Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: “NGHIÊN CỨU HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM” pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.69 KB, 27 trang )





TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI: “NGHIÊN CỨU HOÀN
THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ
NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM”












ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
A. THÔNG TIN VỀ ĐỀ TÀI
Cấp đề tài: Đề tài cấp Bộ
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đinh Thị Mai Phương - Viện Khoa học pháp lý
Cơ quan chủ quản : Bộ Tư pháp
Cơ quan chủ trì : Viện Khoa học Pháp lý


Năm bảo vệ : 2008
B. NỘI DUNG TÓM TẮT
Đứng trước tình trạng quyền lợi của người tiêu dùng bị xâm phạm diễn ra ngày càng nhiều.
Trong số đó phải kể đến các vụ ngộ độc thực phẩm tại các đám cưới, tại bếp ăn của trường
học, của các khu công nghiệp; lưu hành các loại rau trồng sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm ở
ngoại thành một số thành phố, lưu hành các loại hải sản có ướp hoá chất độc hại, việc bán
các loại giò chả có hàn the; phở, bún có phooc-môn; các loại trái cây được xử lý bởi hóa chất
độc hại; các loại sữa kém chất lượng; lưu hành các loại mỹ phẩm kém chất lượng trôi nổi trên
thị trường; xăng pha aceton làm hư hỏng các bộ phận trong xe máy; nước sữa bột được ghi
thành sữa tươi của một số nhà sản xuất sữa ở Việt Nam; nước tương có chứa chất 3-MCPD
gây ung thư; nước mắm chứa dư lượng urê, nước mắm có gián, kiến, thạch sùng Những vụ
việc ấy gây bức xúc trong dư luận. Mặc dù, Việt Nam đã có Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng từ năm 1999 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành với hệ thống thiết chế đảm bảo
thực thi, nhưng sự vận hành của hệ thống quy phạm pháp luật, cũng như các thiết chế thực
thi còn không ít bất cập, quyền lợi của người tiêu dùng chưa được bảo vệ một cách thoả
đáng, không ít doanh nghiệp, nhà sản xuất vẫn tiếp tục có những hành vi xâm phạm quyền lợi
của người tiêu dùng.
Để góp phần đánh giá đúng những tồn tại, bất cập của cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu
dùng ở Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm quốc tế nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế pháp lý
bảo vệ người tiêu dùng; thông qua đó nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ người tiêu dùng,
việc nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ "Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ
người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam" là rất cần thiết.
Đề tài được triển khai nhằm đạt được các mục tiêu chủ yếu sau:

- Làm rõ cơ sở lý luận của cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng trong nền kinh tế thị
trường, lịch sử phát triển, các bộ phận cấu thành và các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình xây
dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng;
- Phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam hiện
nay, chỉ ra nhu cầu hoàn thiện cơ chế ấy từ chính thực trạng nền kinh tế thị trường Việt Nam;
- Đưa ra các kiến nghị về phương hướng và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ

người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu trên, phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu hệ thống
các thiết chế, thể chế và cách thức để bảo vệ người tiêu dùng.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU
DÙNG
1. Quan niệm người tiêu dùng
Qua nghiên cứu, nhóm tác giả nhận thấy có nhiều quan niệm khác nhau về người tiêu dùng.
Trong đó, một quan niệm tương đối phổ biến được các cộng tác viên đề tài chấp nhận là:
“người tiêu dùng là những người mua hoặc sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho các mục đích tiêu
dùng cá nhân, sinh hoạt gia đình, cộng đồng”. Cũng theo quan niệm này, người tiêu dùng
được hiểu là người tiêu dùng cuối cùng hàng hoá, dịch vụ được cung ứng trên thị trường.
Những người mua hàng hoá, dịch vụ để sử dụng làm đầu vào cho các hoạt động sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ sẽ không được coi là người tiêu dùng.
Tuy nhiên, cũng có quan niệm khác cho rằng, người tiêu dùng phải bao gồm cả những tổ
chức, những doanh nghiệp mua hàng hoá, dịch vụ của người khác và sử dụng vào các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ của mình.
Từ góc độ lịch sử, nhóm nghiên cứu đề tài đã tìm hiểu về quá trình ra đời và phát triển của
khái niệm “người tiêu dùng” với tư cách là một khái niệm pháp lý được sử dụng phổ biến
trong các đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng trên thế giới. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, khái
niệm người tiêu dùng, với tư cách là khái niệm pháp lý, chỉ mới được sử dụng phổ biến từ
khoảng những năm 1950 - 1960 trở lại đây. Người tiêu dùng được hiểu là người mua, sử
dụng hàng hoá, dịch vụ cho các mục đích không phải là mục đích thương mại. Người mua
hàng hoá, dịch vụ với tư cách là sản phẩm trung gian nhằm phục vụ quá trình sản xuất, hoặc
cung ứng lại cho người khác sẽ không được coi là người tiêu dùng. Cách hiểu này nói chung
được chấp nhận khá rộng rãi ở nhiều quốc gia. Thêm vào đó, việc xác định một người nào đó
là người tiêu dùng luôn phải xét trong bối cảnh và mối quan hệ cụ thể. Một người mua hàng
trong quan hệ này có thể là người tiêu dùng, nhưng trong quan hệ khác có thể không còn tư
cách người tiêu dùng nữa.
Qua quá trình nghiên cứu, Nhóm nghiên cứu đề tài cũng thấy rằng khái niệm “người tiêu
dùng” được sử dụng gắn liền với một giả định quan trọng về tính yếu thế của người tiêu dùng

trong quan hệ với nhà sản xuất, người cung cấp hàng hoá, dịch vụ (thường được gọi chung là
"thương nhân"
1
). Tính yếu thế đó thể hiện ở 4 khía cạnh quan trọng sau: Một là, yếu thế trong
việc tiếp cận, xử lý và hiểu các thông tin về hàng hoá, dịch vụ trong quan hệ mua bán, trao
đổi; Hai là, yếu thế trong việc đàm phán, thiết lập hợp đồng, giao dịch; Ba là, yếu thế về khả
năng chi phối giá cả, các điều kiện kinh doanh, giao dịch trên thị trường: Bốn là, yếu thế về
khả năng chịu rủi ro trong quá trình tiêu dùng sản phẩm.
Ngoài ra, trong quan hệ mua bán, giao dịch với các thương nhân, người tiêu dùng còn có
thể gặp các bất lợi khác như không nắm bắt được các thông tin về giá cả của các loại hàng
hoá, dịch vụ tương tự, chất lượng dịch vụ hậu mãi, hiểu biết pháp luật thấp, không nắm bắt
được các thông tin về uy tín của chính thương nhân trên thị trường v.v
Trong khi đó, trong quan hệ giao dịch giữa các thương nhân với nhau, khả năng tự bảo vệ
của thương nhân khi mua hàng hoá, dịch vụ thường cao hơn so với khả năng của người tiêu
dùng thông thường. Vì thế, việc quan niệm “người tiêu dùng” bao gồm cả các thương nhân

1
Khái niệm "thương nhân" trong các đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng của các nước trên thế giới (như
Pháp, Canada, Nhật Bản v.v ) thường được hiểu rộng hơn khái niệm "thương nhân" trong pháp luật thương
mại, bao gồm cả các tổ chức cung ứng dịch vụ có tính nghề nghiệp như bệnh viện, cơ sở đào tạo v.v
mua hàng hoá, dịch vụ để sử dụng trong quá trình sản xuất, kinh doanh sẽ dẫn tới sự cào
bằng về mức độ bảo hộ giữa người tiêu dùng thông thường và thương nhân là không hợp lý.
Trên cơ sở những nghiên cứu và phát hiện đó, các tác giả cho rằng, người tiêu dùng được
bảo hộ bởi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta và cũng là đối tượng được đề cập
trong đề tài này chỉ nên hiểu bao gồm người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ phục vụ các
mục đích không phải là hoạt động kinh doanh, thương mại.
2. Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
2.1. Sự cần thiết của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
Quá trình phát triển kinh tế tri thức, sự tác động ngày càng sâu của cuộc cách mạng công
nghệ, toàn cầu hoá và sự phát triển thương mại điện tử đang càng làm cho quá trình chuyên

môn hoá có những bước nhảy vọt hơn nữa về chất, khoảng cách chênh lệch giữa hiểu biết
của nhà sản xuất về sản phẩm với tri thức mà người tiêu dùng biết về sản phẩm ngày càng
lớn, quy mô kinh tế giữa thương nhân với người tiêu dùng càng có sự chênh lệch. Điều đó
càng làm cho nhà sản xuất với người tiêu dùng có độ chênh lệch lớn về vị thế thực tế. Trong
bối cảnh ấy, nếu người tiêu dùng không có các công cụ hỗ trợ, việc người tiêu dùng bị nhà
sản xuất, phân phối lạm dụng là hoàn toàn có khả năng xảy ra. Nếu chỉ trông chờ vào khả
năng tự bảo vệ của mình, người tiêu dùng sẽ khó có thể phòng ngừa và khắc phục được
những rủi ro trong quá trình tham gia giao dịch với nhà sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ
cũng như trong quá trình sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó. Điều này đã được thực tiễn không chỉ
ở các quốc gia công nghiệp phát triển mà còn ở chính Việt Nam chứng minh.
Đó chính là lý do vì sao Nhà nước cần phải ban hành pháp luật để điều chỉnh quan hệ giữa
nhà sản xuất, phân phối với người tiêu dùng, để quan hệ này trở nên lành mạnh, công bằng
hơn.
2.2. Quan niệm về pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
Có thể định nghĩa khái quát, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng là tổng thể các quy phạm
pháp luật có mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng khi mua hoặc sử dụng
hàng hoá, dịch vụ. Theo quan niệm này, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng gồm quy phạm
thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, miễn là có chung mục đích bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Tuy nhiên, khi xác định các ngành, lĩnh vực
pháp luật được coi là thuộc phạm trù “pháp luật bảo vệ người tiêu dùng”, có nhiều ý kiến khác
nhau.
Có quan niệm cho rằng, các quy phạm thuộc lĩnh vực pháp luật cạnh tranh, chống cạnh
tranh không lành mạnh cũng được xếp vào pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên,
nhóm nghiên cứu đề tài cho rằng, nếu xét từ góc độ lịch sử, các đạo luật về bảo vệ người tiêu
dùng thường được ban hành sau các quy phạm pháp luật về cạnh tranh và chống cạnh tranh
không lành mạnh. Thêm vào đó, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng chỉ là một trong những
hệ quả của điều chỉnh pháp luật về cạnh tranh và chống cạnh tranh không lành mạnh. Pháp
luật về cạnh tranh và chống cạnh tranh không lành mạnh trước hết có mục tiêu đảm bảo môi
trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trên thị trường, đảm bảo sự bình đẳng
về cơ hội cạnh tranh trên thị trường. Chính vì thế, pháp luật cạnh tranh và chống cạnh tranh

không lành mạnh nên coi là một lĩnh vực độc lập tương đối so với lĩnh vực pháp luật bảo vệ
người tiêu dùng.
Quan niệm khác cho rằng, các quy phạm pháp luật về quảng cáo là một bộ phận trong hệ
thống các quy phạm pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu đề tài
cho rằng, pháp luật quảng cáo không chỉ điều chỉnh quan hệ giữa nhà sản xuất và người tiêu
dùng, mà còn điều chỉnh quan hệ giữa thương nhân thuê các công ty quảng cáo tiến hành
hoạt động quảng cáo, quan hệ giữa các công ty quảng cáo với các cơ quan truyền thông đại
chúng , đảm bảo cho ngành công nghiệp đó phát triển lành mạnh. Chính vì thế, không phải
quy phạm nào thuộc lĩnh vực pháp luật quảng cáo cũng được coi thuộc các quy phạm pháp
luật về bảo vệ người tiêu dùng.
Nhìn lại lịch sử quá trình phát triển của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở các nước phát
triển, có thể thấy rằng, các đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng được ban hành đầu tiên chủ
yếu vào thập niên 1950-1970. Đây là thời kỳ mà phong trào bảo vệ người tiêu dùng trở thành
một trong những chủ điểm kinh tế, chính trị quan trọng. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, trong thập niên
1960-1970 hàng loạt đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng sau đây được ban hành: Luật Liên
bang về các chất nguy hại năm 1960, Luật về đóng gói và ghi nhãn công bằng năm 1966,
Luật về tính trung thực trong hoạt động cho vay năm 1968, Luật về tiết lộ thông tin đầy đủ
trong các giao dịch bất động sản liên bang năm 1968, Luật đảm bảo an toàn đồ chơi cho trẻ
em năm 1969, Luật về báo cáo tín dụng công bằng năm 1970, Luật về san toàn sản phẩm
tiêu dùng năm 1972, Luật về cơ hội tín dụng bình đẳng năm 1974, Luật bảo hành năm 1975,
Luật về hành vi đòi nợ công bằng năm 1977 v.v Cũng trong giai đoạn đó, Nhật Bản ban hành
Luật cơ bản về bảo vệ người tiêu dùng (năm 1968) còn Úc ban hành Luật về các hành vi
thương mại năm 1974 với nhiều quy định về bảo vệ người tiêu dùng. Tại Anh ban hành: Luật
thuê mua năm 1964, Luật về thông tin sai lạc trong thương mại năm 1967, Luật về các mô tả
thương mại năm 1968, Luật về cung ứng hàng hoá, dịch vụ ngoài ý muốn của người tiêu
dùng năm 1971, Luật thương mại công bằng năm 1973, Luật về các điều khoản mặc nhiên
trong hợp đồng cung ứng hàng hoá năm 1973, Luật về tín dụng tiêu dùng năm 1974, Luật về
các điều khoản hợp đồng không công bằng năm 1977, Luật về an toàn tiêu dùng năm 1978.
Các chương trình về bảo vệ người tiêu dùng của Liên minh châu Âu cũng được khởi động từ
thập niên 1970. Từ đó đến nay, Liên minh châu Âu cũng ban hành nhiều văn bản quan trọng

về bảo vệ người tiêu dùng trong đó có Chỉ thị 85/374/EEC về trách nhiệm của nhà sản xuất
đối với các sản phẩm khuyết tật; Chỉ thị số 85/577/EEC về bảo vệ người tiêu dùng trong các
giao dịch bán hàng ở ngoài địa điểm kinh doanh thường xuyên (chẳng hạn bán hàng tại nhà
của người tiêu dùng); Chỉ thị số 90/314/EEC về dịch vụ du lịch trọn gói; Chỉ thị số 93/13/EEC
về các điều khoản không công bằng trong các hợp đồng tiêu dùng; Chỉ thị số 94/47/EC về bảo
vệ bên mua quyền sử dụng bất động sản theo thời vụ; Chỉ thị số 97/7/EC về bảo vệ người tiêu
dùng trong các hợp đồng bán hàng từ xa; Chỉ thị số 1999/44/EC về việc bán hàng hoá tiêu
dùng; Chỉ thị số 2002/65/EC về tiếp thị dịch vụ tài chính từ xa; Chỉ thị số 2005/29/EC về hành
vi thương mại giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng không công bằng.
Tất nhiên, để vận hành các văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt về bảo vệ người tiêu
dùng kể trên, việc dựa vào các văn bản pháp luật nền như các quy định trong pháp luật dân
sự, pháp luật hành chính, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng, pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các thiết chế hành chính, thiết chế tư pháp là điều khó tránh. Pháp luật bảo vệ
người tiêu dùng gồm quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành, lĩnh vực pháp luật khác nhau
trong số đó, phải kể đến các nhóm quy phạm pháp luật sau đây:
- Các quy định về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm;
- Quy định về đo lường;
- Quy định kiểm soát quá trình gia nhập thị trường;
- Quy định về ghi nhãn bắt buộc;
- Quy định về tội phạm và hình phạt áp dụng cho các hành vi xâm phạm quyền lợi của
người tiêu dùng.
- Quy định về pháp luật hợp đồng được thiết kế đặc biệt để bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng (nhất là các quy định về những điều khoản mà nhà sản xuất không được phép tự do
thương lượng với người tiêu dùng; các điều khoản được coi là không công bằng đối với
người tiêu dùng; về quyền tự do đơn phương chấm dứt hợp đồng trong một số trường hợp
chẳng hạn trong hợp đồng bán tại nhà, các loại hợp đồng bán hàng từ xa, các loại điều khoản
về tín dụng tiêu dùng ).
- Quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có mục đích bảo vệ người tiêu dùng.
Ở một số quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ và Canada, người tiêu dùng có công cụ pháp luật tố
tụng tốt hơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đó là cơ chế khởi kiện tập thể.

Ở Việt Nam, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng gồm hệ thống các quy phạm pháp luật có
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, đảm bảo cho người tiêu
dùng được hưởng chế độ bảo vệ đặc biệt hơn so với chế độ bảo vệ của những người mua
hàng hoá, dịch vụ khác. Hệ thống quy phạm pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng không nằm
trong một ngành luật cụ thể nào, mà tồn tại ở nhiều ngành luật khác nhau, trong đó có luật
dân sự, luật hành chính và luật hình sự. Đây cũng là quan niệm chung được nhiều quốc gia
chấp nhận. Các quy phạm pháp luật này tồn tại chủ yếu trong các văn bản pháp luật thực định
sau đây:
- Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi
hành; Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/9/2006 về nhãn hàng hoá;
- Quy định bảo vệ người tiêu dùng trong Bộ luật dân sự năm 2005 như: các quy định về bảo
đảm chất lượng vật mua bán, bảo đảm thông tin về vật mua bán, vấn đề bảo hành trong hợp
đồng mua bán tài sản, các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
- Các quy định về xử phạt hành chính trong các lĩnh vực có liên quan đến bảo vệ người tiêu
dùng.
- Quy định về một số tội phạm liên quan đến người tiêu dùng trong Bộ luật hình sự năm
1999 (chẳng hạn: tội sản xuất, buôn bán hàng giả tại Điều 156, Điều 157 và Điều 158; tội lừa
dối khách hàng tại Điều 162; tội quảng cáo gian dối tại Điều 168; tội vi phạm các quy định về
vệ sinh an toàn thực phẩm tại Điều 244 ).
Ngoài ra, các quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng còn được quy định rải rác trong
nhiều văn bản pháp luật quan trọng khác trong đó phải kể đến Luật dược năm 2005; Luật tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Pháp lệnh đo lường năm 1999; Luật chất lượng sản
phẩm năm 2007; Luật công nghệ thông tin năm 2006 (có nội dung liên quan đến hoạt động
thương mại điện tử); Pháp lệnh thú y năm 2004; Pháp lệnh giá năm 2002; Luật kinh doanh
bảo hiểm năm 2000, Luật luật sư năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
2.3. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng là sản phẩm mà nhà nước tạo ra để đáp ứng yêu cầu bảo
vệ nhóm đối tượng đặc thù “người tiêu dùng” - nhóm đối tượng có nhiều yếu thế so với chủ
thể sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế.

Có thể mô hình hoá các mối quan hệ cơ bản chịu sự điều chỉnh của pháp luật bảo vệ người
tiêu dùng như sau:


Về phương pháp điều chỉnh, việc bảo vệ
người tiêu dùng đòi hỏi nhà nước phải sử
dụng cả 2 cách. (i) “giám sát của Nhà nước”
(bằng các biện pháp cấp phép, thanh tra, kiểm
tra, xử lý vi phạm về hành chính, hình sự); và
(ii) “giám sát của cộng đồng xã hội” (thông
qua việc khiếu nại, tố cáo, đòi bồi thường của
người tiêu dùng, tố cáo của các doanh nghiệp
làm ăn chân chính, sự phát hiện của các cơ quan truyền thông, các hội bảo vệ người tiêu
dùng ). Chính vì thế, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng không sử dụng một phương pháp
điều chỉnh duy nhất mà sử dụng nhiều phương pháp điều chỉnh khác nhau. Đó là, phương
pháp tôn trọng sự tự do, tự nguyện thoả thuận (khi sử dụng các quy phạm pháp luật thuộc
lĩnh vực luật tư, nhất là các quy định về pháp luật hợp đồng, các quy định về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, các quy định pháp luật về khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại); phương
pháp mang tính mệnh lệnh, phục tùng (khi sử dụng các quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực
luật công, nhất là các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật hành chính và
pháp luật hình sự).
2.4. Chức năng của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng có một số chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, ghi nhận hệ thống các quyền của người tiêu dùng. Theo Hướng dẫn của Liên hợp
quốc về bảo vệ người tiêu dùng (năm 1985), người tiêu dùng có 8 quyền cơ bản sau: quyền
được thoả mãn những nhu cầu cơ bản; quyền được an toàn; quyền được thông tin; quyền
được lựa chọn; quyền được lắng nghe; quyền được khiếu nại và bồi thường; quyền được
giáo dục, đào tạo về tiêu dùng; quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững
2
;

Thứ hai, quy định cơ chế đảm bảo các quyền năng của người tiêu dùng được tôn trọng trên
thực tế. Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng quy định trình tự, thủ tục thực hiện các quyền năng
của người tiêu dùng; cách ứng xử của nhà sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ trong việc
giải quyết các yêu cầu của người tiêu dùng; cách ứng xử của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trong trường hợp phát hiện các vi phạm pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng; trình tự,
thủ tục khởi kiện, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các biện pháp chế tài áp dụng cho các
chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng.
Thứ ba, quy định các giải pháp pháp lý giúp người tiêu dùng phòng ngừa và khắc phục các
vấn đề thường gặp trong quá trình tham gia giao dịch trên thị trường và trong quá trình sử
dụng, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ.
Đối với sự phát triển của thị trường, việc can thiệp của Nhà nước như vậy giúp cho thị
trường vận hành một cách hiệu quả, công bằng hơn trong trật tự cạnh tranh lành mạnh; góp
phần loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả ra khỏi nền kinh tế, cổ vũ cho những
doanh nghiệp làm ăn chân chính, hiệu quả ngày càng lớn mạnh.
3. Quan niệm về cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

2
Cục quản lý cạnh tranh, Sổ tay công tác bảo vệ người tiêu dùng, Nxb Chính trị quốc gia, 2006, tr. 33.
Trên cơ sở quan niệm "cơ chế" là “cách thức theo đó một quá trình thực hiện”
3
, chúng ta có
thể coi “cơ chế pháp lý” là cơ chế được pháp luật (nhà nước) quy định và đảm bảo thực hiện.
Trên cơ sở này, có thể đưa ra khái niệm: Cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng là tổng thể
các cách thức, biện pháp do nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện nhằm bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, chống lại các hành vi xâm phạm.
Theo cách quan niệm này, cơ chế pháp lý được hiểu bao gồm 3 bộ phận cơ bản: (1) pháp
luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng; (2) các thiết chế tổ chức, thực thi pháp luật bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng; (3) điều kiện đảm bảo (về tài chính, tri thức, kỹ năng, nguồn
nhân lực…) phục vụ việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Các bộ phận này có sự tương
tác với nhau tạo thành một hệ thống hướng tới một mục tiêu chung là phòng, chống các hành

vi xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng, khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm cho người tiêu dùng Theo cách quan niệm ấy, cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu
dùng ở Việt Nam bao gồm các bộ phận cơ bản sau:
Thứ nhất, các quy tắc pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, gồm: các quy định về quyền của người tiêu dùng và tương ứng với
nó là trách nhiệm của nhà sản xuất, kinh doanh và của Nhà nước; quy định về tổ chức và
hoạt động của các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; quy định về
trình tự, thủ tục thực thi các quyền của người tiêu dùng; quy định về các biện pháp chế tài đối
với người có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Thứ hai, các thiết chế tổ chức, thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ ba, điều kiện bảo đảm cho pháp luật và các thiết chế thực thi pháp luật vận hành hiệu
quả (nguồn nhân lực, nguồn tài chính và các điều kiện về kỹ năng, nhận thức của không chỉ
các cơ quan, tổ chức hữu quan, mà còn của chính người tiêu dùng và các nhà sản xuất, kinh
doanh trong xã hội).
Theo các tác giả, để đảm bảo tính toàn diện và hệ thống trong quan niệm về cơ chế pháp lý
bảo vệ người tiêu dùng, cần đưa người tiêu dùng, các nhà sản xuất, phân phối sản phẩm,
hiệp hội của các nhà sản xuất, phân phối, hiệp hội, hội bảo vệ người tiêu dùng nằm trong cơ
chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng. Cơ chế pháp lý kể trên được vận hành không thể tách rời
với các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá chung của xã hội. Chẳng hạn, cơ chế pháp lý kể trên
sẽ vận hành tốt hơn và người tiêu dùng sẽ được bảo hộ tốt hơn nếu doanh nghiệp, doanh
nhân có trách nhiệm xã hội rõ hơn, văn hoá kinh doanh lành mạnh hơn, áp lực cạnh tranh lớn
hơn. Người tiêu dùng cũng sẽ được bảo vệ tốt hơn nếu bộ máy công quyền (bộ máy hành
chính và bộ máy tư pháp) ít chịu ảnh hưởng hơn từ khu vực kinh doanh (cả ảnh hưởng chính
thức và ảnh hưởng phi chính thức), và nếu như các phương tiện truyền thông đại chúng thực
hiện tốt hơn vai trò phản ánh, lên án các hiện tượng tiêu cực đối với người tiêu dùng và vai trò
giám sát của mình.
Với quan niệm như vậy, thiết chế bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay gồm một số
nhóm chủ thể chính sau đây:
- Các cơ quan hành chính có chức năng, nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng nói chung hoặc
trong từng lĩnh vực cụ thể.


3
Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học) - GS Hoàng Phê (chủ biên), Nxb Đà Nẵng, 2004, tr.214.
- Hệ thống Toà án nhân dân các cấp. Ngoài ra, để thực thi các quy định về xử lý hình sự đối
với các doanh nghiệp có hành vi xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng, hệ thống các cơ
quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án cũng có vai trò rất quan trọng.
- Hệ thống các hội bảo vệ người tiêu dùng.
- Các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề.
II. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM
1. Tổng quan tình hình xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng và công tác bảo vệ
người tiêu dùng ở nước ta.
1.1. Tình hình xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng
Tại nội dung này các tác giả đã đánh giá được thực trạng xâm phạm quyền lợi của người
tiêu dùng được phản ánh qua các phương tiện thông tin đại chúng. Trong đó phải kể đến:
- Chất lượng các loại rau cung cấp tại các khu đô thị không đảm bảo được là rau an toàn.
Các tác giả đã đưa ra số liệu thông kê tỉ lệ rau an toàn được trồng tại các địa phương rất thấp.
Thậm chí, có mẫu thử đối với rau an toàn ở một số địa phương vẫn còn tồn dư lượng chất
bảo vệ thực vật vượt mức cho phép. Hầu hết các loại rau được cung cấp trên thị trường bị
nhiễm khuẩn E.coli và coliform vượt tiêu chuẩn, ô nhiễm chì và các hoá chất độc hại khác,
hoặc nhiễm các loại ký sinh trùng trong đó có trứng giun, sán, ấu trùng giun, sán lá gan rất
nguy hiểm và độc hại. Có nơi, lợi dụng kẽ hở trong quản lý, đã treo biển “rau an toàn” nhưng
lại bán rau không an toàn.
- Các sản phẩm, hàng hóa được bán tại các chợ vi phạm quy định: hàng không ghi rõ nguồn
gốc xuất xứ (bánh, kẹo bán cân không có giấy tờ chứng minh cơ sở sản xuất), không ghi rõ
ngày sản xuất (giò, chả), người bán hàng thực phẩm không có giấy chứng nhận sức khoẻ,
hàng nhập khẩu nhưng tem, mác chỉ ghi toàn tiếng nước ngoài, không ghi tiếng Việt (nên
người tiêu dùng không thể đọc và hiểu được)
- Tình hình kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng vi phạm về sở hữu trí tuệ cũng
diễn biến phức tạp, diễn ra trên diện rộng.
- Tình trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng không chỉ diễn ra trong lĩnh vực kinh doanh

hàng hoá, mà còn diễn ra cả trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ (ví dụ vi phạm quyền lợi của
du khách, của người gửi tiền, của người xem biểu diễn các chương trình ca nhạc, dịch vụ đầu
tư hoặc tư vấn đầu tư có dấu hiệu gian dối, lừa đảo).
Việc vi phạm quyền lợi người tiêu dùng diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau như quyền
lợi người tiêu dùng bị vi phạm do các nhà sản xuất, kinh doanh không cung cấp đầy đủ thông
tin cần thiết cho người tiêu dùng hoặc cung cấp thông tin sai lệch; quyền lợi người tiêu dùng
bị vi phạm do người tiêu dùng bị nhà sản xuất, kinh doanh cung cấp các loại hàng hoá, dịch
vụ không đảm bảo đúng giá cả, chất lượng, nguồn gốc xuất xứ đã cam kết; người tiêu dùng
không được nhà sản xuất, người bán hàng thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ bảo hành đã
cam kết; người tiêu dùng bị gian lận về cân, đo, đong, đếm. Tình trạng sử dụng hợp đồng
mẫu gây bất lợi cho người tiêu dùng cũng đã diễn ra trong thực tế.
Thực trạng trên cho thấy, các vụ việc liên quan đến người tiêu dùng ngày càng tăng cả về số
lượng, quy mô, phạm vi lẫn mức độ vi phạm
4
.

4
Báo cáo tổng kết công tác thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và định hướng xây dựng Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, Cục Quản lý cạnh tranh, công bố ngày 11/6/2008.
1.2. Tổng quan về công tác bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta hiện nay
Tại nội dung này các tác giả đã đưa ra một bức tranh toàn cảnh về sự phân công thực hiện
nhiệm vụ công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các Bộ, ngành hữu quan, UBND các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2. Những thành tựu trong công tác xây dựng cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng
ở nước ta
2.1. Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
Các tác giả đã đưa ra những đánh giá tổng thể về cơ sở pháp lý của công tác bảo vệ người
tiêu dùng. Các văn bản này có các ưu điểm nổi bật sau:
- Làm rõ khái niệm về "người tiêu dùng".
- Quy định hệ thống các quyền năng cơ bản của người tiêu dùng. Theo đó, người tiêu dùng

có các quyền cơ bản sau: (i) Quyền lựa chọn hàng hoá, dịch vụ; (ii) Quyền được thông tin
trung thực về chất lượng, giá cả, phương pháp sử dụng hàng hoá, dịch vụ; (iii) Quyền được
bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ và môi trường khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ; (iv)
Quyền được hướng dẫn những hiểu biết cần thiết về tiêu dùng; (v) Quyền được đòi bồi hoàn,
bồi thường thiệt hại khi hàng hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá
cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết; (vi) Quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy
định của pháp luật đối với việc sản xuất, kinh doanh hàng cấm, hàng giả, hàng hoá, dịch vụ
không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng và việc thông tin, quảng cáo sai sự thật; (vii)
Quyền được đóng góp ý kiến trong việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng; (viii) Yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ thực hiện đúng trách nhiệm trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; (ix) Quyền
yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá,
dịch vụ thuộc nhu cầu thiết yếu của người tiêu dùng, bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ môi trường và
các hàng hoá, dịch vụ khác đã đăng ký, công bố; (x) Quyền thành lập tổ chức để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Các quyền năng này có nội dung không khác
biệt so với 8 quyền cơ bản đã được quy định trong Bản Hướng dẫn của Liên Hợp quốc năm
1985 về bảo vệ người tiêu dùng.
Ngoài ra, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn quy định một số trách nhiệm của
người tiêu dùng. Đó là, tự bảo vệ mình trong việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ; thực hiện đúng
hướng dẫn về phương pháp sử dụng hàng hoá, dịch vụ; không tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ
gây tổn hại đến môi trường, trái với thuần phong mỹ tục, gây nguy hại đến tính mạng, sức
khoẻ của mình và cộng đồng; phát hiện, tố cáo các hành vi gian dối về tiêu chuẩn, đo lường,
chất lượng, nhãn hiệu hàng hoá, giá cả và các hành vi lừa dối khác của tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, gây thiệt hại cho mình và cộng đồng theo quy định của
pháp luật.
- Quy định hệ thống nghĩa vụ của nhà sản xuất, kinh doanh. Theo Pháp lệnh bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng năm 1999, các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
có các nghĩa vụ cơ bản sau đây: (i) Đăng ký, công bố tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá, dịch
vụ theo quy định pháp luật và thực hiện đúng cam kết với người tiêu dùng; (ii) Thường xuyên
kiểm tra về an toàn, chất lượng hàng hoá, dịch vụ, thực hiện việc cân, đong, đo, đếm chính

xác; (iii) Thông tin, quảng cáo chính xác và trung thực về hàng hoá, dịch vụ; (iv) Niêm yết giá
hàng hoá, dịch vụ; (v) Công bố điều kiện, thời hạn, địa điểm bảo hành và hướng dẫn sử dụng
hàng hoá, dịch vụ của mình cho người tiêu dùng; (vi) Giải quyết kịp thời mọi khiếu nại của
người tiêu dùng; (vii) Thực hiện trách nhiệm bảo hành hàng hoá, dịch vụ; (viii) Thu thập,
nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đóng góp của người tiêu dùng; (ix) Bồi hoàn, bồi thường thiệt hại
cho người tiêu dùng theo quy định của pháp luật.
- Quy định hệ thống biện pháp chế tài áp dụng cho tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có
hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, bao gồm chế tài dân sự (trách nhiệm hợp
đồng; trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng); chế tài hành chính; chế tài hình sự.
- Quy định hệ thống các thiết chế có trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng.
- Quy định cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo của người tiêu dùng.
- Một số quy định có liên quan khác: các quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; về chất
lượng hàng hoá cung cấp thông tin trung thực; về mức độ an toàn, chất lượng; về công tác
bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; về quảng cáo hàng hoá, dịch vụ; về nhãn hàng hoá.
2.2. Thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
Thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hiện nay gồm: bộ máy hành chính nhà
nước (nhất là các đơn vị thuộc Bộ Công thương, Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ và các
Bộ, ngành hữu quan khác), các cơ quan thuộc bộ máy tư pháp và các Hội bảo vệ người tiêu
dùng. Các tác giả đưa ra đánh giá các quy định pháp luật về trách nhiệm của các cơ quan
thực thi việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cũng như thực tiễn thực thi các quy định này
trong thực tiễn. Trong đó:
- Cục Quản lý cạnh tranh đã nỗ lực thực hiện các hoạt động truyền thông nhằm nâng cao
nhận thức của người tiêu dùng, giải đáp pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng cho các cá
nhân, tổ chức, doanh nghiệp; tiếp nhận các khiếu nại, phản ánh của người tiêu dùng; thực
hiện việc hoà giải giữa người tiêu dùng và các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh bị
khiếu nại; tổng kết thực tiễn công tác xây dựng pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, tham
mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ
người tiêu dùng; phối hợp với các cơ quan hữu quan, với Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người
tiêu dùng thực hiện các hoạt động kiểm tra, xác minh các vụ việc mà quyền lợi người tiêu
dùng bị xâm hại.

- Lực lượng quản lý thị trường thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh
với các hành vi làm hàng giả, hàng nhái, buôn lậu, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
- Cục Quản lý thị trường là cơ quan thuộc Bộ Công thương có chức năng giúp Bộ trưởng
thực hiện quản lý nhà nước về công tác kiểm tra kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các
hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại ở thị trường trong nước; thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành thương mại theo quy định của pháp luật.
- Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (Bộ Y tế) là cơ quan quản lý chuyên ngành thuộc Bộ Y tế,
giúp Bộ trưởng Bộ Y tế thực hiện chức năng quản lý nhà nước, chỉ đạo và điều hành các hoạt
động chuyên môn về vệ sinh an toàn thực phẩm trong phạm vi cả nước.
- Hội bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam được tổ chức cả ở cấp trung ương và cấp tỉnh. Ở
cấp trung ương Hội bảo vệ người tiêu dùng có tên chính thức là Hội tiêu chuẩn và bảo vệ
người tiêu dùng Việt Nam (viết tắt theo tiếng Anh là Vinatas). Ở cấp tỉnh, gần 30 Hội bảo vệ
người tiêu dùng đã được thành lập. Theo Điều lệ của Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu
dùng Việt Nam, Hội là tổ chức tự nguyện của những người hoạt động trong lĩnh vực tiêu
chuẩn hoá, chất lượng và bảo vệ người tiêu dùng. Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Hội hoạt động trong phạm vi cả nước, có tư cách pháp nhân,
có con dấu và tài khoản riêng. Vinastas có Văn phòng khiếu nại của người tiêu dùng được
thành lập từ năm 1994 và đặt tại Hà Nội, có tạp chí “Người tiêu dùng” là cơ quan ngôn luận
của Hội. Hội còn thành lập hệ thống các câu lạc bộ như Câu lạc bộ Chất lượng, Câu lạc bộ
Người tiêu dùng nữ, Câu lạc bộ Chống hàng giả và gian lận thương mại, Câu lạc bộ các nhà
báo bảo vệ người tiêu dùng nhằm tăng sức mạnh của Hội. Hội còn có một số công ty về
truyền thông, dịch vụ, triển lãm tự nguyện xin làm thành viên của Hội. Hội cũng đã thành lập
Trung tâm nghiên cứu và tư vấn về người tiêu dùng (CESCON) và Trung tâm tư vấn và
chuyển giao công nghệ tiêu chuẩn chất lượng (CITEC). Mỗi năm, Vinastas và các Hội ở địa
phương tiếp nhận khoảng 1000 đơn khiếu nại của người tiêu dùng. Hầu hết các khiếu nại đều
được giải quyết bằng con đường thương lượng, hoà giải đối với nhà sản xuất, phân phối.
- Hệ thống toà án đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi
xử lý các hành vi xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng. Tòa án có quyền áp dụng chế tài dân
sự (nhất là trong các vụ kiện đòi bồi thường theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng) và chế tài
hình sự. Đồng thời Tòa hành chính cũng có vai trò nhất định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

thông qua việc xem xét các hành vi hành chính, quyết định hành chính của người có thẩm
quyền xử lý các hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng bị khởi kiện tại Tòa hành chính.
Ngoài ra, các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước cũng có vai trò quan trọng trong công
tác bảo vệ người tiêu dùng, trong đó phải kể đến các cơ quan trong ngành khoa học và công
nghệ (Tổng Cục tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng, các Chi cục tiêu chuẩn, đo lường và chất
lượng), ngành giao thông vận tải, ngành công an v.v
2.3. Các điều kiện bảo đảm
Thời gian qua, công tác bảo vệ người tiêu dùng, nhất là việc bảo vệ người tiêu dùng liên
quan tới việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, chống hàng giả, hàng nhái ngày càng
được quan tâm hơn. Nhà nước đã đầu tư ngân sách, kinh phí, bố trí nguồn lực ngày càng lớn
hơn phục vụ công tác bảo vệ người tiêu dùng. Lực lượng quản lý thị trường ngày càng được
tăng cường về số lượng biên chế và trang thiết bị, kinh phí hoạt động.
Bộ Y tế đã trình Thủ tướng Chính phủ Đề án thành lập Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh
thực phẩm quốc gia với chức năng xét nghiệm tất cả các chỉ tiêu về vệ sinh an toàn thực
phẩm, kể cả các loại xét nghiệm phức tạp như xét nghiệm để phát hiện virut gây bò điên, các
loại sản phẩm bị nhiễm phóng xạ ; trình Thủ tướng Chính phủ Đề án thành lập 4 Trung tâm
kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm tại 4 vùng miền gồm Miền Trung, Tây Nguyên, thành
phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ. Khi Viện Kiểm nghiệm và các Trung tâm kiểm
nghiệm này đi vào hoạt động, chắc chắn, hoạt động của các cơ sở này sẽ đóng góp quan
trọng vào công tác bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ý thức bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng đang từng bước được nâng lên. Một số người
tiêu dùng bày tỏ bất bình trên các phương tiện báo chí, thậm chí đã có người đệ đơn khởi
kiện nhà sản xuất để yêu cầu họ thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình đối với người tiêu
dùng (trong vụ nước tương chứa chất 3-MCPD).
Đây là những tiền đề tốt để việc tăng cường công tác bảo vệ người tiêu dùng trong thời gian
tới được thực hiện tốt hơn.
3. Những tồn tại, bất cập trong cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta
3.1. Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
Tuy có những thành tựu rất đáng kể như đã nêu ở trên, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở
nước ta trong thời gian qua cũng còn nhiều tồn tại, bất cập, trong số đó có thể kể đến những

tồn tại, bất cập sau:
3.1.1. Quy định chung chung
Điều này thể hiện rõ nét nhất trong các quy định của Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 1999. Pháp lệnh này đưa ra nhiều quy định về các quyền của người tiêu dùng và
trách nhiệm của nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá, nhưng các quy định về cơ chế thực hiện
các quyền của người tiêu dùng và trách nhiệm của nhà sản xuất, kinh doanh lại thiếu vắng.
3.1.2. Quy định trùng lặp
Việc cùng một vấn đề được quy định lặp đi, lặp lại ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau là
khá phổ biến. Chẳng hạn, quyền của người tiêu dùng được quy định tại Pháp lệnh bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007, Luật du
lịch năm 2005 ; quy định về nghĩa vụ đảm bảo thông tin trung thực về sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ được quy định cả ở trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, Luật
chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007, Pháp lệnh quảng cáo năm 2001
3.1.3. Quy định tản mạn
Sự tản mạn trong các quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng được thể hiện trong các
quy định về quyền của người tiêu dùng, trách nhiệm của người sản xuất, cung ứng, phân phối
hàng hoá, dịch vụ; quy định về xử phạt vi phạm hành chính liên quan tới công tác bảo vệ
người tiêu dùng.
3.1.4. Quy định mâu thuẫn. Ví dụ:
- Mâu thuẫn giữa các quy định trong Luật cạnh tranh năm 2004 và Pháp lệnh giá năm 2002
liên quan đến các quy định xử lý hành vi liên kết lũng đoạn giá thị trường. Hành vi liên kết
giữa các doanh nghiệp để lũng đoạn giá cả trên thị trường được Luật cạnh tranh năm 2004
được xếp vào loại hành vi hạn chế cạnh tranh. Hành vi đó cũng được Pháp lệnh giá năm
2002 coi là hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của mình. Kết cục là, các văn bản hướng dẫn thi
hành hai văn bản kể trên có nội dung mâu thuẫn nhau.
- Mâu thuẫn giữa các quy định trong các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính có liên
quan, theo đó, cùng một hành vi vi phạm nhưng thuộc phạm vi điều chỉnh của hai Nghị định
khác nhau và mức xử lý vi phạm được quy định khác nhau.
3.1.5. Chưa thừa nhận yêu cầu bảo vệ đặc biệt đối với người tiêu dùng
Pháp luật nước ta hiện nay chưa dành cho người tiêu dùng mức độ bảo vệ tương xứng với

tính chất của nhóm đối tượng này. Người tiêu dùng chưa được quy định những "đặc quyền",
những công cụ đặc biệt mà chỉ người tiêu dùng mới có để bảo vệ, khắc phục những điểm yếu
của mình trong quan hệ giao dịch với thương nhân trên thị trường. Việc thiếu các quy định
đặc thù, khác với các quy định trong Bộ luật dân sự làm công cụ bảo vệ người tiêu dùng càng
cho thấy thực tế này.
3.1.6. Chưa quy định các điều kiện cần thiết để người tiêu dùng tự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng nhấn mạnh tới vai trò của các cơ quan quản lý hành chính
nhà nước (thông qua việc giám sát, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm), mà chưa chú trọng
thoả đáng tới việc khuyến khích người tiêu dùng tự bảo vệ quyền lợi của mình (thông qua các
hành vi ứng xử cụ thể trong giao dịch với người sản xuất kinh doanh). Việc xử phạt các chủ
thể có hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng thường ít được công khai, hoặc có công
khai thì người tiêu dùng cũng chưa cảm nhận được mình sẽ được lợi trực tiếp gì từ việc xử
phạt ấy (do không có cơ chế nào liên kết giữa việc xử phạt ấy với việc người tiêu dùng được
yêu cầu tổ chức, cá nhân vi phạm phải bồi hoàn lại tiền, bồi thường cụ thể cho người tiêu
dùng). Các quy định điều chỉnh hành vi ứng xử của người tiêu dùng và người kinh doanh
trong các quan hệ hợp đồng cụ thể không được quy định chi tiết trong Pháp lệnh bảo vệ
người tiêu dùng năm 1999 cũng như trong các văn bản pháp luật có liên quan.
3.1.7. Còn nhiều khoảng trống pháp luật quan trọng.
Đó là thiếu quy định về: (i) hợp đồng tiêu dùng; (ii) đánh giá tính công bằng của các điều
khoản trong hợp đồng tiêu dùng; (iii) hệ quả pháp lý của việc thực hiện các hành vi vi phạm
các quy định của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng (như hành vi quảng cáo gian dối, lạm dụng
vị trí ưu thế v.v ) đối với giao dịch giữa thương nhân với người tiêu dùng (tức là việc vi phạm
đó có ảnh hưởng gì tới giá trị hợp đồng giữa người tiêu dùng và thương nhân, liệu nếu một
thương nhân có hành vi quảng cáo gian dối thì người tiêu dùng đã mua hàng của thương
nhân đó đương nhiên có quyền trả lại hàng, đòi tiền, đòi bồi thường thiệt hại hay không…);
(iv) giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật bảo vệ người tiêu dùng với các chế định pháp luật
khác có liên quan; (v) tín dụng tiêu dùng trong quan hệ mua bán hàng hoá trả chậm, trả dần;
(vi) các điều khoản cụ thể cần phải có trong các hợp đồng tiêu dùng giữa thương nhân với
người tiêu dùng; (vii) quy định về tính liên thông giữa việc áp dụng các biện pháp xử phạt vi

phạm hành chính, các biện pháp xử lý hình sự với việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt
hại.
3.1.8. Hệ thống chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
Hệ thống chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng còn có
những điểm bất hợp lý nhất định. Việc truy cứu trách nhiệm dân sự đối với hành vi vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng vẫn buộc người tiêu dùng phải chứng minh rất nhiều nội dung,
trong đó có nội dung chứng minh lỗi, hoặc chứng minh hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh. Hệ thống chế tài hành chính còn khá cứng nhắc, chưa cho phép cơ
quan bảo vệ người tiêu dùng được sử dụng các biện pháp mềm dẻo hơn như cảnh báo về
hành vi vi phạm, đề nghị doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm xây dựng và áp dụng chương
trình tuân thủ pháp luật một cách tự nguyện Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ
thể có hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng chỉ mới tập trung vào một nhóm nhỏ các
hành vi, trong đó có hành vi "quảng cáo gian dối", "lừa dối khách hàng", "làm hàng giả". Các
hành vi làm hàng kém chất lượng, làm ra các loại hàng hoá gây nguy hiểm cho người tiêu
dùng (ở mức độ nghiêm trọng) chưa được tội phạm hoá để xử lý về mặt hình sự.
3.1.9. Một số tồn tại, bất cập khác
- Quy định về nhãn hàng hoá chưa thống nhất;
- Có sự xung đột thẩm quyền và tạo ra sự khó khăn trong công tác quản lý nhà nước đối với
hàng hoá, văn hóa phẩm và dịch vụ trên các phương tiện thông tin đại chúng lĩnh vực này đối
với cả 2 bộ, ngành (Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Công thương).
3.2. Thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
Công tác bảo vệ người tiêu dùng vẫn chỉ mới tập trung vào một số thiết chế cơ bản như lực
lượng quản lý thị trường, lực lượng của ngành y tế, Cục Quản lý cạnh tranh, lực lượng làm
công tác tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng hàng hoá của ngành khoa học và công nghệ, các
Hội bảo vệ người tiêu dùng. Vai trò của nhiều thiết chế trong hệ thống chính trị chưa được
phát huy đúng mức. Cho tới nay, chưa có một Nghị quyết hoặc Chương trình hành động liên
tịch nào được ký kết giữa các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng với Mặt trận Tổ
quốc cũng như với các tổ chức thành viên trong Mặt trận Tổ quốc về công tác bảo vệ người
tiêu dùng.
Cơ quan chuyên trách về bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta (Cục Quản lý cạnh tranh) mới

được thành lập (từ năm 2005 trở lại đây) với vị trí, chức năng, quyền hạn còn khá khiêm tốn.
Lực lượng cán bộ làm công tác chuyên trách cho Ban Bảo vệ người tiêu dùng - Cục Quản lý
cạnh tranh còn thiếu và còn bất cập cả về số lượng và chất lượng.
Lực lượng thanh tra chuyên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm (từ trung ương tới địa
phương) chưa được thiết lập.
Vai trò của chính quyền cấp cơ sở trong công tác bảo vệ người tiêu dùng nói chung và trong
công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng còn chưa được phát huy. Lực lượng
cán bộ chuyên trách làm công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hầu như chưa có, hoặc
quá mỏng. Vì vậy, mức độ triển khai pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở cấp cơ sở yếu.
Sự phối, kết hợp giữa các cơ quan hữu quan trong công tác bảo vệ người tiêu dùng (ngoại
trừ việc thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành) còn chưa hiệu quả.
Sự tham gia của Toà án đối với công tác bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta còn hạn chế.
Người tiêu dùng chưa tích cực trong việc tiến hành khởi kiện không phải vì pháp luật chưa
quy định, mà là vì các lý do sau:
Thứ nhất, pháp luật nước ta chỉ cho phép người nào bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi vi phạm
pháp luật của người khác thì mới được quyền đứng ra khởi kiện người có hành vi vi phạm đó.
Điều kiện trình tự, thủ tục khởi kiện rắc rối và mất thời gian, đồng thời phải bỏ ra các chi phí
có thể sẽ lớn hơn so với khoản bồi thường mà người khởi kiện nhận được (nếu thắng kiện),
cùng với nét văn hoá ngại kiện tụng của người Việt Nam, người tiêu dùng rất ít động lực để
khởi kiện.
Thứ hai, pháp luật nước ta chưa quy định rõ ai sẽ là người bị kiện trong chuỗi phân phối
hàng hoá từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng.
Thứ ba, việc pháp luật quy định muốn khởi kiện phải nộp tạm ứng án phí, điều này khiến
cho người tiêu dùng ngại đưa vụ việc ra Toà án giải quyết.
Thứ tư, người tiêu dùng khi mua một số sản phẩm hàng hoá, không có thói quen giữ lại các
hoá đơn, chứng từ cần thiết. Vì thế, khi vụ việc xảy ra, người tiêu dùng gặp khó khăn trong
việc thu thập các loại chứng cứ để chứng minh mình đã mua và đã tiêu dùng loại sản phẩm
không an toàn, gây thiệt hại cho bản thân mình.
Thứ năm, để kết luận sản phẩm có chứa độc tố, hoặc có ảnh hưởng đến người tiêu dùng
phải qua quy trình kiểm tra, giám định nghiêm ngặt mới phát hiện được; nhưng hệ thống kiểm

tra, kiểm nghiệm hiện nay chưa đủ lực, chưa trở thành công cụ cung cấp chứng cứ thuận lợi
cho người tiêu dùng khi khởi kiện.
Thứ sáu, việc chứng minh thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với
thiệt hại mà người tiêu dùng phải gánh chịu trong thực tế rất phức tạp, nhất là đối với các vụ
việc liên quan tới các loại thực phẩm độc hại nhưng chưa gây bệnh ngay tức khắc.
Thứ bảy, các quy định của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng còn nặng về hình thức và
cứng nhắc, chưa gắn với thực tiễn, nên rất khó sử dụng làm công cụ bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng.
Tổ chức và hoạt động của các Hội bảo vệ người tiêu dùng còn không ít bất cập, mối quan
hệ giữa Hội bảo vệ người tiêu dùng ở trung ương với các Hội ở địa phương thiếu sự gắn kết
cần thiết để tạo thành sức mạnh tập thể. Hầu hết các Hội bảo vệ người tiêu dùng đều gặp khó
khăn về trang thiết bị, kinh phí hoạt động, lực lượng cán bộ chuyên trách. Phạm vi hoạt động
của các Hội bảo vệ người tiêu dùng mới chủ yếu tập trung ở các đô thị (thành phố lớn). Việc
phát triển các Hội bảo vệ người tiêu dùng tại các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các
tỉnh nghèo còn rất khó khăn.
3.3. Điều kiện đảm bảo
- Mức độ đầu tư của Nhà nước cho công tác bảo vệ người tiêu dùng còn bất cập.
- Lực lượng cán bộ chuyên trách về bảo vệ người tiêu dùng còn thiếu và yếu.
- Nhận thức của người tiêu dùng về quyền năng của mình, hiểu biết về pháp luật bảo vệ
người tiêu dùng còn rất hạn chế.
- Các doanh nghiệp cũng chưa tự giác và chưa có thói quen chủ động tìm hiểu các quy định
pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. Nhiều doanh nghiệp ngại thừa nhận sản phẩm của mình
bị làm giả, làm nhái và ngại tham gia công tác đấu tranh chống hàng giả, hàng nhái, ngại lên
tiếng vì sợ việc tiết lộ thông tin về tình trạng đó sẽ ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh của
mình.
III. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ VẬN HÀNH CƠ CHẾ PHÁP
LÝ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG
Trong quá trình triển khai đề tài, Ban Chủ nhiệm Đề tài và các cộng tác viên đã tập trung
nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở một số quốc
gia trên thế giới trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, một số nước ASEAN, Canada,

cộng đồng châu Âu và một số quốc gia có liên quan khác.
1. Vài nét về tình hình bảo vệ người tiêu dùng trên thế giới
Trên thế giới, Chính phủ các nước đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, tôn trọng các quyền của người tiêu dùng, chống lại sự lạm dụng
của những nhà sản xuất kinh doanh và những bất công trong xã hội. Chính sách bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng thường được coi là một trong những ưu tiên trong chương trình
nghị sự của các quốc gia. Các nước thường ban hành bộ luật hoặc đạo luật riêng về bảo vệ
người tiêu dùng. Trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng thường do một cơ quan làm đầu mối và
một số cơ quan có liên quan phối hợp thực hiện. Ở một số nước, cơ quan bảo vệ người tiêu
dùng là cơ quan ngang bộ, ví dụ như Bộ các vấn đề người tiêu dùng của New Zealand, Uỷ
ban Cạnh tranh và Người tiêu dùng Australia, Bộ Thương mại nội địa và Các vấn đề người
tiêu dùng của Malaysia… Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng của nhiều nước khác hoặc là đơn
vị thuộc Bộ hoặc là đơn vị thuộc cơ quan tiêu chuẩn, chất lượng, thực phẩm, y tế…
Đa số các cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên thế giới đều nhận thấy rằng ưu
tiên hàng đầu trong công tác bảo vệ người tiêu dùng là mục tiêu nâng cao nhận thức của
người tiêu dùng, của doanh nghiệp. Đặc biệt là việc nâng cao nhận thức về các quyền và
trách nhiệm, trang bị thông tin cần thiết về việc mua bán các hàng hóa, dịch vụ cụ thể, thông
tin về các cơ quan và cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các nước cũng đều chú trọng việc
đưa ra công luận những trường hợp giải quyết khiếu nại điển hình thông qua đó một mặt
trang bị hiểu biết của người tiêu dùng về quyền khiếu nại, cơ chế, biện pháp giải quyết khiếu
nại: mặt khác, cảnh tỉnh các doanh nghiệp đang hoặc có ý định vi phạm pháp luật bảo vệ
người tiêu dùng. Nhiều nước trên thế giới đã đưa các nội dung giáo dục về tiêu dùng vào
chương trình ở các cấp học, đặc biệt là các nội dung liên quan đến tiêu dùng tiết kiệm, bền
vững.
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nguời tiêu dùng cũng là một trong những hoạt động
chính của các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng. Kinh nghiệm các nước cho thấy khi nhận đơn
khiếu nại của người tiêu dùng liên quan đến hàng hóa, dịch vụ do mình cung cấp, nhiều
doanh nghiệp chưa có biện pháp xử lý và bồi thường thiệt hại một cách thỏa đáng và kịp thời.
Trong những trường hợp như vậy, người tiêu dùng thường gửi khiếu nại tới Văn phòng khiếu
nại của người tiêu dùng, hoặc cơ quan quản lý nhà nước có liên quan yêu cầu giải quyết. Khi

triển khai công tác bảo vệ người tiêu dùng, các nước đều vấp phải vấn đề về thẩm quyền giải
quyết khiếu nại tố cáo của người tiêu dùng. Do bảo vệ người tiêu dùng liên quan tới nhiều
ngành khác nhau cho nên việc xác định rõ ranh giới về thẩm quyền giữa các cơ quan vẫn là
câu hỏi lớn đối với nhiều cơ quan bảo vệ người tiêu dùng lớn trên thế giới. Nhìn chung, người
tiêu dùng thường có tâm lý tránh những tranh chấp phức tạp và tránh mất nhiều thời gian. Do
đó, các nước tiên tiến đều đưa ra những cơ chế đệ đơn khiếu nại hết sức linh hoạt và thuận
tiện. Hình thức nộp đơn có thể thông qua cách viết đơn gửi đến văn phòng, gọi tới số điện
thoại đường dây nóng, nộp đơn khiếu nại qua trang web của cơ quan bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng. Ở một số nước như Anh, Pháp, Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan, các cơ quan liên
quan còn phối hợp lập cổng thông tin bảo vệ người tiêu dùng. Cổng thông tin này liên kết với
tất cả các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng ở địa phương và các bộ/ngành có liên quan.
Thông qua cổng điện tử này, người tiêu dùng có thể tiếp cận với tất cả các cơ quan quản lý
có liên quan, đồng thời có thể nộp đơn khiếu nại về tất cả các vấn đề khi quyền lợi của mình
bị ảnh hưởng. Đơn khiếu nại sẽ được cơ quan đầu mối xem xét, sàng lọc để xử lý hoặc
chuyển tới cơ quan quản lý chuyên ngành hoặc cơ quan bảo vệ người tiêu dùng ở địa phương.
Các nước thành viên của Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) cũng đã lập một
cổng thông tin liên quốc gia cho tất cả các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng của các nước
thành viên của mình. Người tiêu dùng các nước thành viên đều có thể nộp đơn trực tuyến qua
địa chỉ: www.econsumer.gov.
Trên thế giới, Hội bảo vệ người tiêu dùng được thành lập và thực hiện các công việc chủ
yếu như sau: (i) Thông tin, tuyên truyền và giáo dục người tiêu dùng về các quyền và trách
nhiệm; (ii) Đại diện cho người tiêu dùng đóng góp ý kiến vào chính sách và pháp luật của nhà
nước; (iii) Tư vấn và giúp đỡ người tiêu dùng giải quyết các khiếu nại về hàng hóa, dịch vụ.
2. Các Tổ chức quốc tế bảo vệ người tiêu dùng
Tại các quốc gia, người tiêu dùng (thông qua các Hội bảo vệ người tiêu dùng và thông qua
Chính phủ của mình) đã có nhiều nỗ lực liên kết, hỗ trợ lẫn nhau để tạo lập phong trào quốc
tế về bảo vệ người tiêu dùng. Những nỗ lực ấy mang lại nhiều thành tựu quan trọng thể hiện
ở sự hình thành các tổ chức quốc tế và khu vực về bảo vệ người tiêu dùng, hình thành các
chương trình liên kết, phối hợp, chia sẻ kinh nghiệm giữa các quốc gia về bảo vệ người tiêu
dùng, hình thành các văn kiện có tính quốc tế về bảo vệ người tiêu dùng.

2.1. Tổ chức Quốc tế người tiêu dùng (CI)
Tổ chức Quốc tế Người tiêu dùng được thành lập bởi một số tổ chức bảo vệ người tiêu
dùng quốc gia. Tên gọi lúc đó của tổ chức này là Liên hiệp các Tổ chức Người tiêu dùng quốc
tế (International Organisation of Consumer Unions- gọi tắt là IOCU). Năm 1994, Đại hội Thế
giới của Liên hiệp các Tổ chức Người tiêu dùng quốc tế họp ở Montpellier (Pháp) quyết định
đổi tên tổ chức thành Quốc tế Người tiêu dùng (Consumers International, gọi tắt là CI).
Nhiệm vụ chính của CI là tạo lập một phong trào người tiêu dùng trên thế giới đủ lớn mạnh
để bảo vệ tốt hơn nữa quyền lợi của người tiêu dùng, đồng thời củng cố ảnh hưởng của họ ở
mọi nơi trên thế giới. CI nỗ lực cổ vũ cho một xã hội công bằng, trung thực thông qua việc bảo
vệ quyền của mọi người tiêu dùng, nhất là những người tiêu dùng nghèo, người bị gạt ra
ngoài lề xã hội và những đối tượng bị thiệt thòi, bằng các hoạt động chính như: (1) Hỗ trợ và
tăng cường năng lực cho các tổ chức thành viên và phong trào người tiêu dùng nói chung; (2)
Đấu tranh ở phạm vi quốc tế cho những chính sách có liên quan đến người tiêu dùng.
Trong việc bảo vệ người tiêu dùng, ngoài việc đưa vấn đề người tiêu dùng thành một hoạt
động có tầm cỡ quốc tế, CI còn đặc biệt quan tâm đến các lĩnh vực sau đây:
- Công tác tiêu chuẩn hoá: chủ yếu trong các tiêu chuẩn về an toàn cho xe ô tô, thiết bị điện,
thực phẩm CI đại diện cho người tiêu dùng trong nhiều Uỷ ban tiêu chuẩn hoá quốc tế như
Tổ chức Tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO), Uỷ ban Kỹ thuật điện quốc tế (IEC), Uỷ ban Tiêu
chuẩn hóa thực phẩm (CODEX)…
- Chính sách về lương thực, thực phẩm: CI tích cực cổ vũ cho việc dán nhãn lương thực,
thực phẩm nhằm cung cấp những thông tin đầy đủ và trung thực cho người tiêu dùng (nhất là
thực phẩm chuyển gien); đề nghị Chính phủ các nước quy định mức độ dư lượng tối đa của
một số chất độc, gây ô nhiễm thực phẩm như dư lượng thuốc trừ sâu, kháng sinh có trong
thực phẩm; đề nghị các Uỷ ban Codex quốc gia phải có đại diện của người tiêu dùng.
- Đề nghị Liên Hợp Quốc ban hành một danh mục các sản phẩm bị cấm, các sản phẩm bị
hạn chế nghiêm ngặt, hoặc thu hồi khỏi thị trường. Nhiều nước đã dùng bản danh mục này để
tạo ra một hệ thống khống chế và kiểm soát các sản phẩm độc hại ở nước mình.
- Xây dựng Luật bảo vệ người tiêu dùng mẫu. Dùng bản hướng dẫn bảo vệ người tiêu dùng
của Liên hiệp quốc làm điểm xuất phát, CI đã phát triển một bản Luật bảo vệ người tiêu dùng
mẫu cho Châu Mỹ La tinh, Nam Thái Bình Dương và Châu Phi. Bản luật mẫu này đã được

dùng làm cơ sở cho những luật bảo vệ người tiêu dùng ở nhiều nước, do các hội bảo vệ
người tiêu dùng các nước và các Văn phòng khu vực của Quốc tế người tiêu dùng đề xướng
và cổ vũ.
- Thông tin và giáo dục người tiêu dùng: CI rất thành công trong việc thuyết phục các Chính
phủ đưa chương trình giáo dục người tiêu dùng vào các trường học. CI hỗ trợ cho việc tập
huấn về giáo dục người tiêu dùng cho các giáo viên trên toàn thế giới; giúp đỡ tài chính và
huấn luyện cho các tổ chức thành viên tiếp cận với Internet, nhằm thiết lập được mạng lưới
và xuất bản điện tử. Tháng 11/2001, tạp chí Người tiêu dùng Thế giới đã được xuất bản.
Nhiều thông tin và hoạt động của CI có thể tìm thấy trên trang Web của CI, có địa chỉ:
www.consumersinternational.org
- Thương mại: Từ năm 1997 đến 2000, CI đã thành công trong việc đưa một chương trình
về chính sách đối với người tiêu dùng vào trong công ước mới về Hiệp định Thương mại giữa
Liên hiệp Châu Âu và 71 nước ở Châu Phi, vùng Caribê và Thái Bình Dương (EU/ACP). Nội
dung chính sách đối với người tiêu dùng được đưa vào Hiệp định bao gồm việc cam kết hỗ
trợ cho phát triển của các tổ chức người tiêu dùng và về những sản phẩm của EU đã cấm
không được xuất khẩu vào các nước này. CI đi đầu trong các hoạt động bảo vệ người tiêu
dùng trong thời đại thương mại điện tử, tích cực đóng góp vào bản hướng dẫn bảo vệ người
tiêu dùng trong thương mại điện tử của các nước phát triển OECD.
- Sức khoẻ và thuốc chữa bệnh: CI là một trong những tổ chức chịu trách nhiệm chính trong
việc thiết lập Mạng lưới Quốc tế về hành động vì sức khoẻ, đấu tranh cho an toàn, điều kiện
tiếp cận và giá cả của thuốc chữa bệnh. CI cũng là một thành viên thiết lập IBFAN, một mạng
lưới đấu tranh chống việc quảng cáo các sản phẩm thay thế sữa mẹ. Kết quả công việc của
CI/IBFAN là năm 1981, Liên hiệp Quốc đã phê chuẩn Quy tắc quốc tế về tiếp thị các sản
phẩm thay thế sữa mẹ.
- Bảo vệ môi trường: CI là một thành viên thiết lập và điều phối mạng lưới hành động về
thuốc trừ dịch bệnh, có ảnh hưởng đến việc Liên Hợp Quốc phê chuẩn quy tắc về tiếp thị
thuốc trừ dịch hại năm 1995. CI cũng là đại diện tích cực của người tiêu dùng trong chương
trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) trong việc ban hành nhiều quy tắc và công ước
về Bảo vệ môi trường.
- Dịch vụ công cộng: CI đã tiến hành nhiều nghiên cứu đề xuất chính sách, tập huấn để

người tiêu dùng có thể tham gia vào việc hoạch định chính sách và giám sát việc điều hành
các dịch vụ cơ bản, nhờ đó mà nâng cao được chất lượng, hạ giá cung ứng dịch vụ công
cộng, làm cho việc cung ứng được minh bạch và trung thực hơn.
- Trách nhiệm xã hội của nhà sản xuất, kinh doanh. CI chú trọng giúp đỡ các nước thành
viên thành lập các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng, xây dựng thành những tổ chức lớn mạnh
để có thể có tiếng nói mạnh mẽ trong việc hoạch định các chính sách, vì lợi ích của người tiêu
dùng cả ở phạm vi quốc gia và quốc tế. CI phát triển nhiều chương trình huấn luyện, giúp đỡ
về tài chính, về kỹ thuật, về thông tin, trao đổi các chương trình và liên kết hành động nhằm
nâng cao hiểu biết và kỹ năng hoạt động của các nước thành viên.
2.2. Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng
Năm 1985, cộng đồng quốc tế đã đạt được sự đồng thuận về việc khẳng định các quyền cơ
bản của người tiêu dùng, thể hiện trong Bản hướng dẫn của Liên Hợp quốc về bảo vệ người
tiêu dùng năm 1985. Bản hướng dẫn cung cấp một khuôn khổ cho các Chính phủ, đặc biệt là
ở các nước đang phát triển, trong việc hoạch định các chính sách và luật pháp bảo vệ người
tiêu dùng.
Bản hướng dẫn bảo vệ người tiêu dùng đưa ra những định hướng cơ bản giúp các nước
thực hiện và duy trì đầy đủ việc bảo vệ người dân của mình với tư cách là người tiêu dùng;
khuyến khích việc nâng cao phẩm chất đạo đức cho những người sản xuất, phân phối hàng
hóa và dịch vụ cho người tiêu dùng; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức sản xuất và phân
phối đáp ứng được những nhu cầu và nguyện vọng của người tiêu dùng. Bản hướng dẫn
cũng khuyến khích sự phát triển của cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho người tiêu dùng có
nhiều sự lựa chọn hơn với giá cả thấp hơn, khuyến khích tiêu dùng bền vững đồng thời đẩy
mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng.
Bản hướng dẫn về bảo vệ người tiêu dùng hướng tới sự bảo vệ người tiêu dùng tránh được
những nguy hiểm đối với sức khỏe; đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng; nâng cao và bảo
vệ được các quyền lợi kinh tế cho người tiêu dùng.
Cùng với xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá, nhiều quốc gia bắt đầu nhận thấy sự cần
thiết của việc thiết lập một cơ chế bảo vệ người tiêu dùng ở cấp khu vực. Dưới đây là một vài
ví dụ tiêu biểu về tổ chức khu vực về bảo vệ người tiêu dùng:
- Ủy ban của OECD về chính sách người tiêu dùng (OECD CPP): Ủy ban này được thành

lập nhằm củng cố việc hợp tác về bảo vệ người tiêu dùng giữa các cơ quan bảo vệ người tiêu
dùng ở các nước thành viên của OECD; thúc đẩy các quốc gia thành viên phê chuẩn và thực
thi các tiêu chuẩn quốc tế và các chính sách chung về bảo vệ người tiêu dùng. Ủy ban này có
30 quốc gia thành viên.
- ICPEN (Mạng lưới quốc tế Bảo vệ người tiêu dùng và Thực thi): Mạng lưới tập hợp các tổ
chức chính phủ (36 được nước thành viên và hai tổ chức quốc tế là Ban Thư ký của OECD và
Ủy ban châu Âu) có hoạt động liên quan đến việc thực thi pháp luật thương mại công bằng và
bảo vệ người tiêu dùng. Mục tiêu chủ yếu của ICPEN là tạo điều kiện ngăn chặn và xử lý các
hành vi kinh doanh gian dối có yếu tố quốc tế, đồng thời tạo điều kiện cho các hoạt động thực
tiễn nhằm mục đích bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng trước những gian lận trong giao
dịch thương mại bằng cách thúc đẩy cơ chế hợp tác giữa các thành viên của ICPEN. Bên
cạnh đó, mạng lưới cũng là nơi để các bên trao đổi thông tin, đặc biệt là trao đổi kinh nghiệm
trong việc xây dựng pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, cũng như việc thực thi pháp luật.
- Cơ chế cảnh báo sớm đối với các sản phẩm nguy hiểm của Liên minh Châu Âu (RAPEX)
đối với các sản phẩm tiêu dùng nguy hiểm (ngoại trừ thực phẩm, dược phẩm và các máy móc
y học). Cơ chế này giúp cho các nước thành viên và Ủy ban châu Âu có thể trao đổi thông tin
nhanh chóng về các biện pháp nhằm hạn chế hoặc ngăn chặn việc giao dịch và sử dụng các
sản phẩm có dấu hiệu gây nguy hiểm cho sức khỏe và sự an toàn của người tiêu dùng, trong
đó bao gồm cả các biện pháp cưỡng chế của các chính phủ cũng như các biện pháp do các
nhà sản xuất và phân phối tự nguyện đưa ra và thực hiện.


- Hợp tác quốc tế về bảo vệ người tiêu dùng ở Đông Nam Á: Nhận thức rõ tầm quan trọng
của vấn đề hợp tác quốc tế về bảo vệ người tiêu dùng giữa các nước trong khu vực nhằm
chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực này đồng thời tạo ra một cơ chế hợp tác sâu rộng để nâng
cao hiệu quả bảo vệ người tiêu dùng, bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng trong khu vực, tại
Hội nghị về bảo vệ người tiêu dùng các nước Đông Nam Á lần thứ 2 tại Indonesia, các nước
trong khu vực đã thống nhất xây dựng đề án thành lập ba tổ chức về bảo vệ người tiêu dùng
bao gồm Ủy ban Hợp tác về bảo vệ người tiêu dùng ASEAN (ACCCP), mạng lưới các cơ
quan bảo vệ người tiêu dùng Đông Nam Á (SEA-CPAN) và Hội đồng người tiêu dùng Đông

Nam Á (SEA-CC). Hiện nay các cuộc họp đang được luân phiên tổ chức tại các quốc gia
Đông Nam Á nhằm thúc đẩy tiến trình thành lập các tổ chức này.
+ Ủy ban hợp tác về bảo vệ người tiêu dùng ASEAN (ACCCP) Uỷ ban này có trách nhiệm
hỗ trợ phát triển và triển khai cơ chế và các chương trình bảo vệ người tiêu dùng cho các
nước thành viên chưa thực hiện; nghiên cứu ảnh hưởng của khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) đối với người tiêu dùng, dẫn dắt mạng lưới các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng để
thúc đẩy trao đổi và chia sẻ thông tin; thúc đẩy hợp tác để hướng tới sự hoà hợp pháp luật
bảo vệ người tiêu dùng trong khu vực ASEAN; nâng cao năng lực cho các cán bộ làm công
tác bảo vệ người tiêu dùng thông qua việc tổ chức các khoá đào tạo trong khu vực.
+ Mạng lưới các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng Đông Nam Á (SEA-CPAN): Việc thiết lập
một mạng lưới các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng ASEAN liên kết chính thức với Ban thư ký
ASEAN sẽ cho phép chia sẻ thông tin về chính sách và pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
trong các nước. Hai đề xuất quan trọng trong khuôn khổ của SEA-CPAN là cơ chế cảnh báo
sớm đối với các sản phẩm không an toàn và cơ chế giải quyết tranh chấp xuyên quốc gia.
+ Hội đồng người tiêu dùng (SEA-CC): Hội đồng người tiêu dùng có nhiệm vụ phát triển
thông tin người tiêu dùng và các chương trình giáo dục để xác định nhu cầu của người tiêu
dùng liên quan đến Hiệp định tự do thương mại ASEAN; thể hiện quan điểm của người tiêu
dùng trong tất cả các lĩnh vực liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng lên cơ quan bảo vệ người
tiêu dùng ASEAN đồng thời hỗ trợ phát triển tổ chức người tiêu dùng trong các nước thành
viên của ASEAN chưa có tổ chức này.
3. Kinh nghiệm xây dựng và vận hành cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng ở một
số quốc gia trên thế giới
Qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong việc bảo vệ người tiêu dùng, chúng ta có thể rút
ra một số nhận xét sau đây:
- Bảo vệ người tiêu dùng hiện nay là một trong những ưu tiên trong chính sách phát triển
của mỗi quốc gia và nhận được sự quan tâm lớn của các tổ chức quốc tế.
- Chính sách bảo vệ người tiêu dùng đóng vai trò rất quan trọng trong chính sách phát triển
của quốc gia, góp phần hiện đại hoá nền kinh tế và cải thiện chất lượng sống của người dân;
góp phần tạo lập cơ chế thị trường thân thiện với người tiêu dùng. Từ đó, đảm bảo tính cạnh
tranh của khu vực doanh nghiệp và duy trì niềm tin/sự tín nhiệm của người tiêu dùng.

- Việc xây dựng các đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng là hiện tượng phổ biến ở các quốc
gia trên thế giới. Tuy nhiên, các đạo luật bảo vệ người tiêu dùng ở các quốc gia thường tập
trung vào giải quyết những yếu thế mà người tiêu dùng gặp phải khi quan hệ với người sản
xuất, kinh doanh trên thị trường.
- Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở các quốc gia trên thế giới thường bao gồm không chỉ
các quy phạm mang tính chất hành chính mà còn bao gồm cả các quy phạm chuyên biệt của
luật hợp đồng và luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Các đạo luật về bảo vệ người tiêu
dùng thường được coi là các đạo luật chuyên ngành khi xét trong mối tương quan áp dụng
của các quy phạm luật tư.
Ở các quốc gia đã ban hành đạo luật riêng về bảo vệ người tiêu dùng (hoặc nhóm các đạo
luật về bảo vệ người tiêu dùng), các hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh chủ yếu của đạo luật
này thường bao gồm: hành vi thương mại không công bằng (như hành vi quảng cáo gian dối,
lừa dối khác đối với người tiêu dùng, cưỡng bức người tiêu dùng, lợi dụng vị trí ưu thế để
xâm hại quyền lợi người tiêu dùng), các giao dịch hợp đồng tiêu dùng giữa thương nhân với
người tiêu dùng, các hợp đồng tiêu dùng cụ thể (trong đó nguyên tắc tự do hợp đồng của
pháp luật dân sự bị sửa đổi ở nhiều khía cạnh), cơ quan bảo vệ người tiêu dùng và hội bảo vệ
người tiêu dùng.
- Nghệ thuật sử dụng pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở các quốc gia cũng rất khác nhau.
Ở các quốc gia phát triển trên thế giới, giữa hai thái cực cơ bản là (1) sử dụng hệ thống tư
pháp hình sự làm điểm tựa chính trong công tác bảo vệ người tiêu dùng như mô hình của
Anh và (2) sử dụng hệ thống tư pháp dân sự và hoạt động của các hội bảo vệ người tiêu
dùng làm điểm tựa chính trong công tác bảo vệ người tiêu dùng như mô hình của Hà Lan và
Thụy Điển thì còn rất nhiều mô hình bảo vệ người tiêu dùng khác nhau. Tại Hoa Kỳ, Canada
và Úc, việc thiết lập cơ quan chuyên trách bảo vệ người tiêu dùng thường được nhấn mạnh.
Cơ quan này có quyền thay mặt người tiêu dùng khởi kiện xử lý hành vi vi phạm trước Toà án
(theo thủ tục dân sự) (cơ quan này không có thẩm quyền xử phạt trực tiếp). Tại Bỉ, Nhật Bản,
Séc, Hungary, Newzeland, Ba Lan, việc thiết lập cơ quan chuyên trách bảo vệ người tiêu
dùng cũng được đề cao, ngoài ra, cơ quan này còn có thẩm quyền xử phạt trực tiếp đối với
chủ thể có hành vi vi phạm mà không cần phải yêu cầu toà án thực hiện. Tuy nhiên, nhìn
chung, hầu hết pháp luật các quốc gia đều sử dụng các biện pháp tổng hợp (dân sự, hành

chính, hình sự, kỹ thuật, pháp lý) để bảo vệ người tiêu dùng.
- Một số quốc gia có nhiều nỗ lực cải cách hệ thống tư pháp theo hướng dễ tiếp cận hơn với
người tiêu dùng (bằng việc thiết lập ra các Toà án xét xử theo thủ tục rút gọn, hoặc bằng việc
công nhận cơ chế khởi kiện tập thể).
- Vai trò của các Hội bảo vệ người tiêu dùng thường khá được coi trọng. Sự vững mạnh của
các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng là một trong những yếu tố then chốt tạo nên sức mạnh
của người tiêu dùng. Chính vì thế, việc đảm bảo cho các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng vận
hành hiệu quả thông qua các biện pháp hỗ trợ cụ thể từ phía Nhà nước (như tài trợ cho các
sáng kiến bảo vệ người tiêu dùng do các tổ chức này đảm nhiệm, cung cấp thông tin, đào tạo
cán bộ ) là rất cần thiết.
- Với nỗ lực của các Chính phủ, Hội bảo vệ người tiêu dùng và của chính người tiêu dùng ở
nhiều quốc gia trên thế giới, cam kết bảo vệ người tiêu dùng đã được duy trì ở mức rất cao.
Chẳng hạn, ở Liên minh châu Âu, tất cả các nước thành viên đã đảm bảo được 10 yêu cầu
bảo vệ người tiêu dùng ở mức tối thiểu cụ thể như sau: (1) Người tiêu dùng được tự do mua
thứ cần mua, tại nơi nào mình muốn (quyền lựa chọn); (2) Nếu hàng mua được không mang
vận hành như mong muốn, người tiêu dùng được quyền đổi, trả lại; (3) Các loại hàng thực
phẩm và tiêu dùng đều phải đáp ứng độ an toàn ở mức cao; (4) Người tiêu dùng được thông
tin đầy đủ về những thứ mình ăn uống (ví dụ: khả năng gây dị ứng, khả năng gây béo phì,
lượng calo v.v ); (5) Hợp đồng tiêu dùng phải công bằng đối với người tiêu dùng; (6) Trong
một số trường hợp nhất định, người tiêu dùng có quyền đổi ý định mà không cần sự đồng ý
của phía người bán; (7) Người tiêu dùng dễ so sánh giá hàng hoá hơn; (8) Người tiêu dùng
không thể bị gây nhầm lẫn; (9) Khi người tiêu dùng đi du lịch, người tiêu dùng được bảo vệ ở
mức cao; (10) Các tranh chấp có yếu tố xuyên quốc gia cũng mang lại khả năng đền bù hiệu
quả
5
.
IV. KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở NƯỚC TA
1. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Ban
chủ nhiệm đề tài và các cộng tác viên đưa ra một số đề xuất, kiến nghị sau:

1.1. Kiến nghị đối với việc xây dựng Luật bảo vệ người tiêu dùng
Để đảm bảo sự công bằng trong giao dịch giữa thương nhân và người tiêu dùng, ngăn
ngừa các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ lợi dụng các ưu thế của
mình để xâm hại quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng, Luật bảo vệ người tiêu dùng của
Việt Nam nên có các quy tắc điều chỉnh quan hệ hợp đồng, các quy tắc về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng với các nội dung cam kết mức bảo vệ người tiêu dùng cao hơn so với
mức bảo vệ đã được quy định trong các quy tắc tương ứng trong Bộ luật dân sự hiện hành.
Luật bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam nên tập trung điều chỉnh các nội dung sau:

5
Pavel Telicka (a member of the European Commission), Principles of consumer protection in the EU (a
speech at European Consumer Consultative Group Meeting, Brussels, 22 September 2004).
- Hệ thống các quyền của người tiêu dùng và những trách nhiệm của cơ sở sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ;
- Hành vi thương mại không lành mạnh;
- Hợp đồng tiêu dùng, trong đó có quy định về điều khoản hợp đồng không công bằng, ngôn
ngữ hợp đồng, bảo hành và một số loại hợp đồng tiêu dùng đặc thù (hợp đồng bán hàng trực
tiếp, hợp đồng cung ứng dịch vụ liên tục, hợp đồng bán hàng từ xa…);
- Trách nhiệm sản phẩm (phân chia trách nhiệm chịu rủi ro trong quá trình tiêu dùng sản
phẩm);
- Cơ quan chuyên trách về bảo vệ người tiêu dùng và các quyền năng của cơ quan này
(nhất là quyền thanh tra, kiểm tra, quyền xử lý vi phạm);
- Biện pháp chế tài và trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp chế tài (cần bổ sung các loại
chế tài như cảnh báo, công bố công khai hành vi vi phạm, khuyến nghị phương thức chấp
hành pháp luật );
- Quy định về Hội bảo vệ người tiêu dùng.
Trong hệ thống pháp luật, Luật bảo vệ người tiêu dùng nên được quy định theo hướng có vị
trí ưu tiên áp dụng so với các quy định về hợp đồng giữa cơ sở sản xuất, kinh doanh (thương
nhân hoặc các chủ thể khác) với người tiêu dùng mà Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định.
Luật bảo vệ người tiêu dùng là đạo luật có tính chất quy định chung về các biện pháp bảo vệ

người tiêu dùng trong mối tương quan với các đạo luật điều chỉnh từng loại thị trường, từng
lĩnh vực kinh doanh nhất định. Điều này có nghĩa rằng trong mối tương quan giữa Luật bảo vệ
người tiêu dùng với các đạo luật điều chỉnh từng lĩnh vực kinh doanh nhất định (như Luật các
tổ chức tín dụng, Luật bảo hiểm, Luật du lịch, Luật dược, Luật điện lực ), Luật bảo vệ người
tiêu dùng là đạo luật chung còn các đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực cụ thể sẽ là đạo luật
chuyên ngành. Trường hợp đạo luật chuyên ngành có quy định khác thì sẽ áp dụng quy định
của đạo luật chuyên ngành. Trường hợp đạo luật chuyên ngành không quy định mà đạo luật
chung có quy định thì sẽ áp dụng quy định của đạo luật chung.
Về ngôn ngữ, cần sử dụng ngôn ngữ phổ thông, các từ ngữ sử dụng cần đơn giản, đơn
nghĩa, mang thông điệp rõ ràng, dễ hiểu. Về kỹ thuật, cần quy định càng chi tiết càng tốt, nhất
là các trường hợp phát sinh các quyền năng đặc thù của người tiêu dùng.
Một số chế định cụ thể trong Luật bảo vệ người tiêu dùng:
- Luật bảo vệ người tiêu dùng nên mô tả chi tiết các dạng hành vi gây nhầm lẫn cho người
tiêu dùng cần bị cấm như: thông tin gian dối về vai trò, vị thế của tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; thông tin gian dối về hàng hoá, dịch vụ mà tổ chức, cá nhân
này cung ứng và các hành vi gây nhầm lẫn khác cho người tiêu dùng. Trong trường hợp
người tiêu dùng cáo buộc rằng tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh đã có hành vi gian dối,
thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh bị cáo buộc đó.
Trong trường hợp tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có các hành vi gian dối đối với
người tiêu dùng kể trên thì hợp đồng giữa tổ chức, cá nhân đó với người tiêu dùng đã được
giao kết trước đó bị vô hiệu, người tiêu dùng có quyền đòi lại các khoản tiền đã thanh toán
cho tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh mà không phải trả lại hàng hoá, dịch vụ đã mua.
- Luật bảo vệ người tiêu dùng có thể quy định: trường hợp người tiêu dùng được cung ứng
hàng hoá, dịch vụ mà bản thân người tiêu dùng không yêu cầu thì người tiêu dùng có toàn
quyền sử dụng, hoặc định đoạt hàng hoá, dịch vụ đó mà không phải chịu bất cứ trách nhiệm
pháp lý nào trước người cung ứng hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp người tiêu dùng sau đó
có văn bản chấp thuận việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ đó.
- Luật bảo vệ người tiêu dùng nên có quy định về ngôn ngữ trong các hợp đồng tiêu dùng
có sử dụng văn bản.
- Quy định đánh giá điều khoản bất công trong các hợp đồng tiêu dùng. Luật bảo vệ người

tiêu dùng cần quy định theo hướng, trường hợp một điều khoản bị cáo buộc là được đưa vào
hợp đồng mà không có sự thương lượng trực tiếp giữa người tiêu dùng và thương nhân, thì
trách nhiệm chứng minh điều ngược lại sẽ thuộc về thương nhân. Ngoài ra, Luật cũng nên
quy định chi tiết danh mục các điều khoản điển hình được coi là "không công bằng" mà người
tiêu dùng thường gặp phải để người tiêu dùng dễ nhận biết và bảo vệ quyền lợi cho mình. Đó
là: (a) Giới hạn trách nhiệm pháp lý của thương nhân khi người tiêu dùng bị xâm hại về tính
mạng, sức khoẻ do hành vi trái pháp luật của thương nhân; (b) Giới hạn quyền của người tiêu
dùng đối với thương nhân, hoặc với bên thứ ba trong trường hợp thương nhân không thực
hiện đúng các nghĩa vụ trong hợp đồng; (c) Đưa ra quy định mà việc thay đổi chỉ lệ thuộc vào
ý chí của thương nhân; (d) Cho phép thương nhân được giữ lại một phần tiền của người tiêu
dùng khi người tiêu dùng quyết định không ký kết hoặc thực hiện hợp đồng, mà không cho
người tiêu dùng nhận phần đền bù tương xứng với khoản tiền đã bỏ ra; (e) Cho phép thương
nhân tự ý chấm dứt hợp đồng mà không cần thông báo trước cho người tiêu dùng trong một
thời hạn hợp lý; (f) Cho phép thương nhân tự ý thực hiện một số hành vi sau mà không có sự
đồng ý một cách rõ ràng của người tiêu dùng: tự ý kéo dài thời hạn áp dụng của hợp đồng, tự
ý thay đổi các điều khoản của hợp đồng, tự ý thay đổi các đặc điểm của sản phẩm, dịch vụ
cung ứng cho người tiêu dùng, tự ý thay đổi giá cả hàng hoá, dịch vụ cung ứng mà không cho
phép người tiêu dùng quyền được chấm dứt hợp đồng, tự ý chuyển các quyền và nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng; (g) Cho phép thương nhân tự ý quyết định việc hàng hoá, dịch vụ cung
ứng có phù hợp với quy định trong hợp đồng hay không; (h) Cho phép thương nhân tự ý giải
thích hợp đồng theo ý của mình và buộc người tiêu dùng phải theo; (i) Buộc người tiêu dùng
phải hoàn thành tất cả các nghĩa vụ của mình khi thương nhân chưa thực hiện nghĩa vụ; (k)
Cản trở người tiêu dùng sử dụng các biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ người tiêu dùng,
đặc biệt là quy định buộc người tiêu dùng không được đưa vụ kiện của mình ra giải quyết tại
Toà án
- Luật bảo vệ người tiêu dùng nên có quy định: người bán hàng trực tiếp phải xuất trình giấy
tờ chứng minh tư cách của mình, hợp đồng bán hàng trực tiếp đối với những mặt hàng có giá
trị từ một mức tiền nào đó phải được thể hiện bằng văn bản và phải được gửi cho người tiêu
dùng. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày mua hàng, người tiêu dùng có quyền chấm dứt hợp
đồng, trả lại hàng, đòi lại tiền cho người bán mà không phải giải thích lý do và cũng không

phải bồi thường bất cứ khoản chi phí nào.
- Quy định về hợp đồng bán hàng từ xa. Luật bảo vệ người tiêu dùng nên quy định rõ trong
một thời hạn nhất định sau khi đã giao kết hợp đồng, người bán phải gửi cho người tiêu dùng
một bản hợp đồng chính thức để người tiêu dùng biết và kiểm tra quá trình thực hiện hợp
đồng của các bên. Nếu người tiêu dùng không nhận được bản hợp đồng trong thời hạn đó,
người tiêu dùng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không phải bồi thường, bồi
hoàn cho người bán. Luật cũng cần quy định chi tiết trường hợp người tiêu dùng chấm dứt
hợp đồng mà người tiêu dùng đã trả tiền cho người bán, thì trong một thời hạn nhất định,
người bán phải trả lại khoản tiền đã nhận của người tiêu dùng.
- Khi nhà sản xuất, phân phối bán sản phẩm có khuyết tật cho người tiêu dùng và vì sự
khuyết tật ấy mà trong quá trình sử dụng người tiêu dùng phải chịu thiệt hại thì nhà sản xuất,
phân phối sản phẩm phải chịu bồi thường toàn bộ thiệt hại mà người tiêu dùng đã phải gánh
chịu ngay cả khi nhà sản xuất, phân phối không có lỗi trong việc gây ra khuyết tật ấy. Quy tắc
này được coi là ngoại lệ của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong các vụ kiện
đòi bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra, trách nhiệm chứng minh của người
tiêu dùng được giảm thiểu, theo đó người tiêu dùng chỉ phải chứng minh 3 nội dung là (1) có
thiệt hại xảy ra, (2) sản phẩm có khuyết tật và (3) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại với
khuyết tật của sản phẩm. Người tiêu dùng không cần phải chứng minh nhà sản xuất, phân
phối có lỗi trong việc gây ra khuyết tật của sản phẩm.
- Để bảo đảm tốt hơn quyền được thông tin của người tiêu dùng, Luật bảo vệ người tiêu
dùng nên quy định trách nhiệm bảo đảm cung cấp các loại linh kiện, phụ tùng thay thế của
nhà sản xuất, hoặc người phân phối hàng hoá. Trường hợp nhà sản xuất hoặc người phân
phối không thể cung cấp các linh kiện, phụ tùng như vậy khi bán hàng phải có trách nhiệm
thông báo rõ tình trạng này cho người tiêu dùng để họ tự cân nhắc và quyết định. Đây cũng là
thông lệ trong pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở nhiều quốc gia trên thế giới.
- Luật bảo vệ người tiêu dùng nên tăng cường trách nhiệm bảo hành sản phẩm của các nhà
sản xuất, phân phối sản phẩm.
- Quy định về nhãn hàng hoá nên được quy định trong Luật bảo vệ người tiêu dùng nhằm
đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các công cụ bảo vệ người tiêu dùng.
Ngoài ra các tác giả cũng có những phân tích để xác định vị trí, chức năng, sứ mệnh mối

quan hệ giữa Luật bảo vệ người tiêu dùng và Luật vệ sinh, an toàn thực phẩm.
1.2. Cùng với việc xây dựng Luật bảo vệ người tiêu dùng, chúng ta cần tiến hành sửa
đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật có liên quan như sau:
- Khắc phục sự mâu thuẫn giữa quy định trong Luật cạnh tranh năm 2004 và Pháp lệnh giá
năm 2002.
- Khắc phục các mâu thuẫn trong một số quy định về xử phạt vi phạm hành chính.
- Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/9/2006 của Chính phủ về nhãn hàng hoá cần có sự
sửa đổi, bổ sung theo hướng đảm bảo tuân thủ đầy đủ hơn các yêu cầu trong các văn bản
pháp luật có hiệu lực cao hơn (Luật dược, Pháp lệnh vệ sinh, an toàn thực phẩm…).
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về tố tụng dân sự ở nước ta theo
hướng sau:
+ Áp dụng chế độ khởi kiện tập thể để khuyến khích người tiêu dùng, Hội bảo vệ người tiêu
dùng tiến hành các hoạt động khởi kiện bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
+ Áp dụng chế độ án phí đặc biệt đối với các vụ kiện do người tiêu dùng, hoặc Hội bảo vệ
người tiêu dùng đứng đơn theo hướng: không buộc những người khởi kiện phải nộp tiền tạm
ứng án phí khi tiến hành khởi kiện và khi thua kiện thì không phải chịu án phí.
+ Bổ sung quy định người tiêu dùng có thể khởi kiện bất cứ ai trong chuỗi phân phối sản
phẩm.
+ Quy định rõ các chi phí khởi kiện của người tiêu dùng (chi phí đi lại, thời gian theo kiện,
chi phí thuê luật sư…) sẽ do người gây thiệt hại phải bồi thường.

×