Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ BỘ MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU THỪA KẾ TRONG LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.24 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ ḶN CHÍNH TRỊ
----------

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
BỘ MƠN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
*****
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

THỪA KẾ TRONG LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
GVHD: Ths. Nguyễn Thị Tuyết Nga
Mã LHP: GELA220405_21_2_12
Thực hiện: Nhóm 10

TP. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2022


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN: THỪA KẾ TRONG LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

THỨ TỰ

HỌ TÊN - MSSV

Thạch Hoàn Hảo
1
2

(nhóm trưởng)


Hà Vũ Minh Luân
Đinh Anh Đức

3

(lớp 11)
Nguyễn Đình Long

4
5

(lớp 11)
Mai Long Trường

MSSV

20161109

NHIỆM VỤ
Phần mở đầu; 1.2;
2.3

20161338

1.5; 2.1; Kết luận

20161305

1.4; 2.1


20161334

1.3; 2.1

20161078

1.1; 2.2

MỨC ĐỘ
HOÀN THÀNH
Hoàn thành tốt
Hoàn thành tốt
Hoàn thành tốt

Hoàn thành tốt

Hoàn thành tốt

Nhận xét của giáo viên
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………


NHÓM 10

2


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 4
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................ 4
2. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................................... 5
3. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................... 6
4. Bố cục của tiểu luận ........................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: .................................................................................................................................. 8
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT ............................................... 8
1.1.

Khái niệm thừa kế .......................................................................................................... 8

1.2.

Khái niệm thừa kế theo pháp luật ................................................................................ 8

1.3.

Điều kiện chia thừa kế theo pháp luật .......................................................................... 9

1.4.

Hàng và diện thừa kế ................................................................................................... 11


1.4.1.

Hàng thừa kế ......................................................................................................... 11

1.4.2.

Diện thừa kế........................................................................................................... 15

1.5.

Thừa kế theo thế vị ....................................................................................................... 15

CHƯƠNG 2 ................................................................................................................................. 18
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT .................... 18
2.1.

Phân tích vụ việc tranh chấp về thừa kế ........................................................................ 18

2.2.

Quan điểm cá nhân về việc áp dụng quy định của luật ................................................ 23

2.3.

Đề xuất giải pháp ............................................................................................................. 25

KẾT LUẬN .................................................................................................................................. 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................................... 27


NHÓM 10

3


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng
trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các quyền của cơng
dân. Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được đối với đời sống
của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội. Mỗi nhà nước dù có các xu thế chính trị khác
nhau, nhưng đều coi thừa kế là một quyền cơ bản của công dân và được ghi nhận trong
Hiến pháp.
Ở Việt Nam, sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của thừa kế, nên ngay
những ngày đầu mới dựng nước, các triều đại Lý, Trần, Lê cũng đã quan tâm đến ban hành
pháp luật về thừa kế. Pháp luật thành văn về thừa kế ở nước ta, lần đầu tiên được quy định
trong chương "Điền sản" của Bộ luật Hồng Đức dưới triều vua Lê Thái Tổ. Trải qua quá
trình đấu tranh cách mạng, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các quy định này đã được
ghi nhận, mở rộng, phát triển và được thực hiện trên thực tế tại các Điều 19
Hiến pháp 1959 "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo vệ quyền thừa kế tài sản tư hữu của
công dân". Điều 27 Hiến pháp 1980 "Nhà nước bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công
dân", Điều 32 Hiến pháp 2013 quy định". Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh
nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được
pháp luật bảo hộ” và đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995, sau đó Bộ luật Dân sự
năm 2005 đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật
về thừa kế nói riêng. Bộ luật Dân sự 2005 được xem là kết quả cao của q trình pháp điển
hố những quy định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định phù

hợp với thực tiễn, khơng ngừng hồn thiện để bảo vệ quyền lợi của người thừa kế một cách
có hiệu quả nhất.
Tuy nhiên về thực tiễn, do sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của đời sống kinh
tế - xã hội của đất nước, nên pháp luật về thừa kế hiện hành vẫn chưa thể trù liệu hết những
trường hợp, tình huống xảy ra trên thực tế. Còn một số quy định pháp luật về thừa kế chung

NHÓM 10

4


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
chung, mang tính chất khung, chưa chi tiết, chưa rõ ràng, lại chưa có văn bản hướng dẫn
thi hành cho từng vấn đề cụ thể. Vì vậy, cịn nhiều quan điểm trái ngược nhau, nên khi áp
dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng khơng nhất qn trong cách hiểu cũng như cách giải
quyết. Điều đó đã xâm phạm quyền thừa kế của cơng dân, đơi khi cịn gây bất ổn trong đời
sống sinh hoạt của mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng nền kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước
pháp quyền thì vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng phong phú, thừa kế di sản
cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp. Hàng năm Toà án nhân dân các cấp đã thụ
lý và giải quyết hàng ngàn vụ án thừa kế. Nhiều vụ tranh chấp thừa kế phải xét xử nhiều
lần mà tính thuyết phục khơng cao. Có những bản án quyết định của tồ án vẫn bị coi là
chưa "thấu tình đạt lý"... Sở dĩ còn tồn tại những bất cập đó là do nhiều nguyên nhân trong
đó phải kể đến là do các quy định của pháp luật về thừa kế chưa đồng bộ, cụ thể... Chính
vì điều đó, nên trong thời gian gần đây nhiều văn kiện của Đảng như Nghị quyết
48/2005/NQ-TW ngày 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược hồn thiện pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, Nghị quyết số 49/2005/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 28-6-2005 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020... đã xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu, sự cần thiết phải
hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đổi mới, trong đó có pháp luật về thừa kế.
Xuất phát từ những lý do trên, nhóm chúng em đã chọn vấn đề: "Thừa kế trong Luật

dân sự Việt Nam” để làm đề tài tiểu luận. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách
cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.

2. Mục tiêu nghiên cứu
Nhóm xác định chọn đề tài này cũng dựa trên cơ sở có những mục đích nghiên cứu
rõ ràng như quy định về người để lại di sản thừa kế, người thừa kế, thời điểm, thời gian
mở thừa kế, di sản thừa kế, người quản lý di sản... và những điểm mới trong chế định
thừa kế. Sự kế thừa, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác là một quy luật khách quan,
nhưng các quan hệ thừa kế ở mỗi chế độ xã hội được giải quyết như thế nào là do chủ
quan con người quyết định. Quyền sở hữu cá nhân là cơ sở khách quan của việc thừa
kế. Vì vậy, quyền thừa kế trong điều kiện của nước ta hiện nay được thể hiện như một

NHÓM 10

5


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam

phương tiện để củng cố sở hữu của công dân, củng cố quan hệ hơn nhân và gia đình,
bảo vệ lợi ích của những người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có
khả năng lao động. Pháp luật của nước ta bảo vệ những lợi ích cơ bản của mỗi người
lao động trên cơ sở bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội, góp phần
xóa bỏ những tàn tích của chế độ xã hội phong kiến để lại. Tạo môi trường pháp lý
thuận lợi làm cho nhân dân lao động yên tâm sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho
xã hội. Quyền thừa kế xuất phát từ quan điểm xem gia đình là tế bào của xã hội, phải
đảm bảo quyền lợi chính đáng cho mọi thành viên và sự ổn định của từng gia đình. Mặt
khác thơng qua quyền thừa kế, giáo dục tinh thần trách nhiệm của mỗi thành viên đối
với gia đình. Do đó xác định được diện những người thừa kế cũng như phương thức
chia di sản trong pháp luật về thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các

chức năng vai trò xã hội của nó.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu
chủ yếu sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận về chế định thừa kế như: khái niệm, đặc điểm,
vai trò của chế định thừa kế.
- Phân tích quy định của pháp luật về chế định thừa kế như: Những vấn đề chung
của quan hệ thừa kế, thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc...
- Nghiên cứu thực tiễn thực hiện chế định thừa kế trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh,
từ đó chỉ ra những tồn tại, bất cấp trong quy định về chế định này.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế định thừa kế trong
luật dân sự Việt Nam.

3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận nghiên cứu những quy định của pháp luật về thừa
kế nói chung trong pháp luật Việt Nam. Qua đó, chúng ta so sánh, đối chiếu với những
quy định pháp luật trước khi Bộ luật dân sự được ban hành để làm nổi bật tính hiện đại

NHÓM 10

6


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam

của những quy định về thừa kế và thực tiễn áp dụng chúng trong quá trình thực thi pháp
luật.

4. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận được kết cấu
thành hai chương cụ thể như sau:

Chương 1: Khái quát chung về thừa kế theo pháp luật.
Chương 2: Thực trạng áp dụng quy định về thừa kế theo pháp luật.

NHÓM 10

7


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam

CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
1.1.

Khái niệm thừa kế

Thừa kế được hiểu là dịch chuyển tài sản của người đã chết sang người còn sống, tài
sản để lại gọi là tài sản thừa kế
Có 2 dạng thừa kế:
-

Thừa kế theo di chúc: là việc chuyển dịch tài sản của người chết sang người sống
theo ý của họ (người chết) khi còn sống ( Theo BLDS 2015).

-

Thừa kế theo pháp luật: là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế
do pháp luật quy định.
• Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha, mẹ, cha mẹ ni, con, con ni
của người chết.

• Hàng thừa kế thứ 2 gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông
nội, bà nội, ơng ngoại, bà ngoại.
• Hàng thừa kế thứ 3: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cơ ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà
người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người cùng hàng thừa kế được hưởng tài sản thừa kế như nhau.

1.2.

Khái niệm thừa kế theo pháp luật

Điều 649 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định: Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo
hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn
sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

NHÓM 10

8


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
Cá nhân có quyền sở hữu với tài sản của mình, sau khi chết, số tài sản còn lại được chia
đều cho những người thừa kế. Người được thừa kế theo pháp luật là những người có quan
hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và nuôi dưỡng.
Những người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào mức
độ năng lực hành vi. Mọi người bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế của người chết,

thực hiện nghĩa vụ mà người chết chưa thực hiện trong phạm vi di sản nhận.

1.3.

Điều kiện chia thừa kế theo pháp luật

Theo quy định tại Điều 612 BLDS 2015: Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá trị và quyền tài sản; tài sản bao gồm động sản và bất động
sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản sẽ hình thành trong tương
lai. Di sản còn được quy định bao gồm cả các quyền tài sản như: quyền đòi bồi thường
thiệt hại, quyền đòi nợ, quyền thừa kế giá trị, quyền sử dụng nhà thuê của nhà nước. Bên
cạnh đó, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ của người chết. Do vậy, trong trường hợp
người có tài sản để lại cịn có cả nghĩa vụ về tài sản thì phần nghĩa vụ này sẽ được thanh
toán bằng tài sản của người chết. Phàn còn lại sẽ được xác định là di sản thừa kế và được
chia theo di chúc hay quy định của pháp luật. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo đúng thỏa
thuận của những người thừa kế. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di
sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người
thừa kế là cá nhân.
Chế định thừa kế theo Bộ luật dân sự 2015 gồm có hai trường hợp: thừa kế theo di chúc và
thừa kế theo pháp luật.
-

Thừa kế theo di chúc:
Theo Điều 624 Bộ luật dân sự 2015, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm
chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Việc phân chia di sản như thế
nào sẽ được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc.

NHĨM 10


9


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
Mặc dù việc phân chia di sản thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc nhưng
cũng có những trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc bao gồm:
Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao
động. Họ vẫn sẽ được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa
kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật hay khi mà họ không được
người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần
ba suất đó.
Từ quy định trên có thể thấy rằng, đối với trường hợp con chưa thành niên, con
thành niên mà không có khả năng lao động; cha, mẹ, vợ, chồng thì dù người lập di
chúc khơng để lại di sản cho họ thì họ vẫn được hưởng phần di sản theo pháp luật
quy định. Quy định này là để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
-

Thừa kế theo pháp luật:
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế
do pháp luật quy định.
Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong các trường hợp như sau: không có di
chúc; di chúc không hợp pháp; những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc
chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế
theo di chúc khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; những người được chỉ
định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối
nhận di sản.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản

sau: phần di sản không được định đoạt ở trong di chúc; phần di sản có liên quan đến phần

của di chúc mà không có hiệu lực pháp luật; phần di sản có liên quan đến người được thừa
kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản hay chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng
di sản theo di chúc, nhưng khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

NHÓM 10 10


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
Để tiến hàng chia thừa kế cần xác định hàng thừa kế theo pháp luật như sau:


Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con ni của người chết;



Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội,
ông ngoại, bà ngoại;



Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là
cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng
thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu khơng cịn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết hay

không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

1.4.

Hàng và diện thừa kế

1.4.1.

Hàng thừa kế

Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định Người thừa kế theo pháp luật, theo
đó, những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
Hàng thừa kế thứ nhất
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết.
Người thừa kế là vợ (chồng)
Cơ sở để vợ, chồng được thừa kế tài sản của nhau là quan hệ vợ chồng. Quan hệ vợ
chồng được xác lập thông qua việc kết hôn. Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (Luật
HNGĐ) quy định về đăng ký kết hơn như sau:

NHÓM 10 11


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
-

Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
theo quy định của Luật HNGĐ và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được
đăng ký theo quy định này thì khơng có giá trị pháp lý.


-

Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn.

Điều 655 BLDS quy định về Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung;
vợ, chồng đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác như sau:
-

Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hơn nhân cịn tồn tại mà sau đó một
người chết thì người cịn sống vẫn được thừa kế di sản.

-

Trường hợp vợ chồng xin li hôn mà chưa được tịa án cho li hơn bằng bản án hoặc
quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người cịn sống vẫn
được thừa kế di sản.

-

Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau
đó đã kết hơn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

-

Trong thực tế xảy ra những trường hợp vợ, chồng có mâu thuẫn, không muốn li hôn
mà muốn sống riêng nên chia tài sản chung. Sau đó một người chết, về mặt pháp lí
thì họ vẫn là vợ chồng, do đó người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã
chết.

-


Khi người chồng hoặc vợ chết thì người vợ hoặc người chồng là người thừa kế hàng
thứ nhất. Nếu họ khơng khước từ thừa kế thì đương nhiên có quyền sở hữu đối với
phần tài sản mình được thừa kế.

-

Trong thực tế, do các điều kiện khách quan mà pháp luật nước ta cịn thừa nhận hơn
nhân thực tế của người chết.

-

Tuyên bố mất tích và tuyên bố chết theo quy định của pháp luật

Người thừa kế là cha, mẹ, con
Cha, mẹ là người thừa kế hàng thứ nhất của con đẻ và con đẻ là người thừa kế hàng thứ
nhất của cha, mẹ đẻ mình. Khái niệm con đẻ bao gồm cả con trong giá thú và ngoài giá
thú, cho nên con ngoài giá thú cũng là người thừa kế hàng thứ nhất của cha mẹ mình.

NHĨM 10 12


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
-

Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế
tài sản theo quy định về thừa kế thế vị và theo quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha
nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.

-


Về phía gia đình cha ni, mẹ ni, con nuôi chỉ có quan hệ thừa kế với cha nuôi,
mẹ nuôi mà không có quan hệ thừa kế với cha mẹ và con đẻ của người nuôi con
nuôi. Cha mẹ đẻ của người nuôi con nuôi cũng không được thừa kế của người con
nuôi đó.

-

Trường hợp cha nuôi, mẹ ni kết hơn với người khác thì người con ni không
đương nhiên trở thành con nuôi của người đó cho nên họ không phải là người thừa
kế của nhau theo pháp luật.

-

Người đã làm con nuôi người khác vẫn có quan hệ thừa kế với cha, mẹ đẻ, ông nội,
ông ngoại, bà nội, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, bác, cơ, dì, chú, cậu ruột
như người khơng làm con nuoi của người khác.

-

Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha
con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế thế vị và thừa kế
theo quy định về Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ
đẻ tại Điều 653 BLDS.

Hàng thừa kế thứ hai
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ơng ngoại,
bà ngoại.
-


Ơng nội, bà nội, ơng ngoại, bà ngoại là những người thừa kế hàng thứ hai của cháu
nội, cháu ngoại. Ngược lại, pháp luật dự liệu các trường hợp người chết khơng cịn
các con hoặc có con nhưng con không có quyền thừa kế, từ chối nhận di sản thì cháu
sẽ được thừa kế của ông, bà.

-

Anh ruột, chị ruột, em ruột là người thừa kế hàng thứ hai của nhau. Anh ruột, chị
ruột, em ruột là anh chị em cùng mẹ hoặc cùng cha. Một người mẹ có bao nhiêu con

NHÓM 10 13


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
đẻ thì bấy nhiêu người con đó là anh, chị, em ruột của nhau, không phụ thuộc vào
việc các người con cùng cha hay khác cha, là con trong giá thú hay ngoài giá thú.
-

Con riêng của vợ và con riêng của chồng không phải là anh chị em ruột của nhau

-

Con nuôi của một người không đương nhiên trở thành anh, chị, em của con đẻ người
đó. Do đó, con nuôi và con đẻ của một người không phải là người thừa kế hàng thứ
hai của nhau vì họ khơng phải là anh, chị, em ruột.

-

Người làm con nuôi của người khác vẫn là người thừa kế hàng thứ hai của anh chị

em ruột của mình. Người có anh, chị, em ruột làm con nuôi của người khác vẫn là
người thừa kế hàng thứ hai của người đã làm con nuôi của người khác đó.

Hàng thừa kế thứ ba
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột,
cơ ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
-

Cụ nội của một người là người sinh ra ông nội hoặc bà nội của người đó. Cụ ngoại
của một người là người sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại của người đó.

-

Trường hợp cụ nội, cụ ngoại chết không có người thừa kế là con và cháu hoặc có
người thừa kế nhưng họ đều từ chối nhận di sản hoặc khơng có quyền hưởng di sản
thì chắt sẽ được hưởng di sản của cụ.

Những người là bác ruột, chú ruột, cơ tuột, cậu ruột, dì ruột được hiểu như sau:
-

Bác ruột là anh ruột hoặc chị ruột của cha đẻ hoặc mẹ đẻ của cháu. Chú ruột, cô
ruột là em ruột của cha đẻ của cháu. Cậu ruột, dì ruột là em ruột của mẹ đẻ của cháu.

-

Trường hợp người chết là bác ruột, chú ruột, cô tuột, cậu ruột, dì ruột mà khơng có
người thừa kế hàng thứ nhất và thứ hai hoặc có nhưng họ đều không nhận di sản
hay không có quyền nhận di sản thì cháu ruột sẽ được hưởng di sản. Ngược lại, nếu
cháu ruột chết mà không có người thừa kế hàng thứ nhất và thứ hai hoặc có nhưng

họ không nhận di sản hay khơng có quyền nhận di sản thì bác ruột, chú ruột, cơ tuột,
cậu ruột, dì ruột của người chết được hưởng di sản.

NHÓM 10 14


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam

1.4.2.

Diện thừa kế

Định nghĩa
Diện những người thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản thừa kế của
người chết theo quy định của pháp luật. Diện những người thừa kế được xác định dựa trên
3 mối quan hệ với người để lại di sản: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng.
-

Quan hệ hôn nhân xuất phát từ việc kết hôn (giữa vợ và chồng).

-

Quan hệ huyết thống là quan hệ do sự kiện sinh ra cùng một gốc “ông tổ” (như giữa
cụ và ông, bà; giữa ông bà và cha mẹ; giữa cha mẹ đẻ với con; giữa anh chị em cùng
cha mẹ, cùng mẹ khác cha, cùng cha khác mẹ).

-

Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ dựa trên cơ sị ni con nuối, được pháp luật thừa

nhận giữa cha, mẹ nuổi và con nuôi.

Diện những người thừa kế được xếp thành ba hàng thừa kế. Thừa kế được phân chia theo
nguyên tắc sau: Di sản thừa kế chỉ được chia cho một hàng thừa kế theo thứ tự ưu tiên : 1,
2, 3. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau; những người ở
hàng thừa kế sau chỉ được hưởng nếu khơng cịn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không
có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

1.5.

Thừa kế theo thế vị

Theo nguyên tắc chung, người thừa kế là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Tuy nhiên pháp luật thừa kế nước ta còn quy định trường hợp khi con của người để lại di
sản chết trước người để lại di sản thì cháu của người đó được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống.
Nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà
cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống. Những trường hợp này gọi là thừa kế thế

NHÓM 10 15


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
vị. Ngoài ra, pháp luật còn quy định trường hợp đặc biệt: cha, mẹ chết cùng thời điểm với
ơng hoặc bà thì cháu thay thế vị trí của cha hoặc mẹ nhận di sản của ông, bà (Điều 652 Bộ
luật dân sự năm 2015).
Vậy, thừa kế thế vị là việc các con (cháu, chắt) được thay vào vị trí của bố hoặc mẹ
(ơng, bà) để hưởng di sản của ông bà (hoặc cụ) trong trường hợp bố hoặc mẹ (ông hoặc bà)
chết trước hoặc chết cùng ông, bà (hoặc cụ). Những người thừa kế thế vị được hưởng phần
di sản mà bố, mẹ mình (hoặc ơng bà) đáng lẽ được hưởng nếu cịn sống, được chia đều di

sản với những người thừa kế khác.
Cháu phải sống vào thời điểm ông, bà chết là người thừa kế thế vị của ông, bà. Chắt
cũng phải sống vào thời điểm cụ chết là người thừa kế thế vị tài sản của cụ.
Điều 653 Bộ luật dân sự quy định về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ
nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ:
“Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản
theo quỵ định tại Điều 651 và 652 của Bộ luật này.”
Theo quy định tại khoản 3 Điều 68 Luật hôn nhân và gia tình năm 2014 thì:
“Giữa con ni và cha ni, mẹ ni có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được
quy định tại Luật này, Luật nuôi con nuôi, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan”.
Luật ni con ni năm 2010 quy định về hệ quả của việc nuôi con nuôi tại khoản
1 Điều 24:
“1. Kể từ ngày giao nhận con ni, giữa cha mẹ ni và con ni có đầy đù các quyền,
nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con ni và các thành viên khác của gia đình cha mẹ
ni cũng có các quyền, nghĩa vụ đổi với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân
và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Theo quy định tại Điều 78 Lt hơn nhân và gia (tình về quyền, nghĩa vụ của cha
nuôi, mẹ nuôi và con nuôi:
“1. Cha ni, mẹ ni, con ni có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định
trong Luật này kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật
ni con ni”.

NHĨM 10 16


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
Căn cứ vào các quy định tại các điều 104, 106, 113, 114 Luật hơn nhân và gia đình
năm 2014 thì con ni không có mối quan hệ về các quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc
chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng nhau đối với những người thân thích thuộc gia đình của
bố, mẹ nuôi như, bố mẹ của cha, mẹ nuôi, anh, chị, em ruột của cha mẹ nuôi, chú, bác, cơ,

dì, cậu ruột của cha mẹ ni. Hay nói cách khác người con nuôi không thể là cháu ruột của
những người này, vì vậy người con ni khơng thể là người thừa kế của những người như
trên. Tuy nhiên người làm con nuôi người khác vẫn có quan hệ với gia đình cha mẹ đẻ, cho
nên là người thừa kế theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của những người thân thích.

NHĨM 10 17


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO
PHÁP LUẬT

2.1.

Phân tích vụ việc tranh chấp về thừa kế

2.1.1. Chồng mất, “hai người vợ” tranh giành tài sản thừa kế
Tình huống: Ơng Đ và bà T là vợ chồng có đăng ký kết hôn ngày 26/5/1967 tại Ủy
ban nhân dân xã M huyện N tỉnh B, có một con chung là chị H. Sau ngày miền Nam giải
phóng, ông Đ chuyển công tác vào tỉnh G còn mẹ con bà T vẫn ở lại tỉnh B. Ngày
07/10/1992, ông Đ nhận chuyển nhượng 500m2 đất tại xã X huyện Y tỉnh G để cất nhà.
Ngày 20/10/1994, ông Đ làm thủ tục đăng ký kết hôn với bà C và chung sống với bà C.
Năm 2001, ông Đ có lập di chúc cho bà C hưởng toàn bộ tài sản gồm nhà cửa, đồ dùng
trong gia đình. Năm 2003, ơng Đ chết thì vợ chồng chị H đã vào ở tại căn nhà này cùng bà
C, sau đó xảy ra tranh chấp khối di sản nói trên. Bà C yêu cầu được hưởng thừa kế theo di
chúc ông Đ để lại. Chị H cho rằng, bà C lấy ông Đ là bất hợp pháp nên chị không đồng ý
yêu cầu hưởng thừa kế của bà C. Bà T có ý kiến rằng, căn nhà nói trên là do ông Đ tạo lập
khi đang trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp với bà nên đây là tài sản chung của bà và ông

Đ, do đó, bà khơng nhất trí theo u cầu của bà C. Bà T yêu cầu Tòa án giải quyết theo
pháp luật để bà cùng chị H được hưởng thừa kế của ông T.
Phân tích: Bà T là vợ hợp pháp của ông Đ, xác định quan hệ hôn nhân giữa bà C và
ông Đ là trái pháp luật do khi lấy bà C, ông Đ đã có vợ hợp pháp và chưa ly hơn. Tuy căn
nhà trên diện tích 500m2 đất tại xã X huyện Y tỉnh G được ông Đ tạo lập trong thời kỳ hôn
nhân với bà T vẫn tồn tại, nhưng giữa ông Đ và bà T có kinh tế riêng và ông Đ đứng tên
riêng đối với nhà đất trên, hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án, bà T thừa nhận căn
nhà là do ông Đ tạo lập và là tài sản riêng của ông Đ và thực tế thì ơng Đ đã chuyển vào
tỉnh G công tác từ năm 1975, đến năm 1992, ông Đ mới nhận chuyển nhượng mảnh đất nói
trên để xây nhà, còn bà T và chị H vẫn ở tỉnh B, do đó, có cơ sở xác định căn nhà trên diện

NHÓM 10 18


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
tích 500m2 đất tọa lạc tại xã X huyện Y tỉnh G là tài sản riêng của ơng Đ. Vì vậy, ơng Đ có
quyền lập di chúc cho bà C thừa kế. Xác định di chúc của ông Đ lập ngày 27/02/2001 do
ông Đ viết có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã X huyện Y tỉnh G là di chúc hợp pháp.
Từ đó, Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà C, tuyên: Bà C được hưởng thừa kế theo di chúc
ngày 27/02/2001 của ông Đ gồm các tài sản và nhà đất tọa lạc tại xã X huyện Y tỉnh G đã
được ghi nhận tại biên bản xác minh đo đạc ngày 26/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Y.
Bác yêu cầu phản tố của chị H và bà T kiện bà C tranh chấp chia tài sản thừa kế theo pháp
luật đối với căn nhà và đất nói trên. Có thể thấy, trong bản án, Tòa án đã áp dụng đúng quy
định của Bộ luật Dân sự về chia thừa kế theo di chúc. Theo đó, di chúc là sự thể hiện ý chí
của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết (Điều 624 Bộ luật
Dân sự năm 2015, trước đây là Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 2005). Như vậy, khi cá nhân
chết có để lại di chúc và di chúc đó đảm bảo các điều kiện có hiệu lực theo quy định của
Bộ luật Dân sự thì di chúc phát sinh hiệu lực khi người lập di chúc chết và người được chỉ
định là người thừa kế theo di chúc đủ điều kiện sẽ được hưởng di sản theo di chúc đó. Pháp
luật nước ta không giới hạn quan hệ giữa người lập di chúc và người thừa kế theo di chúc,

do đó, cá nhân có quyền lập di chúc để lại di sản cho bất kỳ ai, không phân biệt người đó
có quan hệ thân thích hay khơng. Vì vậy, trong trường hợp này, Tòa án xác định bà C
không phải là vợ hợp pháp của ông Đ nhưng do bà C là người được chỉ định hưởng thừa
kế theo di chúc của ơng Đ nên Tịa án quyết định cho bà C được hưởng di sản của ông Đ
để lại theo di chúc là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Bởi vì ơng Đ có quyền
lập di chúc cho bất kỳ người nào hưởng di sản, không phụ thuộc việc bà C có là vợ hợp
pháp hay không vẫn được thừa kế theo di chúc. Hơn nữa, Tịa án đã xác định ơng Đ và bà
T mặc dù cịn tồn tại quan hệ hơn nhân nhưng đã không sống chung từ năm 1975 và có
kinh tế độc lập, do đó, ông Đ có toàn quyền định đoạt khối tài sản nói trên theo di chúc.
Việc quyết định như của Tòa án là hoàn toàn thuyết phục và phù hợp với quy định của Bộ
luật Dân sự, pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, Tòa án đã bác bỏ quyền hưởng thừa kế của
bà T vì xác định tài sản ơng Đ định đoạt trong di chúc là tài sản riêng của ông Đ nên không
liên quan đến bà T, để cho bà C được hưởng toàn bộ di sản của ông Đ là có sự thiếu sót

NHÓM 10 19


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
trong việc áp dụng pháp luật, chưa thuyết phục và ảnh hưởng đến quyền lợi của bà T. Bà
T là vợ hợp pháp của ơng Đ (theo xác định của Tịa án), theo quy định tại Điều 644 Bộ luật
Dân sự năm 2015 (trước đây là Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005) thì bà T thuộc diện
thừa kế khơng phụ thuộc vào nội dung di chúc, cho nên phải được hưởng một kỷ phần thừa
kế ít nhất bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo
pháp luật trong trường hợp người lập di chúc không cho hưởng.
2.1.2. Di sản thừa kế của cụ K và M để lại
Tình huống: Căn cứ Điều 612 BLDS thì tổng giá trị di sản thừa kế hai cụ để lại là 12.682,5
m2 quyền sử dụng đất, trong đó 1 thửa đất có diện tích là 1.315,5m2 và phần đất ruộng diện
tích 11.367m2.
Nhận thấy cụ K chết vào năm 2004 và cụ M chết vào năm 1980, cả hai cụ chết đều không
để lại di chúc.

Do vậy, di sản thừa kế của hai cụ sẽ được chia theo pháp luật theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 650 BLDS 2015. Theo đó căn cứ tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015
thì những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm có 4 đồng thừa kế là A, B, C, D mỗi
người sẽ hưởng suất ngang nhau theo quy định tại khoản 2 Điều 651 BLDS 2015. Cụ thể,
A, B, C, D mỗi người sẽ hưởng là 3.170,625 m2.
Phân tích:
a. Quan điểm thứ nhất
Tại quan điểm thứ nhất, Tòa án đã căn cứ vào khoản 1 Điều 5 BLTTDS 2015 quy
định: “Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của
đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó” để từ đó, Tòa án
chỉ chia thừa kế đối với phần diện tích đất 1.315,5m2 mà khơng giải quyết đối với diện tích
đất 11.367m2. Toà án cho rằng khơng đương sự nào có yêu cầu đối với diện tích đất
11.367m2 nên khơng có cơ sở để xem xét diện tích này là di sản thừa kế để giải quyết trong
vụ án.

NHÓM 10 20


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
Tác giả không đồng tình với quan điểm giải quyết này của Tịa án, bởi lẽ:
Thứ nhất, căn cứ tại khoản 2 Điều 5 BLTTDS 2015 thì có ghi nhận như sau: “Trong q
trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình
hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không
trái đạo đức xã hội.”
Với sự ghi nhận trên có nghĩa là đương sự chứ không phải ai khác có quyền tự định đoạt
số phận pháp lý của vụ việc dân sự. Đương sự có quyền dừng vụ kiện, rút yêu cầu, thay
đổi yêu cầu, bổ sung yêu cầu, hòa giải với nhau, nếu như họ hoàn toàn tự nguyện, không
vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.
Xét thấy, trong trường hợp trên, tại Biên bản hòa giải ngày 09/1/2018, nguyên đơn và bị
đơn có nêu nội dung về phần đất diện tích 11.367m2 do cụ K đứng tên, các anh em đã họp

thỏa thuận để ông C đứng tên.
Như vậy, mặc dù trong đơn khởi kiện tranh chấp ông B yêu cầu ông A chia thừa kế cho
ông B diện tích đất 285m2 trong tổng số diện tích đất 1.315,5m2 và yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông A mà không đề cập đến diện tích đất ruộng
11.367m2 nhưng trong q trình giải quyết các đương sự đã đề cập đến diện tích này, do
đó, Tòa án cần phải xem xét để giải quyết để đảm bảo quyền lợi của các đương sự và từ đó
mới có cơ sở chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các bên.
Thứ hai, chúng ta cần phải xác định vấn đề tranh chấp ở đây là tranh chấp thừa kế tài sản
theo khoản 5 Điều 26 BLTTDS 2015.
Đồng thời, theo quy định tại Điều 612 BLDS 2015 có quy định về di sản như sau: “Di sản
bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với
người khác”.
Với quy định nêu trên, nếu xác định đây là tranh chấp thừa kế tài sản, thì nguyên tắc đầu
tiên phải xác định di sản thừa kế của người chết để lại là bao nhiêu? Và bao gồm những
loại tài sản nào?

NHÓM 10 21


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
Vì cả cụ M và K chết vào hai thời điểm khác nhau mà trước đó cũng chưa có bất kỳ sự
phân chia di sản thừa kế nào, do đó, khối tài sản của các cụ M và K để lại được xác định là
12.682,5 m2 quyền sử dụng đất và đây cũng chính là di sản thừa kế mà hai cụ để lại cho 4
người con của mình là A, B, C, D vì các cụ khơng đều khơng để lại di chúc.
Do đó, việc Tòa án chỉ xác định di sản thừa kế là diện tích 1.315,5m2 theo căn cứ sự tranh
chấp ở phần diện tích này là khơng phù hợp. Bởi lẽ, Tòa án cần phải xác định tổng giá trị
di sản thừa kế để lại của cụ M và cụ K trước và sau đó tiến hành phân chia di sản thừa kế
theo đúng quy định pháp luật, nếu các bên có thỏa thuận hoàn toàn tự nguyện sau khi xác
định thì Tịa án mới cơng nhận những thỏa thuận đó.
Việc xác định, di sản thừa kế tranh chấp chỉ là diện tích 1.315,5m2 đã vi phạm nghiêm

trọng trong nguyên tắc xác định di sản thừa kế mà BLDS 2015 quy định, từ đó đã ảnh
hưởng đến quyền lợi của các đương sự tại Điều 614 BLDS 2015: “Kể từ thời điểm mở thừa
kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.” Mặc khác,
việc xác định như quan điểm trên sẽ vơ tình hiểu sai về di sản thừa kế mà cụ K và cụ M để
lại trên thực tế.
b. Quan điểm thứ hai
Quan điểm thứ hai thì cho rằng việc phân chia diện tích đất 1.315,5m2 là có điều kiện và
liên quan đến diện tích đất 11.367m2. Từ đó, xác định Tòa án đã xác định thiếu di sản thừa
kế.
Như đã lập luận và phân tích phía trên, tác giả cho rằng Tòa án đã xác định di sản thừa kế
giải quyết khơng chính xác, cần phải xác định đầy đủ và rõ ràng và di sản hai cụ để lại trên
thực tế để lại là tổng bao nhiêu? Hay chỉ để lại là 1.315,5m2? Vì thế, tác giả cũng đồng tình
với quan điểm 2 trong trường hợp này Tịa án đã xác định di sản thừa kế thiếu 11.367m2.
Từ các vấn đề phân tích trên, quan điểm của tác giả cho rằng khi giải quyết tranh chấp di
sản thừa kế nếu có yêu cầu trong một phần di sản, thì Tịa án cần phải xác định tổng giá trị
khối di sản thừa kế để lại cụ thể, sau đó tiến hành phân chia. Và cuối cùng dựa vào sự thỏa

NHÓM 10 22


Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
thuận tự nguyện của các bên Tòa án có thể xem xét và đưa ra quyết định để đảm bảo quyền
lợi ích chung của các đương sự, cũng như đảm bảo đúng tinh thần của pháp luật.

2.2.

Quan điểm cá nhân về việc áp dụng quy định của luật

Cần làm rõ hơn nữa các quy định sau để luật thừa kế đi vào thực tiễn:
-


Về người thừa kế, pháp luật dân sự ghi nhận quyền thừa kế của cá nhân, tổ chức.
Điều 638 BLDS quy định:

1. Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra
và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
chết.
2. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức, thì phải là cơ quan,
tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.
Thứ nhất: Hiểu như thế nào về” người còn sống vào thời điểm mở thừa kế “, đặc
biệt trong trường hợp những người thừa kế chết mà không xác định được ai chết
trước, ai chết sau. Thực tế chỉ ra rằng, có nhiều trường hợp những người có quyền
thừa kế di sản của nhau chết cách nhau một khoảng thời gian rất ngắn, vụ việc tranh
chấp thừa kế một thời gian dài sau đó mới phát sinh, do vậy việc xác minh thời điểm
chết của từng người rất khó khăn, tạo phức tạp trong quá trình giải quyết vụ án.
Thứ hai: Điều luật cho phép người đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế nhưng
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế vẫn có quyền thừa kế tài sản. Vấn đề
ở chỗ: trường hợp nào được coi là sinh ra và cịn sống? Đứa trẻ ra đời có thể chỉ
sống được 30 phút, 01 giờ, 7giờ, 24 giờ, 7 ngày… sau đó mới chết. Việc xác định
khi nào đứa trẻ đó được coi là người thừa kế có ảnh hưởng rất lớn đối với kỷ phần
thừa kế của những người khác. Điều luật chưa có quy định cụ thể về vấn đề này nên
có nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng.
Thứ ba: Quyền thừa kế của các tổ chức (pháp nhân) đã sáp nhập, hợp nhất, chia,
tách, giải thể, phá sản. Theo quy định của pháp luật dân sự, các pháp nhân cùng loại
có thể bị chấm dứt khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách. Nhưng trong những trường
hợp này, pháp nhân không chấm dứt tuyệt đối mà quyền và nghĩa vụ của nó được

NHĨM 10 23



Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
chuyển giao cho các pháp nhân khác. Vậy những pháp nhân này có được thừa kế
không?
Mặt khác, theo quy định của pháp luật dân sự, pháp nhân đã bị giải thể, bị tuyên bố
phá sản có thể được thành lập lại theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Vậy, trường hợp pháp nhân đó bị giải thể, bị tuyên bố phá sản trước thời
điểm mở thừa kế, nhưng sau thời điểm mở thừa kế lại được thành lập lại thì pháp
nhân đó có được quyền thừa kế di sản không?
-

Về việc từ chối nhận tài sản thừa kế (di sản):
Điều 645 BLDS quy định:

1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh
việc

thực

hiện

nghĩa

vụ

tài

sản

của


mình

đối

với

người

khác.

2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những
người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, Công chứng nhà nước
hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận
di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế “.
Điều luật dành cho người thừa kế một quyền năng quan trọng: quyền từ chối nhận di sản.
Về hình thức, việc từ chối phải lập thành văn bản, phải thông báo cho một số chủ thể có
liên quan. Có một số vấn đề nổi lên như sau:
Thứ nhất: trong trường hợp người thừa kế vì những lý do khác nhau (không nhằm
trốn tránh thực hiện nghĩa vụ tài sản) mà từ chối nhận di sản, nhưng việc từ chối
này chỉ bằng lời nói. Khi phân chia di sản thừa kế, họ nhất quyết không nhận phần
thừa kế của mình thì giải quyết như thế nào?
Thứ hai: điều luật quy định người từ chối nhận di sản phải thông báo cho một số
người, cơ quan có liên quan. Vậy trong trường hợp người từ chối nhận di sản đã
thông báo nhưng không thông báo đủ cho những người này (Ví dụ: chỉ thơng báo
cho những người thừa kế, không thông báo cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nơi mở thừa kế…), sau đó người này lại thay đổi ý kiến, yêu cầu được nhận di

NHÓM 10 24



Thừa Kế Trong Luật Dân Sự Việt Nam
sản thừa kế thì có cho phép hay khơng? BLDS cũng chưa quy định cụ thể vấn đề
này.
Thứ ba: điều luật quy định thời hạn từ chối là 6 tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Như
vậy, theo tinh thần của điều luật, nếu người thừa kế từ chối nhận di sản sau thời hạn
trên thì khơng chấp nhận việc từ chối đó. Vậy hậu quả pháp lý đối với phần thừa kế
của người đó được giải quyết như thế nào trong trường hợp họ nhất quyết từ chối
nhận di sản? Thêm nữa, trường hợp người thừa kế từ chối nhận di sản đúng thời hạn
trên, nhưng sau đó họ lại thay đổi ý kiến, xin nhận di sản thì giải quyết như thế nào,
chấp nhận hay không chấp nhận cho họ nhận di sản? Đây là những vấn đề hết sức
bức thiết cần phải sửa đổi, bổ sung trong BLDS.

2.3.

Đề xuất giải pháp

Tuyên truyền, phổ biến cho mọi tầng lớp nhân dân biết về những ưu điểm của sự phân
chia, thoả thuận về tài sản giữa bố mẹ và con cái.
Việc bố mẹ để lại di chúc hoặc tặng cho tài sản các con cái khi đang cịn sống có ý
nghĩa rất quan trọng. Điều này nhằm ngăn chặn, phịng ngừa tình trạng những người thân
trong gia đình tranh giành, tranh chấp với nhau dẫn đến những điều đáng tiếc có thể xảy
ra.
Cần phải có sự rõ ràng, rạch ròi trong việc phân chia, thừa kế, tặng cho, chuyển đổi tài
sản. Di chúc cần tuân thủ đầy đủ các điều kiện để trở thành một di chúc hợp pháp được
công nhận của pháp luật.
Và cuối cùng, những người cịn sống hãy tơn trọng những di nguyện cuối cùng của
người đã mất, đừng vì đồng tiền mà đánh mất tình thân.

NHĨM 10 25



×