Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Gián án D:huỳnh văn nghệ- nguyễn trãi miền đông nam bộ.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.44 KB, 7 trang )

NGUYỄN TRÃI CỦA MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
Sau năm 1975, tình cờ tôi đọc được những dòng thơ viết về cái chết của anh
Xiểng mà người viết chú giải tác giả là nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ : Anh
Xiểng trên đường đi Hà Nội họp Quốc hội khoá đầu tiên vào cuối tháng 3 -
1940 đã bị giặc Pháp bắt đưa về Xuân Lộc. Biết anh là đại biểu Quốc hội,
chúng dùng mọi cực hình tra tấn hết sức dã man, trói ghì anh đằng sau xe
Jeep, kéo lê trên đường. Thế nhưng ...
Như ngọn núi Chứa Chan
Vẫn cao đầu hiên ngang dưới nắng
Bên tai anh lời ca cách mạng
Vẫn vang trong tiếng suối lời chim
Và trước họng súng tội ác ấy :
Anh vẫn đứng lặng im
Nhìn lũ giặc căm thù sôi trong máu
Anh gầm lên tiếng thét vang rừng
Không !... Không đầu hàng
Tao thà chết tại đây.
Xúc động với những lời thơ không đầu không đuôi này, tôi đã kêu lên trong
thán phục :
- Ôi chao ! Một bài thơ hay, lại là một bài thơ của tác giả “ vô danh”.
Vâng ! Qủa thật - Huỳnh Văn Nghệ - cái tên quá xa lạ với tôi lúc bấy giờ.
Sau này, qua sách báo, nhất là từ cuộc thi tìm hiểu về Biên Hoà - Đồng Nai
300 năm, tôi đã ít nhiều biết đến tên ông - Huỳnh Văn Nghệ - nhà thơ mà tôi
đã ngưỡng mộ ngay từ thời điểm giao thời của hai chế độ ấy, thật sự không
phải là một nhà thơ “ vô danh” tí nào. Thơ của ông là những bản hùng ca
yêu nước, nói theo quan điểm của Bác Hồ là :
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
Đa số những bài của ông đều có gắn liền với Chiến khu Đ, với nhiều sắc thái
khác nhau, ăm ắp tình người và sâu đậm tình nước như : Du kích Đồng Nai;
Ngày hội; Xuân chiến khu; Chiến khu Đ chống bão ... Điều đó cũng chẳng


có gì là khi suốt cả thời trai trẻ , Huỳnh Văn Nghệ đã dành hết cho Chiến
khu Đ. Thơ ông để lại cho người đọc một một cái gì sâu lắng. Thương cho
em bé học trò trong “ Trốn học”, không phải vì lười học mà vì nghèo không
có được chiếc áo thứ hai để mặc, ngoài chiếc áo cũ rách em đang mặc.
Má ơi !Thầy của con
Như là không biết thương
Những trò nghèo áo rách
Mỗi bữa mỗi đánh đòn
......................................
Xấu hổ và sợ đau
Không tiền may áo mới
Nên con đành trốn học
Để chờ ngày mẹ giàu.
Nghe con phân trần lí do trốn học của mình, người mẹ :
Cành roi rời khỏi tay
Khăn rằn lau nước mắt
Mẹ ôm con vào ngực
Chim rừng ngơ ngác bay...
Ai đã từng đọc “ Tiếng hát trong rừng” của Huỳnh Văn Nghệ chắc không
khỏi thấy lòng mình đau đáu, nhức nhối với người chiến sĩ bị thương phải
cưa chân bằng cưa thợ mộc, không thuốc gây mê, đã hát vang mãi bài Quốc
ca “Đoàn quân Việt Nam đi ...” để quên nỗi đớn đau. Một sự chịu đựng phi
thường, rất đáng khâm phục, một thi tứ lạ đến lặng người. Thơ là người,
người chính là thơ. Cái ý chí kiên cường, tinh thần bất khuất trong thơ
Hùynh Văn Nghệ làm cho người đọc như muốn cùng ông “ vung kiếm thép”
:
Trở lại yên ngựa đi từng bước
Cúi đầu nén nỗi đau thương
Nhưng lửa căm hờn
Bỗng dưng cao đầu ngựa dậy

Vang trời ngựa hí
Chí phục thù cháy bỏng tay cương.
Nhà thơ “ vô danh” Huỳnh Văn Nghệ trong ý nghĩ tôi dạo nào không những
không là người “ vô danh” trên mặt trận văn hoá, tư tưởng, chính trị mà ông
còn là một “ người hùng” trong quân đội. Không phải là một chiến sĩ do đủ
tuổi phải đi nghĩa vụ, mà ông đã bước vào quân ngũ theo lời gọi của trái tim
quật khởi, một tấm lòng yêu nước, thương dân. Từ một công chức hoả xa,
ông đã đến với cách mạng, cùng một số đồng chí vận động, tập hợp lực
lượng lập chiến khu kháng chiến, chỉ huy Chi đội 10 Vệ quốc đoàn Biên
Hoà. Ông chính là linh hồn của Chiến khu Đ.
Tôi từng có niềm tự hào về Nguyễn Trãi. Và như nhà thơ Chế Lan Viên
trong khi ca ngợi Tổ quốc của thời đại ta đang sống - thời đại có Đảng và có
Bác Hồ - đã có làm công việc so sánh với quá khứ và tương lai. Tổ quốc
trong quá khứ hiện lên trong thơ là một quá khứ anh hùng có truyền thống
văn hoá rực rỡ. Qúa khứ có :
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn.
Nguyễn Trãi là một vị quan văn võ song toàn. Huỳnh Văn Nghệ cũng là một
tướng lãnh song toàn văn võ. Vì vậy, trong ý nghĩ của riêng tôi : Huỳnh Văn
Nghệ chính là “ Nguyễn Trãi” của miền Đông Nam Bộ. Thơ ông được mọi
người từ Bắc chí Nam biết đến qua bài thơ “ Nhớ Bắc”. Nhưng với tôi, hai
câu thơ được khắc trên bia đá nơi mộ ông lại làm tôi nao lòng :
Gởi lại bạn mấy vần thơ trên cát
Và chiều nay tôi sang bến, lên đường
Hôm nay, nhân kỉ niệm 55 năm ngày thành lập Chiến khu Đ, tôi viết mấy
dòng chữ này như lời tri ân của người hậu bối đối với những người làm nên
lịch sử Chiến khu Đ và như thay một nén hương thắp lên mộ ông - nhà thơ -
chiến sĩ Huỳnh Văn Nghệ.
(Kỉ niệm 55 năm - thành lập Chiến khu Đ)
Năm 2001

Kim
( longkhanh )
HUỲNH VĂN NGHỆ

Huỳnh Văn Nghệ sinh ngày 2-2-1914 tại làng Tân Tịch ( Tân Uyên, tỉnh
Biên Hoà; nay thuộc xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương ).
Vào thời kháng chiến chống Pháp ở vùng Chiến khu Đ, Huỳnh Văn Nghệ là
một nhà chỉ huy cách mạng. Ông từng là người chỉ huy Chi đội 10 nổi tiếng
tại miền Đông thời ấy.
Nhân dân mến mộ gọi ông là ông tướng, các tài liệu của Pháp và quân đội
Saigon gọi ông là tướng Nghệ, là Huỳnh tướng quân. Thật ra, cấp quân hàm
cao nhất của Huỳnh Văn Nghệ là thượng tá.Tuy nhiên, nhiều vị tướng vốn là
chiến sĩ, cán bộ được ông đào tạo, dìu dắt vẫn tôn vinh là anh cả với niềm
tôn kính vô bờ.
Huỳnh Văn Nghệ qua đời tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1977. Linh cữu
của ông được đưa về an táng tại vùng quê Tân Tịch, Tân Uyên. Nơi mộ ông
có khắc hai câu thơ nổi tiếng của ông :
Gởi lại bạn mấy dòng thơ trên cát
Và chiều nay tôi sang bến, lên đường !
Những bài thơ của ông :
- Bà bán cau ( 1935 ) - Mộ bia ( 1936 ) - Đám ma nghèo ( 1938 ) - Trốn học
( 1939 ) - Xuân chiến Khu ( 1946 ) - Du kích Đồng Nai, Hội nghị Bình Công
( 1954 ) ...
Văn :
Trận Mãng xà - Sấu đỏ mũi - Tiếng hát trên sông Đồng Nai - Chùa ông Mõ -
Mất đồn Mỹ Lộc - ...

SÔNG ĐỒNG NAI

Sông Đồng Nai sông nước anh hùng

Nguồn xa, xa tận núi rừng hoang vu
Lệ tiên kết đọng hồ sâu
Còn mơ cao rộng nhớ màu gió trăng
Xông pha vượt núi băng ngàn
Gặp La Ngà nghĩa bạn vàng kết đôi
Thề : “ Dù trắc trở núi đồi
Cũng liều sống thác tìm trời tự do ...”
Đôi lòng nặng chí giang hồ
Ngàn thu say bước trở về biển xanh.
Đường xa lên thác xuống gành
Ruộng đồng lưu luyến thị thành mến ưa.
Lệ đời tràn ngập hồn thơ

×