
công
ơn cá "Ông".
Trước ngày lễ hội, người tạm ngưng việc đi biển, lo trang trí ghe thuyền
chuẩn bị cho lễ hội.
Vào lúc 23 giờ đêm 15 tháng 8 âm lịch, ngư dân làm lễ thả đèn và thả thuyền hoa
đăng trên biển, một lễ nghi quan trọng tưởng nhớ tiền nhân đã gắn bó với biển cả.
Ngày 16/8 âm lịch là Chánh lễ, lễ hội bắt đầu bằng lễ Nghinh (rước) Ông trên
biển với hàng tr
ăm chiếc ghe thuyền lớn nhỏ được trang hoàng cờ hoa rực rỡ. Sáng
ngày 16/8 âm lịch, tại Cần Giờ, các vị chủ tế trong Hội Lăng với trang phục chỉnh tề làm lễ
rước kiệu của Nam Hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Đoàn ghe Nghinh xuất phát
tại bến đò Cần Giờ. Suốt lộ trình trên bộ, ngư dân và bà con hai bên phố bày lễ vật nghênh
đón. Trước mũi ghe là h
ương án và mâm lễ vật, trên ghe chở du khách và bà con tham dự
đoàn rước. Các bàn hương án bày lễ vật như: heo quay (có đủ bộ đồ lòng), xôi, gạo,

11
muối, hoa, trái, nhang đèn và giấy vàng bạc… Chiếc ghe của Chủ lễ là ghe lớn nhất
trang hoàng rất đặc biệt: vẽ rồng hai bên thành ghe, trang trí hoa vạn thọ bốn góc
mui ghe, cắm cờ ngũ hành trước và sau ghe. Bên cạnh là ghe có bàn hương án thờ
Ông và các lễ vật, các đồ tự khí… Xung quanh là Ban Tế lễ, Ban nhạc lễ cùng các lễ
sinh đều mặc lễ phục trang trọng.

Theo thông lệ, sau vài giờ tới giữa biển khơi, cả đoàn dừ
ng lại làm lễ cúng
Ông. Các nghi lễ như dâng hương, dâng rượu, dâng trà, đọc văn tế. Người ta ném
các lễ vật xuống biển để cúng người chết biển. Kết thúc cả đoàn quay về bờ. Không
khí nhộn nhịp bởi tiếng trống, chiêng, vang cả một vùng trời biển. Trên bến một đoàn
múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón Ông về Lăng đúng nghi thức cổ truy
ền đón - tế trang
trọng.
Trở về Lăng Ông, người ta tổ chức đại lễ rước Ông rất long trọng với đoàn
múa lân sư rồng trong tiếng trống nhạc vang lên rộn rã. Hàng ngàn người kéo theo
đoàn rước xen lẫn những bàn hương án tỏa nhang khói mù mịt của các gia đình đặt
trước nhà ở hai bên đường. Sau khi an vị Ông tại Lăng, buổi tối diễn ra lễ tế Tiền
Hiền, Hậu Hi
ền. Khoảng 12 giờ khuya, lễ Chánh tế được cử hành với nghi thức và
lễ vật tương tự lễ Kỳ yên ở đình Nam Bộ. Sau đó là hát Bội kèm theo liên hoan ăn
uống vui vẻ tại Lăng.
Trong suốt thời gian này, các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát Bội diễn ra đồng thời
với các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao thu hút đông đảo bà con trogn vùng đến
thưởng thứ
c.
Lễ hội Nghinh Ông là một trong những lễ hội lớn của Ngư dân Cần Giờ nói riêng,
dân miền biển Trung Bộ và Nam Bộ nói chung thể hiện sự giao lưu tiếp biến văn hóa giữa
dân tộc Chăm và Việt trong hoạt động tín ngưỡng dân gian.
3. Giao lưu văn hóa qua lễ hội dân gian
3.1. Đặc trưng văn hóa các dân tộc qua lễ hội
* Đối tượng thờ tự:
Tín ngưỡng người Việt thờ Thành hoàng Bổn cảnh, Linh Sơn thánh Mẫu, anh
hùng dân tộc, cô Hồng… Người Hoa thờ: Quan Công, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Kim
Hoa nương nương Người Khmer: thần Khneur, Niết Tà. Người Chăm: Ông cá Voi,
chúa Tiên, chúa Ngọc, Thiên Y A Na, bà Chúa Xứ…

* Lễ vật, ẩm thực:
- Phẩm vật trong lễ hội Nghinh Cô ở Bà Rịa - Vũng Tàu và thần thánh là thịt heo
sống để nguyên con, heo quay, xôi, chè, các thứ đồ xào, hoa quả… Lễ hội Nghinh Ông, các
bàn hương án bày lễ vật nh
ư: heo quay (có đủ bộ đồ lòng), xôi, gạo, muối, hoa, trái,
nhang đèn và giấy vàng bạc…

12
- Lễ vật trong lễ vía Tổ Nghề (Đồng Nai): heo quay, gà luộc, heo làm thịt để sống, dê
làm thịt để sống, bún gạo, tàu hũ, củ cải muối, đậu que xào, đậu trắng. Ngoài ra còn thêm
các món kiểm, bánh bao, thuốc rê, trái cây, trầu cau, cơm nguội, đèn hoa, ngựa giấy, nhang,
giấy tiền vàng bạc… Những món cúng như kiểm, mắm chay, bánh ít, đậu trắng xào tỏi, bí
đỏ xào với tương tàu, cà tím xào tương tàu, củ cải muối xào và bánh bao để đãi khách.
M
ột số biểu hiện đặc trưng dễ nhận biết qua lễ hội là:
- Lễ vật của người Việt thường là thịt heo luộc, hoặc thịt heo sống, gà luộc; các món
bánh là bánh ú, xôi, nếp, kiểm…
- Lễ vật của người Hoa thường là thịt heo quay, thịt vịt luộc, thịt vịt quay; các món
bánh bao, bánh bò, bánh tiêu, bánh hỏi; món chay món mặn… Các món ăn đãi khách
thường là cơm, canh khổ qua nhồi thịt heo, thịt kho tàu, cá kho tương tàu, đậ
u que xào…
* Trang phục:
Trang phục là biểu trưng về bản sắc văn hóa của một tộc người, tỏ rõ sự tôn trọng
cộng đồng, tôn trọng nghi lễ và thể hiện ý thức thẩm mỹ của các dân tộc.
- Trang phục người Việt:
Ban tế lễ, Ban nhạc lễ cùng các lễ sinh đều mặc lễ phục
trang trọng (áo thụng, áo lễ sinh - học trò lễ). Đàn ông lớn tuổi hoặc trong Ban quý tế đình
thường phải mặc lễ phục là áo rộng có tay dài và rộng, tạo vẻ trang trọng cung kính trong
khi cúng lễ. Trang phục nam giới Nam bộ trong các dịp lễ hội là áo dài bằng the đen hoặc
gấm xanh, quần ống sớ, đầu đội khăn đóng có bao đầu ở lệ hội cúng đình làng Việt. Phụ nữ

lớn tuổi dự lễ hội thường mặc áo dài truy
ền thống, vai quàng khăn vuông cột chéo trước
ngực. Tóc chải ngược rồi búi gọn kiểu bánh lái sau gáy cài lên chiếc trâm vàng hay chiếc
lược đồi mồi.
- Trang phục người Hoa: Lễ phục các đạo sĩ Đạo giáo là những bộ áo choàng đỏ,
xanh có hình biểu tượng âm dương, đầu đội mão; khi đi phóng đăng phóng sanh hoặc xô
giàn thì mặc trang phục Bách gia Đạo bào đầu đội mão (trống trang phục Địa Tạng vương).
Các hòa thượng mặc áo vàng khoác tấm cà sa trên vai. Ban trị
sự miếu mặc lễ phục với áo
dài gấm màu xanh hoặc lam, đầu đội mũ có lưỡi trai. Trang phục của các thiếu nữ gánh hoa
trong lễ hội chùa Bà Bình Dương là bộ trang phục với áo và váy đặc trưng cho trang phục
nữ giới Hoa.
* Nghi lễ:
+ Mộc dục: tắm Bà lễ hội Bà Đen (Tây Ninh) với loại hoa lá: sen, lài, quế - văn hóa
Việt, cành dương liễu ảnh hưởng người Hoa.
+ Lễ hội đình thần Thắng Tam (Bà Rịa - Vũng Tàu): phần lễ diễn ra rất cầu kỳ: cúng
tế, lễ vật tế thần, dâng hương quỳ lạy, chiêng trống, kèn nhạc và có rất nhiều điều kiêng kỵ
như heo dùng để tế lễ phải có bộ lông cùng màu, người có tang không được tham gia vào
việc nghi thức tế lễ.

13
+ Lễ hội Chùa Bà (Bình Dương) với nghi lễ rước Bà được tổ chức theo nghi thức cổ
truyền: kiệu Bà được rước đi khắp các đường phố cùng với những đội múa hẩu, lân, sư tử,
rồng, cờ xí ngợp trời. Bà con kéo nhau về chùa Bà để thắp hương cúng lễ, cầu phúc, cầu lộc
cho năm mới.
+ Lễ hội Nghinh Ông (thành phố Hồ Chí Minh): đêm trước, ngư dân làm lễ thả
đèn
và thả thuyền hoa đăng trên biển, một lễ nghi quan trọng tưởng nhớ tiền nhân đã gắn bó với
biển cả. Ngày Chánh lễ, bắt đầu bằng lễ Nghinh (rước) Ông trên biển. Tại lăng Ông,
các vị chủ tế trong Hội Lăng làm lễ rước kiệu của Nam Hải Tướng quân xuống thuyền rồng

ra biển. Tại lăng Ông, Chánh tế được cử hành nghi thức và lễ vật tươ
ng tự lễ Kỳ yên
ở đình Nam Bộ.
*
Trò diễn, hội
+ Rước kiệu thỉnh chư thần và rước kiệu Bà trong lễ hội
người Hoa. Đoàn rước kiệu
mặc sắc phục chỉnh tề, các tú nữ gánh hoa duyên dáng, rạng rỡ. Các đoàn múa hẩu, lân sư
rồng ra sức phô diễn tài nghệ trong tiếng trống, phèng la… tạo nên một lễ hội tưng bừng, sôi
động rất độc đáo. Hội đấu giá 12 đèn lồng là một trong những tục lệ truyền thống của người
Hoa nhằm đem lại sự may mắn trong cả
năm. Ở lễ vía Tổ Nghề (Đồng Nai) đám rước thỉnh
bài vị chư thần và rước phóng Thủy Đăng tạo thành những cuộc rước long trọng và tiêu biểu
cho ngày hội.
+ Các trò chơi dân gian của người Việt như thi bắt cá, bắt lươn và các môn thi đua
thuyền, đua thúng… cũng thường thấy trong lễ hội truyền thống người Việt.

+ Múa lân sư rồng, múa hẩu: là nghệ thuật mang nhiếu ý nghĩa tốt đẹp cho cuộc
sống. Con lân đem lại sự thái bình, cầu an; sư tử và rồng là những con vật có sức mạnh là
những vật linh trong đời sống tinh thần của mọi người đặc biệt là người Hoa.
+ Thả đèn hoa, phóng sanh, thả chim lên trời, thả cá xuống sông…thể hiện sự cầu
siêu cho âm hồn tích phúc cho bản thân cộng đồng.
+ R
ước thuyền lễ ra biển cả trong lễ hội Nghinh Ông và Nghinh Cô như là phần hội
thu hút đông đảo ngư dân tham gia.
+ Biểu diễn nghệ thuật sân khấu tuồng, xây chầu, đại bội, hát bội, bóng rỗi, địa
nàng, nhạc lễ qua các làn điệu Xuân, Đảo Nam Bộ của người Việt; hát quảng của người
Hoa; múa bóng của người Chăm…

3.2. Giao lưu văn hóa qua lễ hội

* Giao lưu văn hóa Việt
Ngôn ngữ Việt được sử dụng chính thức trong các lễ hội người Việt, người Hoa và
các dân tộc thiểu số. Đặc biệt trong nghi thức đấu giá đèn lồng của người Hoa (xướng
song ngữ).

14
Một số món ăn Việt như trái cây, bánh ú, bánh gói lá chuối, kiểm, mắm chay
và bánh ít… của người Việt được người Hoa sử dụng trong lễ hội miếu Tổ Nghề đá ở
Đồng Nai thể hiện sự giao lưu trong văn hóa ẩm thực giữa người Hoa và người Việt.
Cúng thịt heo sống là tục lệ người Việt nhưng được người Hoa và các dân tộc sử
dụng làm lễ vật cúng thần.
Cây tre biểu trưng cho văn hóa Việt được người Hoa sử dụng dựng làm cây nêu
trong lễ hội tổ nghề đá ở Đồng Nai và một số lễ hội khác của các dân tộc ở Nam Bộ.
Ngoài các hát Tuồng, hát Quảng, vào các đêm lễ hội người Hoa còn mời các đoàn
nghệ thuật người Việt ở địa phương về biểu diễn mừng lễ hội, thể hiện sự đoàn kết giao
lưu văn hóa trong cộng đồng.
* Giao lưu văn hóa Hoa:
Thờ Bà Thiên Hậu, Quan Công, Quan Thế Âm là những đối tượng thờ của người
Hoa được người Việt tiếp thu và trong tín ngưỡng dân gian.
Lễ vật cúng heo quay, vịt quay, bánh bò đặc trưng của người Hoa thường được
người Việt dùng làm lễ vật cúng thần.
Tục thả đèn giấy trên sông nước hay biển cả ảnh hưởng từ phong tục thả đèn trên
sông siêu độ cho âm hồn của người Hoa được người Việt tiếp thu trong lễ Nghinh Ông và
lễ Nghinh Cô.
Lễ hội người Việt ảnh hưởng tục đốt giấy vàng bạc nhiều, văn khấn văn cúng bằng
chữ Hán của người Hoa.
Món bánh hỏi thịt heo quay của người Hoa được người Việt sử dụng đãi khách
trong lễ cúng đình, cúng miếu.
Trong tục thỉnh đèn lồng của lễ hội người Hoa, nhiều người Việt cũng đến thỉnh
đèn đem về gia đình thờ, thể hiện sự giao lưu văn hóa trong tín ngưỡng dân gian.

Múa lân sư rồng của người Hoa cũng được người Việt mời về biểu diễn.
* Giao lưu văn hóa Chăm:
Người Việt tiếp thu tín ngưỡng thờ Ông cá voi, bà Thủy Long của người Chăm
cũng như bà Thiên Y A Na được tiếp biến trở thành bà Chúa Tiên, Chúa Ngọc, bà Chúa
Xứ trong tín ngưỡng dân gian người Việt. Vì vậy, lễ hội Nghinh Ông chính là sự giao lưu
văn hóa của người Việt từ tín ngưỡng của người Chăm.
Các món ăn trong đãi khách thường có món cà ri vốn xuất xứ từ Ấn Độ nhưng phổ
biến trong cộng đồng người Chăm.
Trong lễ hội dân gian người Việt, thường có phần hội biểu diễn hát bóng rỗi, múa
dâng bông, mâm xôi, mâm vàng… Đây cũng chính là sự tiếp thu văn hóa của người Việt từ

15
các điệu múa Chăm trở thành loại hình biểu diễn nghệ thuật truyền thống không thể thiếu
trong các lễ hội đình, miếu của người Việt ở Nam bộ.
* Giao lưu văn hóa Khơmer:
Tín ngưỡng thờ Bà Đen hay còn gọi là Linh Sơn Thánh mẫu được người Việt thờ
điện Bà Đen (Tây Ninh) có nguồn gốc từ Khmaur (nữ thần giữ chùa Khơmer) và xa hơn là
nữ thần Kali của Bàlamôn được người Khơmer tiếp thu, hay Ông Tà (Niết Tà) cũng là
những đối tượng thờ trong tín ngưỡng dân gian được người Việt tiếp thu từ người Khơmer.
Các món ăn đãi khách như: bún nước lèo, bún mắm, các loại mắm (bò hóc)…vốn
xuất xứ từ Khơmer nhưng thường được các dân tộc sử dụng đãi khách trong ngày lễ hội.
Trong lễ hội, những món ẩm thực hoặc lễ vật là ẩm thực tuy có đặc trưng trong nghi
lễ nhưng khi đãi ăn cũng có sự giao lưu với nhau, thể hiện sự giao lưu tiếp biến văn hóa phù
h
ợp với các dân tộc.
4. Bảo tồn và phát huy lễ hội dân gian của các dân tộc ở miền Đông Nam bộ
4.1. Đặc trưng tiểu vùng văn hóa Đông Nam bộ
Tiểu vùng văn hóa Đông Nam bộ bao gồm các tỉnh miền Đông Nam bộ như:
Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh và thành phố
Hồ Chí Minh. Đây là vùng lãnh thổ được tạo bởi lưu vực sông Đồng Nai tiếp giáp

với nam Tây Nguyên có địa hình bán sơn địa và vùng hạ lưu sông Đồng Nai, trong
đó đoạn từ Sài Gòn đổ ra biển có cảnh quan tương tự như đồng bằng sông Cửu
Long.
Các cư dân ở
tiểu vùng văn hóa Đông Nam Bộ bao gồm các cư dân bản địa
như Chơro, Mạ, Stiêng, Cơho và cộng đồng các cư dân Việt, Hoa, Chăm đến khai
phá lập nghiệp từ thế kỷ XVII đến nay tạo nên tiểu vùng văn hóa có những nét đặc
trưng của vùng miền Đông Nam Bộ là gạch nối giữa văn hóa miền Trung và miền
Nam.
Những yếu tố cơ bản của văn hóa mới tại đất Đông Nam Bộ từ phía Bắc đã tác động
trực tiếp tạo nên sắc thái văn hóa địa phương. Người Việt, Hoa, Chăm, Khơmer cùng các
dân tộc bản địa đã và đang chung tay góp sức tạo nên đặc trưng văn hóa của tiểu vùng văn
hóa Đông Nam Bộ ngày nay.

4.2. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong lễ hội dân gian ở miền Đông Nam
Bộ
- Tính cộng đồng, thể hiện tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong lễ hội (lễ kỳ yên
mỗi nhà đều đem một bó tranh lợp lại đình, tha thứ bỏ lỗi cho nhau…)
- Bảo lưu trang phục truyền thống của các dân tộc. Chỉ vào mỗi dịp lễ hội, các dân
tộc mới mặc những bộ lễ phục tươm tất để dự lễ (đặc biệt người Việt, Hoa)

16
- Tưởng nhớ ơn, ghi công những người có công khai phá lập làng, những Tổ nghề
nghiệp, những người có công với dân tộc, đất nước.
- Bảo tồn tín ngưỡng dân gian, kết hợp với các tôn giáo khác luôn đuợc duy trì.
- Bảo tồn những nghệ thuật làm đồ thủ công truyền thống như nghệ thuật làm đồ
giấy, đèn lồng, trang trí, mỹ thuật…
- Bảo tồn và phát huy những nghệ thuật biểu diễn dân gian như: nhạc lễ; hát Chặp
Bóng rỗi, Địa nàng, hát Bội; múa lân sư rồng, hát Quảng…
- Bảo tồn những nghệ thuật ẩm thực dân gian của các dân tộc: các món lễ vật cúng,

món ăn đãi khách…
- Bảo tồn và phát huy các trò chơi dân gian như thi bắt cá, bắt lươn và các môn thi
đua thuyền, đua thúng…

Kết luận
Hơn ba thế kỷ hình thành và phát triển, miền Đông Nam Bộ với vị trí địa lý thuận
lợi và tập trung được cộng đồng các cư dân đã chung tay góp sức tạo dựng một địa phương
có nền kinh tế năng động, phát triển nhất trong cả nước. Đây cũng là nơi lưu giữ nhiều giá
trị văn hóa tiêu biểu của văn hóa Nam Bộ (tiểu vùng Đông Nam Bộ). Đặc biệt sự giao lưu
văn hóa giữa các dân tộc ở miền Đông Nam Bộ thông qua những lễ hội dân gian tiêu biểu
phản ánh được ước mơ, nguyện vọng của quần chúng nhân dân; một mặt vừa đáp ứng nhu
cầu tín ngưỡng của quần chúng nhân dân; một mặt góp phần gìn giữ, bảo tồn những bản
sắc văn hóa độc đáo của các dân tộc.
Những lễ hội này trước hết qui tụ được đông đảo cộng đồng tham dự, thể hiện tính
thống nhất trong tâm lý cộng đồng xã hội. Đây còn là hệ thống hành vi tín ngưỡng văn hóa
dân gian, thể hiện sự linh hoạt trong giao lưu văn hóa. Một cộng đồng dân tộc này có thể
có ảnh hưởng về đối tượng thờ cúng dân gian của cộng đồng khác. Nhưng trên hết là sự
hội tụ văn hóa của các dân tộc đều thể hiện qua hệ thống lễ hội tổ chức tại các cơ sở tín
ngưỡng. Từ đối tượng thờ tự trong đình, miếu, đền… đến các loại lễ hội có liên quan. Giao
lưu văn hóa qua đối tượng thờ, nghi lễ, trang phục, văn cúng, ngôn ngữ, ẩm thực, các loại
hình sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật biểu diễn… đều có sự kế th
ừa và phát huy các giá trị
văn hóa dân tộc của vùng miền, của văn hóa Đông Nam Bộ.
Thông qua hệ thống lễ hội dân gian của các dân tộc miền Đông Nam Bộ càng khẳng
định vị trí, vai trò của cộng đồng cư dân sinh sống ở vùng đất này. Sự giao lưu văn hóa
góp phần làm phong phú, đa dạng cho nền văn hóa tiểu vùng Đông Nam Bộ. Bên cạnh sự
phát triển về kinh tế thì việc bảo tồn và giữ
gìn các giá trị văn hóa của cộng đồng thông
qua sinh hoạt văn hóa càng tạo nên sức mạnh để các dân tộc hội nhập và giao lưu phát
triển trong khu vực. Bảo tồn văn hóa góp phần làm cho cộng đồng cư dân Đông Nam Bộ

vững vàng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước và hội nhập với thế giới.



17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Quốc Thắng, Lễ hội dân gian ở Nam bộ, Viện Văn hóa và NxbVăn hóa Thông
tin, Hà Nội, 2003, 385 tr.
2. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và Sở Văn hóa Thông tin Thể thao Đồng Nai, Giữ gìn
và phát huy tài sản văn hóa các dân tộc ở Đông Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1997, 331 tr.
3. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và Trường Đại học Cần Thơ, Tìm hiểu đặc trưng di
sản văn hóa văn nghệ dân gian Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, 532 tr.
4. Nguyễn Thị Nguyệt, Lễ hội cầu an, cầu siêu của người Hoa ở Đồng Nai, Luận văn Cao
học chuyên ngành Văn hóa học, Bộ môn Văn hóa học, Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2005, 215 tr.

18
STUDYING THE CULTURAL EXCHANGING THROUGH
TRADITIONAL FESTIVALS IN THE SOUTHERN EAST OF
VIETNAM
Nguyen Thi Nguyet
Dong Nai Museum
Set problem.
Southern East, including the provinces such as Ba Ria-Vung Tau, Dong Nai, Binh
Duong, Binh Phuoc, Tay Ninh and Ho Chi Minh. Residents in Southern East besides the
Vietnamese accounting for most, there are other local ethnic and immigration as: Choro,
Ma, Stieng, Coho, Hoa, Cham, Khomer, Tay, Nung, Muong Southern East have a
location convenient for agricultural development as well as industrial development,
economic services and urban expanding. The local leading of the national industrial

development all of the Eastern region such as Dong Nai, Ba Ria-Vung Tau, Binh Duong
and Ho Chi Minh demonstrated the potential economic development is very special
economic industry in the period of industrialization and modernization - of the country. In
addition, the Southern East is famous for potential tourism development as tourist beach
Vung Tau, tourism resources and lanscape Ba Den Mountain in Tay Ninh, tourism on the
Dong Nai river and tourism fruit garden left trees in Lai Thieu (Binh Duong). One of the
characteristics of cultural, it is the festival folk traditions of the peoples in the region
southeast of the famous, such as: Ba Den festival in Tay Ninh, Dinh Co festival in Ba Ria-
Vung Tau Festival Ba Thien Hau Pagoda in Binh Duong, the festival of thanksgiving a rice
harvesting ethnic Choro, Ma, Stieng, Anniversary of Stone Carving Founder at a temple in
Dong Nai, Mr. Bon festival at a Lo Chen in Binh Duong, Quan Thanh De Quan festival in
Dong Nai, Annual Peace Ritual at Nguyen Huu Canh temple in Dong Nai, festival Thien
Hau Temple in Dong Nai, Fishing Rirual in Can Gio- Ho Chi Minh city The festivals are
the characteristics of Western culture, Choro, Ma, Stieng, Cham, Chinese, Khomer But,
every festival takes place at the basis of religious belief showed the cultural exchange
between peoples. The acceptance of cultural exchanging has formed the worship objects and
the formation of festivals.
The mention of the topic is the typical festivals held in other facilities popular beliefs
in the Southern East.
1. The concept of “cultural exchange”.
Cultural exchanges or exchanges to make culture (acculturation) is the process of the
community “come together”, approached each other on that basis, “receiving” the cultural
values. This receiving has a role as a motivation to make one or more elements of traditional
culture factor always to be adjusted, changes to the appropriate tonnes.

19
Cultural exchange (Exchange culture) is a concept about a phenomenon common
rules are often dominates the campaign, developed in all cultures in the world. Cultural
exchange is the result of exposure and the conditions for the integration of different cultures
come together in the context of history certain. Cultural exchange is the process of meeting

the cultural values of ethnic differences. In these conditions the specific history, the cultural
exposure may directly or indirectly, long-term or short, natural or forced are factors in the
process of exchange, for exposure to the culture to be the featured new culture, suitable for
both cultures it.
2. The festival had been typical in Southern East.
Folk festival is a system of the festival is organized popularly in the
community, to serve the needs of the human spirit that wish a lucky and fortunate life.
2.1. Festival Ba Den mountain-Linh Son Thanh Mau (Tay Ninh).
Ba Den mountain is 11km from Tay Ninh, with an area of 24km
2
. It includes three
ridges: Heo mountain, Phung mountain and Ba mountain created. Ba Den mountain with its
hight 986m is the highest mountain in the South of Vietnam. From a long distance, covering
with so white clouds, it seems to have a thin silk. On the mountain, there are many caves,
green plants, water flows under block created landscape of mountains and water.
Scattered across from the foot of the mountain over top of the architectural including,
pagodas, shrines, towers almost all reflect the characteristics of the culture of Buddhism
and folk beliefs. On Ba Den mountain there is the shrine of Linh Son Thanh Mau with the
bronze statue of Ba Den inside. In addition to the Buddha, there is a system of worship
statues popular beliefs such as: Quan Cong, Tu Vi Son than, Ngoc Hoang, Nam Tao, Bac
Dau, Mr. Dia, Mr. Ta, Tu Vi Thien Vuong. Special, system worship Mau-the Goddess
numerous as : Cuu Thien Huyen Nu, Dieu Tri Kim Mau, Thien Hau Thanh Mau, Dia Mau,
Princess Xu and Tai’son, Quy’son, Mss. Hong, Mss. Hanh and statue Quan The Am
Bodhisattva But the center is still the Linh Son Thanh Mau statue with main worshipping
place-at the Ba Den Shrine height 400m of this mountain.
Talking about the mountains Ba Den, we think of the Linh Son An Phuoc pagoda
(Hang pagoda), Linh Son Tien Thach pagoda, Doc Thuong, Huyen Mon cave, Thanh Long
cave, Ma Ha cave, Gio cave, Ong Ho cave… Many legends of Ba Den, such as a folk story
Ly Thi Thien Huong. The story was about a couple of lovers in Quang Hoa region (now the
Trang Bang district). They were engaged. The boy was Le Si Triet and the girl was Ly Thi

Thien Huong. The war coming, he joined the army, she stayed home and kept the deep love
to wait him. Some day, on the way up pagoda. She was in trape of the robbers. To protect
the chasitity, she jumed down the deep valley to kill hersefl. It was said that she had been
very spiritual when informed to a monk for finding out her dead body to burry. Later, most
of lost way people on this mountain have been found the right directions by Thien Huong.

20
So people lived around here built the temple Ba on the mountain and called Ba Den
Mountain.
Every year, the Spring from January to March is the season of festivals Ba Den
mountain, also called the festival of Linh Son Thanh Mau Temple. It starts from 20
th
Tet.
The chief Ritual is on 15
th
January lunar calendar. The Spirit of Ba ceremony is on 18
th
and
on 19
th
January. Enjoying these festivals, people would like to have a spring travel and wish
a prosperous year.
Before the main ceremony, at midnight, there is a ceremony conducted "Moc Duc"
(to clean Ba statue). They use new handkerchief to clean “Her” three times. These
handkerchives must be wet with the perfume of lotus, jasmine, porcelain, cinnamon This
liquid is offered up to Linh Son Thanh Mau by the ritual girls. Every couple of them step
softly in music style of Xuan, Southern Dao.
When Spring comes, the festival Ba Den mountain attracts millions of tourists all
over the country.
There is also a ceremony of The Ba’s Spirit on 6

th
May (lunar calendar). At
the midnight, the Ritual of cleaning Statue takes place inside the shrine with a curtain cover
around. Some of elder women do their rituals such as: burn incense to ask Ba’s permission,
clean the Statue Ba with coconut milk, flowers water; change new dress… After this ritual,
whole the shrine will be lighted with candles, incense, to welcome guests. Worshipping
materials offer to Ba includes incense, candles, tea, fruits, wine, cakes
Early morning on 6
th
May lunar calendar, the organizers do the Ritual with ten
materials: incenese, candles, flowers, tea, cinnamon, wine, cake, strings, bracelets (paper
jewelry). The ceremony will be taken place by Buddhist Monks and Ceremony Board in the
sound of music, drum and gongs In the evening, the actors and actress display Bong Roi
(dance with Gold Tray, Silver Tray, Toy Tray ); singing Chap Dia Nang.
On 6
th
May (lunar calendar) they do Buddhist Ritual. Monks pray the repenting
prayer, worship Ngo, giving alms… Even they hold the Boi stage on 7
th
and 8
th
May (lunar
calendar).
It can be said, the ritual of Spirit Ba include two great ceremonies on 15
th
January
and 6
th
May (lunar calendar). The festival associated with mountain climbing, sightseeing
pagoda creating activities and cultural tourism. The Ritual part and the festival part of this

occassion expressed the mix of Buddhist beliefs and Mother religious of people in the
South.
2.2. Festival Thang Tam temple (Ba Ria-Vung Tau).
The architect of Thang Tam temple includes three monuments: Thang Tam
Temple, Ngu Hanh Shrine, Nam Hai Loyal Tomb. According to legend, this temple worship

21
three persons who had built three villages Thang in Vung Tau, they are: Pham Van Dinh, Le
Van Loc, and Ngo Van Huyen.
It said that, Malaysia and Chinese prirates used to attacked Ben Nghe River Door to
rob money, goods and kidnapped the cargoes. To protect these ships of Vietnamese, King
Gia Long ordered three military forces on three boats. Each team was controled by a
captain. To Vung Tau, they landed on and made tents, named their tents Phuoc Thang.
These three groups were protecting the coastline while were reclaiming waste land to build
villages up. Within a few years, most of Malay prirates and Chinese were killed. The few
remaining dare not bother Vietnamese cargoes again. In 1822, Kinh Minh Mang rewarded
conduct and function to three military forces, disbanded these teams and rewarded the land
which they had reclaimed. From three positions of the three military forces, has gradually
formed three villages: Thang Nhat, Thang Nhi and Thang Tam.
After Pham Van Dinh, Le Van Loc and Ngo Van Huyen died, the court granted the
emperial appointment to them- God of Thang villages.
Thang Tam Temple not only has value of history, culture but also conserve folk
festivals which get deep cultural identities. Annually, Thang Tam temple takes place the
festival during 4 days from 17
th
to 20
th
February lunar calendar. This is a festival for peace,
sea-product gathering season.
The ceremony part includes: the ritual, the ritual materials, burning incense, ritual

music… They abstain from offering previous color pigs; letting no people bearing funeral
rites enjoy the ritual. In addition, part games had many shows to entertainment as dancing
with the unicorns, sing classical opera
The festival in Thang Tam temple is a cultural activity of the fishermen in
Vung Tau seaside. It has contributed to preserve and thrive the spiritual activities of the
Southeast in modern life.
2.3. The festival Nghinh Co (Ba Ria-Vung Tau).
The festival Nghinh Co is in the system of festivals worshiping Mau - the
Goddess typical of fishermen in Ba Ria - Vung Tau. They have not only worshiped the
Goddess but the Sea Saints (Thuy Long, Whale of the Cham) and beliefs worship Mau - the
goddess of local residents.
Every year, on 10
th
February (lunar calendar), thousands of people from every where
around the countryside together at Dinh Co (Long Hai, Ba Ria - Vung Tau) to enjoy the
festival. This is one of the greatest festivals of fishermen along the South coastline.
This festival takes place at the foot of Thuy Van mountain (Hai Son hamlet, Long
Hai town, Long Dat district, Ba Ria-Vung Tau province). Native people call it Dinh Co
festival.

22
Dinh Co (Ba Co temple) was built and restored about in 1930. Area of 100m
2
. Inside
there is the Ba Co statue (0,5m high) with a red coat, an attached bead hat. Next to this
statue, they worship other Saints such as: Dieu Tri Phat Mau, God Uncle or Nhi Vi Princes
(Tai son, Quy son are Princess Ngoc’son), Ngu Hanh nuong nuong, Tu Phap nuong nuong,
Mr. Dia, Than Tai Besides, the small temple around worship the Cuu Thien Huyen Nu,
Princess Ngoc, Quan The Am Bodhisattva, Hoa Tinh Thanh Mau, Quan Thanh De Quan
All of these worshiping objects come from different sources that are the representatives of

culture of Vietnamese, Chinese, Cham But the central worshiping object is "Ba Co" - a
local Goddess.
Dinh Co and Nghinh Co festival in Long Hai associated with a folk legend. The
legend said that, there was a girls named Le Thi Hong, living in Phan Rang. She was the
only daughter of Mr. Le Van Khuong and Mrs. Thach Thi Ha. On the way to the South with
her father traded, she fell in the sea. After three days of looking for failed, her father
returned the homeland. Some days later, her dead body landed at Hon Cave. Native people
burried her on the sand hill near the position they found her (now it is her tomb).
Some people dreamed that she guided how to over come it. They burnt incense to
pray her help. Magically, the disease stopped. After that, people in this region built a shrine
to worship her. Wishing her look forward to getting to the people of the village of achieving
safe healthy life.
Every year, fishermen in Long Hai hold her aniversary very faithfully during three
days from 10
th
to 12
th
February (lunar calendar) with the local custom.
On the ceremony, Dinh Co is often decorated gloriously and solemnly with many
strings of lights and flowers. All of fishermen’s houses set up an altar, burning incense,
paper lights, cakes, fruit, sticky rice trays… in front of their houses. Their ships, boats are
decorated with lights, color papers… Therefore, the panaroma become more glorious than
usual. All of ships, boats lead their front of boats towards Dinh Co to perform rituals
"Welcome Co".
- On first day of the festival (10
th
February lunar calendar), the quarter bands and
fishermen are at Dinh Co to prepare Nghinh Co ceremony.
At 7 A.M on 10
th

February lunar calendar, the residents solemnly welcome Ba Lon
(Thuy Long Goddess) and Mr. Nam Hai (Whale Saint) from Dinh Ong Nam Hai to Dinh
Co. The Welcoming Board includes: Ritual Board, Ritual students, Ritual Music Board, 12
oaring men, unicorn dancing team… On the first day, they worship the ancestors and pray
of peace, thriving.
- On the second day (11
th
February lunar calendar) they compete to oar, swim… At
night, Buddhist monks pray to peace.

23
- On the third day (12
th
February lunar calendar) is the main ceremony. In the early
morning, they welcome Co from the sea to the shrine on a glorious boat. The Welcome
teams include hundreds of boats. Ritual food includes a raw pig, sticky rice, sweat soup,
fruit… On the two main boats there is a Master ceremony, Ritual Music Board, 12 Ritual
students and 12 oaring men.
At 7 A.M, the Welcome Co boats start. When they sail up about one kilometer,
Master of Ceremony orders to stop and begins the ceremony. Master of Ceremony burns
incense, the Ritual Music Board and Ritual Students call out. After burning incense, the
boats team continues to sail a large round on the sea, from Ba Thuy Long region returned to
the West that was distance Dinh Co about 100 meters. On the beach, 2 “Bong chang” and
10 boys hold Positive- Negative flags to welcome an incense altar Co at Dinh Co.
From 8 A.M to 10 A.M, the residents offer to Ba Thuy Long a fried pig, to Mr. Nam
Hai a raw pig, to Ba Co vegetarian food. After then, the releasing ritual takes place. In the
evening, there are some Tuong, Boi Art Bands and traditional Art Band. They display the
dancing with five color trays, golden trays… In addition, there are some shows of unicorn-
lion dancing and folk games as: fishing, rowing. The festival part always becomes attractive
and interesting so they are interested in by many young people.

Thus, it can be said of the unique of this festival has domained the beauty and flavor
of culture from many regions.
2.4. Festival Ba Thien Hau Pagoda (Binh Duong).
Thien Hau Temple or Ba Thien Hau Pagoda is a remain of Chinese in Binh Duong.
Chinese people often worship Thien Hau Goddess. On the legend, Thien Hau was born in
960 (the years of Tong Kien Long), the sixth of The Lam family in Bo Dien district, Phuc
Kien province, China. Be born with natural nimbus and fragrance, she died in 27 ages and
had supernatural power. To the Thanh Dinasty, King Khang Hy granted Thien Hau. She has
been worshiped faithfully every where. Most of people have a strong belief to her during
process of living and trading.
This festival last from 13
th
to 15
th
January (lunar calendar).
- At night 13
th
January (lunar calendar), residents in Thu Dau Mot district set up
altars in front of their houses to welcome Ba in the next day.
- In the morning 14
th
January (lunar calendar), they welcome Her in the traditional
ritual: Her sedan-chair is taken to every streets with the unicorn-lion dancing bands, flags…
- On 15
th
January (lunar calendar), people together at Ba Pagoda to offer up incense
to wish luck and thriving…
Every year, on 15
th
January and 23

rd
March lunar calendar (her Spirit Day) it is the
solemn festival occassion to Chinese and Vietnamese in the South of Vietnam.

24
The main part of this festival is the Welcome Her sedan-chair. All of this region will
be brighter more bustling than any time in year.
2.5. The Spirit Day of Career Saints (Dong Nai).
One of three years, Chinese in Buu Long, Bien Hoa, Dong Nai hold this festival
(from 10
th
to 13
th
June lunuar calendar) to remember The Saint of Stone Carving work. They
offer to Him vegetarian food. This festival has been held at Thien Hau ancient Temple
(formely it was the temple of Stone Carving Saint) of Chinese (He branch). In the major
altar, they worship: Ngu Dang Tien Su- Stone carving Saint; Lo Ban Tien Su –Carpenter
Saint; Uat Tri Tien Su- Black Smith Saint. On the left and on the right of major altar, they
worship Thien Hau Thanh Mau and Quan Thanh De Quan.
Preparing for the vegetarian offering ritual, the controlling Board have invited some
Taoists (in Ho Chi Minh city) to direct the ritual during the 3, 4 days and nights.
* On 10
th
June (lunar calendar): Opening vegetarian ritual.
The first is the ritual of invitation Saints, the ritual of taking Ancestral Tablet of
Career Saints, Thien Hau Thanh Mau and Quan Thanh De Quan.
- Leading delegation is a an unicorn-lion dancing band. Behind it is an octet band and
an altar. On the way to the temple, we can see the offering trays or towers which Chinese
prepare to welcome the Saints.
- “Khai quang diem nhan”: After the Master Taoist has finished Khai quang diem

nhan ritual, they could take off the covers of all human statues which formly had been in
secret.
* On 11
th
June (lunar calendar): Opening the prayer of peace and safety.
- At 8 A.M, the Master of Cerymony start opening the prayer book of peace and
safety. Ritual materials include: fruit, tea, wine, incense and flowers. After three times of
offering tea, wine, they kneel in prayer, burn golden votive papers.
- Ngo Mon Dap Tuong ritual: after a time of offering tea and wine, Taoists take up a
Ritual Speech and pray. They hand up spiritual flags and put into an incense jar. They do
the same continuously with a green flag (Moc- East); red flag (Hoa- South), white flag
(Kim- West), black flag (Thuy - North). In the last, Major of Taoist takes up a spiritual
sword and a yellow flag (Tho- Center).
* On 12
th
June (lunar calendar): The main vegetarian offering.
- Opening Kim Phong Bang: The master ceremony speaks loundly names of people
who served money to hold the festival. Then, it is the festival of asking lanterns which are
being hung in the ceiling of temple. This is a new changing in traditional festival of Chinese
in Dong Nai.

×