Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

LẠM PHÁT VÀ CÁC BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 92010.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.33 KB, 23 trang )

TRUỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG 3A
------------------------------

Đề tài:

LẠM PHÁT VÀ CÁC BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ LẠM
PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 9/2010

GVHD:
Th.s Nguyễn Thị Cẩm Tuyền
Nhóm Sinh viên thực hiện:
Lê Đức Hà
Lê Hoàng Long
Lưu Phương Hà
Nguyễn Thúy Hằng
Phạm Thị Thúy Hằng
Phạm Thị Tuyết Mai


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, chủ đề lạm phát khơng cịn xa lạ đối với mỗi người
dân, hàng ngày mỗi khi giá cả tăng lên, đa số mọi người đều quy lỗi do lạm phát mà
ra. Trên các phương tiện truyền thơng cũng có rất nhiều bài báo viết về lạm phát, về
sự ảnh huởng của nó đến cuộc sống của nguời dân, đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Vậy lạm phát là gì? Lạm phát có ảnh huởng như thế nào đến nền kinh tế của
đất nuớc? đến cuộc sống của nguời dân? Các khắc phục lạm phát như thế nào? Chúng
em xin cám ơn cô Nguyễn Thị Cẩm Tuyền đã hướng dẫn và giúp đỡ chúng em thực
hiện đề tài này. Trong q trình thực hiện đề tài khó tránh khỏi những sai sót, chúng
em kính mong cơ bỏ qua và rất mong cơ có thể góp ý, phê bình nhằm đề tài được
hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn.



PHẦN NỘI DUNG
I – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
I.1 Khái niệm lạm phát theo quan điểm các học thuyết kinh tế:
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục mức giá chung của nền
kinh tế trong một khoảng thời gian.
Mức giá chung của nền kinh tế là giá trung bình của tất cả các hàng hoá
và dịch vụ trong nền kinh tế. Do vậy, khi xảy ra lạm phát khơng có nghĩa là tất
cả mọi hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế đều tăng giá. Có thể một vài mặt
hàng giảm giá nhưng mặt hàng khác tăng giá đủ mạnh vẫn có thể gây nên lạm
phát.
Lạm phát cũng có thể hiểu là sự suy giảm sức mua trong nước của đồng
nội tệ. Nền kinh tế có lạm phát, một đơn vị tiền tệ có thể mua ngày càng ít
hàng hố, dịch vụ hơn. Hay hiểu nơm na là khi có lạm phát chúng ta phải chi
ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn cho giỏ hàng hoá và dịch vụ cố định. Trái
ngược với lạm phát là giảm phát.


Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên
tục. Cũng có thể nói giảm phát là lạm phát với giá trị âm. Giảm phát thường
xuất hiện khi kinh tế suy thối hay đình đốn.

I.2 Khái niệm lạm phát trong điều kiện hiện đại:
- Theo Các Mác: lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông
những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt. Lạm phát làm lương thực tế
của người lao động giảm xuống.
- Theo Milton Friedman thì quan niệm: “lạm phát là việc giá cả tăng
nhanh và kéo dài”. Ơng cho rằng: “lạm phát ln ln và bao giờ cũng là một
hiện tượng tiền tệ”.
- Kinh tế học quan niệm: lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức

giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị
trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác
nhau thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền
tệ khác.

I.3 Ý nghĩa của lạm phát
a. Tích cực:
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát vừa
phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ơng dùng từ "dầu bơi trơn" để miêu tả tác động
tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà
sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích
nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất
nghiệp sẽ giảm.
Khi lạm phát vừa phải, nó là liều thuốc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: đẩy
mạnh xuất khẩu.


Khi lạm phát xảy ra sẽ làm cho đồng tiền trong nước bị mất giá so với
đồng tiền thế giới, việc này sẽ kích thích các doanh nghiệp trong nước đẩy
mạnh xuất khẩu để thu về ngoại tệ : tạo công ăn việc làm
Để đẩy mạnh xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ phải mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh để đáp ứng sản xuất hàng hóa để xuất khẩu, điều này góp phần tạo
cơng ăn việc làm cho người dân : mang lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Hoạt động kinh doanh có hiệu quả sẽ tạo nguồn thu đáng kể cho ngân
sách nhà nước, đặc biệt là thuế…

b. Tiêu cực:
Ngoài trường hợp lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải (lạm phát một con số) có
tác dụng tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội, cịn lại nói chung
lạm phát đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển đi lên của nền kinh tế

xã hội.
- Tác hại thứ nhất là làm cho tiền tệ khơng cịn giữ được chức năng thước đo
giá trị hay nói đúng hơn là thước đo này co dãn thất thường, do đó xã hội
khơng thể tính tốn hiệu quả, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình.
- Thứ hai, tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều tiết
nền kinh tế đã bị vơ hiệu hóa, vì tiền tệ bị mất giá nên không ai tin vào đồng
tiền nữa, các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ của
lạm phát và do vậy tác dụng điều chỉnh của thuế bị hạn chế, ngay cả trong
trường hợp nhà nước có thể chỉ số hóa luật thuế thích hợp với mức lạm phát,
thì tác dụng điều chỉnh của thuế cũng vẫn bị hạn chế.
- Thứ ba, phân phối lại thu nhập, làm cho một số người nắm giữ các hàng hóa
có giá trị tăng đột biến giàu lên nhanh chóng và những người có các hàng hóa
mà giá cả của chúng không tăng hoặc tăng chậm và người giữ tiền bị nghèo đi.
- Thứ tư, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng bạc…
gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa khơng bình thường và lãng phí.
- Thứ năm, bóp méo các yếu tố của thị trường làm cho các điều kiện của thị
trường bị biến dạng. Hầu hết các thông tin kinh tế đều thể hiện trên giá cả
hàng hóa, giá cả tiền tệ, giá cả lao động…Một khi những giá cả này tăng hay


giảm đột biến và liên tục thì các yếu tố của thị trường không thể tránh khỏi bị
thổi phồng hoặc bóp méo.
- Thứ sáu, sản xuất phát triển khơng đều, vốn chạy vào những ngành nào có
lợi nhuận cao.
- Thứ bảy, ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu ngày
càng giảm về mặt giá trị.
- Thứ tám, đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình thường của
ngân hàng bị phá vỡ, ngân hàng không thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi
trong xã hội.
- Thứ chín, đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng

tiêu dùng và buộc nhân dân phải giảm khối lượng hàng tiêu dùng, đặc biệt là
đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn. Mặt khác lạm phát cũng
làm thay đổi nhu cầu tiêu dùng, khi lạm phát gay gắt sẽ gây nên hiện tượng là
tìm cách tháo chạy ra khỏi đồng tiền và tìm mua bất cứ hàng hóa dù khơng có
nhu cầu. Từ đó làm giàu cho những người đầu cơ tích trữ.
=> Hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây ra hậu
quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước. Lạm phát làm cho việc
phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập trong nền kinh tế qua giá cả đều
khiến q trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm cho một
nhóm này nhiều lợi nhuận trong khi nhóm khác bị thiệt hại nặng nề. Nhưng
suy cho cùng, gánh nặng của lạm phát lại đè lên vai của người lao động, chính
người lao động là người gánh chịu mọi hậu quả của lạm phát.

Tóm lại:
Mục tiêu kiềm chế lạm phát không đồng nghĩa với việc đưa tỷ lệ lạm phát
bằng không. Bởi lẽ, lạm phát khơng hồn tồn tiêu cực, nếu duy trì lạm phát ở
một mức độ vừa phải, kiềm chế điều tiết được mức lạm phát đó thì có lợi cho
sự phát triển kinh tế, lạm phát đó khơng cịn là một căn bệnh nguy hiểm nữa
mà nó lại trở thành một cơng cụ điều tiết kinh tế.

I.4 Các loại hình lạm phát
I.4.1 Thiểu phát


Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn
nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn
thiểu phát với giảm phát.
Khơng có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm
trở xuống thì được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm
phát ở mức 3-4 phần trăm một năm nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng

đây là thiểu phát.
I.4.2 Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải đặc trưng bởi giá cả tăng chậm và có thể đốn biết
trước được. Đối với các nước đang phát triển lạm phát ở mức một con số (lớn
hơn 4%) được coi là lạm phát vừa phải. Với lạm phát vừa phải là mức lạm
phát bình thường nền kinh tế trải qua và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh
tế. Trong trường hợp này, lạm phát không phải là mối lo ngại. Mọi người vẫn
sẵn sang giữ tiền để thực hiện giao dịch và ký các hợp đồng dài hạn bằng đồng
nội tệ.
I.4.3 Lạm phát phi mã (Lạm phát cao)
Lạm phát phi mã là tình trạng tăng mức giá chung của nền kinh tế với tốc
độ hai hay ba chữ số một năm. Lạm phát phi mã là mức lạm phát nguy hiểm.
Nếu nền kinh tế trong tình trạng lạm phát phi mã trong một thời gian dài sẽ
gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Đồng tiền bị mất giá nhanh,
người ta chỉ giữ tiền vừa đủ để thực hiện những giao dịch cần thiết cho nhu
cầu hằng ngày. Tích trữ hàng hố, mua bất động sản và sử dụng vàng và các
đồng ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị
lớn và tích luỹ tài sản trở nên an toàn và được ưa chuộng. mức khơng kiểm
sốt được như trường hợp siêu lạm phát.
Việt Nam và các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoặch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm
đầu thực hiện cải cách.


I.4.4 Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm sốt", tỷ lệ lạm pháp đặc biệt cao,
một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Khơng có định
nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa
đơn giản là chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên. Trong cách dùng khơng
chính thức thì thuật ngữ này được áp dụng cho chỉ số lạm phát thấp hơn nhiều.

Siêu lạm phát có một số điều kiện để xảy ra như sau:
(1) Chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định.
(2) Nhiều cuộc siêu lạm phát xuất hiện sau chiến tranh do sự căng thẳng
của ngân sách chính phủ.
(3) Khủng hoảng nợ.
Đặc điểm chung của mọi nền kinh tế khi xảy ra siêu lạm phát là sự gia
tăng quá mức của cung tiền, do tài trợ thâm hụt ngân sách quá lớn. Khi lạm
phát cao xảy ra lại kéo theo tình trạng thâm hụt ngân sách trầm trọng hơn có
thể khơng kiểm sốt được. Do lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ
thuế tính theo phần trăm so với GDP từ đó tiếp tục làm tăng thâm hụt ngân
sách và đẩy lạm phát tiếp tục leo thang. Người ta thường dùng bốn tiêu chí để
xác định siêu lạm phát, đó là người dân khơng muốn giữ tài sản của mình ở
dạng tiền; giá cả hàng hóa trong nước khơng cịn tính bằng nội tệ nữa mà bằng
một ngoại tệ ổn định; các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời
gian tín dụng là rất ngắn; lãi suất, tiền cơng và giá cả được gắn với chỉ số giá
và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm.

I.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát
I.5.1 Lạm phát cầu kéo :
Lạm phát cầu kéo xảy ra khi mức tổng cầu tăng nhanh hơn so với mức cung.
Chúng ta có thể xem hình minh họa dưới đây:


P

AS

AD2

AD3


AD1

Y

Với đường tổng cung AS, khi tổng cầu (AD) dịch chuyển sang phải ( AD 1 ->
AD2 -> AD3 ), kéo theo giá cả tăng lên và lạm phát xảy ra.
Có nhiều lý do khác nhau làm cho tổng cầu gia tăng. Để thấy được vấn đề,
chúng ta tách tổng cầu theo các thành phần chi tiêu trong nền kinh tế:
AD = C + I + G + ( X-M )
Trong đó: C là chi tiêu của người tiêu dùng
I là đầu tư
G là chi tiêu của chính phủ
X là xuất khẩu
M là nhập khẩu
Sự gia tăng tổng cầu có thể do người dân tiêu dùng nhiều hơn ( chẳng hạn do lãi
suất giảm, thuế giảm, thu nhập tăng,… ); các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn ( do kỳ
vọng tăng trưởng kinh tế trong tương lai); chính phủ tiêu dùng nhiều hơn do thực hiện
đẩy mạnh các chính sách trợ cấp xã hội, chính sách kích cầu để phát triển kinh tế; tình
trạng nhập siêu quá cao cũng dấn đến đường tổng cung dịch chuyển sang bên phải.
Và lạm phát xảy ra khi tổng cầu tăng nhanh hơn tổng cung.
I.5.2 Lạm phát chi phí đẩy:
Lạm phát chi phí đẩy khi chi phí tăng một cách độc lập với tổng cầu.Chúng ta có
thể xem hình minh họa dưới đây:


AS2

P


AS1

Y

Có thể xem xét các trường hợp chi phí đẩy sau:
Chi phí tiền lương: Nếu tiền lương tăng là do áp lực từ Cơng đồn, từ

-

chính sách điều chỉnh tăng lương của chính phủ. Đó là chi phí đẩy. Đường tổng cung
dịch chuyển sang trái do chi phí tăng ( AS1 -> AS2 ), vì thế đẩy giá cả tăng.
Lợi nhuận: Nếu doanh nghiệp có quyền lực thị trường ( độc quyền,

-

nhóm độc quyền), có thể đẩy giá tăng lên độc lập với tổng cầu để kiếm lợi nhuận cao
hơn. (Ví dụ như OPEC).
-

Nhập khẩu lạm phát:

Trong nền kinh tế tồn cầu, các doanh nghiệp phải nhập một lượng khơng nhỏ
ngun nhiên vật liệu từ nước ngồi. Nếu chi phí của những nguyên liệu gia tăng do
nhiều nguyên nhân không thuộc sự kiềm sốt trong nước, thì khi đó doanh nghiệp
phải chấp nhận mua nguyên vật liệu với giá cao. Một số ngun nhân đó như:



Tỷ giá hối đóai: Nếu đồng nội tệ bị mất giá thì hàng hóa xuất khẩu


trong nước sẽ trở nên rẻ hơn ở nướv ngoài, nhưng hàng hóa nhập khẩu lại trổ nên đắt
đỏ hơn. Khi đó, các doanh nghiệp phải trả nhiều tiền hơn để nhập khẩu nguyên vật
liệu.




Thay đổi giá cả hàng hóa: Nếu như có sự gia tăng giá cả hàng hóa

trên thị trường thế giới, thì các doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối mặt với chi phí
nhập khẩu hàng hóa cao hơn làm cho chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao.



Những cú sốc từ bên ngòai: Các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu,

nguyên vật liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt thép,… cũng làm cho giá cả nhập khẩu của
những lọai hàng hóa này tăng lên và đẩy chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao.
-

Thiếu hụt các nguồn tài nguyên: Khi các nguồn tài nguyên bị khai

thác cạn kiệt, không tránh khỏi giá cả dần dần sẽ tăng cao. Điều này làm tăng chi phí
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đẩy giá cả hàng hóa làm ra tăng lên cho
d8ến khi doanh nghiệp tìm kiếm được nguồn cung khác thay thế.

I.5.3 Lạm phát do cơ cấu
-

Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho


người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả một mặt không đủ khả
năng chi trả nếu tăng lương nhưng vẫn phải tăng giá để đảm bảo bù lại chi phí
sản xuất gia tăng. Lạm phát xảy ra.
I.5.4 Lạm phát do bội chi ngân sách
-

Chính phủ có thể sử dụng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà

nước là phát hành tiền. Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do
đó tăng cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và tăng tỷ lệ lạm phát. Vì thế, khi
tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và
lạm phát tăng.
I.5.5 Lạm phát tiền tệ
-

Ta hiểu cung tiền ở đây là M2.

-

M1 : hay còn gọi là tiền hẹp, bao gồm tiền ở tất cả các dạng có

thể chi tiêu ngay lập tức : tiền mặt và tiền ở tài khoản séc.
-

M2 : hay còn gọi tiền rộng, bao gồm M1 nhưng công thêm tiết

kiệm và tiền trong tài khoản tiết kiệm dài hạn. Khoản tiết kiệm dài hạn không
thể trực tiếp tiêu ngay được, nhưng có thể chuyển thành tiền mặt rất dễ dàng.



-

Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ

vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng
hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến
cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát. Có lẽ
đây là lý do thuyết phục nhất của hiện tượng lạm phát. Giả thiết rằng cư dân
giữ tiền chỉ để giao dịch mua bán hàng hố. Khi đó có đồng nhất thức sau:
-

M ×V = P × Y

(Số đơn vị tiền tệ trao đổi trong một năm)

-

Trong đó:

-

P: Là của một đơn vị sản lượng điển hình (mức giá chung).

-

Y: Mức sản lượng mà nền kinh tế tạo ra trong một năm.

-


V: Tốc độ chu chuyển (Số lần trung bình mà một tờ giấy bạc điển

hình được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ trong 1 năm).
-

M: Cung tiền.

-

Từ đồng nhất thức đó thấy: Khi cung tiền thay đổi thì tương ứng

với nó kéo theo sự thay đổi của một trong ba nhân tố. Thông thường, tốc độ
chu chuyển tiền tệ tương đối ổn định theo thời gian. Như vậy, khi lượng cung
tiền gia tăng thì hoặc sản lượng quốc gia gia tăng, hoặc là giá cả tăng. Sản
lượng có thể tăng nhưng ln ln có giới hạn. Do vậy giá tăng, lạm phát là
kết quả cuối cùng. Tốc độ tăng cung tiền càng cao thì lạm phát cũng càng cao.
-

Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng

tới đây giá cả hàng hóa sẽ cịn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng
cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.

I.6 Các biện pháp kiềm chế lạm phát
I.6.1 Những biện pháp cấp bách:
Những biện pháp này được áp dụng nhằm mục đích giảm tức thời cơn sốt
lạm phát, để có cơ sở áp dụng những biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. Gồm có
những biện pháp sau:



I.6.1.1 Biện pháp về chính sách tài khóa:
Biện pháp này được áp dụng nhằm khắc phục tình trạng thâm hụt
ngân sách nhà nước.
Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp sau:
-

Tiết kiệm triệt để chi tiêu ngân sách, cắt giảm những khỏan chi tiêu

công chưa cấp bách như giảm chi phí quốc phịng, giảm biên chế cơng nhân
viên Nhà nước, kiểm sóat và chống thất thóat trong chi tiêu ngân sách, chống
tham nhũng.
-

Tăng thu ngân sách bằng cách tăng thuế trực thu, đặc biệt đối với

những cá nhân và doanh nghiệp có thu nhập cao, chống thất thu thuế, vay nợ
dân chúng,… nhằm rút ngắn cách biệt giữa chi và thu, dần dần tiến đến cân
bằng thu chi ngân sách.
I.6.1.2 Biện pháp thắt chặt tiền tệ:
Biện pháp này nhằm mục đích giảm lượng tiền thừa trong lưu thơng,
nhà nước có thể thực hiện chính sách siết chặt cung tiền tệ bằng nhiều biện
pháp khác nhau như:
-

Đóng băng tiền tệ: Ngân hàng Trung ương thắt chặt việt thực hiện

các nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cấp vốn, cho vay theo hồ sơ tín dụng đối với
các tổ chức tín dụng… Mục đích của biện pháp này là rút bớt tiền hay không
cho tiền tăng thêm trong lưu thông. Hoặt thậm chí dùng chính sách giới hạn
tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại nhằm thực hiện mục đích

trên.
-

Nâng lãi suất: Lãi suất tiền gửi tăng, đặt biật là tiền gửi tiết kiệm có

tác dụng thu hút tiền mặt của dân cư và doanh nghiệp vào ngân hàng. Từ đó
rút bớt lượng tiền đang lưu thơng và có tác động làm giảm chỉ số lạm phát.
Tuy nhiên, nếu lãi suất ngân hàng ở mức cao hơn lợi tức đầu tư thì người dân
và các doanh nghiệp sẽ khơng mang tiền đi đầu tư vào sản xuất kinh doanh
nữa mà tìm cách gửi tiền vào ngân hàng hưởng lãi suất. Điều này dẫn đến việc


sản xuất kinh doanh bị thiếu nguồn vốn đầu tư, về lâu dài sẽ dẫn đến hàng hóa
khan hiếm ,giá cả tăng cao và trực tiếp làm gia tăng thêm lạm phát.
-

Nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc: đối với các ngân hàng nhằm hạn chế

khả năng tạo tiền của các ngân hàng thương mại. Cũng giống như biện pháp
nâng lãi suất, nếu biện pháp này áp dụng trong thời gian dài sẽ dẫn đến tình
trạng thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh, trực tiếp làm tăng chỉ số lạm phát.
I.6.1.4 Biện pháp kiềm chế giá cả:
Để kiềm chế sự tăng giá của hàng hóa, nhà nước thực hiện chính sách
kiềm giữ giá cả bằng nhiều biện pháp khác nhau như:
-

Nhập khẩu hàng hóa của nước ngịai để bổ sung cho khối lượng

hàng hóa trong nước tạo rao sự cân bằng giữa cung và cầu hàng hóa. Nhưng
nhập khẩu hàng hóa trong thời gian dài sẽ dẫn đến hàng hóa trong nước khơng

đủ sức cạnh tranh, dần dần mất thị phần về tay các doanh nghiệp nước ngoài.
-

Nhà nước bán vàng và ngọai tệ ra nhằm thu hút lượng tiền mặt trong

lưu thông, ổn định giá vàng, ổn định tỷ giá hối đối, từ đó tạo tâm lý ổn định
giá cả các mặt hàng khác trong thời gian ngắn. Trong thời gian dài, việc áp
dụng các biện pháp này sẽ làm cạn kiệt nguồn dự trữ vàng và ngọai tệ của
quốc gia, dẫn đến có thể xẩy ra khủng hỏang tiền tệ trong nước.
I.6.2 Những biện pháp chiến lược:
Sau khi áp dụng các biện pháp cấp bách nhằm ứng phó với lạm phát
trong thời gian đầu, nhà nước cần áp dụng những biện pháp chiến lược nhằm
ổn định thị trường trong thời gian dài. Những biện pháp thường được áp
dụng là:
I.6.2.1 Cần thực hiện chính sách tài chính – tiền tệ năng động và hiệu
quả trong giai đọan hội nhập kinh tế quốc tế:
Hạ lãi suất cho vay để khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất trong nước
và xuất nhập khẩu, cung cấp hàng hóa cho nền kinh tế.


Mở rộng đối tượng kiều bào nước ngoài mua nhà ở Việt Nam: Đây là một
giải pháp tốt giúp đáp ứng tâm tư nguyện vọng của bà con xa xứ và cũng là
biện pháp nhằm hạn chế sự đóng băng của thị trường bất động sản.
Tiếp tục siết chặt chi tiêu công đối với các dự án không hiệu quả
I.6.2.2 Cần kích thích tiêu dùng, kích thích nền kinh tế phát triển.
Cần phải giảm tốc độ tăng lãi suất, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý. Cần
đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, tăng năng suất lao động.
I.6.2.3 Tiết kiệm chi phí sản xuất xã hội và chi tiêu cơng và tư:
Giảm mức tăng chi phí thực hiện tiết kiệm trong sản xuất xã hội. Để làm được
điều này, bản thân các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý sản xuất theo

định mức, kiểm tra chặt chẽ các yếu tố đầu vào theo đúng qui cách, phẩm chất,
chủ động nghiên cứu tìm vật tư thay thế với chi phí thấp, nhất là đối với vật tư
nguyên liệu nhập khẩu. Một giải pháp làm giảm mức tăng chi phí khác có thể
áp dụng là hồn thiện cơng nghệ, đổi mới cơng nghệ, cải tiến tổ chức quản lý
nhằm tăng năng suất lao động. Đồng thời tiết kiệm chi tiêu công của nhà
nước, từng gia đình và cá nhân.
I.6.2.4 Tăng cường kiểm tra, giám sát phát huy tính cơng khai minh
bạch của chi tiêu cơng:
Cần sốt xét lại các chương trình, dự án đầu tư, họat động chi tiêu cả
trung ương lẫn địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, kiểm tra
tiến độ thực hiện của các dự án, các cơng trình đầu tư. Khẩn trương hồn
thành các dự án, cơng trình, đặc biệt là các cơng trình trọng điểm, hồn
thành dứt điểm các cơng trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác
dụng và tránh tăng thêm chi phí phát sinh. Chủ động điều chỉnh kế họach
triển khai các dự án đầu tư, tập trung ngân sách vào những cơng trình cấp
thiết, những cơng trình khơng cấp thiết nên thực hiện sau. Công khai
minh bạch thông qua sự giám sát chi tiêu của các tổ chức phi chính phủ,
các đồn thể chính trị xã hội và tổ chức quần chúng.


I.6.2.5 Chính phủ nên thực hiện bán trái phiếu chính phủ, tín phiếu
kho bạc cho dân để thu hồi tiền mặt.
Họat động này có tác động rất tích cực làm giảm nhanh lượng tiền mặt
trong lưu thông và tác động trực tiếp đến giảm lạm phát. Ngân hàng Nhà
nước, Kho bạc Nhà nước nên triển khai bán trrực tiếp cho dân. Bán trực
tiếp sẽ tránh được các khâu trung gian nên mức lãi suất đối với người
mua được hưởng sẽ cao hơn, thu hút được nhiều người tham gia.Có thể tổ
chức thành những chiến dịch phân phối tín phiếu, trái phiếu trong thời
gian cụ thể với cơ chế thuận lợi kết hợp với sự tuyên truyền cổ động
mạnh mẽ để động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã hội tham

gia.
I.6.2.6 Đẩy mạnh phong trào sản xuất cung cấp sản phẩm dịch vụ cho xã
hội, hạn chế những tệ nạn xã hội, giải quyết những vấn đề thuộc an ninh
xã hội cho người nghèo, đối tượng chính sách xã hội.
II - THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐỌAN 2007 –
9/2010:
II.1 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2008
Tốc độ lạm phát 7 tháng đầu năm 2007 đã lên tới 6,19%, nếu theo đà
này thì mức lạm phát của cả năm 2007 sẽ ở mức hai con số. Để đánh giá một
nền kinh tế có lành mạnh hay không người ta dựa chủ yếu vào tỉ lệ giữa tốc độ
tăng GDP và tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI). Chỉ tính trong 3 năm gần đây,
khi mà thế giới đang lên cơn sốt giá, thì cho đến giờ này tỉ số trên của nước ta
vẫn ở mức 1:1. Điều đó nói lên rằng nền kinh tế của nước ta vẫn đang lành
mạnh và vấn đề là Chính phủ Việt Nam quyết bảo vệ sự lành mạnh đó, trước
mắt là đến hết 2007.
Mặt khác, khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường phát triển thì việc tăng giá tiêu dùng là không tránh khỏi và


sự định giá đồng tiền ở nước ta còn ở mức cao nên việc mất giá của đồng tiền
cũng là tất yếu. Điều đó giải thích, tuy việc neo giá không phải lúc nào cũng
thành công nhưng cả trong ba năm vừa qua chúng ta sử dụng công cụ này mà
vẫn đạt kết quả.
II.2 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2009


Biểu đồ 2.2: Chỉ số giá tiêu dùng trong 10 tháng đầu năm 2008

Như vậy, sau 12 năm, tình hình lạm phát lại bùng phát ở Việt Nam và có nguy


bùng phát mạnh mẽ vào năm 2008, tình hình cụ thể thể hiện rõ

biểu đồ 2.1, biểu đồ 2.2
* Chỉ số giá tiêu dùng một số mặt hàng tăng vọt trong năm 2007: Năm 2007,
giá lương thực, thực phẩm (LT-TP) trên thị trường Việt Nam tăng cao đạt mức
18.9%, cao hơn nhiều so với mức lạm phát 12,63%, trong đó nhóm lương thực
tăng 15,5%, thực phẩm tăng 21,16%.
* Chỉ số giá tiêu dùng một số mặt hàng tăng vọt trong các quý
đầu năm 2008: Trong 4 tháng đầu năm, giá LT-TP đã tăng
18,01%, cao gấp rưỡi mức 11,6% của lạm phát CPI và cao
tương đương bằng mức tăng giá LT-TP của cả năm 2007, trong
đó lương thực tăng 25%, cịn thực phẩm tăng 15,6%.
Nguyên nhân của tăng lạm phát:
- Ngày 22/5/2008, tăng giá xăng dầu từ 13.000đ lên 14.500đ (tương đương
11.5%).
- Cuối tháng 3 đầu tháng 4, tình trạng thiếu lương thực trầm
trọng trên thế giới làm cho giá gạo trong nước tăng nhanh có thời
điểm từ 50% đến 100%.
- Kể từ tháng 5 giá gạo đã có xu hướng giảm nhưng mức tăng
vẫn 15%-20% so với trước khi sốt gạo. Dự báo từ nay đến cuối
năm giá gạo sẽ bình ổn và khơng có sự tăng đột biến.
-Trong hai quý đầu năm, giá các loại nguyên vật liệu tăng mạnh
trên TG khiến nước ta ảnh hưởng bởi NK lạm phát. Nếu giá dầu


ổn định dưới 150 USD/ thùng, giá các nguyên, vật liệu sẽ có xu
hướng giảm và ổn định trong giai đoạn còn lại của năm.
II.3 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2009 và 9 tháng đầu năm
2010
- Mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 15% đặt ra cho năm 2009 thể hiện sự

“cảnh giác” của các nhà quản lý và hoạch định chính sách. Cũng dễ hiểu, khi
chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2007 tăng 12,63% và 10 tháng đầu năm nay
còn tăng phi mã hơn, vượt xa mục tiêu kiềm chế ở mức thấp hơn tốc độ tăng
trưởng kinh tế nữa.
-Theo suy nghĩ thông thường, giới hạn của chỉ số giá tiêu dùng năm tới nằm ở
mức từ 10 tới 14,99%. Căn cứ để đặt giới hạn dưới là mục tiêu chỉ số giá tiêu
dùng ở mức một con số vào năm 2010.
Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới đang xấu đi rất nhanh hiện nay,
cũng có thể sự thận trọng như vậy là quá mức cần thiết.
Giá nguyên liệu thế giới giảm
-Thay vì sốt nóng như bảy năm trở lại đây, thị trường thế giới trong năm 2009
sẽ “cảm lạnh”. Vì vậy, thị trường trong nước cũng không thể không hạ nhiệt
theo.
-Trong bức tranh kinh tế u ám được IMF “vẽ lại” ngày 6.11 vừa qua, tâm
điểm chính là tốc độ tăng trưởng “âm” của nhóm các nước phát triển, điều mà
ba thập kỷ trở lại đây mới xảy ra. Thay đổi mang tính bước ngoặt lớn nhất
trong bức tranh này lại là sự “tụt dốc không phanh” của giá nguyên liệu thế
giới sau năm năm liên tục tăng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2009
dự báo khoảng 2,2%, thấp nhất kể từ năm 1993 đến nay.
-Trong khi các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển vẫn “gắng
gượng” được trong cơn khủng hoảng này, thì hầu như tất cả các nền kinh tế
của các nước phát triển nhất thế giới đều suy giảm. Dù rơi tự do từ mức
“đỉnh” 8% trong năm 2007 xuống còn 5,1% trong năm 2009, tốc độ tăng
trưởng của các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển vẫn còn cao so
với mức “đáy” 3,8% trong năm 2001. Điều tồi tệ có lẽ chưa từng có là đa số
các nền kinh tế chủ chốt của thế giới đều rơi vào tình trạng “âm” rất cao, thí
dụ như Anh dẫn đầu với –1,3%; Đức “về nhì” với –0,8%; Mỹ ở vị trí thứ ba
với –0,7%...
Với một nền kinh tế có hai đặc điểm nổi trội là “sống nhờ” vào nguồn nguyên
liệu nhập khẩu, đồng thời phát triển phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Việt



Nam, điều đáng quan tâm nhất là giá nguyên liệu thế giới giảm, rồi mới tới sự
suy giảm của các trung tâm kinh tế thế giới. Theo dự báo của IMF, giá dầu mỏ
thế giới năm 2009 sẽ rơi tự do 31,8% và giá của nhóm hàng nguyên liệu phi
dầu mỏ cũng giảm 18,7%. Tính chung, giá nguyên liệu thế giới trong năm tới
giảm 21,38%.
Sức mua trong nước giảm
-Tốc độ tăng trưởng kinh tế có phần chậm lại, cộng với tác động của lạm
phát cao trong thời gian qua, không chỉ thu nhập của đại bộ phận các tầng lớp
dân cư trong xã hội tăng chậm lại và tốc độ tăng sức mua cũng chậm lại.
Ngồi ra, khơng thể tránh khỏi nảy sinh tâm lý “thắt lưng buộc bụng” ở bộ
phận dân cư khá giả. Đây chính là nguyên nhân sâu xa khiến tốc độ tăng của
tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm dần. Thậm chí
có thể tụt xuống dưới ngưỡng 20% như những năm “hậu” khủng hoảng kinh tế
khu vực hồi cuối thập kỷ trước. Do vậy, giá tiêu dùng khó có thể tăng cao.
-Khi khủng hoảng kinh tế khu vực bùng phát năm 1997, tốc độ tăng xuất
khẩu của nước ta đang dao động trong khoảng từ 33 – 35% của ba năm trước
đó giảm mạnh xuống 26,59%, năm sau cịn giảm tới đáy 1,91%. Tương ứng,
tốc độ tăng GDP giảm từ mức 8,8 – 9,64% xuống còn 8,15% và sau đó là
5,76%. Gần tương ứng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng trong cùng kỳ đang từ tốc độ tăng 20,40 – 38,97% giảm xuống chỉ còn
10,99% và 14,64%.
-Trong năm 2001, tác động của cuộc suy thối mang tính chu kỳ và sự kiện
11.9 ở Mỹ khiến cho tốc độ tăng xuất khẩu cả năm chỉ đạt 3,77%, còn tốc độ
tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 6,89% và tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng dao động xung quanh ngưỡng 10%.
-Trong bối cảnh thị trường xuất khẩu và trong nước cũng như giá cả thế giới
như vậy, ngoại trừ năm 2008 là năm xảy ra sốt nóng giá lương thực, các năm
còn lại đều là những năm giá tiêu dùng của nước ta hoặc là chỉ tăng rất thấp,

hoặc là đứng yên và giảm.
-Với những tác nhân nói trên, rất có thể chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu
kiềm chế lạm phát ở mức một chữ số ngay từ năm 2009 sắp tới. Thậm chí, có
thể tính đến kịch bản tăng rất vừa phải ở mức 3 – 4,5% như các năm 1996 –
1997 và 2002 – 2003.
-Nhìn lại diễn biến lạm phát năm 2008 có nhiều điểm đáng lưu ý. Tháng

5/2008, CPI một tháng tăng gần 4%, đó là thời điểm tăng đột biến của giá
lương thực (CPI lương thực tăng 22.19%). Trước đó tháng 3/2008 lạm phát
cũng tăng 3.56% so với tháng trước. Tính trung bình 6 tháng đầu năm 2008
lạm phát lên tới 2.86% cho mỗi tháng.
Các chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, các biện pháp kìm chế lạm phát
của chính phủ đồng thời từ tháng 9/2008 khủng hoảng tài chính từ Mỹ bắt đầu


lan rộng ra toàn cầu làm giá cả nhiều mặt hàng giảm mạnh, nhờ đó lạm phát
kể từ tháng 9 đã giảm mạnh so với những tháng trước đó. Liên tiếp 3 tháng 10,
11 và 12/2008 CPI tăng trưởng âm. Những tháng đầu năm 2009 lạm phát
khơng cịn là một vấn đề đáng lo ngại. Trung bình 7 tháng đầu năm lạm phát
chỉ tăng 0.45%/tháng, so với tháng 12/2008 đến tháng 7/2009 lạm phát chỉ
tăng 3.22%, trong đó lương thực thực phẩm giảm 0.33%.
Lạm phát do chi phí đẩy ở Việt Nam
Đây là nguyên nhân dễ nhận thấy đối với lạm phát của Việt Nam trong thời gian qua. Với
một nền kinh tế khá mở, kim ngạch nhập khẩu lên đến 90% GDP (2008), sự biến động của
giá cả trên thế giới tác động ngay đến giá cả trong nước. Năm 2007 và nửa đầu năm 2008,
giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế giới biến động mạnh, đặc biệt là giá dầu thô, lương
thực, thực phẩm và các nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Sự tăng giá của hầu hết các
hàng hóa trong nước góp phần làm cho lạm phát ở Việt Nam bùng phát.

Lạm phát do cung tiền ở Việt Nam

Trên đây chúng ta xét đến yếu tố chi phí đẩy dù yếu tố này khơng giải thích
được hồn tồn ngun nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam. Trong thời gian
qua, cung tiền được mọi người xem là nguyên nhân căn bản gây nên lạm phát
ở Việt Nam, sau đây chúng ta xem xét yếu tố này.
Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam được cộng đồng
quốc tế đánh giá cao về tiềm năng phát triển. Vốn đầu tư nước ngồi đổ vào
Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Năm 2007, vốn đầu tư trực tiếp (FDI) giải
ngân lên tới 8 tỷ USD, năm 2008 lên tới 11.7 tỷ USD, chiếm gần 1/3 lượng
vốn đầu tư trong nền kinh tế. Dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) cũng tăng lên
nhanh chóng, trong năm 2007 ước tính có trên 7 tỷ USD từ dòng vốn gián tiếp
đổ vào Việt Nam. Vốn viện trợ phát triển (ODA) hàng năm Việt Nam nhận
được khoảng 2 tỷ USD (năm 2007 là 2 tỷ USD, 2008 2.2 tỷ USD). Kiều hối
chuyển về Việt Nam hàng năm từ 5-7 tỷ USD. Mặc dù, Việt Nam luôn bị
thâm hụt thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít hơn các dòng tiền
chuyển vào Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai vẫn thặng dư. Dự trữ
ngoại tệ của ngân hàng thương mại liên tục tăng cao (năm 2006 tăng 4.6 tỷ
USD, năm 2007 tăng 10.6 tỷ USD, năm 2008 2.4 tỷ USD). Dự trữ ngoại tệ của
NHNN tăng đồng nghĩa với một lượng tiền tương ứng VND được bơm vào
nền kinh tế, mặt khác NHNN không thực hiện biện pháp Vơ hiệu hóa lượng
tiền bơm vào nền kinh tế do vậy tiền trong nền kinh tế tăng lên.
Ngoài ra, năm 2006 và 2007 đánh dấu năm phát triển mạnh mẽ của hệ thống
ngân hàng, tăng trưởng tín dụng năm 2006 đạt 50.18%, năm 2007 đạt 49.1%.


Như vậy tăng trưởng tín dụng cao và dịng tiền mua ngoại tệ của NHNN đã
làm cho cung tiền tăng mạnh dẫn đến lạm phát.
Những yếu tố khác
Về mặt lý thuyết có rất nhiều yếu tố gây nên lạm phát, tùy từng giai đoạn mà
một nguyên nhân nào đó có thể đóng vai trị chính. Nhiều khi các ngun nhân
có thể đan xen lẫn nhau rất khó tách các yếu một cách rạch rịi. Theo quan

điểm của chúng tơi một số nguyên nhân sâu xa gây nên lạm phát ở Việt Nam
đó là sự thiếu hiệu quả trong đầu tư, và tình trạng thâm hụt ngân sách cao
thường xuyên.
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ đầu tư/GDP cao nhất thế giới.
Trong những năm gần đây tỷ lệ đầu tư/GDP ln lớn hơn 40% trong khi đó
tốc độ tăng trưởng chỉ đạt ở trung bình chưa đến 8%. ICOR của Việt Nam lớn
hơn 5 lần, cao hơn nhiều so với các nước Đông Á, và các quốc gia khác cùng
trình độ phát triển như Việt Nam hiện nay. Trong một nghiên cứu trước đây
của chúng tơi có tựa đề “Các vấn đề tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” chúng
tôi đã nêu ra các nguyên nhân yếu kém trong cơ cấu nền kinh tế. Chính những
yếu kém này là những nguyên nhân sâu xa cho bất ổn vĩ mơ và lạm phát cao.
Tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài trong nhiều năm qua, áp lực in tiền tài
trợ cho thâm hụt ngân sách cũng gây nên áp lực cho lạm phát. Ngồi ra, việc
kiểm sốt giá hàng hóa và neo tỷ giá ngoại tệ một cách khá cứng nhắc cũng
gây ra những xáo trộn kéo dài cho nền kinh tế. Tỷ giá hay giá hàng hóa khơng
phản ánh giá thị trường do kiểm sốt hoặc độc quyền đều ẩn chứa khả năng
lạm phát tiềm tàng trong tương lai.
*9 THÁNG ĐẦU NĂM 2010
"Chính sách kinh tế vĩ mô phát huy tác dụng cộng với việc tăng cường quản lý
giá cả thì lạm phát cả năm 2010 có thể giữ được ở mức một con số," Tiến sỹ
Vũ Đình Ánh, Viện Khoa học thị trường giá cả (Bộ Tài chính) nhận xét.
Kết quả ngăn ngừa lạm phát cao trở lại
-Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2010 tăng 1,31% so với tháng trước. Đây là mức
tăng cao nhất trong sáu tháng qua kể từ tháng 3/2010 với mức tăng trên 1%.
Nguyên nhân chủ yếu tác động đến chỉ số giá tiêu dùng tháng Chín tăng cao là
do thực hiện lộ trình tăng học phí từ năm học 2010-2011 theo Nghị định số
49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ ở hầu hết các địa phương trên
cả nước, yếu tố này đóng góp 0,68% vào mức tăng chung của chỉ số giá tiêu



dùng cả nước. Mặt khác, việc điều chỉnh tăng giá xăng, dầu từ ngày 09/8/2010
tiếp tục ảnh hưởng làm tăng giá hàng hố và dịch vụ trong tháng Chín.
-Chỉ số giá tháng Chín năm 2010 của hầu hết các nhóm hàng hoá và dịch vụ
đều tăng so với tháng trước, trong đó nhóm giáo dục tăng cao nhất với
12,02%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,08%. Các nhóm hàng hóa và dịch
vụ có chỉ số giá tăng thấp hơn mức 1% gồm: Giao thông tăng 0,91%; hàng
ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,79% (lương thực tăng 2,32%; thực phẩm tăng
0,39%); văn hố, giải trí và du lịch tăng 0,48%; đồ uống và thuốc lá tăng
0,44%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,35%; hai nhóm may mặc, mũ nón, giày
dép và thiết bị và đồ dùng gia đình đều tăng 0,34%. Riêng nhóm bưu chính
viễn thơng giảm 0,07%.
-Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2010 so với tháng 12/2009 tăng 6,46%; so với
cùng kỳ năm trước tăng 8,92%. Chỉ số giá tiêu dùng bình qn chín tháng năm
nay tăng 8,64% so với bình qn chín tháng năm 2009.
-Chỉ số giá vàng tháng 9/2010 tăng 3,58% so với tháng trước; tăng 5,19% so
với tháng 12/2009 và tăng 34,35% so với cùng kỳ năm 2009. Chỉ số giá đô la
Mỹ tháng 9/2010 tăng 1,61% so với tháng trước; tăng 2,91% so với tháng
12/2009 và tăng 7,35% so với cùng kỳ năm 2009.
-Thị trường giá cả hàng hoá trong nước và thế giới những tháng cuối năm còn
diễn biến phức tạp. Đặc biệt trong nước, một số yếu tố chủ yếu có thể sẽ là
nguyên nhân gây áp lực đến mặt bằng giá nói chung, đó là: (1) Việc tăng giá
một số hàng hoá, dịch vụ sẽ tiếp tục ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá
cả của những hàng hoá và dịch vụ khác; (2) Nhu cầu tiêu dùng hàng hoá cho
sản xuất cũng như nhu cầu các dịch vụ và tiêu dùng hàng hoá trong dân cư
thường tăng lên vào dịp cuối năm; (3) Nhiều cơng trình, dự án tiếp tục đẩy
nhanh tiến độ giải ngân để hoàn thành kế hoạch năm; (4) Tỷ giá giữa VNĐ và
USD được điều chỉnh tăng, ảnh hưởng đến giá hàng nhập khẩu làm tăng chi
phí đầu vào trong sản xuất hàng hoá; (5) Nguy cơ thiên tai, dịch bệnh trên cây
trồng và vật ni cịn tiềm ẩn, nếu xảy ra trên quy mô lớn cũng sẽ tác động
đến nguồn cung lương thực và thực phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng, đây là

nhóm hàng hố chiếm tỷ trọng lớn trong tiêu dùng của dân cư.


-Trước mắt, việc bình ổn và giảm giá trong thời gian tới có thể sẽ diễn ra do
gắn với thời điểm thu hoạch lúa gạo ở miền Bắc và khả năng giá xăng dầu từ
nay đến cuối năm sẽ không tăng…nhưng, để kiềm chế vững chắc các động
thái lạm phát theo mục tiêu đề ra trong những tháng cuối năm và thời gian tới,
Chính phủ đã chỉ đạo sát sao việc thực hiện đồng bộ những nhiệm vụ chủ yếu
và các nhóm giải pháp lớn để khơi phục, phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng
trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
-Mức độ gia tăng và tác động của lạm phát đến đời sống kinh tế - xã hội phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó rất quan trọng là sự phối hợp đồng bộ, linh
hoạt các chính sách và những yếu tố tâm lý xã hội khác của Việt Nam, trong
đó có cơng tác dự báo, thơng tin, yếu tố tin đồn và khả năng kiểm soát đầu cơ,
lũng đoạn thị trường…Việc nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả đầu tư của
Nhà nước; tăng cường công tác thông tin, dự báo và phản biện chính sách xã
hội trước các biến động nhanh chóng của thị trường, nhất là mặt trái của
những chính sách đang và sẽ triển khai góp phần quan trong giúp các cơ quan
quản lý nhà nước nâng cao hiệu quả điều hành thực tiễn. Đồng thời, bám sát
thực tiễn điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước sẽ giúp công tác dự báo
thêm cơ sở tin cậy và mềm dẻo, chính xác hơn; phối hợp các hoạt động và cơ
quan dự báo với giám sát, bao gồm cả giám sát chuyên ngành với giám sát
hợp nhất, tổng thể toàn thị trường để cảnh báo sớm rủi ro và xử lý một cách
hiệu quả những vấn đề mới phát sinh, nhất là các rủi ro chéo, tránh các đổ vỡ
dây chuyền và bất ngờ…/.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ




×