Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Lạm phát và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở việt nam giai đoạn 2007 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.33 KB, 23 trang )

TRUỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG 3A
------------------------------
Đề tài:
LẠM PHÁT VÀ CÁC BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ LẠM
PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 9/2010
GVHD:
Th.s Nguyễn Thị Cẩm Tuyền
Nhóm Sinh viên thực hiện:
Lê Đức Hà
Lê Hoàng Long
Lưu Phương Hà
Nguyễn Thúy Hằng
Phạm Thị Thúy Hằng
Phạm Thị Tuyết Mai
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, chủ đề lạm phát không còn xa lạ đối với mỗi người
dân, hàng ngày mỗi khi giá cả tăng lên, đa số mọi người đều quy lỗi do lạm phát mà
ra. Trên các phương tiện truyền thông cũng có rất nhiều bài báo viết về lạm phát, về
sự ảnh huởng của nó đến cuộc sống của nguời dân, đến sự phát triển của nền kinh tế -
xã hội. Vậy lạm phát là gì? Lạm phát có ảnh huởng như thế nào đến nền kinh tế của
đất nuớc? đến cuộc sống của nguời dân? Các khắc phục lạm phát như thế nào? Chúng
em xin cám ơn cô Nguyễn Thị Cẩm Tuyền đã hướng dẫn và giúp đỡ chúng em thực
hiện đề tài này. Trong quá trình thực hiện đề tài khó tránh khỏi những sai sót, chúng
em kính mong cô bỏ qua và rất mong cô có thể góp ý, phê bình nhằm đề tài được
hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
PHẦN NỘI DUNG
I – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
I.1 Khái niệm lạm phát theo quan điểm các học thuyết kinh tế:
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục mức giá chung của nền


kinh tế trong một khoảng thời gian.
Mức giá chung của nền kinh tế là giá trung bình của tất cả các hàng hoá
và dịch vụ trong nền kinh tế. Do vậy, khi xảy ra lạm phát không có nghĩa là tất
cả mọi hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế đều tăng giá. Có thể một vài mặt
hàng giảm giá nhưng mặt hàng khác tăng giá đủ mạnh vẫn có thể gây nên lạm
phát.
Lạm phát cũng có thể hiểu là sự suy giảm sức mua trong nước của đồng
nội tệ. Nền kinh tế có lạm phát, một đơn vị tiền tệ có thể mua ngày càng ít
hàng hoá, dịch vụ hơn. Hay hiểu nôm na là khi có lạm phát chúng ta phải chi
ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn cho giỏ hàng hoá và dịch vụ cố định. Trái
ngược với lạm phát là giảm phát.
Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên
tục. Cũng có thể nói giảm phát là lạm phát với giá trị âm. Giảm phát thường
xuất hiện khi kinh tế suy thoái hay đình đốn.
I.2 Khái niệm lạm phát trong điều kiện hiện đại:
- Theo Các Mác: lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông
những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt. Lạm phát làm lương thực tế
của người lao động giảm xuống.
- Theo Milton Friedman thì quan niệm: “lạm phát là việc giá cả tăng
nhanh và kéo dài”. Ông cho rằng: “lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là một
hiện tượng tiền tệ”.
- Kinh tế học quan niệm: lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức
giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị
trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác
nhau thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền
tệ khác.
I.3 Ý nghĩa của lạm phát
a. Tích cực:
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát vừa
phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu tả tác động

tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà
sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích
nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất
nghiệp sẽ giảm.
Khi lạm phát vừa phải, nó là liều thuốc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: đẩy
mạnh xuất khẩu.
Khi lạm phát xảy ra sẽ làm cho đồng tiền trong nước bị mất giá so với
đồng tiền thế giới, việc này sẽ kích thích các doanh nghiệp trong nước đẩy
mạnh xuất khẩu để thu về ngoại tệ : tạo công ăn việc làm
Để đẩy mạnh xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ phải mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh để đáp ứng sản xuất hàng hóa để xuất khẩu, điều này góp phần tạo
công ăn việc làm cho người dân : mang lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Hoạt động kinh doanh có hiệu quả sẽ tạo nguồn thu đáng kể cho ngân
sách nhà nước, đặc biệt là thuế…
b. Tiêu cực:
Ngoài trường hợp lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải (lạm phát một con số) có
tác dụng tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội, còn lại nói chung
lạm phát đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển đi lên của nền kinh tế
xã hội.
- Tác hại thứ nhất là làm cho tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo
giá trị hay nói đúng hơn là thước đo này co dãn thất thường, do đó xã hội
không thể tính toán hiệu quả, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình.
- Thứ hai, tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều tiết
nền kinh tế đã bị vô hiệu hóa, vì tiền tệ bị mất giá nên không ai tin vào đồng
tiền nữa, các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ của
lạm phát và do vậy tác dụng điều chỉnh của thuế bị hạn chế, ngay cả trong
trường hợp nhà nước có thể chỉ số hóa luật thuế thích hợp với mức lạm phát,
thì tác dụng điều chỉnh của thuế cũng vẫn bị hạn chế.
- Thứ ba, phân phối lại thu nhập, làm cho một số người nắm giữ các hàng hóa
có giá trị tăng đột biến giàu lên nhanh chóng và những người có các hàng hóa

mà giá cả của chúng không tăng hoặc tăng chậm và người giữ tiền bị nghèo đi.
- Thứ tư, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng bạc…
gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa không bình thường và lãng phí.
- Thứ năm, bóp méo các yếu tố của thị trường làm cho các điều kiện của thị
trường bị biến dạng. Hầu hết các thông tin kinh tế đều thể hiện trên giá cả
hàng hóa, giá cả tiền tệ, giá cả lao động…Một khi những giá cả này tăng hay
giảm đột biến và liên tục thì các yếu tố của thị trường không thể tránh khỏi bị
thổi phồng hoặc bóp méo.
- Thứ sáu, sản xuất phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành nào có
lợi nhuận cao.
- Thứ bảy, ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu ngày
càng giảm về mặt giá trị.
- Thứ tám, đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình thường của
ngân hàng bị phá vỡ, ngân hàng không thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi
trong xã hội.
- Thứ chín, đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng
tiêu dùng và buộc nhân dân phải giảm khối lượng hàng tiêu dùng, đặc biệt là
đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn. Mặt khác lạm phát cũng
làm thay đổi nhu cầu tiêu dùng, khi lạm phát gay gắt sẽ gây nên hiện tượng là
tìm cách tháo chạy ra khỏi đồng tiền và tìm mua bất cứ hàng hóa dù không có
nhu cầu. Từ đó làm giàu cho những người đầu cơ tích trữ.
=> Hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây ra hậu
quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước. Lạm phát làm cho việc
phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập trong nền kinh tế qua giá cả đều
khiến quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm cho một
nhóm này nhiều lợi nhuận trong khi nhóm khác bị thiệt hại nặng nề. Nhưng
suy cho cùng, gánh nặng của lạm phát lại đè lên vai của người lao động, chính
người lao động là người gánh chịu mọi hậu quả của lạm phát.
Tóm lại:
Mục tiêu kiềm chế lạm phát không đồng nghĩa với việc đưa tỷ lệ lạm phát

bằng không. Bởi lẽ, lạm phát không hoàn toàn tiêu cực, nếu duy trì lạm phát ở
một mức độ vừa phải, kiềm chế điều tiết được mức lạm phát đó thì có lợi cho
sự phát triển kinh tế, lạm phát đó không còn là một căn bệnh nguy hiểm nữa
mà nó lại trở thành một công cụ điều tiết kinh tế.
I.4 Các loại hình lạm phát
I.4.1 Thiểu phát
Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn
nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn
thiểu phát với giảm phát.
Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm
trở xuống thì được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm
phát ở mức 3-4 phần trăm một năm nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng
đây là thiểu phát.
I.4.2 Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải đặc trưng bởi giá cả tăng chậm và có thể đoán biết
trước được. Đối với các nước đang phát triển lạm phát ở mức một con số (lớn
hơn 4%) được coi là lạm phát vừa phải. Với lạm phát vừa phải là mức lạm
phát bình thường nền kinh tế trải qua và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh
tế. Trong trường hợp này, lạm phát không phải là mối lo ngại. Mọi người vẫn
sẵn sang giữ tiền để thực hiện giao dịch và ký các hợp đồng dài hạn bằng đồng
nội tệ.
I.4.3 Lạm phát phi mã (Lạm phát cao)
Lạm phát phi mã là tình trạng tăng mức giá chung của nền kinh tế với tốc
độ hai hay ba chữ số một năm. Lạm phát phi mã là mức lạm phát nguy hiểm.
Nếu nền kinh tế trong tình trạng lạm phát phi mã trong một thời gian dài sẽ
gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Đồng tiền bị mất giá nhanh,
người ta chỉ giữ tiền vừa đủ để thực hiện những giao dịch cần thiết cho nhu
cầu hằng ngày. Tích trữ hàng hoá, mua bất động sản và sử dụng vàng và các
đồng ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị
lớn và tích luỹ tài sản trở nên an toàn và được ưa chuộng. mức không kiểm

soát được như trường hợp siêu lạm phát.
Việt Nam và các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoặch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm
đầu thực hiện cải cách.
I.4.4 Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", tỷ lệ lạm pháp đặc biệt cao,
một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định
nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa
đơn giản là chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên. Trong cách dùng không
chính thức thì thuật ngữ này được áp dụng cho chỉ số lạm phát thấp hơn nhiều.
Siêu lạm phát có một số điều kiện để xảy ra như sau:
(1) Chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định.
(2) Nhiều cuộc siêu lạm phát xuất hiện sau chiến tranh do sự căng thẳng
của ngân sách chính phủ.
(3) Khủng hoảng nợ.
Đặc điểm chung của mọi nền kinh tế khi xảy ra siêu lạm phát là sự gia
tăng quá mức của cung tiền, do tài trợ thâm hụt ngân sách quá lớn. Khi lạm
phát cao xảy ra lại kéo theo tình trạng thâm hụt ngân sách trầm trọng hơn có
thể không kiểm soát được. Do lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ
thuế tính theo phần trăm so với GDP từ đó tiếp tục làm tăng thâm hụt ngân
sách và đẩy lạm phát tiếp tục leo thang. Người ta thường dùng bốn tiêu chí để
xác định siêu lạm phát, đó là người dân không muốn giữ tài sản của mình ở
dạng tiền; giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng
một ngoại tệ ổn định; các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời
gian tín dụng là rất ngắn; lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá
và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm.
I.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát
I.5.1 Lạm phát cầu kéo :
Lạm phát cầu kéo xảy ra khi mức tổng cầu tăng nhanh hơn so với mức cung.
Chúng ta có thể xem hình minh họa dưới đây:


AS

Với đường tổng cung AS, khi tổng cầu (AD) dịch chuyển sang phải ( AD
1
->
AD
2
-> AD
3
), kéo theo giá cả tăng lên và lạm phát xảy ra.
Có nhiều lý do khác nhau làm cho tổng cầu gia tăng. Để thấy được vấn đề,
chúng ta tách tổng cầu theo các thành phần chi tiêu trong nền kinh tế:
AD = C + I + G + ( X-M )
Trong đó: C là chi tiêu của người tiêu dùng
I là đầu tư
G là chi tiêu của chính phủ
X là xuất khẩu
M là nhập khẩu
Sự gia tăng tổng cầu có thể do người dân tiêu dùng nhiều hơn ( chẳng hạn do lãi
suất giảm, thuế giảm, thu nhập tăng,… ); các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn ( do kỳ
vọng tăng trưởng kinh tế trong tương lai); chính phủ tiêu dùng nhiều hơn do thực hiện
đẩy mạnh các chính sách trợ cấp xã hội, chính sách kích cầu để phát triển kinh tế; tình
trạng nhập siêu quá cao cũng dấn đến đường tổng cung dịch chuyển sang bên phải.
Và lạm phát xảy ra khi tổng cầu tăng nhanh hơn tổng cung.
I.5.2 Lạm phát chi phí đẩy:
Lạm phát chi phí đẩy khi chi phí tăng một cách độc lập với tổng cầu.Chúng ta có
thể xem hình minh họa dưới đây:
AD
1

AD
2
AD
3
Y
P

Có thể xem xét các trường hợp chi phí đẩy sau:
- Chi phí tiền lương: Nếu tiền lương tăng là do áp lực từ Công đoàn, từ chính
sách điều chỉnh tăng lương của chính phủ. Đó là chi phí đẩy. Đường tổng
cung dịch chuyển sang trái do chi phí tăng ( AS
1
-> AS
2
), vì thế đẩy giá cả
tăng.
- Lợi nhuận: Nếu doanh nghiệp có quyền lực thị trường ( độc quyền, nhóm
độc quyền), có thể đẩy giá tăng lên độc lập với tổng cầu để kiếm lợi nhuận
cao hơn. (Ví dụ như OPEC).
- Nhập khẩu lạm phát:
Trong nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp phải nhập một lượng không nhỏ
nguyên nhiên vật liệu từ nước ngoài. Nếu chi phí của những nguyên liệu gia tăng do
nhiều nguyên nhân không thuộc sự kiềm soát trong nước, thì khi đó doanh nghiệp
phải chấp nhận mua nguyên vật liệu với giá cao. Một số nguyên nhân đó như:

Tỷ giá hối đóai: Nếu đồng nội tệ bị mất giá thì hàng hóa xuất khẩu
trong nước sẽ trở nên rẻ hơn ở nướv ngoài, nhưng hàng hóa nhập khẩu
Y
P
AS

2
AS
1

×