Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

luận văn: Một số giải pháp xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.69 KB, 45 trang )



1




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI: “Một số giải pháp xóa đói giảm
nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc”















2
MỤC LỤC
Lời mở đầu Trang
Phần I: Mấy vấn đề lý luận về đói nghèo. 3
1. Khái niệm đói nghèo và chuẩn mực đói nghèo 3


2. Sự tác động của đói nghèo tới phát triển kinh tế - xã hội 4
3.Những nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo 5
3.1 Do xa cách 5
3.2. Áp lực về nhân khẩu và lao động 7
3.3 Thiếu nguồn lực 7
3.4 Do những rủi ro, thiên tai, địch hoạ 9
3.5 Do tham nhũng 9
4. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo ở khu vực
miền núi 10
Phần II: Vài nét về tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc
14
1. Tình hình cơ bản ở các tỉnh miền núi phía Bắc có ảnh hưởng tới đói
nghèo 14
2. Khái quát tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc 16
Phần 3: Một số giải pháp xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi
phía Bắc 17
1. Những quan điểm 17
2. Phương hướng 18
3. Một số giải pháp xoá đói giảm nghèo 19
3.1. Tăng trưởng kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững 19
3.2. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xóa đói
giảm nghèo 20
3.3. Công tác qui hoạch, định hướng phát triển 21
3.4. Tạo điều kiện thích hợp đi đôi với giảm thiểu rủi ro và tổn thương
cho các hộ nghèo tự vươn lên xóa đói giảm nghèo 21


3
3.5. Giải pháp thúc đẩy hộ nghèo phát triển sản xuất 24
Kết luận

Phụ lục I 29
Phụ lục II 30
Tài liệu tham khảo


4
LỜI MỞ ĐẦU

Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu,
“bị” quốc tế đánh giá là một trong những nước nghèo nhất thế giới.
Mặc dù những năm cuối của thế kỷ XX, đặc biệt dưới tác động của công
cuộc đổi mới hơn một thập niên trở lại đây, nền kinh tế nước ta đã có những
bước phát triển đáng mừng với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm
tương đối cao (6-7%, đứng thứ hai sau Trung Quốc), đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Nhưng do xuất phát điểm quá thấp,
vốn là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, cộng với điều kiện tự nhiên ít
thuận lợi, thiên tai thường xuyên xảy ra, hơn nữa trong lịch sử phát triển của đất
nước, dân tộc ta luôn phải chống giặc ngoại xâm, đặc biệt là các cường quốc
hùng mạnh như Pháp, Mỹ, đã gây tổn thất rất lớn, kéo sự phát triển của nước ta
lùi lại hàng thế kỷ. Do vậy tới nay, bộ mặt kinh tế-xã hội của nước ta chưa được
mấy sáng sủa, tỷ lệ đói nghèo còn cao (đến 7/1998, theo Tổng cục thống kê, cả
nước còn 17,4% hộ đói nghèo, nhưng theo tính toán của Ngân hàng thế
giới(WB) thì con số đó còn cao hơn nhiều). Mặt khác, đến nay vẫn còn 80%
dân số và trên 70% lực lượng lao động của cả nước sống ở khu vực nông thôn
và như vậy, vấn đề nguồn nhân lực, vật lực, tiềm năng đất đai, điều kiện tự
nhiên nước ta gắn với vùng nông thôn rộng lớn. Tuy nhiên, chúng ta chưa chú
trọng đầu tư phát triển một cách thoả đáng đối với khu vực nông thôn dẫn tới sự
phát triển không đồng đều giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa miền núi
và đồng bằng. Kết quả tất yếu là số hộ đói nghèo tập trung phần lớn ở địa bàn
nông thôn (trên dưới 90%), và con số ấy càng cao hơn đối với địa bàn nông

thôn miền núi, trong đó cao nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc (xem phụ lục 1).
Cái đói cái nghèo phản ánh từ những cái cụ thể nhất là miếng cơm manh
áo. Khi mà những nhu cầu cơ bản của con người chưa được đáp ứng thì họ,
những con người “một nắng hai sương” ấy không thể lo nghĩ về vấn đề lớn


5
những lao hơn, đó là góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ta tươi đẹp hơn,
giàu mạnh hơn. Nói theo khía cạnh khác, muốn đất nước ta phát triển, tăng
trưởng bền vững, vấn đề thứ nhất là xoá đói giảm nghèo. Một chính trị gia đã
nói: “Sự nghèo đói, dối nát, bệnh tật của một quốc gia còn tệ hại hơn cả nỗi
nhục mất chủ quyền”, và trên thế giới này, không ai lại muốn sống trong “sự sỉ
nhục”. Chính vì vậy, nhân dân Việt Nam, những người con cháu Lạc Hồng, đã,
đang và sẽ ngày một quyết tâm hơn phấn đấu xây dựng một đất nước giàu
mạnh, “xã hội chủ nghĩa”, có khả năng sánh vai với các cường quốc năm châu
như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Xoá đói giảm nghèo không những là một chủ trương sâu rộng của Đảng
và nhà nước mà còn là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp, nên nội dung trong
chuyên đề này không thể đề cập được hết những vấn đề đặt ra. Em xin chân
thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô đã giúp đỡ em hoàn thành
chuyên đề này và trên tinh thần thực sự cầu thị, em rất mong nhận được sự đánh
giá, phê bình của các thầy cô.










6
PHẦN I: MẤY VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN ĐÓI NGHÈO
1. Khái niệm đói nghèo và chuẩn mực đói nghèo.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về đói nghèo, kể
cả các tổ chức quốc tế. Ở đây, chỉ xin dẫn một định nghĩa về đói nghèo mà hội
nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương do ESCAP tổ
chức tại Bangkok-Thái Lan tháng 9/1993 đưa ra như sau:
“Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả
mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo
trình độ phát triển kinh tế-xã hội và phong tục tập quán của các địa phương”.
Để hiểu rõ hơn về đói và nghèo có thể phân thành hai khái niệm:
- Đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng hoặc được
hưởng rất ít ỏi những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận
tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội và phong tục tập quán của các dân tộc
ở các địa phương.
- Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được thoả mãn những
nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát
triển kinh tế-xã hội và phong tục tập quán của các địa phương.
Như vậy, ranh giới giữa đói và nghèo là không được hưởng hoặc được
hưởng rất ít ỏi với không được thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người.
Từ khái niệm chung ở trên, liên hệ với thực tiễn Việt Nam có thể hiểu về
đối tượng đói nghèo như sau:
- Hộ đói là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái thất học, ốm
đau không có tiền chữa trị, nhà ở rách nát…. Nếu theo tiêu chí này thì những hộ
có thu nhập bình quân đầu người quy đổi ra gạo dưới 13 kg/tháng được coi là
hộ đói (Bộ Lao động – Thương binh và xã hội). Còn hộ nghèo là hộ thiếu ăn
nhưng không đứt bữa, mặc không lành và không đủ ấm, không có khả năng
phát triển sản xuất… Thu nhập bình quân đầu người quy ra gạo của những hộ



7
này là dưới 25 kg/tháng ở nông thôn, hải đảo; dưới 20 kg/tháng ở nông thôn
đồng bằng và dưới 25 kg/tháng ở thành thị.
Nếu quy ra tiền, thì mức chuẩn nghèo quốc gia hiện nay là:
- Nông thôn miền núi: 80.000 VNĐ/tháng/người.
- Nông thôn đồng bằng: 100.000 VNĐ/tháng/người.
- Thành thị: 150.000 VNĐ/tháng/người.
Ngoài ra, còn có mức chuẩn nghèo do Ngân hàng thế giới(WB) đưa ra và
được xem là chuẩn nghèo quốc tế như sau:
- Nước chậm phát triển:0,5 USD/tháng/người.
- Nước đang phát triển: 1 USD/tháng/người.
- Nước châu Mỹ: 2 USD/tháng/người.
- Nước châu Âu: 4 USD/tháng/người.
- Nước công nghiệp: 14,4 USD/tháng/người.
Theo tiêu chuẩn này, nên xếp Việt Nam vào loại nước chậm phát triển thì
mức chuẩn nghèo quy đổi ra VNĐ là khoảng 230.000VNĐ/tháng/người, cao
hơn 1,5 lần so với chuẩn nghèo thành thị. Còn nếu xếp Việt Nam vào loại các
nước đang phát triển thì mức chuẩn nghèo tương ứng là khoảng
460.000VNĐ/tháng/người, (giả sử tỷ giá là 15.000VND/1USD). Đây là nguyên
nhân chính dẫn tới sự chênh lệch lớn về xác định tỷ lệ hộ nghèo giữa Tổng cục
thống kê và WB.
Xã nghèo là xã có trên 40% tổng số hộ nghèo đói, không có hoặc rất
thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu (theo quy định hiện nay gồm 7 loại công
trình : đường ô tô và đường điện tới trung tâm xã, trường học cấp I, II; trạm y
tế, nước sạch cho dân, chợ xã hoặc liên xã, thủy lợi nhỏ); trình độ dân trí thấp,
tỷ lệ mù chữ cao.


8

Còn vùng ( vệt ) nghèo là những địa bàn tương đối rộng, nằm ở những
khu vực khó khăn, hiểm trở, giao thông không thuận lợi, có tỷ trọng xã nghèo,
hộ nghèo cao.
2. Sự tác động của đói nghèo tới phát triển kinh tế - xã hội :
Đói nghèo là vấn đề có ý kinh tế - xã hội liên quan đến nhiều yếu tố, lĩnh
vực. Khi đề cập tới đói nghèo ai cũng có thể hình dung được những tác động
tiêu cực của nó, trước hết trong từng hộ gia đình. Một gia đình nghèo sẽ tạo ra
những con người yếu kém về mặt thể chất do ăn uống thiếu thốn, dáng người
thì nhỏ bé, suy dinh dưỡng, do vậy ít có khả năng miễn dịch với các bệnh lây
lan, lại không có khả năng tiếp cận hay trả tiền cho các dịch vụ y tế. Những
người nghèo thường bị cô lập với các dịch vụ xã hội cơ bản do không có khả
năng nộp lệ phí, thiếu thông tin, phương tiện đi lại để tìm kiếm việc làm hay để
sống gần trung tâm xã, gần những vùng kinh tế năng động. Rồi không có khả
năng chi trả những khoản tốn kém hay những rủi ro bất thường và làm cho tình
trạng vô quyền càng tồi tệ hơn vì của cải ít ỏi cùng với địa vị thấp, người nghèo
không có tiếng nói. Như vậy với tiềm lực thấp kém và không đáng kể, những hộ
gia đình nghèo sẽ có rất nhiều hạn chế trong sự phát triển. Và nếu nhìn rộng ra
ở những phạm vi, qui mô lớn hơn như xã, huyện, vùng, thậm chí là một quốc
gia thì những tác động hạn chế ấy có khác chăng cũng chỉ là ở độ phóng đại mà
thôi.
Ngoài ra, ta cũng cần phải nhìn nhận đói nghèo dưới góc độ thương mại,
một vùng nghèo chắc chắn sẽ có sức mua ít (cầu thấp), do đó sẽ không kích
thích được sản xuất nói riêng, kinh tế thị trường nói chung phát triển. Mặt khác
cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, nếu không giải quyết thành công nhiệm vụ và
yêu cầu xóa đói giảm nghèo (đặc biệt đối với nông dân, nông thôn) sẽ làm gia
tăng phân hóa giàu nghèo có nguy cơ đẩy tới phân hóa giai cấp với hậu quả là
sự bần cùng hóa, do đó đe dọa sự ổn định chính trị - xã hội, làm chệch định
hướng xã hội chủ nghĩa, không thực hiện được công bằng xã hội.
3.Những nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo:



9
Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến xung quanh việc xác định nguyên nhân
của đói nghèo. Trên thực tế, không có một nguyên nhân biệt lập riêng rẽ, nhất là
khi xét đói nghèo trên diện rộng có tính chất xã hội mà các nguyên nhân thường
đan xen lẫn nhau giữa khách quan với chủ quan, giữa tất yếu với ngẫu nhiên, cơ
bản với tức thời, trực tiếp với gián tiếp. Nói cách khác, sự đói nghèo của một số
gia đình thường không xuất phát từ một nguyên nhân mà từ nhiều nguyên nhân
khác nhau. Nhìn chung chúng đều nằm trong những cụm nguyên nhân chính
sau:
3.1 Do xa cách:
• Về địa lý:
Phần lớn hộ đói nghèo tập trung ở những địa bàn xa xôi, hẻo lánh, rừng
sâu, núi cao. Ở đó hệ thống hạ tầng cơ sở rất yếu kém. Ví dụ, đường ô tô tới
trung tâm xã riêng miền núi phía Bắc có trên 400 xã chưa có, chiếm 2/3 số
xã miền núi trong toàn quốc; còn đối với vùng cao chủ yếu là những con
đường mà chỉ có ngựa thồ và người đi bộ mới đi được. Các chòm xóm, bản,
các hộ ở cách xa nhau trong điều kiện đi lại khó khăn là đặc điểm bắt buộc
của những cư dân sống bằng nương rẫy. Họ thực hiện những hoạt động của
một nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc (chủ yếu là lương thực). Hầu như họ
rất ít đi chợ, mỗi lần đi chợ họ mua dự trữ những mặt hàng thiết yếu như dầu
thắp, muối ăn và sản phẩm thiết yếu khác.
Việc đi lại cách trở, xa các chợ, thị tứ, thị trấn đã làm cho người dân khó
tiếp cận với các dịch vụ công cộng, phúc lợi xã hội như: y tế, giáo dục, văn
hóa, thông tin, tín dụng, các chương trình khuyến nông, khuyến lâm…Vì
vậy, trình độ dân trí thấp, thiếu kiến thức sản xuất lẫn kiến thức về kinh tế,
khả năng tính toán kém dẫn tới làm ăn kém hiệu quả, năng suất thấp, chi tiêu
không có kế hoạch thường gây lãng phí…hậu quả cuối cùng là không thúc
đẩy kinh tế - xã hội trong vùng phát triển.
• Về xã hội



10
Do yếu tố xa cách về mặt địa lý mà người dân không có hoặc thiếu hoặc
chậm thông tin về các mặt hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa ngoài xã hội
kể cả ở địa phương, khu vực quốc gia và quốc tế. Trong khi đó, phong tục
tập quán và những hủ tục lạc hậu đó đây còn khá nghiêm trọng. Do vậy, đã
hình thành nên những con người thiếu năng động, sáng tạo và gắn liền là sự
đánh mất cơ hội, gặp nhiều rủi ro ngoài ý muốn trong sản xuất và đời sống.
• Về ngôn ngữ
Đây là một vấn đề bức xúc trong giải quyết đói nghèo ở các tỉnh miền núi
phía Bắc vì tại đây tập trung khoảng 30 dân tộc thiểu số chiếm trên 50% số
dân trong vùng, với 7 nhóm ngôn ngữ chính. Sự bất đồng về ngôn ngữ đem
lại nhiều thiệt thòi cho đồng bào dân tộc như về giáo dục, nâng cao trình độ
dân trí, khả năng tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội khác. Bộ giáo
dục đào tạo đã có chủ trương mở rộng các trường phổ thông dân tộc nội trú,
bán trú, lớp ghép… nhằm từng bước hòa nhập đời sống xã hội của các đồng
bào dân tộc thiểu số. Các chương trình xóa mù chữ, dạy tiếng Việt để rèn kĩ
năng đọc và viết, nhằm mở rộng sự hiểu biết thông qua các phương tiện sách
báo, thông tin đại chúng, được phát triển ở các vùng dân tộc thiểu số khá tốt
nhưng việc tái mù chữ vẫn xảy ra. Thầy giáo kết thúc lớp xoá mù chưa được
bao lâu thì phần đông học trò tái mù chữ trở lại, họ không thể đọc và viết
được. Vấn đề đặt ra là ở vùng sâu vùng xa họ rất ít có cơ hội tiếp xúc với
người Kinh cũng như các phương tiện văn hoá thông tin để ôn lại, hàng ngày
họ vẫn trao đổi với nhau bằng tiếng dân tộc của mình (một phần họ chưa ý
thức được tầm quan trọng của việc học ngôn ngữ tiếng Việt).
Từ thực trạng đó dẫn tới sự kém hiệu quả trong phổ biến các chủ trương,
chính sách, chương trình dự án mà họ là những đối tượng tác động. Không
những thế, do sự mù chữ, thiếu hiểu biết nên họ dễ bị lợi dụng, dễ phải mua
đắt bán rẻ hay khai thác gỗ trái phép để bán cho thương lái với giá rẻ nhằm

duy trì cuộc sống làm huỷ hoại môi trường…


11
Tóm lại, những cách biệt trên làm cho người dân ở đây có quan hệ với tự
nhiên nhiều hơn là quan hệ với xã hội, gắn với kinh tế tự nhiên nhiều hơn là
gắn với kinh tế hàng hoá. Đó là sự thiệt thòi lớn của cư dân, của nông hộ đói
nghèo những nơi xa cách. Vì vậy cần phải có chính sách hữu hiệu xoá bỏ sự
xa cách trên.
3.2. Áp lực về nhân khẩu và lao động:
Đây là một hạn chế lớn ở hầu hết các vùng nông thôn, trong khi đó tốc độ
tăng tự nhiên của dân số vẫn còn ở mức cao làm cho nguồn lực bình quân đầu
người ngày càng giảm. Do đó việc tranh chấp trong khai thác tài nguyên và
hưởng thụ những thành quả mang lại là một hệ quả tất yếu. Mặt khác với khả
năng tự thân quá yếu kém họ không thể tạo được sức cạnh tranh cao và gặp
nhiều khó khăn trong nỗ lực thoát khỏi đói nghèo.
Sức ép về tăng dân số làm gia tăng việc di dân tự do từ những nơi đất đai
cạn kiệt tới những nơi còn màu mỡ, còn khả năng canh tác dẫn tới phá rừng,
huỷ hoại môi trường, làm tăng diện tích đất trống đồi núi trọc. Cũng cần lưu ý
rằng, diện tích gieo trồng 1 ha vùng núi chỉ bằng 1/2 ha vùng đồng bằng, năng
suất chỉ bằng 1/3 vì đất kém màu mỡ, đất lẫn đá và gốc cây. Vì vậy, bình quân
mỗi hộ phải có từ 2 ha nương rẫy (tức là 2 - 4 héc ta đất rừng) mới đủ lương
thực chi dùng.
Mặt khác, tỉ lệ gia tăng dân số cao nên trẻ em chiếm một tỉ lệ lớn trong
gia đình làm cho nhiều gia đình lâm vào cảnh khó khăn, túng quẫn. Theo thống
kê năm 2001, số người trong độ tuổi lao động bình quân hộ ở Đông Bắc là 2,4;
Tây Bắc là 2,6 trong khi số nhân khẩu bình quân hộ tương ứng là 4,6 và 5,3.
Đối với các hộ nghèo, bình quân nhân khẩu thường cao hơn từ một đến hai
người, nhưng tỉ lệ trẻ em lại lớn. Đây là do trình độ dân trí thấp, nhận thức
không đúng đắn về việc sinh đẻ có kế hoạch, quan niệm lệch lạc (đẻ nhiều con

để có nhiều lao động), tập quán sinh con trai con gái. Do đông con nên phải
chăm sóc nhiều, vất vả, ốm đau, con cái do điều kiện thiếu thốn cũng thường


12
ốm đau bệnh tật, dẫn đến tốn tiền thuốc, thời gian lao động giảm, kết quả sản
xuất thấp, đời sống càng khó khăn hơn.
3.3 Thiếu nguồn lực:
Nguồn lực bao gồm tất cả các khâu thuộc đầu vào để tạo ra nguồn thu
nhập hay đầu ra. Đối với người nông dân có 3 nguồn lực chính yếu sau: đất đai,
vốn, lao động. Muốn người dân thoát khỏi đói nghèo phải cung cấp cho họ
những điều kiện trên tuỳ theo đặc trưng của vùng. Hiện tại, ở vùng núi phía Bắc
những điều kiện này còn rất thiếu.
Đối với người dân miền núi, nhất là vùng cao, điều quan tâm nhất của họ
trong đời sống là cái ăn, có được sự an toàn về lương thực là ưu tiên số một.
Nhìn lại mấy chục năm qua, tình trạng thiếu lương thực luôn là một gánh nặng.
Nguyên nhân chính là thiếu đất canh tác, bình quân đất nông nghiệp trên đầu
người rất thấp. Chất lượng đất kém nên hiệu quả không cao chỉ bằng 1/7 đến
1/5 so với vùng đồng bằng. Hơn nữa có nhiều hộ nghèo do nhiều nguyên nhân
khác nhau chịu nợ sản phẩm của hợp tác xã nên bị rút đất. Thêm vào đó, họ ít
có điều kiện thâm canh, ứng dụng những kĩ thuật tiên tiến, chỉ sử dụng cây, con
truyền thống, kết quả là năng suất, sản lượng thấp. Những hộ nông dân nghèo
thường xuyên đói lương thực và bị đe doạ đứt bữa vào những kì giáp hạt. Do
thiếu đất nên nạn du canh du cư, phá rừng làm nương rẫy là một trong những hệ
quả tiêu cực tất yếu xảy ra.
Có đất đai cần phải có sức lao động. Nhưng nhìn chung, chất lượng lao
động thấp thể hiện ở hai khía cạnh chính là thể trạng yếu (do suy dinh dưỡng ăn
không đủ chất là chính) và kĩ năng lao động kém, thiếu kiến thức canh tác tiên
tiến. Điều này có nguyên nhân từ thiếu đói lương thực, ăn uống thiếu vệ sinh,
nhà ở dột nát, ẩm thấp gây bất lợi cho sức khoẻ, nguồn nước ô nhiễm, phụ nữ

đẻ nhiều, ít tiếp xúc với các dịch vụ y tế, dịch vụ khoa học, tư vấn sản xuất…
Vốn cũng là một nguồn lực không kém phần quan trọng để sản xuất cũng
như tái sản xuất mở rộng nhằm nâng cao thu nhập. Nhưng đại bộ phận người
nghèo ở nông thôn sống bằng nghề nông hiệu quả không cao. Vấn đề tiêu thụ


13
nông sản lại có nhiều khó khăn, “khi được mùa thì mất giá, khi được giá thì mất
mùa” trong khi giá các yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp vẫn tăng cao
làm giảm nguồn thu nhập chính của người nông dân. Cùng với tác động của giá
cánh kéo giữa hàng hoá nông nghiệp và hàng hoá công nghiệp nên đời sống của
người nông dân khó được cải thiện. Những nghịch lý này làm cho khả năng tích
luỹ vốn thấp. Trước thực trạng thiếu vốn của người nông dân, Nhà nước đã có
những chính sách tín dụng ưu đãi nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Có một nghịch
lý là vốn ngân hàng cho người nghèo vay còn nhiều mà các hộ nghèo vẫn phải
đi vay mượn của tư nhân, phải chịu cảnh vay nặng lãi. Xuất phát từ thực tế là
nhu cầu vay thường có tính chất đột xuất (chủ yếu là nhu cầu phi sản xuất) và
không phù hợp với cơ chế vay vốn của ngân hàng. Do vậy, không ít hộ đã phải
bán lúa non để lo lót các khoản chi tiêu bắt buộc. Thực tế nghiệt ngã ấy đã đẩy
họ vào cuộc sống nghèo đói hơn. Còn về vấn đề cho vay vốn sản xuất, ở nhiều
nơi người dân (nhất là người dân nghèo có trình độ dân trí thấp, thiếu hiểu biết)
không dám sử dụng vốn cho vay của Nhà nước vì một lí do đơn giản “sợ không
trả nợ được Nhà nước”.
3.4 Do những rủi ro, thiên tai, địch hoạ:
Đây là nguyên nhân làm cho người dân từ không nghèo trở thành nghèo,
đã nghèo lại càng nghèo. Những rủi ro hay những tai hoạ đột xuất như: lũ lụt,
hạn hán, mất mùa, hoả hoạn, ốm đau… làm cho họ cùng quẫn, không còn khả
năng lao động, tạo ra thu nhập hay xây dựng lại cơ nghiệp ban đầu. Đối với
người nghèo, họ ít có khả năng phòng tránh và khi xảy ra hoàn cảnh của họ
càng thảm hại hơn. Còn đối với người giàu, người khá giả họ có sẵn dự trữ khi

thiếu đói, mất mùa và đầu tư trở lại vào vụ sản xuất mới nhằm gỡ lại sự mất
mát, cuộc sống cũng sớm được ổn định. Còn người nghèo họ chỉ biết trông chờ
vào trợ cấp hoặc nguồn vốn vay. Nhưng nhiều người còn tự ti, suy nghĩ nông
cạn không dám vay vì sợ rủi ro lại đến thì gánh nặng nợ nần chồng chất hơn.
“Cái khó bó cái khôn” là vậy, đã nghèo thì càng dễ bị sự thiếu thốn và rủi ro chi
phối đời sống.


14
3.5 Do tham nhũng:
Tham nhũng tác động gián tiếp một cách tiêu cực đối với tình cảnh của
những nông hộ đói nghèo khiến họ khó vượt qua, thậm chí là tăng thêm đói
nghèo, ảnh hưởng lớn tới kết quả thực hiện các mục tiêu của chương trình quốc
gia xoá đói giảm nghèo. Những kẻ tham nhũng đã dùng chức quyền, lợi thế của
mình để ăn chặn nhiều khoản vốn tài trợ, vốn ngân hàng phục vụ người nghèo,
vốn cho vay ưu đãi với lãi suất thấp hay không lấy lãi, vốn dự án, vốn các
chương trình lồng ghép để xoá đói giảm nghèo.
Vậy chúng ta suy ngẫm gì? Và phải làm gì cho những người “một nắng
hai sương” đương đói nghèo khi đồng vốn chính sách xóa đói giảm nghèo đã và
đang bị một số cán bộ lợi dụng chiếm đoạt?
 Tổng hợp về nguyên nhân đói nghèo của các hộ gia đình, kết quả
của một cuộc điều tra như sau:
- Thiếu vốn: 70 - 80%.
- Đông con: 50 - 60%.
- Thiếu kinh nghiệm: 40 - 50%
- Thiếu ruộng, việc làm: 20 - 30%
- Rủi ro, ốm đau: 10 - 15%
- Thiếu lao động, neo đơn: 6 - 15%
- Lười lao động, chi tiêu lãng phí: 5 - 6%
- Mắc tệ nạn xã hội: 2 - 3%.

Như vậy, theo kết quả điều tra các nguyên nhân thiếu vốn, đông con,
thiếu kinh nghiệm được xét là quan trọng, phổ biến nhất.
4. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo ở khu
vực miền núi:
Xoá đói - giảm nghèo là một trong những chính sách lớn được Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm. Ngay từ khi nước ta mới giành được độc lập, Chủ


15
tịch Hồ Chí Minh đã xác định nghèo đói cũng là một thứ “giặc” như giặc dốt,
giặc ngoại xâm nên đã đưa ra mục tiêu phấn đấu làm sao để nhân dân thoát nạn
bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, đời sống hạnh phúc.
“Làm cho người nghèo thì đủ ăn,
Người đủ ăn thì khá, giàu
Người khá, giàu thì giàu thêm”
Thực hiện tư tưởng đó của Người, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách tạo điều kiện cho người nghèo và xóa đói giảm nghèo đã trở
thành một trong những chương trình mục tiêu quốc gia thực hiện trên phạm vi
cả nước.
Các tỉnh, xã, miền núi, vùng cao, vùng sâu, và vùng xa là nơi có tỉ lệ hộ
nghèo đói cao nhất. Một trong các nguyên tắc đầu tư của Nhà nước về xóa đói
giảm nghèo là tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Chính vì vậy, khu vực
các tỉnh miền núi trong đó có các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc
miền núi và biên giới, vùng sâu, vùng xa được xác định là một trọng tâm của
xóa đói giảm nghèo. Đây cũng là khu vực có rất nhiều khó khăn khi thực hiện
các chính sách xóa đói giảm nghèo nhưng còn có ý nghĩa rất lớn về an ninh,
chính trị và quốc phòng. Chính phủ đã quyết định một chương trình riêng về
xóa đói giảm nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn trong khu vực này là chương
trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc
miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là chương trình 135).

 Các hoạt động của chương trình xóa đói giảm nghèo tại các tỉnh miền
núi:
Ngày 23/7/1998, chính phủ phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia
xóa đói giảm nghèo thời kì 1998 - 2000. Từ đó tới nay có nhiều chính sách
và dự án được thực hiện trong phạm vi cả nước có liên quan, tác động tới
các tỉnh miền núi như:
- Chính sách hỗ trợ về y tế.


16
- Chính sách hỗ trợ về giáo dục.
- Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.
- Chính sách an sinh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu thế.
- Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở.
- Chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Dự án hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở các xã nghèo.
- Dự án tín dụng ưu đãi hộ nghèo.


- Dự án định canh định cư và xây dựng các vùng kinh tế mới.
- Dự án hướng dẫn người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư.
- Dự án đào tạo cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo và cán bộ
các xã nghèo.
- Dự án hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề.
 Một số kết quả đáng ghi nhận ở các tỉnh miền núi:


Khi nói tới đói nghèo, người ta thường nghĩ tới mức thu nhập thấp.
Nhưng thực tế đói nghèo không chỉ đơn giản là mức thu nhập thấp mà còn là sự

thiếu khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, công trình thuỷ lợi. Vì vậy,
trong 5 năm (1996 - 2000) Nhà nước đã chú trọng đầu tư 6500 công trình cơ sở
hạ tầng ở các xã nghèo. Tính tới cuối năm 2000, ở khu vực miền núi đã có trên
90% xã có đường ô tô tới trung tâm xã, trên 90% xã có trường tiểu học, trên
70% có trường trung học cơ sở, 98% xã có trạm xá, 80% xã có công trình thuỷ
lợi nhỏ, 70% xã có tỉ lệ hộ được sử dụng nước sạch trên 50%, 75% xã có nguồn
điện sinh hoạt tới trung tâm xã, 70% xã có chợ hoặc chợ trung tâm cụm xã được
xây dựng (xem thêm phụ lục 2). Ngoài ra còn mua và cấp thẻ BHYT cho người
nghèo, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo; thực hiện miễn giảm học
phí, miễn giảm các khoản đóng góp, cấp sách giáo khoa cho học sinh nghèo.


17
Một trong những khó khăn xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi là
tình trạng du canh du cư. Đến cuối năm 2000, các chương trình đã hỗ trợ đời
sống cho 20.000 hộ đồng bào dân tộc ĐBKK, hỗ trợ định canh định cư cho trên
118.000 hộ và sắp xếp ổn định cuộc sống cho 23.543 hộ di dân tự do.
Cái gốc để xóa đói giảm nghèo chính là phát triển sản xuất, tạo nên việc
làm và tăng thu nhập cho các hộ gia đình. Đối với miền núi, khó khăn nhất
chính là xoá bỏ tập quán canh tác cũ, hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và tổ
chức tốt công tác khuyến nông thông qua các mô hình trình diễn theo phương
thức “cầm tay chỉ việc”. Các dự án khuyến nông, khuyến lâm với vai trò tích
cực của các tổ chức đoàn thể (Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh…)
đã góp phần giúp hộ nghèo làm quen dần với phương thức canh tác mới, sử
dụng giống cây, con mới, tạo điều kiện để họ sử dụng vốn vay ưu đãi có hiệu
quả hơn.
Kết quả tổng hợp của các chính sách dự án là tỉ lệ hộ đói nghèo giảm khá
nhanh trong 5 năm từ 1996 - 2000 trung bình mỗi năm là 2%, hầu hết các tỉnh
miền núi có tỉ lệ hộ nghèo đói giảm bình quân hàng năm cao hơn trung bình cả
nước.

Trên đây là những kết quả lớn thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà
nước trong công cuộc chiến đấu - tấn công đói nghèo. Song, đến nay vẫn còn
nhiều hạn chế, tồn tại, kết quả đạt được còn mong manh chưa bền vững. Theo
thống kê thì chương trình xóa đói giảm nghèo tiến triển chậm, chưa đạt kết quả
mong muốn so với hệ thống chính sách đã có và lượng vốn đã bỏ ra. Chẳng
hạn, chủ trương bình quân đề ra mỗi năm giảm 300.000 hộ đói nghèo nhưng
trong 5 năm qua bình quân mỗi năm mới giảm được 240.000 hộ (đạt 80% so
với chỉ tiêu so với đề ra). Về hệ thống cơ sở hạ tầng tuy đã được cải thiện song
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất nông nghiệp hàng hoá và nâng cao đời
sống nhân dân nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Đường giao thông còn
kém, đặc biệt đi lại khó khăn trong mùa mưa, hệ thống thuỷ lợi phần lớn là
công trình tạm và trên thực tế mới đáp ứng được một phần yêu cầu sản xuất lúa,


18
các cây trồng khác chủ yếu là nhờ nước trời. Số trạm y tế đạt tiêu chuẩn chỉ đạt
46%. Cơ sỏ trường lớp tuy được tăng cường nhưng vẫn nghèo nàn, thiếu…
(một thực trạng đáng lo ngại là nhiều nơi chỉ chạy theo thành tích số lượng các
công trình mà quên mất chỉ tiêu chất lượng của chúng). Và nhin chung, sản xuất
nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp tự túc, manh múm, nhỏ lẻ, phương thức
canh tác lạc hậu, năng suất lao động thấp. Tình trạng phá rừng làm nương rẫy
vẫn xảy ra rất nghiêm trọng, gây tác hại lớn về môi trường sinh thái. Hiện tượng
di dân tự do nội vùng vào các tỉnh Tây Nguyên vẫn chưa được giải quyết triệt
để. Một bộ phận dân cư vùng sâu, vùng xa tiếp tục cuộc sống du canh du cư.


19
PHẦN II: VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH NGHÈO ĐÓI Ở CÁC TỈNH
MIỀN NÚI PHÍA BẮC
1. Tình hình cơ bản ở các tỉnh miền núi phía Bắc có ảnh hưởng tới

đói nghèo:
Miền núi phía Bắc được xác định gồm 11 tỉnh Đông Bắc (Hà Giang,
Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Lào
Cai, Phú Thọ, Bắc Giang, Yên Bái) và 3 tỉnh Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La, Hoà
Bình) với 45 huyện trung du và 99 huyện vùng cao bao trùm trên diện tích
100.964 km
2
, trong đó diện tích miền núi khoảng 89.000 km
2
(chiếm 27% lãnh
thổ quốc gia và 88,15% lãnh thổ vùng). Dân số theo cuộc tổng điều tra dân số
1/4/1999 là 11.053.030 người trong đó trên dưới 5 triệu người là đồng bào của
30 dân tộc thiểu số. Mật độ dân số là 109 người/ km
2
(Đông Bắc: 135 người/
km
2
, Tây Bắc: 62 người/ km
2
; thấp nhất là Lai Châu: 35 người/ km
2
) thấp hơn
nhiều so với mật độ bình quân cả nước (232 người/ km
2
). Dân cư nông thôn
chiếm 83,5 % dân số toàn vùng với 1,8 triệu hộ sản xuất nông, lâm nghiệp và
nuôi trồng thuỷ sản. Quy mô hộ bình quân khoảng 5 nhân khẩu với 2 - 3 lao
động. Đất nông nghiệp bình quân đầu người 1.182 m
2
bằng 96,2% so với toàn

quốc (1.229 m
2
).
Về điều kiện tự nhiên, 65% diện tích vùng có độ cao từ 200 m trở lên,
14% có độ cao khoảng 100 m. Trừ một số ít lưu vực giữa núi và các thung lũng
sông, địa hình phần lớn bị chia cắt bởi độ dốc lớn. Hơn 50% vùng cao có các
sườn dốc trên 20 độ, do đó khó khăn cho việc xây dựng đường sá, đường điện,
các công trình hạ tầng cơ sở khác cũng như việc việc duy tu bảo dưỡng chúng.
Khí hậu khắc nghiệt, nhiệt độ trong ngày thường thay đổi lớn (thường đêm và
sáng sớm trời lạnh đặc biệt đối với những vùng cao) gây ảnh hưởng không nhỏ
tới hoạt đông sản xuất cũng như sinh hoạt của người dân. Mưa nhiều, tập trung
nên thường gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, giao thông và hệ thống thuỷ
nông, các ruộng bậc thang hàng năm bị xói mòn mạnh, ước tính hàng năm mất


20
150 - 350 tấn/ ha (trong khi diện tích đất bằng hạn chế, nông dân muốn canh tác
phải làm trên nương rẫy, ruộng bậc thang trên sườn dốc). Đây cũng là một lí do
dẫn tới hiện trạng chặt phá rừng để sản xuất nông nghiệp làm tăng diện tích đất
trống đồi núi trọc. Tuy nhiên mưa phân bố không đều nên mặc dù có những nơi
mưa nhiều bị úng ngập, nhưng cũng có nhiều nơi chịu hạn hán nghiêm trọng
(nhất là vào mùa khô), có nơi người dân phải đi lấy nước xa 15 - 20km. Đất
feralit đỏ vàng là phổ biến, đất nghèo dinh dưỡng chiếm tỉ lệ cao, thiếu vi lượng
đối với cây trồng nên thường gây bệnh bướu cổ (do thiếu iốt).
Rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Diện tích chiếm trên 11ha trong 16ha ở
miền Bắc, nhưng trong vòng 20 năm trở lại đây nó đã bị khai thác và tàn phá
kiệt quệ để lại nhiều vùng đất nghèo nàn về sinh thái và kinh tế. Nhiều loại lâm
thổ sản và động vật quí có nguy cơ tuyệt chủng. Đất thì bị xói mòn dẫn tới biến
đổi môi trường sinh thái, xảy ra nhiều thiên tai (như lở đất, lũ quét…) gây nhiều
khó khăn trong sản xuất và đời sống.

Về hệ thống hạ tầng cơ sở phục vụ sản xuất và đời sống còn nghèo nàn,
lạc hậu, nhìn chung thấp kém nhất so với các vùng trong cả nước (xem phụ lục
II). Giao thông kém phát triển, nhất là các đường lên bản, lên xã. Các hạ tầng cơ
sở khác như đường điện, trạm bưu điện, nước sạch, trường học, thị tứ, trụ sở
UBND… được chú ý và cải thiện song còn nhiều hạn chế. Tất cả những yếu
kém trên của hệ thống hạ tầng cơ sở là một nguyên nhân quan trọng của sự kém
phát triển các ngành công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ…
Về kinh tế của vùng trong những năm qua tuy có phát triển và đạt được
những kết quả nhất định, song vẫn còn ở mức độ thấp chủ yếu là khai thác tự
nhiên, kém năng động, chưa chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá. Nông
nghiệp vẫn được xem là ngành kinh tế giữ vị trí hàng đầu với tỉ lệ GDP ngành
là 41,3% giá trị tổng sản phẩm toàn vùng, trong đó 7/14 tỉnh chiếm tỉ trọng trên
50% (cao nhất là Bắc Kạn: 63,1%), 6/14 tỉnh chiếm tỉ trọng từ 36,8% đến dưới
50%, chỉ riêng Quảng Ninh tỉ trọng nông nghiệp trong GDP là 9,4%. Trong khi
đó, bình quân toàn quốc tỉ trọng nông nghiệp chỉ chiếm 26% trong cơ cấu GDP.


21
Về hoạt động thương mại, thiếu thị trường trao đổi: bình quân 37% xã có chợ
(riêng Lai Châu: 11%, Sơn La: 19%, Hoà Bình: 28%). Ở những nơi có chợ, mặt
hàng trao đổi cũng rất nghèo nàn. Nhiều nhà không có khả năng sản xuất ra bất
cứ thứ gì mang tính chất hàng hoá ra chợ sau vụ mùa. Ở nhiều thị trường đã
hình thành thường không ổn định, giá thu mua còn rẻ không bù đắp được chi
phí sản xuất dẫn tới đời sống người dân không được đảm bảo, sản xuất bị đình
đốn, hiện tượng chặt phá cây trông diễn ra khá phổ biến trong những năm vừa
qua như chặt chè, trồng sắn, …
Về lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ thô sơ, trình độ tổ chức và
quản lí sản xuất ở mức độ thấp, chủ yếu mang tính gia đình, tự cung tự cấp, lao
động theo tập quán và kinh nghiệm cổ truyền. Hơn nữa, đa phần trình độ dân trí
còn thấp, một số không ít còn lạc hậu, mê tín và bảo thủ gây trở ngại khi tiếp

nhận những công nghệ mới, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, do vậy một
tất yếu là năng suất lao động quá thấp.
2. Khái quát tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc:
Theo số liệu thống kê năm 1999, tỉ lệ hộ nghèo đói của các tỉnh miền núi
phía Bắc là 40,63% gấp 1,44 lần so với tỉ lệ hộ nghèo đói bình quân cả nước
(28,21%) và cao nhất so với các vùng miền khác. Nhìn chung, tình hình nghèo
đói ở đây đã có sự chuyển biến đáng kể cả tuyệt đối lẫn tương đối. Điều đó
được biểu hiện qua số liệu về hộ đói nghèo như sau:
- Năm 1992: 799.500 hộ.
- Năm 1996: 695.503 hộ (giảm so với năm 1992 là 103.997 hộ, tốc
độ giảm bình quân là 3,25%/năm).
- Năm 1998: 570.445 hộ (giảm so với năm 1996 là 125.058 hộ, tốc
độ giảm bình quân là 9%/năm).
Đây thực sự là những kết quả đáng mừng và đáng khích lệ trong công
cuộc xoá đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Tuy nhiên chúng ta
không thể không suy ngẫm trước thực trạng về đời sống đói nghèo ở đây và nỗi


22
lo vẫn còn nhiều. Năm 1999, thu nhập bình quân một người một tháng là
210.000 đồng trong khi chi tiêu là 193.020 đồng. Suy ra khả năng tích luỹ bình
quân của mỗi người một tháng là 16.980 đồng và một năm là 203.760 đồng.
Với số tiền tích luỹ ít ỏi như vậy không biết đến bao giờ những hộ nghèo đói
mới cải thiện được cuộc sống. Một trong những nỗi lo của các nhà chức trách
hiện nay là khoảng cách giàu nghèo ở thành thị cũng như nông thôn đang có xu
hướng giãn ra nhanh chóng. Và một vấn đề cần đặc biệt quan tâm đối với các
tỉnh miền núi phía Bắc là phần lớn hộ đói nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số.


23

PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở
CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC.
1. Những quan điểm:
 Công cuộc xoá đói giảm nghèo phải dựa trên nguyên tắc “không
phát chẩn, không làm thay” mà tìm nguồn lực, tạo điều kiện cho người
nghèo để từ đó họ có thể sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập, tự mình vươn
lên vượt qua đói nghèo.
 Sản xuất quyết định đời sống, sản xuất càng phát triển thì đời sống
xã hội càng cao và ngược lại. Vì vậy, phát triển sản xuất, tăng thu nhập của
các hộ nông dân là vấn đề cốt lõi để xóa đói giảm nghèo. Đồng thời hộ nông
dân là đơn vị kinh tế tự chủ, giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội nông thôn.
 Phát triển sản xuất gắn chặt với nâng cao sức khỏe và dân trí. Ba yếu
tố đó kết hợp với nhau, thúc đẩy lẫn nhau và hỗ trợ cho nhau ngày một phát
triển hơn. Bởi vậy, đồng thời với các giải pháp phát triển sản xuất, cần chú ý
nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật cho các chủ hộ và các lao động ở những
hộ nghèo, tạo điều kiện cho con em họ được học hành. Chú ý chăm sóc sức
khoẻ cho họ làm cho họ tự tin hơn, làm việc có hiệu quả hơn.
 Về tạo và sử dụng các yếu tố nguồn lực:
- Trên cơ sở phân loại nguyên nhân nghèo mà có những chính sách
thích hợp, làm sao khi giao ruộng đất cho họ phải khai thác hết hiệu quả của
đất.
- Cần khai thác tối đa mọi nguồn vốn (vốn tự có, vốn vay, trợ cấp nhân
đạo,…) để cấp cho người nghèo dưới nhiều hình thức phong phú (trực tiếp
cấp, thông qua các chương trình, dự án…) đồng thời có những biện pháp hỗ
trợ cần thiết để người nghèo sử dụng một cách có hiệu quả đồng vốn.


24
- Sức lao động vốn là tài sản lớn của người nghèo nhưng nhìn chung

chất lượng còn thấp, khả năng cạnh tranh kém. Do đó, cần giúp họ có cơ hội
tiếp cận với công việc bằng cách tạo thêm việc làm ở nông thôn (kể cả nghề
nông, công nghiệp và dịch vụ). Đồng thời có những biện pháp thích hợp để
nâng cao chất lượng nguồn lao động như: phổ cập tiểu học, trung học cơ sở,
chương trình khuyến nông, chương trình chăm sóc sức khoẻ, xây dựng cơ sở
hạ tầng phục vụ đời sống, tăng phúc lợi xã hội…
- Xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như điện,
đường giao thông, thuỷ lợi… kết hợp với trang bị những kĩ thuật khác cũng
là hình thức trang bị vốn cho người nghèo.
 Vai trò của Nhà nước:
- Xoá đói giảm nghèo là một vấn đề đòi hỏi sự đóng góp nỗ lực của
toàn Đảng, toàn dân, các tổ chức quốc tế, các tổ chức quần chúng, trong đó
vai trò của Nhà nước đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần ban hành hệ thống
chính sách mới như chính sách tín dụng, chính sách thị trường tiêu thụ sản
phẩm, chính sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, chính sách thuế, chính
sách khuyến nông… để khuyến khích nông dân giảm nghèo, làm giàu.
2. Phương hướng:
Phương hướng chung là không ngừng phát triển sản xuất kinh doanh, gắn
chương trình giải quyết việc làm với xóa đói giảm nghèo. Hướng trọng tâm là
chuyển đổi cơ cấu kinh tế gắn với bố trí cơ cấu lao động hợp lí, khai thác triệt
để tiềm năng đất đai bằng mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ, thay đổi cơ cấu
mùa vụ, thay đổi cơ cấu giống cây trồng vật nuôi để thu được giá trị kinh tế cao
trên một đơn vị diện tích. Từng bước nâng cao tỉ trọng cây công nghiệp, sản
phẩm chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề dịch vụ nhằm tăng thu
nhập, nâng cao đời sống. Vấn đề có tính chất quyết định là khuyến khích mọi
nhà, mọi người chăm lo phát triển kinh tế hộ gia đình, kết hợp một cách biện
chứng giữa sức vận động của từng cá nhân người nghèo với sự hỗ trợ của cộng


25

đồng và sự tác động của chính sách Nhà nước để họ có điều kiện tự chủ vươn
lên thoát khỏi cảnh đói nghèo.
Trên cơ sở phân tích tỉ lệ hộ nghèo và nguyên nhân dẫn tới đói nghèo, xin
đề xuất phương hướng cụ thể như sau:
 Có đủ việc làm cho các hộ nông dân nghèo bằng các hình thức
- Cấp thêm ruộng đất đi đôi với điều chỉnh quĩ ruộng đất cho phù
hợp với khả năng và nguyện vọng sản xuất của họ.
- Tạo thêm việc làm bằng định canh định cư, tách hộ, lập vườn và
chấm dứt tập quán chăn nuôi thả rông (đối với người dân tộc).
- Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động thông qua việc mở
rộng diện tích, thâm canh tăng vụ và phát triển những ngành nghề
phụ, tiêu thụ công nghiệp, dịch vụ.
 Trang bị kiến thức cho người nghèo, bao gồm:
- Khoa học kĩ thuật sản xuất nông nghiệp.
- Kiến thức về dân số, kế hoạch hoá gia đình.
- Kiến thức về thị trường, marketing.
 Đầu tư cho người nghèo một số vốn cần thiết ban đầu bao gồm cả
cho vay với lãi suất thấp, liên doanh liên kết, đặc biệt đối với
người nghèo trong vùng gặp nhiều rủi ro, đột xuất cần được cứu
trợ kịp thời.
 Nhấn mạnh vào trọng tâm giải quyết triệt để tình trạng đói kinh
niên, xoá bỏ hiện tượng tái đói tái nghèo. Có như vậy mới đảm bảo
giảm thực sự vững chắc tỉ lệ hộ nghèo đói. Ngoài ra, phát triển
kinh tế hộ nghèo không tách khỏi sự phát triển chung cả vùng như
tăng cường xây dựng các cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ dân trí,
đổi mới hình thức quản lý nông thôn, tăng cường sự hoạt động của
các tổ chức xã hội, quần chúng, nghề nghiệp,…

×