1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: “Giải pháp nâng cao khả năng
cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu
dùng tại Sở Giao Dịch Ngân hàng đầu tư
và phát triển Việt Nam.”
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHO VAY TIÊU
DÙNG VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG CHO VAY TIÊU
DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 7
1.1. Tổng quan về NHTM 7
1.1.1. Khái niệm về NHTM 7
1.1.2 .Chức năng của NHTM 8
1.1.3. Các dịch vụ của ngân hàng 11
1.2. Cho vay tiêu dùng của NHTM 17
1.2.1.Khái niệm và phân loại cho vay 17
1.2.2. Cho vay tiêu dùng của NHTM 20
1.3. Khả năng cạnh tranh trong cho vay tiêu dùng của Ngân hàng
thương mại 25
1.3.1. Khái niệm 25
1.3.2. Sự cần thiết năng cao khả năng cạnh tranh trong cho vay tiêu
dùng của Ngân hàng thương mại 27
1.3.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh trong cho vay
tiêu dùng của Ngân hàng thương mại 27
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh trong cho vay
tiêu dùng của ngân hàng thương mại 30
1.4.1. Nhân tố khách quan 30
1.4.2. Nhân tố chủ quan 33
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHO VAY TIÊU DÙNG VÀ KHẢ
NĂNG CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU
3
DÙNG TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT
TRIỂN VIỆT NAM 36
2.1. Khái quát về Sở Giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam 36
2.1.1. Lịch sử hình thành 36
2.1.2. Cơ cấu tổ chức 38
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Sở Giao Dịch Ngân hàng
đầu tư và phát triển Việt Nam 39
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Sở Giao Dịch Ngân hàng
đầu tư và phát triển Việt Nam 41
2.2. Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Sở Giao Dịch Ngân hàng đầu tư
và phát triển Việt Nam 45
2.2.1. Các hình thức cho vay tiêu dùng áp dụng tại Sở Giao Dịch
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 45
2.2.2. Qui trình tín dụng cho vay tiêu dùng áp dụng tại Sở Giao Dịch
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 55
2.2.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh trong cho vay
tiêu dùng tại Sở Giao Dịch NH ĐT & PTVN và 1 số ngân hàng khác 60
2.3. Đánh giá hoạt động cho vay tiêu dùng và khả năng cạnh tranh
trong cho vay tiêu dùng tại Sở Giao Dịch Ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam 66
2.3.1. Kết quả đạt được 66
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 67
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI SỞ
GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT
NAM 75
4
3.1. Định hướng phát triển cho vay tiêu dùng tại Sở Giao Dịch 75
3.1.1. Xu hướng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng trong thời
gian tới 75
3.1.2. Định hướng phát triển chung tại Sở giao dịch 79
3.1.3. Định hướng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng 80
3.2. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động cho vay
tiêu dùng tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 81
3.2.1. Hoàn thiện chính sách tín dụng 81
3.2.2. Đa dạng hóa sản phẩm cho vay tiêu dùng 82
3.2.3. Nâng cao hiệu quả marketing ngân hàng 83
3.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 85
3.2.5. Đổi mới công nghệ ngân hàng 87
3.2.6. Mở rộng quan hệ với các đơn vị hỗ trợ hoạt động ngân hàng. . 88
3.4. Kiến nghị 89
3.4.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và cơ qua Nhà nước và Bộ ngành 89
3.4.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 92
KẾT LUẬN 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
5
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng là
xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của nền kinh tế thế giới. Chính điều
này tạo ra sự phát triển và mở rộng không ngừng của các ngân hàng hiện nay.
Đây cũng là một thách thức lớn khi các ngân hàng tham gia thị trường phải
đối đầu. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt này, buộc các ngân hàng phải tìm
hướng đi mới, đưa ra dịch vụ, sản phẩm mới thu hút khách hàng.
Cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO, các Hiệp định thương mại giữa
Việt Nam và các nước được ký kết; nền kinh tế nước ta tăng trưởng liên tục
với tốc độ cao; đời sống của đại bộ phận dân cư ngày càng được cải thiện.
Điều đó tạo tiền đề thuận lợi cho các dịch vụ ngân hàng bán lẻ phát triển.
Chính vì vậy hiện nay các ngân hàng không ngừng cạnh tranh mở rộng, nâng
cao chất lượng dịch vụ ngân hàng bán lẻ như về dịch vụ thẻ ATM, cho vay
tiêu dùng…
Khi nền kinh tế nước ta đang phát triển, đời sống người dân được nâng
cao, nhu cầu sử dụng và mua sắm các vật dụng đắt tiền rất lớn, nhưng họ
không thể chi trả cho tất cả nhu cầu mua sắm cùng lúc được. Vì vậy, nếu
người tiêu dùng có thể vay được tiền từ ngân hàng, thì họ có thể thỏa mãn nhu
cầu của họ ngay trong hiện tại, về phía ngân hàng thì có thể thu lợi từ hoạt
động cho vay. Không chỉ có vậy, với việc cho vay này, ngân hàng gián tiếp
thúc đẩy nền kinh tế phát triển do sự tăng tiêu dùng hàng hóa, thúc đẩy hoạt
động sản xuất kinh doanh cả về số lượng và chủng loại sản phẩm, góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của toàn xã hội.
Xuất phát từ thực tiễn đó, cùng với kiến thức thực tiễn thu được trong
quá trình thực tập tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam,
6
em chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt
động cho vay tiêu dùng tại Sở Giao Dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam”, làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Ngoài phần mở bài, kết luận, chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương I: Những lý luận cơ bản về cho vay tiêu dùng và khả năng cạnh
tranh trong cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng cho vay tiêu dùng và khả năng cạnh tranh trong
hoạt động cho vay tiêu dùng tại Sở Giao Dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam.
Chương III: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động
cho vay tiêu dùng tại Sở Giao Dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Trong thời gian thực tập vừa qua tại Sở Giao Dịch Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam, đề tài đã được hoàn thành với sự giúp đỡ của cán bộ,
nhân viên Phòng tín dụng và Phòng tổ chức cán bộ và đặc biệt là sự hướng
dẫn tận tình của Thạc sĩ Lê Hương Lan.
7
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHO VAY TIÊU
DÙNG VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG CHO VAY
TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về NHTM
1.1.1. Khái niệm về NHTM
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng đóng vai trò
vô cùng to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Lịch sử ra đời của các ngân hàng
gắn liền với lịch sử phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá và lịch sử phát
triển của tiền tệ. Hoạt động ngân hàng ban đầu có nguồn gốc từ hoạt động lưu
giữ hộ, thanh toán chi trả hộ, tiếp đến là sự phát triiển của hoạt động cho vay
và các hoạt động khác.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền
kinh tế. Các cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội, doanh nghiệp và các cơ quan
nhà nước đều có thể gửi vào món tiền mà mình đang sở hữu. Cho nên có thể
nói, ngân hàng như là người thủ quỹ của xã hội. Bên cạnh sự an toàn khi gửi
tiền vào ngân hàng thì các chủ thể còn đựoc nhận nguồn thu nhập từ lãi suất
tiền gửi.
Ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng cho hàng triệu hộ tiêu dùng để
phục vụ các nhu cầu trong cuộc sống như du học, mua nhà đất, ôtô Đối với
các doanh nghiệp, ngân hàng là một tổ chức tài chính quan trọng cung cấp tín
dụng cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp cần thêm vốn để tiến hành sản xuất
kinh doanh, mua sắm trang thiết bị
8
Bên cạnh các hoạt động cơ bản đó, ngân hàng còn đứng ra cung cấp một
loạt các dịch vụ sản phẩm để đáp ứng những nhu cầu đang phát sinh theo xu
hướng phát triển của xã hội như bảo lãnh, tư vấn tài chính
Ngoài ra, NHTM dưới sự chỉ đạo của ngân hàng trung ương còn tiến
hành thực hiện các chính sách tiền tệ nhằm góp phần điều tiết sự tăng trưởng
kinh tế và đảm bảo sự ổn định của xã hội.
Tóm lại, Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh
tế. Ngân hàng có thể đuợc định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò
mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang
không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm cả các
công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương
hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân
hàng. Ngược lại ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh bằng
cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ.
Cho nên cách tiếp cận thận trọng nhất chính là xem xét ngân hàng trên
phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp, theo PGS.TS. Phan
Thị Thu Hà, Đại học Kinh tế quốc dân: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
1.1.2 .Chức năng của NHTM
1.1.2.1. Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu,
tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những
9
người cần bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu,
tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch
vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân
hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả
hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài
chính của hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại
với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ
tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Quan hệ tín
dụng trực tiếp (quan hệ tài chính trực tiếp) đã có từ rất lâu và tồn tại cho đến
ngày nay.
Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị giới hạn do sự không phù hợp về quy mô,
thời gian, không gian… Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là
điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hóa, trung gian tài
chính có thể làm giảm chi phí giao dịch. Như vậy trung gian tài chính đã tăng
thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm, đồng thời
giảm phí tổn cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư) từ đó mà
khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và
đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế
hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng
các kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
1.1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán
Tiền – vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán.
Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo
phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy
nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương
10
tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các
ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số
lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân
hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất
trữ; nó trở thành tiền giấy.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng
nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể
chi trả để có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu.
1.1.2.3. Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá rị
hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm
chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như
thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng
lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng
cần. Các ngân hàng còn thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng
Trung ương hoặc qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua
ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được
mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được
các nhà quản lí tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được
chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các
ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới.
Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của
thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thah toán quan
trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
11
1.1.3. Các dịch vụ của ngân hàng
Ngân hàng là một doanh cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch
vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu
quả.
1.1.3.1. Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi
ngoại tệ - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền
khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán
ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao
dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải yêu cầu phải có
trình độ chuyên môn cao.
1.1.3.2. Nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm
mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các
khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch
vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn.
Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gủi, các ngân
hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn
sàng hi sinh nhu cầu tiêu dung trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm
thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn
các ngân hàng Huy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết
kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất
gấp đôi hay gấp ba lần lãi suất tiết kiệm.
12
1.1.3.3. Cho vay
+ Cho vay thương mại
Ngay ở thời kì đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế
là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu
cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu
thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua).
Giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản suất kinh doanh.
+ Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cục cho vay đối
với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi
ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh
tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng
như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín
dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng
nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
+ Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng càng
trở lên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là
trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói
chung là cao song lãi lại lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào
đất.
1.1.3.4. Bảo quản vật có giá
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho
khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ
biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất
13
cứ lúc nào cho giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như
tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân
hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy
thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng
để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó là hình thức đầu tiên của giấy
bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng
phải trả phí bảo quản.
1.1.3.5. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng
không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ.
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt,
tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết
giấy chi trả cho khách (còn được gọi là séc), khách hàng mang giấy đến ngân
hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an
toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời
gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Khi ngân hàng mở
chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được mở rộng phạm vi, càng tạo nhiều
tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các doanh nhân gửi
tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy, một dịch vụ
mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch, cho
phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ.
Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những
bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. Cùng với sự phát triển
của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như Uỷ
nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
14
1.1.3.6. Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp
và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với
nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệp trong quản lí ngân quỹ và khả năng
trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ
quản lí ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một
công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào
các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần
tiền mặt để thanh toán.
1.1.3.7. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở
thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường
là cấp bách trong khi thu không đủ. Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận
với các khoản cho vay của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân
không muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một
số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của những ngân hàng lớn. Khi ngân
hàng Trung ương thành lập, Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp
can thiệp để có các khoản tín dụng lớn. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp
phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy
phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy
phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó
các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải
mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà
ngân hàng huy động được; hoặc phải cho vay với điều kiện ưu đãi cho các
doanh nghiệp của Chính phủ.
15
1.1.3.8. Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do
ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín
trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo
lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho
khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng
khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác…
1.1.3.9. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn,
nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị. Cuối
hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê
mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa
chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hựp đồng thuê mua, trong
đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường
phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho
thuê. Do vậy, cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay,
và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
1.1.3.10. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có nhiều chuyên gia
về quản lí tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng
quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển
sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu
tư… Thậm chí, các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di
chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản,
bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một
16
chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lí
tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
1.1.3.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đầu là một trong những lý do chính
khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp
cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà
không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường
hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới
chứng khoán.
1.1.3.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều
đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hành bị chết, bị tàn phế hay
gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
1.1.3.13. Cung cấp các dịch vụ đại lí
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh
hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn)
cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ,
phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài
trợ…
17
1.2. Cho vay tiêu dùng của NHTM
1.2.1.Khái niệm và phân loại cho vay
1.2.1.1.Khái niệm cho vay
Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế như
tiết kiệm, dịch vụ thanh toán, đặc biệt là hoạt động cho vay.
Cho vay là một hoạt động truyền thống và là chức năng kinh tế hàng
đầu của Ngân hàng, giúp Ngân hàng chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Theo QĐ 1627/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của
tổ chức tín dụng đối với khách hàng, cho vay được hiểu như sau: “Cho vay là
một hình thức cấp tín dụng, theo đó, tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử
dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và trong thời gian nhất định
theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
1.2.1.2.Phân loại cho vay
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa
trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay thích hợp và cơ sở
khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao
hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay dựa vào các căn cứ sau
đây:
+ Theo mục đích:
- Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại dịch vụ.
18
- Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất
như phân bón, thuốc trừ sâu…
- Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân
hàng, công ty tài chính…
- Cho vay cá nhân là cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua
sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản vay để trang trải các chi phí thong
thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
+ Theo thời hạn cho vay
Theo căn cứ này cho vay được chia ra làm 3 loại:
- Cho vay ngắn hạn: loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được
sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của doanh nghiệp và các nhu cầu
chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: theo qui định hiện nay của ngân hàng nhà nước
Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm. Cho vay
trung hạn chủ yếu sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới
thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh…
- Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối
đa có thể lên đến 20 – 30 năm. Cho vay dài hạn được cung cấp để đáp ứng các
nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy
mô lớn, xây dựn xí nghiệp mới.
+ Theo tài sản đảm bảo
19
- Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế
chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
Theo phương pháp hoàn trả
Cho vay có thời hạn là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể
theo hợp đồng. Cho vay có thời hạn bao gồm các loại sau:
- Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ ( hay còn gọi là phí trả góp ) là loại
cho vay thanh toán một lần theo thời hạn đã thỏa thuận.
- Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là cho vay trả góp:
Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ.
- Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể, mà
việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay.
- Cho vay không có thời hạn cụ thể: đối với loại cho vay có thời hạn thì
ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả bất cứ lúc nào,
nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này sẽ được thỏa thuận
trong hợp đồng
• Theo cách thức tài trợ
Dựa vào căn cứ này cho vay tín dụng chia làm hai loại:
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu,
đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời gian
thanh toán.
20
1.2.2. Cho vay tiêu dùng của NHTM
1.2.2.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng của NHTM
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là nguồn tài
chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia
đình và xe cộ…Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và du
lịch… cũng có thể được tài trợ bở cho vay tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng không có một định nghĩa chuẩn, nhưng nó có những
đặc điểm sau:
• Khách hàng vay: Chủ yếu là các cá nhân và hộ gia đình có nhu cầu
tiêu dùng tại thời điểm hiện tại nhưng chưa có khả năng thanh toán.
• Mục đích vay: Ngân hàng cho vay tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng cá nhân chứ không phải là nhu cầu kinh doanh.
• Qui mô khoản vay: Mỗi khoản vay thường có qui mô tương đối
nhỏ so với các khoản cho vay kinh doanh. Cho vay bất động sản có thể có giá
trị lớn hơn, nhưng giá trị so sánh vẫn nhỏ hơn các món vay khác tại Ngân
hàng. Nguyên nhân chủ yếu do khách hàng chỉ vay tiêu dùng khi đã có một
lượng vốn tương đối, chỉ vay ngân hàng để bổ sung số tiền còn thiếu (so với
vay kinh doanh, có thể chủ đầu tư vay toàn bộ số tiền cần thiết cho dự án).
Mặt khác, do cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao hơn nên Ngân hàng cũng
thường thận trọng hơn trong việc quyết định số tiền cho vay, căn cứ vào khả
năng trả nợ và tài sản đảm bảo của khách hàng.
• Số lượng các khoản cho vay tiêu dùng lại là rất lớn do đối tượng
của loại hình cho vay này là mọi cá nhân trong xã hội với nhu cầu tiêu dùng
đa dạng. Khi chất lượng cuộc sống và trình độ dân trí được nâng cao, người
dân càng có nhu cầu vay Ngân hàng để cải thiện và nâng cao mức sống. Do
21
đó, nền kinh tế càng phát triển, số lượng các khoản vay tiêu dùng sẽ càng
nhiều.
• Thời hạn vay: Các khoản cho vay tiêu dùng thì thời hạn thường là
ngắn và trung hạn do món vay có giá trị nhỏ và độ rủi ro cao đối với Ngân
hàng. Tuy nhiên, đối với cho vay bất động sản lại thường có thời hạn dài do
người dân phải tích lũy thu nhập một thời gian tương đối mới có thể đủ tiền
trả Ngân hàng.
• Nguồn trả nợ: Nguồn trả nợ chủ yếu của khoản vay tiêu dùng chính
là thu nhập của người đi vay, do đó Ngân hàng thường xem xét mức thu nhập
thường xuyên của khách hàng để quyết định xem có cho vay không. Đây cũng
là một điểm khác biệt so với cho vay kinh doanh -nguồn trả nợ chủ yếu của
món vay này là lợi nhuận khi thực hiện phương án kinh doanh đó.
• Lãi suất. Khi vay tiền, khách hàng thường kém nhạy cảm với lãi
suất mà họ quan tâm tới khoản tiền phải trả hàng tháng, thời gian được giải
ngân và khả năng trả nợ của mình. Nguyên nhân chủ yếu là người tiêu dùng
thường coi vay mượn là công cụ để đạt đươc một cuộc sống thoải mái hơn
chứ không phải là một lựa chọn dùng trong tình trạng khẩn cấp hoặc để tạo ra
lợi nhuận.
• Rủi ro. Các khoản cho vay tiêu dùng thường có độ rủi ro cao. Sau
đây là một số nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này.
o Thông tin tài chính của cá nhân và hộ gia đình thường khó đầy đủ
và rõ ràng như thông tin về doanh nghiệp (công khai thông qua báo cáo tài
chính), dẫn đến rủi ro đạo đức và rủi ro thông tin không cân xứng. Các cá
nhân có thể tìm cách trốn tránh không trả các khoản vay cho dù có khả năng
thanh toán.
o Nguồn trả nợ chủ yếu là từ thu nhập ổn định tại thời điểm hiện tại
của người vay. Do vậy, nếu người vay gặp vấn đề về sức khoẻ, mất việc làm
22
hay gặp các biến cố bất ngờ ảnh hưởng đến thu nhập hàng tháng, ngân hàng
sẽ gặp khó khăn trong thu hồi nợ. Đây là rủi ro khó lường trước, khác với
món vay kinh doanh ta có thể hạn chế được thông qua nâng cao chất lượng
thẩm định dự án.
o Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kì kinh tế. Khi nền
kinh tế mở rộng, người dân lạc quan về tương lai thì họ sẽ vay ngân hàng
nhiều hơn, và khi nền kinh tế suy thoái, tình trạng thất nghiệp tăng thì họ sẽ
hạn chế vay mượn ngân hàng.
• Chi phí: Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục có chi
phí lớn nhất trong danh mục cho vay của Ngân hàng. Do trong cho vay tiêu
dùng số lượng món vay nhiều, khách hàng đông và đa dạng nhưng mỗi khoản
vay số lượng lại nhỏ, ngân hàng phải huy động nhiều nhân lực cho công việc
cho vay, từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, quyết định cho vay,
giải ngân cũng như kiểm soát và thu nợ đối với khách hàng sau khi cho vay.
Mặt khác, Ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn để quản lý các khoản cho
vay tiêu dùng với giá trị nhỏ nhưng số lượng lớn do đối với khách hàng cá
nhân, thông tin về tình hình tài chính thường không công khai minh bạch như
ở các công ty lớn. Tất cả những điều này kiến chi phí tính trên một đơn vị tiền
tệ cho vay cao hơn so với các loại hình cho vay khác.
• Lợi nhuận: Lợi nhuận của cho vay tiêu dùng thường cao do cho vay
tiêu dùng có rủi ro cao, chi phí cao và tâm lý người vay “kém nhạy cảm với
lãi suất”. Các khoản vay tiêu dùng thường được định giá cao, đến mức mà bản
thân lãi suất vay vốn trên thị trường lẫn tỉ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên
đáng kể thì hầu hết các khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi
nhuận.
23
• Tính chu kì: Khác với các khoản vay thương mại, nhu cầu phát
sinh theo chu kì kinh doanh lặp đi lặp lại, trong cho vay tiêu dùng, người vay
thường ít vay nhiều lần.
1.2.2.2. Vai trò hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM
• Đối với ngân hàng
Ngoài hai nhược điểm lớn của cho vay tiêu dùng là rủi ro và chi phí
cao, cho vay tiêu dùng có những lợi ích và vai trò quan trọng để ngân hàng
thúc đẩy cho vay tiêu dùng như:
- Giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy
động các loại tiền gửi cho ngân hàng.
- Tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao
thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
• Đối với người tiêu dùng
Nhờ cho vay tiêu dùng họ hưởng các tiện ích trước khi tích lũy đủ tiền
và đặc biệt quan trọng hơn nó rất cần thiết cho những trường hợp khi cá nhân
có các chi tiêu có tính cấp thiết, cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục
và y tế.
• Đối với nhà sản xuất
Tạo điều kiện để người tiêu dùng có thể mua hàng hoá nhiều hơn và
nhanh hơn là đã giúp nhà sản xuất bán được sản phẩm, quay vòng vốn nhanh
hơn, mở rộng sản xuất, do đó lợi nhuận cũng tăng lên. Đây cũng là nguyên do
khiến càng ngày càng nhiều nhà sản xuất mong muốn hợp tác với Ngân hàng
để mở rộng cho vay tiêu dùng.
• Đối với nền kinh tế
Nếu cho vay tiêu dùng được dùng để tài trợ cho các chi tiêu về hàng
hóa và dịch vụ trong nước thì nó có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, tạo
24
điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều công ăn việc làm cho người
lao động trong xã hội.
Chính vì lợi ích như vậy NHTM một mặt cho vay để tạo nên sự hòa
hợp giữa cung và cầu tiêu dùng, mặt khác lại có thể giải quyết tốt được nhiệm
vụ kích cầu tiêu dùng của nền kinh tế.
1.2.2.3. Các loại cho vay tiêu dùng của NHTM
Việc phân loại cho vay tiêu dùng được dựa trên nhiều tiêu thức khác
nhau:
a. Căn cứ vào mục đích vay
Căn cứ vào mục đích vay, cho vay tiêu dùng được chia ra làm hai loại:
• Cho vay tiêu dùng cư trú: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu
cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ
gia đình.
• Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay tài trợ cho việc
trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải
trí du lịch…
b. Căn cứ vào tiêu thức hoàn trả
Căn cứ vào tiêu thức hoàn trả, cho vay tiêu dùng có thể chia làm ba
loại:
• Cho vay tiêu dùng trả góp: đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong
đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo
những kỳ hạn nhất định trong thời hạn vay. Phương thức này thường được áp
dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng định kỳ của người
đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay.
• Cho vay phi trả góp: theo phương thức này tiền vay được khác hàng
thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản cho
25
vay tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với
thời hạn không dài.
• Cho vay tuần hoàn: là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được
phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời
hạn tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập
kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện vay và trả
nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
c. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ, cho vay tiêu dùng gồm:
• Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình
thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những công
ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa hay dịch vụ cho người tiêu dùng.
• Cho vay trực tiếp: là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ
người này.
1.3. Khả năng cạnh tranh trong cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương
mại
1.3.1. Khái niệm
Cạnh tranh là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá bởi thực chất
nó xuất phát từ quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá. Trong sản xuất hàng
hoá, sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất, sự phân công lao động
xã hội tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh để giành được những điều kiện thuận lợi
hơn như gần nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ, gần thị trường tiêu thụ, giao
thông vận tải tốt, khoa học kỹ thuật phát triển nhằm giảm mức hao phí lao