Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Thực trạng tăng trưởng kinh tế của việt nam. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng của việt nam và đề xuất giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.66 KB, 7 trang )

Đề tài : Thực trạng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam , phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến tăng trưởng của Việt Nam và đề xuất giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam

Mục lục:
I.
II.

III.
IV.

Cơ sở lí luận
Thực trạng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
1. Những thành tựu đạt được
2. Những tồn tại và hạn chế
Những nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Nội dung chính:
I.

Cơ sở lí luận
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình
quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Sự tăng trưởng kinh tế
phụ thuộc vào hai quá trình: sự tích luỹ tài sản (như vốn, lao động, và đất đai) và
đầu tư những tài sản này một cách có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư là trọng
tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách
chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài
nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.




Công thức tính tăng trưởng kinh tế:

Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ
tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai
đoạn. Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ
cần so sánh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa
quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh
tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%)
trong đó Y là quy mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô
kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng
GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay


GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông
thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
II.

Thực trạng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
a. Những thành tựu qua các năm
Năm 2001, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,89%, mở đầu cho một giai đoạn tăng
trưởng khá cao và ổn định.
Năm 2002, đã tập trung chỉ đạo phát huy mạnh mẽ nội lực, tháo gỡ từng khó
khăn trong sản xuất, kinh doanh… Nhờ đó, tình hình kinh tế, xã hội đã có những
chuyển biến tích cực qua từng tháng, nhất là trong những tháng cuối năm, kết
quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 7,08%.
Năm 2003, nền kinh tế nước ta lại phải đương đầu với những khó khăn, thách

thức hết sức gay gắt do hạn hán kéo dài và do dịch bệnh SARS, nhưng nhờ sự
chỉ đạo
nhanh nhạy, kịp thời, sự nỗ lực rất cao của các ngành, các cấp, nền kinh tế nước
ta đã đạt những kết quả rất khích lệ; tăng trưởng kinh tế đạt 7,34%.
Năm 2004, tình hình kinh tế cũng có nhiều biến động phức tạp, nhưng Chính phủ
và các Bộ, ngành, địa phương đã triển khai nhiều biện pháp có hiệu quả với
phương châm chỉ đạo là phấn đấu tháng sau, quý sau tốt hơn tháng trước, quý
trước. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2004 đạt7,79%.
Năm 2005, là năm đánh dấu bước chuyển biến mới và toàn diện trong toàn nền
kinh tế; các chủ trương, chính sách lớn đề ra tại Đại hội IX và tại các hội nghị
Trung ương khóa IX thực sự đi vào cuộc sống, tạo ra động lực mới, đồng thời
kích thích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh.Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,43%.
Giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân 6,32%/năm.
Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu 2008 và khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 20112015 của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của
khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh.


Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Chất lượng
tăng trưởng có mặt được cải thiện, trình độ công nghệ sản xuất có bước được
nâng lên. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp TFP vào tăng trưởng nếu ở
giai đoạn 2001-2005 chỉ đạt 21,4%, giai đoạn 2006-2010 đạt 17,2% thì trong giai
đoạn 2011-2015 đã đạt 28,94%. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được
kiểm soát.
Kim ngạch xuất khẩu thường xuyên tăng với tốc độ hai con số, giai đoạn 20112015 tăng đến 18%/năm.
b. Thành tựu qua các khu vực kinh tế.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục phát triển, trong đó nông nghiệp

tăng 4,1%; lâm nghiệp tăng 1,4%; thủy sản tăng 12,1%. Giá trị tăng lên của
ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 3,8%/năm (mục tiêu đề ra là
4,3%).
Khu vực công nghiệp và xây dựng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn
định. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 16%/năm, cao hơn 1,9% so với
mục tiêu đề ra, đã góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế,
trog đó kinh tế nhà nước tăng 11,5%; kinh tế ngoài nhà nước tăng 21,9%; kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,8%. Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp
tăng bình quân 10,1%/năm. Năng lực sản xuất của nhiều ngành, nhiều sản phẩm
tăng lên đáng kể, nhiều sản phẩm đã cạnh tranh được trên thị trường trong và
ngoài nước, đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế và đóng góp lớn
cho xuất khẩu. Mục tiêu sản xuất nhiều sản phẩm được hoàn thành trước thời
hạn. Một số ngành công nghiệp đã phát triên nhanh như: khai thác và chế biến
khí thiên nhiên, đóng tàu, chế tạo thiết bị đồng bộ, sản xuất, lấp ráp ô tô, xe máy,
chế biến đồ gỗ… Tỷ lệ sử dụng nguyên vật liệu, phụ tùng, thiết bị chế tạo trong
nước ngày càng tăng. Cơ cấu sản phẩm và công nghệ chuyển dịch theo hướng
tiến bộ, gắn sản xuất với thị trường. Quá trình nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới
ngày càng được chú trọng và có xu hướng phát triển. Tỷ lệ công nghiệp chế tác,
công nghiệp cơ khí chế tạo và tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm công nghiệp tăng lên.
Khu vực dịch vụ có bước dịch chuyển tịch cực, theo hướng đáp ứng tốt hơn các
nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và phụ vụ đời sống nhân dân.Giá trị sản xuất
của các ngành dịch vụ tăng 7,6%/năm, cao hơn kế hoạch đề ra. Giá trị tăng thêm
của ngành dịch vụ tăng gần7,0%/năm (kế hoạch 6,2%).
c. Những tồn tại và hạn chế.


Tuy đã đạt được nhiều thành tựu lớn, rất quan trọng nhưng bên cạnh đó thì tăng
trưởng kinh tế nước ta chưa thực sự vững chắc. Đóng góp vào tăng trưởng chủ
yếu vẫn là yếu tố vốn và lao động, yếu tố khoa học và công nghệ tuy có tăng lên,
nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ.

Trong nông nghiệp, các phương thức canh tác tiên tiến chậm được áp dụng trên
diện rộng, giống cây trồng, vật nuôi tốt còn thiếu, chưa đáp ứng đủ và kịp thời
cho sản xuất. Năng suất nhiều cây trồng, vật nuôi và chất lượng sản phẩm nông
nghiệp còn thấp, còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu. Chuyển dịch cơ cấu
sản xuất nông nghiệp và nông thôn còn chậm, nhiều nơi còn mang tính tự phát,
chưa bền vững. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn chưa
được triển khai một cách có bài bản. Nhiều sản phẩm chủ yếu của nông, lâm
nghiệp và thủy sản chưa xây dựng được thương hiệu nên hiệu quả nên hiệu quả
kinh tế còn thấp. Mặc dù giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản tăng cao và vượt
mục tiêu đề ra nhưng chi phí sản xuất cao, nên giá trị tăng thêm của toàn ngành
không đạt mục tiêu, chỉ tăng 3,8% so với mục tiêu đề ra là 4,3%.
Trong công nghiệp,tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhưng hiệu quả chung của toàn
ngành chưa được cải thiện, sản phẩm, thương hiệu có sức cạnh tranh tiến bộ
chậm; giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 16%/năm. Tỷ trọng công nghiệp
chế tác trong công nghiệp khoảng 60-70%, nhưng giá trị gia tăng thấp; đặc biệt
là các ngành công nghiệp gia công như: may mặc, da giày, chế biến gỗ xuất
khẩu… có giá trị sản xuất cao, nhưng phần lớn chi phí lại là vật tư, nguyên liệu
nhập khẩu từ nước ngoài, giá trị tăng thêm rất thấp.
Công nghiệp hiện đại trong các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp, tốc độ
đổi mới công nghệ chậm. Đến nay, nước ta sử dụng phổ biến công nghệ trung
bình; số ngành, lĩnh vực đạt trình độ công nghệ hiện đại còn ít sản xuất vật liệu,
đặc biệt là vật liệu mới để tạo tiền đề cho các ngành công nghiệp khác phát triển
chưa hình thành.
Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp chế biến với phát triển
các vùng nguyên liệu nông sản. Sự phát triển của công nghiệp ở nông thôn, vùng
sâu, vùng xa chưa được chú trọng đúng mức; việc thực hiện công nghiệp hóa
nông nghiệp và nông thôn còn lúng túng, chưa có hướng đi cụ thể, chưa đóng
góp nhiều cho công cuộc xóa đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn.
Trong dịch vụ, tốc độ tăng trưởng tuy đat vượt mức kế hoạch, nhưng còn thấp so

với khả năng phát triển; tỷ trọng của ngành dịch vụ trong tổng sản phẩm trong


nước còn ở mức thấp; chất lượng và hiệu quả các hoạt động dịch vụ chưa cao;
nhiều loại phí dịch vụ còn bất hợp lý và cao hơn nhiều nước trong khu vực. Năng
lực tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp còn yếu. Các ngành dịch vụ có giá
trị tăng thêm cao như dịch vụ tài chính, tiền tệ… gần đây có chuyển biến, nhưng
nhìn chung phát triển chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Riêng dịch vụ giao dịch bất
đông sản thị trường thiếu ổn định. Việc tạo môi trường, khuyến khích, huy động
vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ngành du lịch chưa đáp ứng nhu cầu và khả
năng phát triển ngành
III.

Những nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
1. nguồn vốn
Nguồn vốn có được từ sự tích luỹ từ giai đoạn trước đó, huy động từ nhiều
nguồn vốn khác nhau từ trong và ngoài nước, từ các tổ chức nhà nước hay tư
nhân. Nguồn vốn này sẽ dùng vào việc đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất máy
móc thiết bị, cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ để tạo ra sản phẩm có giá trị
cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, vốn ( vốn vật chất, máy móc thiết bị,vv…) còn
được tạo ra bằng cách tiết kiệm và đầu tư. Các hộ gia đình, các doanh nghiệp và
chính phủ tiết kiệm thu nhập của họ từ vay mượn của người khác để đầu tư. Đầu
tư là bộ phận lớn và hay thay đổi. Đo đó những thay đổi trong đầu tư có thể tác
động lớn đến tổng cầu do đó tác động đến sản lượng và việc làm. Khi đầu tư tăng
lên thì nhu cầu chi tiêu mua sắm thiết bị cũng tăng. Khi đó có nhiều nhà máy,
phương tiện vận tải được đưa vào sản xuất sẽ làm tăng khả năng sản xuất của
nền kinh tế và từ đó thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
3. lao động
Lao động là một nguồn lực lượng sản xuất chính, là yếu tố khác tạo đầu ra cho
nền kinh tế, vì lao động cần thiết để làm việc với nguồn vốn đã có sẵn và không

thể thiếu được trong các hoạt động kinh tế và lao động còn là một bộ phận của
dân số, là người được hưởng thụ lợi ích của quá trình phát triển. Mọi quốc gia
điều nhấn mạnh đến mục tiêu phát triển vì con người và coi đó là động lực của
sự phát triển. Vì vậy, lao động có vai trò là động lực của sự phát triển, là động
lực quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Vốn và lao động sẽ làm việc với nhau
để tạo ra một mức GDP bình quân đầu người, được gọi là trạng thái ổn định.
4. Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố tự nhiên mà con người có thể khai thác,
chế biến và sử dụng để tạo ra các sản phẩm vật chất. Theo công dụng bảo gồm:
các nguồn năng lượng, khoáng sản, rừng, đất đai, nguồn nước, biển và thuỷ sản,
khí hậu. Theo khả năng tái sinh bao gồm: tài nguyên có khả năng tái sinh thông
qua hoạt động của con người ( nguồn tài nguyên rừng và các loại động thực vật),
tài nguyên có khả năng tái sinh vô tận trong thiên nhiên ( nguồn năng lượng mặt
trời, thuỷ triều, sức gió, thuỷ năng sông ngòi và các nguồn nước, không khí) và
tài nguyên không có khả năng tái sinh bao gồm những tài nguyên có quy mô


không đổi như đất đai và những tài nguyên khi sử dụng hết dần như các loại
khoáng sản, dầu khí. Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát
triển góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong giai đoạn đầu của các nước
đang phát triển thường quan tâm đến việc xuất khẩu sản phẩm thô, đó là những
sản phẩm có được từ nguồn tài nguyên chưa qua sơ chế hoặc ở dạng sơ chế. Bên
cạnh đó, tài nguyên thiên còn là yếu tố quan trọng tạo điều khiện thuận lợi cho
quá trình tích luỹ vốn và phát triển ổn định. Việc tích luỹ vốn đối với hầu hết các
nước đòi hỏi phải trải qua một quá trình lâu dài liên quan chặt chẽ với tiêu dùng
trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên với những nước đã được
thiên nhiên ưu đãi nguồn tài nguyên lớn, đa dạng có thể rút ngắn quá trình tích
luỹ vốn bằng cách khai thác các sản phẩm thô để bán hoặc để đa dạng hoá nền
kinh tế tạo nguồn vốn tích luỹ ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại

hoá đất nước. Sự giàu có về tài nguyên, là cơ sở để phát triển nhiều ngành kinh
tế. Vì vậy những nước có nguồn tài nguyên phong phú có thể tăng trưởng trong
những điều kiện ổn định
5. Năng suất nhân tố tổng hợp

TFP phản ánh tiến bộ của khoa học , kỹ thuật và công nghệ của giáo dục và đào
tạo, qua đó gia tăng đầu ra không chỉ phụ thuộc vào tăng thêm của số lượng đầu
vào của các nhân tố vô hình như đổi mới công nghệ, hợp lí hóa sản xuất, cải tiến
quản lí, nâng cao trình độ lao động của công nhân… mà còn vào cả chất lượng
của các yếu tố đầu vào là vốn và lao động.
Nếu vốn và lao động được xem như là các yếu tố vật chất có thể lượng hóa được
mức độ tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế và là những nhân tố ảnh hưởng
theo chiều rộng thì TFP được coi là yếu tố chất lượng của tăng trưởng hay tăng
trưởng theo chiều sâu. Việc tăng TFP gắn liền với áp dụng các tiến bộ kỹ thuật,
đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý và nâng cao kỹ năng trình độ
tay nghề của người lao động…Trong đó, khoa học – công nghệ là một trong
những yếu tố quan trọng thúc đẩy kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là các
quốc gia phát triển. việc sử dụng những tiến bộ công nghệ làm tăng năng suất lao
động, tăng sản lượng sản xuất, tăng giá trị sản phẩm, rút ngắn thời gian tạo sản
phẩm, nâng cao chất lượng và tạo giá trị gia tăng cao hơn.
6. Thể chế

Thể chế được hiểu là các ràng buộc do con người tạo ra nhằm quy định cấu trúc
tương tác giữa người với người. Các thể chế chính trị - xã hội được thừa nhận có
tác động đến quá trình phát triển đất nước, đặc biệt thông qua việc tạo dựng hành
lang pháp lý và môi trường đầu tư . Đây cũng là một nhân tố quan trọng trong
quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó thể hiện như một lực lượng đại
diện ý chí của một cộng đồng, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính
trị , xã hội theo lợi ích của cộng đồng đặt ra. Thể chế được thông qua các mục
tiêu dự kiến, các nguyên tắc quản lý kinh tế - xã hội, các chế độ, chính sách, các

công cụ và bộ máy tổ chức thực hiện.


Một thể chế chính trị xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện đổi mới liên
tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc
độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Ngược lại một thể chế không phù hợp
sẽ gây ra những cản trở, mất ổn định thậm chí đi đến phá vỡ những quan hệ kinh
tế cơ bản, làm cho nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm
trọng hoặc gây ra xung đột chính trị, xã hội.Thể chế tạo điều kiện thúc đẩy sự
tăng trưởng, tức là tạo điều kiện thuận lợi để hướng các hoạt động theo hướng có
lợi và hạn chế các mặt bất lợi.
IV.

Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam
-Thứ nhất: tập trung kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân.
-Thứ hai: đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết số 19 của Chính phủ về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh và Nghị quyết về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Thực
hiện nghiêm Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi); kiên quyết xóa bỏ các
giấy phép về điều kiện kinh doanh (giấy phép con) không cần thiết.
-Thứ ba: đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tập trung phát triển công nghiệp chế
biến chế tạo, sản xuất hàng xuất khẩu. Thúc đẩy tiêu dùng trong nước; mở rộng
mạng lưới tiêu thụ và phân phối sản phẩm, giảm bớt các khâu trung gian. Nâng
cao chất lượng dịch vụ, chú trọng phát triển du lịch.
-Thứ tư: thực hiện các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Chủ
động khai thác các cơ hội, thuận lợi, hạn chế những tác động bất lợi từ các Hiệp
định thương mại tự do, nhất là Hiệp định TPP, Việt Nam - EU,...
-Thứ năm: đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân các nguồn vốn đầu tư; khuyến

khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội
dưới các hình thức hợp tác công tư (PPP) phù hợp.
-Thứ sáu: tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm về an toàn
thực phẩm, sử dụng các chất cấm trong trồng trọt, chăn nuôi. Đồng thời, hỗ trợ
và khuyến khích đầu tư vùng sản xuất và cung ứng thực phẩm sạch cho người
tiêu dùng.
-Đặc biệt: tiếp tục tập trung triển khai các giải pháp cấp bách khắc phục hạn hán,
xâm nhập mặn theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; khẩn trương làm rõ
nguyên nhân, khắc phục hậu quả tình trạng hải sản chết bất thường, sự cố môi
trường tại một số tỉnh ven biển miền Trung; hướng dẫn, hỗ trợ người dân trong
việc phát triển nuôi trồng, khai thác, tiêu thụ hải sản; hỗ trợ gạo, ổn định đời
sống cho ngư dân.



×