Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo "Về thời hạn và thời hiệu trong bộ luật dân sự " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.4 KB, 8 trang )



đặc san về sửa đổi, bổ sung bộ luật dân sự

Tạp chí luật học 53




TS. Đinh Văn Thanh *
bo m tớnh n nh cho cỏc giao
dch dõn s, phỏp lut quy nh v
thi hn v thi hiu gii hn s tn
ti ca chỳng trong i sng xó hi v
tng ng vi nú l nhng hu qu phỏp
lớ nht nh. Ngoi ra, nu cú tranh chp
thỡ quỏ trỡnh iu tra, thu thp ti liu,
chng c ca cỏc c quan cú thm quyn
s thun li hn, vỡ nu mt tranh chp
c th lớ gii quyt nhng s vic
xy ra ó quỏ lõu thỡ vic xỏc minh s gp
rt nhiu khú khn.
Thi hn v thi hiu l hai vn cú ý
ngha quan trng c v lớ lun v thc tin
nờn theo thụng l u c quy nh trong
b lut dõn s ca cỏc quc gia thuc h
thng civill law. Trong B lut dõn s Vit
Nam, vn thi hn c quy nh ti
chng VII Phn th nht t iu 158 n
iu 162; vn thi hiu c quy nh
ti chng VIII, Phn th nht t iu 163


n iu 171.
Cỏc quy nh v thi hn v thi hiu
trong mt s b lut dõn s cỏc nc trờn
th gii u da theo nhng nguyờn lớ
chung, truyn thng ca phỏp lut dõn s
ng thi cng cú nhng quy nh c th
phự hp vi phong tc, tp quỏn v iu
kin kinh t - xó hi ca mi nc.
Trong B lut dõn s ca nc Cng
ho Phỏp vn thi hn c quy nh ti
Thiờn XX (t chng III n chng V).
Chng III (t iu 2236 n iu 2241)
quy nh nhng cn c ngn cn thi hiu.
Chng IV (t iu 2242 n iu 2259)
quy nh nhng cn c lm ỡnh ch thi
hiu. Chng V (t iu 2260 n iu
2281) quy nh thi gian cn thit c
hng thi hiu. B lut dõn s ca Cng
ho Phỏp coi thi hiu l vn cú ý ngha
v liờn quan trc tip n vic chim hu
ti sn nờn ó quy nh chung trong Thiờn
XX l thiờn quy nh riờng v thi hiu v
chim hu m khụng quy nh trong mt
thiờn riờng bit. iu 2261 B lut dõn s
ca nc Cng ho Phỏp quy nh c th
thi gian cn thit (hoc bt u c
hng thi hiu) theo nguyờn tc: "c
hng thi hiu khi ngy cui cựng ca
thi hn kt thỳc. Trong B lut dõn s
ca nc Cng ho Phỏp thi hiu cú ba

loi: Mi nm, hai mi nm, ba mi
nm v nhng quy nh v thi hiu c
bit trong mt s trng hp c th t 6
thỏng n nm nm.
(1)

Trong B lut dõn s ca Nht Bn vn
thi hn c quy nh theo tớnh cht
c thự ca quan h dõn s. iu 138 B
lut dõn s Nht Bn quy nh c th cỏch
tớnh thi hiu theo nguyờn tc: Quy nh
ca B lut dõn s s khụng ỏp dng nu
cỏc bờn tho thun cỏch tớnh thi hn khỏc

* Trng i hc lut H Ni



54 T¹p chÝ luËt häc
®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù

so với cách tính thời hạn mà Bộ luật dân sự
quy định. Với quy định này, Bộ luật dân sự
Nhật Bản đã tôn trọng và coi quyền tự do
cam kết thoả thuận của các chủ thể là tuyệt
đối và được ưu tiên áp dụng. Bộ luật dân
sự Nhật Bản quy định hai cách tính thời
hạn và quy định cụ thể cách tính thời hạn.
Về thời hiệu, Bộ luật dân sự Nhật Bản quy
định khá đầy đủ và chi tiết trong các điều

luật. Về nguyên tắc, theo thông lệ chung
Bộ luật dân sự Nhật Bản ghi nhận: Xuất
phát từ sự cần thiết bảo đảm ổn định các
quan hệ dân sự, việc phát sinh hậu quả
pháp lí của thời hiệu phải có hiệu lực tuyệt
đối. Đặc trưng của các quy định về thời
hiệu trong Bộ luật dân sự Nhật Bản là thời
hiệu chỉ áp dụng các quyền về tài sản mà
không áp dụng đối với quyền nhân thân phi
tài sản. Ngoài các quy định chung về thời
hiệu, Bộ luật dân sự Nhật Bản đã có những
quy định cụ thể về thời hiệu tiêu quyền
(tức mất quyền khởi kiện để yêu cầu toà án
bảo vệ như quy định trong pháp luật dân sự
nước ta), hậu quả pháp lí của thời hiệu, các
căn cứ gián đoạn thời hiệu, tạm ngừng thời
hiệu, hậu quả pháp lí của gián đoạn thời
hiệu; thời hiệu phát sinh (gồm phát sinh
quyền sở hữu Điều 162 có hai loại 10 năm
và 20 năm; thời hiệu làm phát sinh các
quyền khác); thời hiệu huỷ bỏ (gồm thời
hiệu huỷ bỏ nghĩa vụ và huỷ bỏ các quyền
về tài sản khác ngoài nghĩa vụ)
(2)

Trong Bộ luật dân sự dân sự và thương
mại Thái Lan vấn đề thời hạn được quy
định tại Tiêu đề V (từ Điều 156 đến Điều
162); thời hiệu được quy định tại Tiêu đề
VI (từ Điều 163 đến Điều 193). Về thời

hạn, Điều 157 quy định: "Thời hạn được
tính bằng ngày. Nếu được tính bằng giờ thì
bắt đầu tính ngay tức khắc”. Về thời hiệu,
Điều 164 quy định: "Thời hiệu, nếu pháp
luật không quy định một thời hạn nào
khác, là 10 năm” và theo nguyên tắc:
"Những thời hiệu do luật ấn định không
được gia hạn hoặc giảm hạn” (Điều 191).
Trong Bộ luật dân sự và thương mại Thái
Lan ngoài những quy định chung về thời
hiệu trên đây còn có quy định có tính chất
liệt kê một số loại thời hiệu khác nhau:
Điều 165 quy định loại thời hiệu hai năm
(gồm 17 khoản); Điều 166 quy định loại
thời hiệu là 5 năm; Điều 167 quy định thời
hiệu khiếu nại đối với Chính phủ là 10
năm. Trong các quy định về thời hiệu các
quy định về tạm ngưng thời hiệu, gián
đoạn thời hiệu và cách tính cũng được quy
định cụ thể. Đối với việc thực hiện nghĩa
vụ của người vay, Điều 188 quy định rõ:
"Sau khi hết thời hiệu, người vay nợ có
quyền từ chối thi hành. Nếu bất cứ việc thi
hành nào được thực hiện để thoả mãn một
khiếu nại đã hết thời hiệu thì giá trị của
việc thi hành này không thể yêu cầu hoàn
trả lại, ngay cả nếu việc thi hành đó được
thực hiện mà không biết đến thời hiệu”.
(3)


Trong Luật hợp đồng của nước Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa lại có quy định
riêng. Điều 55 chương III quy định những
trường hợp mất quyền huỷ bỏ hợp đồng;
Điều 95 chương VI quy định: "Các đương
sự thoả thuận kì hạn thực hiện quyền huỷ
bỏ, nếu kì hạn đã hết mà đương sự không
thực hiện, thì quyền lợi đó bị mất". Vấn đề
kì hạn đưa ra tố tụng lại quy định tại Điều


®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù

T¹p chÝ luËt häc 55

129 chương VIII theo nguyên tắc: Kì hạn
đưa ra tố tụng hoặc xin trọng tài của tranh
chấp hợp đồng mua bán vật tư và hợp đồng
nhập khẩu kĩ thuật quốc tế là 4 năm. Đối
với các tranh chấp hợp đồng khác lại căn
cứ theo quy định của pháp luật hữu quan.
(4)

Hiện nay, tại Việt Nam mặc dù có
những văn bản pháp luật đã quy định về
thời hạn, thời hiệu nhưng việc hiểu và áp
dụng các quy định về thời hạn, thời hiệu
trong thực tế chưa có sự thống nhất. Đã có
không ít những trường hợp đương sự mất
quyền khởi kiện không phải do “lỗi” của

họ mà do các quy định của luật không rõ
ràng và thiếu cụ thể, có thể hiểu theo nhiều
cách khác nhau. Đó là quy định về thời
hiệu khởi kiện trong Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế năm 1989. Theo kinh nghiệm và
các quy định của Bộ luật dân sự một số
nước, chúng tôi xin đề xuất sửa đổi một số
vấn đề liên quan đến thời hạn, thời hiệu
nhằm bảo đảm tính khả thi và thống nhất
khi áp dụng.
1. Các quy định về thời hạn
Theo thông lệ và trên thực tế, thời hạn
của các giao dịch dân sự cụ thể thông
thường do các chủ thể thoả thuận cụ thể
khi xác lập giao dịch dân sự. Khi các chủ
thể thoả thuận về thời hạn khi xác lập giao
dịch dân sự thì đó là căn cứ để xác định khi
cần thiết. Vì vậy, chỉ trong trường hợp chủ
thể không có thoả thuận cụ thể khi xác lập
giao dịch thì mới áp dụng cách tính thời
hạn theo quy định của Bộ luật dân sự. Qua
việc tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật dân
sự, các quy định về thời hạn hiện hành
tương đối hợp lí. Tuy nhiên, các quy định
về thời hạn vẫn còn có những nội dung
chưa khả thi và chưa bảo đảm sự thống
nhất. Nếu Bộ luật dân sự được sửa đổi, bổ
sung thì vấn đề thời hạn cũng phải được
xem xét lại một số quy định.
Về Điều 158: Khoản 2 của Điều luật

này xác định thời hạn có thể được tính
bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc
bằng một sự kiện có thể xảy ra. Trong thực
tế, các chủ thể khi thoả thuận xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự thường được căn cứ
theo tiêu chí “ngày”. Đây là tiêu chí mà
toà án và các cơ quan có thẩm quyền
thường áp dụng để giải quyết các tranh
chấp vì nó liên quan đến thời hiệu khởi
kiện, thời điểm để xác định là có sự vi
phạm việc thực hiện nghĩa vụ hay không.
Tiêu chí thời hạn được xác định bằng giờ ít
được các chủ thể chú ý và vận dụng trong
thực tiễn. Vấn đề này liên quan đến các
loại giao dịch dân sự, trong đó có quan hệ
pháp luật về thừa kế quy định tại Điều 636
và Điều 644. Việc chết trong cùng một thời
điểm theo quy định tại Điều 644 thì “họ
không được thừa kế của nhau”. Việc chết
trong cùng một thời điểm và theo tiêu chí
về thời hạn được quy định tại Điều 158
đang gây nhiều tranh luận trong thực tế. Có
nhiều ý kiến cho rằng cần phải xác định
thời điểm mở thừa kế trong mọi trường
hợp theo tiêu chí “phút” nếu không thì quy
định tại Điều 644 không có ý nghĩa trong
thực tế áp dụng. Vì rằng những vụ tai nạn,
hoả hoạn, thiên tai các nạn nhân thường
chết ngay trong cùng một thời điểm. Vì
vậy, quy định về thời hạn trong Điều 158

cần có thêm đơn vị “phút”. Ngược lại, có


56 T¹p chÝ luËt häc
®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù

không ít trường hợp trong các rủi ro nêu
trên, khi được cấp cứu kịp thời và khả năng
chịu đựng của mỗi người khác nhau (phụ
thuộc vào tuổi tác, sức khoẻ, tình trạng vết
thương ) cuối cùng các nạn nhân cũng
chết nhưng có khoảng cách về thời gian thì
có được coi là chết trong cùng một thời
điểm hay không?
Về áp dụng cách tính thời hạn (Điều
159): Theo thông lệ việc làm thay đổi, phát
sinh, chấm dứt một quan hệ pháp luật dân
sự, nhất là đối với các hợp đồng dân sự
thông dụng thường do các chủ thể trong
giao lưu dân sự thoả thuận khi xác lập
giao địch dân sự. Chỉ trong trường hợp
các bên không có thoả thuận, thoả thuận
không cụ thể mới áp dụng những quy
định của Bộ luật dân sự để tính thời hạn
nếu có tranh chấp.
Vì vậy, vấn đề xác định cách tính thời
hạn nên theo tiêu chí và thông lệ chung của
luật dân sự là sự thoả thuận của các chủ thể
cần quy định lên khoản 1 như quy định tại
nhiều điều luật khác trong Bộ luật dân sự.

Chỉ trong trường hợp các chủ thể không có
thoả thuận hoặc thoả thuận không cụ thể
khi xác lập giao dịch dân sự mới áp dụng
cách tính thời hạn theo quy định của Bộ
luật dân sự. Quy định như vậy sẽ không
hạn chế quyền tự do, tự nguyện cam kết,
thoả thuận - nguyên tắc đặc thù được quy
định tại Điều 7 Bộ luật dân sự.
2. Các quy định về thời hiệu
Các quy định trong Bộ luật dân sự đều
dựa trên nguyên tắc tự do, tự nguyện cam
kết, thoả thuận của các chủ thể. Theo
nguyên lí chung, nhiều nội dung (kể cả
trong những trường hợp pháp luật không
có quy định) các chủ thể của giao dịch dân
sự vẫn có quyền cam kết, thoả thuận, kể cả
thời hạn nếu “không trái pháp luật, đạo đức
xã hội”. Nghĩa là, các chủ thể của luật dân
sự được quyền cam kết, thoả thuận những
nội dung pháp luật không cấm, thậm chí
chưa có quy định cụ thể trong Bộ luật dân
sự. Đó là đặc trưng của pháp luật dân sự.
Riêng về thời hiệu trong pháp luật dân sự
lại không chấp nhận thông lệ này. Điều
163 Bộ luật dân sự quy định: "Thời hiệu là
thời hạn do pháp luật quy định”. Điều đó
có nghĩa là các chủ thể khi xác lập giao
dịch dân sự không có quyền thoả thuận về
thời hiệu như việc thoả thuận về thời hạn.
Đây là căn cứ pháp lí do pháp luật quy

định nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự ngoài ý chí
của các chủ thể trong các giao dịch dân sự.
Ý nghĩa của các quy định về thời hiệu
trong pháp luật dân sự (và các văn bản
pháp luật khác) đều nhằm mục đích tạo ra
sự ổn định cần thiết cho các giao dịch dân
sự trên thực tế.
Theo tinh thần và nội dung quy định tại
Điều 164, Bộ luật dân sự công nhận có 3
loại thời hiệu: Thời hiệu hưởng quyền dân
sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và
thời hiệu khởi kiện. Lần đầu tiên trong Bộ
luật dân sự vấn đề thời hiệu được quy định
chi tiết và cụ thể nhưng việc áp dụng trong
thực tế hiện nay rất khó khăn, nhiều quy
định không thể vận dụng được hoặc không
có điều kiện để vận dụng vì chưa bảo đảm
tính chất khả thi.
Về cách tính thời hiệu. Điều 165 chỉ


®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù

T¹p chÝ luËt häc 57

quy định một phương thức tổng quát:
"Thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu
ngày đầu tiên và chấm dứt tại thời điểm kết
thúc ngày cuối cùng của thời hiệu”. Vấn

đề là khi áp dụng phải theo tiêu chí nào để
xác định thời điểm nào là ngày đầu tiên,
thời điểm nào kết thúc là ngày cuối cùng
của thời hiệu.
Ngày đầu tiên trong hưởng quyền dân
sự chỉ được quy định tại khoản 1, Điều 255
Bộ luật dân sự: “Kể từ thời điểm bắt đầu
chiếm hữu” cùng một số tiêu chí khác như:
Chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai
trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30
năm đối với bất động sản) để được xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu. Trong trường
hợp này thời hiệu được xác định: Ngày đầu
tiên là ngày một người trực tiếp chiếm hữu
tài sản không có căn cứ pháp luật đã chiếm
hữu tài sản về phương diện thực tế (trực
tiếp chiếm giữ, sử dụng, quản lí tài sản
ngay tình, công khai, không lén lút).
Ngày kết thúc trong thời hiệu miễn trừ
nghĩa vụ sẽ được tính như thế nào? Nếu
cũng là ngày cuối cùng khi kết thúc thời
hạn đó như cách tính ngày bắt đầu trong
hưởng quyền dân sự thì e rằng sẽ rất khó
xác định trong thực tế. Nếu như vậy sẽ dẫn
đến tình trạng khi người ta vay nhau (tiền
hoặc tài sản), bên vay sẽ chây ỳ, khất lần
và đến một thời hạn nhất định (ngày cuối
cùng của thời hạn) người vay sẽ được miễn
trừ thực hiện nghĩa vụ vì món vay đã quá
lâu, còn người cho vay cũng không còn

quyền đòi nợ. Quy định ngày cuối cùng khi
kết thúc thời hạn khó xác định và dễ bị lợi
dụng. Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp
dân sự theo quan điểm của cá nhân tôi cho
rằng nên bỏ quy định về miễn trừ nghĩa vụ.
Thời hiệu hưởng quyền dân sự và miễn trừ
thực hiện nghĩa vụ trong nhiều trường hợp
là hai mặt của một hiện tượng, sự việc. Vì
vậy, nếu một bên đã được hưởng quyền
dân sự thì đương nhiên bên kia không phải
thực hiện nghĩa vụ nữa. Do đó, Điều 164
Bộ luật dân sự chỉ cần quy định hai loại
thời hiệu là thời hiệu hưởng quyền dân sự
và thời hiệu khởi kiện.
Ngày đầu tiên trong thời hiệu khởi kiện
cũng đang có những tranh luận. Kể từ khi
Bộ luật dân sự có hiệu lực thi hành cho đến
nay quy định về thời hiệu khởi kiện ít được
áp dụng. Tương tự như hai trường hợp trên
đây, thời hiệu khởi kiện bắt đầu được tính
(hay xác định) theo tiêu chí: từ thời điểm
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Vấn đề
là lợi ích có thể bị xâm phạm trong thực tế
xảy ra nhiều khả năng: Lợi ích bị xâm
phạm khi chưa kết thúc thời hạn, khi đã kết
thúc thời hạn, thậm chí một số trường hợp
ngay sau khi xác lập giao dịch dân sự một
bên đã có biểu hiện xâm phạm, không thực
hiện nghĩa vụ (bỏ trốn, chuyển chỗ ở bí
mật, dùng số tiền vay vào mục đích

khác ) thì có được xác định đó là thời
điểm quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại
hay không?
Hiện nay, trong giải quyết tranh chấp
kinh tế tại các toà kinh tế đã có quan điểm
trái ngược nhau khi áp dụng quy định thời
hiệu khởi kiện. Khoản 1 Điều 31 Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm
1994 quy định: "Người khởi kiện phải làm
đơn yêu cầu toà án giải quyết vụ án kinh tế


58 Tạp chí luật học
đặc san về sửa đổi, bổ sung bộ luật dân sự

trong thi hn sỏu thỏng, k t ngy phỏt
sinh tranh chp ó gõy ra nhng tranh
lun quyt lit v vic vn dng phỏp lut
trong thc t rt tu tin, khỏc nhau (ỳng
ra, quy nh v thi hiu khi kin cn
phi c quy nh trong chng IV Phỏp
lnh hp ng kinh t ngy 25/9/1989). Cú
ngi cho rng ch khi no thc s phỏt
sinh tranh chp trờn thc t thỡ k t ngy
thc t phỏt sinh tranh chp ú s c
tớnh l ngy u tiờn ca thi hiu khi
kin. Mt s quan im khỏc cho rng thi
hiu khi kin liờn quan n thi hn ca
hp ng nờn thi hn 6 thỏng bt u
c tớnh t khi thi hn thc hin hp

ng chm dt. Quỏ thi hn 6 thỏng tớnh
t ngy ht thi hn thc hin hp ng
ng nhiờn ht thi hiu khi kin (mt
quyn khi kin). Trong thc t, quan h
kinh t thng l quan h bn hng nờn
ngi ta cú th thụng cm vi khú khn
ca nhau v thng tho thun gia hn
thi hn phi thanh toỏn nhng li khụng
gia hn thi hn thc hin hp ng. Tuy
cha thanh toỏn cha thc hin ngha v
nhng trong thc t cỏc bờn khụng cú
tranh chp. Ch n mt thi hn nht
nh bờn cú ngha v thanh toỏn khụng cú
kh nng chi tr hoc chõy khụng mun
tr thỡ bờn cú quyn xõm phm mi khi
kin yờu cu to ỏn gii quyt tranh chp.
Khi khi kin vn hiu v ỏp dng thi
hiu khi kin ó xy ra tỡnh trng nh ó
nờu trờn v cú ý kin cũn cho rng ú l
quyn riờng ca to ỏn m khụng phi
do phỏp lut quy nh.
Trong thc t th lớ gii quyt tranh
chp, nhiu to ỏn ó khụng th lớ n khi
kin vi lớ do ht thi hiu khi kin (vỡ
thi hn kt thỳc hp ng ó quỏ 6 thỏng.
Khi tho thun gia hn thanh toỏn cỏc bờn
khụng gia hn thi hn thc hin hp
ng). Trong thc t cũn cú tỡnh trng, cỏc
doanh nghip yờu cu c quan cnh sỏt
iu tra khi t v ỏn hỡnh s vỡ cú nhng

du hiu la o, lm dng tớn nhim
chim ot ti sn. Sau khi th lớ, iu tra
c quan iu tra thy khụng cú yu t
cu thnh ti phm, khụng th hỡnh s
hoỏ cỏc quan h kinh t nờn ó tr li h
s. Khi ú, doanh nghip mi mang n
khi kin n to kinh t khi kin thỡ
cng c gii thớch l ó ht thi hiu
khi kin. Thi hn c quan cnh sỏt iu
tra gi h s ó khụng c tr vo thi
hiu khi kin. Thc trng trờn õy ó tc
b quyn li hp phỏp, chớnh ỏng ca
nhiu danh nghip trong vic thanh toỏn
ch vỡ quy nh ht thi hiu khi kin v
Trong nhiu trng hp, thi im bit
v thi im xõm phm l trựng nhau.
Nhng mt s trng hp khỏc, thi
im bit cú th chm hn so vi thi
im xõm phm v trong trng hp th
hai ny thỡ ngi cú quyn b xõm phm cú
v c li th hn v thi hiu.
(5)

Trong cỏc quy nh v cỏch tớnh thi
hiu khi kin ca B lut dõn s ngoi
nhng quy nh chung trờn õy chỳng tụi
thy cũn cú nhng bt cp sau:
- Quy nh v bt u thi hiu khi
kin ti iu 168 B lut dõn s nh hin
nay l khụng cú ý ngha phỏp lớ v khụng

c ỏp dng trong thc tin gii quyt


®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù

T¹p chÝ luËt häc 59

tranh chấp. Điều 168 chỉ quy định bắt đầu
thời hiệu khởi kiện mà không giới hạn thời
hạn đó là bao nhiêu tháng, năm Vì vậy,
trong thực tế hiện nay các toà án đều nhận
thức rằng thời hiệu khởi kiện trong luật
dân sự không bị giới hạn. Với quy định
này của Bộ luật dân sự, trong Thông tư liên
ngành số 03/TTLN ngày 10/8/1996 của
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao khi hướng dẫn áp dụng
pháp luật theo Nghị quyết của Quốc hội về
việc thi hành Bộ luật dân sự tại mục III,
điểm b có quy định: "Đối với các trường
hợp thừa kế mở từ ngày 1/7/1996 thì người
có quyền nói trên không bị hạn chế thời
hiệu khởi kiện trước toà án, vì Bộ luật dân
sự không có quy định, do đó, họ có quyền
khởi kiện bất cứ lúc nào sau thời điểm mở
thừa kế”. Các vấn đề chung về thời hiệu
còn được “lưu ý” tại Báo cáo tổng kết công
tác ngành Toà án năm 1999 và phương
hướng nhiệm vụ công tác ngành toà án
năm 2000: "Do Bộ luật dân sự không quy

định về thời hiệu nên các giao dịch dân sự
được xác lập từ ngày 1/7/1996 (ngày Bộ
luật dân sự có hiệu lực) không bị hạn chế về
thời hiệu khởi kiện”.
(6)
Nói cách khác, theo
luật dân sự hiện nay các quy định về thời
hiệu khởi kiện không áp dụng được trong
thực tế giải quyết tranh chấp đối với các
giao dịch dân sự thông dụng, trừ quy định
về thời hiệu khởi kiện về thừa kế là 10 năm
theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự.
Hai văn bản trên đây đã có những cách hiểu
và hướng dẫn chưa đúng với tinh thần và
nội dung Điều 648 Bộ luật dân sự.
Qua thực tiễn áp dụng các quy định về
thời hiệu kể từ khi Bộ luật dân sự có hiệu
lực thi hành, chúng tôi thấy rằng khi sửa
đổi, bổ sung cần quy định cụ thể theo hai
phương án sau đây:
Phương án một: Quy định như Điều 56
Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày
29/4/1991 là: "Nếu pháp luật không có
quy định khác thì thời hiệu khởi kiện
chung là ba năm” và thêm cụm từ “kể từ
thời điểm kết thúc thời hạn, trừ trường
hợp có thoả thuận khác”. Theo quy định
này quá thời hạn ba năm kể từ thời điểm
kết thúc thời hạn mà đương sự không
khởi kiện sẽ bị mất quyền khởi kiện. Quy

định cụ thể như vậy sẽ dễ dàng vận dụng
và không bị hiểu sai lệch. Mặt khác, đây
chính là cơ sở pháp lí nhằm bảo đảm ổn
định các giao dịch dân sự đồng thời tôn
trọng quyền tự định đoạt cũng như quyền
tự do cam kết thoả thuận của chủ thể luật
dân sự.
Phương án hai: Nếu không cần sự cô
đọng trong kĩ thuật lập pháp và không theo
phương án trên thì có thể quy định thời
hiệu theo hướng như trong một số Bộ luật
dân sự của các nước là: Phân ra làm hai
hoặc ba loại thời hiệu khởi kiện theo các
tiêu chí khác nhau và liệt kê những loại
giao dịch dân sự phổ biến thường xảy ra
tranh chấp trong thực tiễn để quy định
cùng chung một thời hiệu khởi kiện. Để ổn
định các giao dịch dân sự mỗi loại giao
dịch dân sự khác nhau cần quy định từng
loại thời hiệu phù hợp khác nhau là hai
năm hoặc bốn đến năm năm Các quy
định của thời hiệu cũng nên quy định tập


60 T¹p chÝ luËt häc
®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù

trung trong một chương để dễ tìm hiểu và
vận dụng vì, Bộ luật dân sự ngoài việc làm
căn cứ pháp lí cho toà án và các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền áp dụng (kể cả
khi các bên không có thoả thuận trong các
giao dịch dân sự cụ thể) để giải quyết tranh
chấp còn có chức năng hướng dẫn và chỉ
dẫn cho các chủ thể của quan hệ pháp luật
dân sự biết cách thức, phương pháp xử sự.
Do đó, các quy định trong Bộ luật cần bảo
đảm tính phổ thông, dễ hiểu và nên quy
định tập trung để dễ tra cứu, vận dụng.
- Quy định tại Điều 145 về "thời hạn
yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự
vô hiệu” là chưa phù hợp với tinh thần và
nội dung của chương này. Đây thực chất là
vấn đề thời hiệu khởi kiện. Vì vậy, đề nghị
đưa điều luật này tại chương V xuống
chương VIII của Phần thứ nhất Bộ luật dân
sự là phù hợp và bảo đảm tính thống nhất.
Ngoài ra, hai khái niệm “thời hạn”
(khoản 1, Điều 145) và “thời gian” (khoản
2, Điều 145) có thể có ý nghĩa khác nhau,
nên cần quy định lại cho thống nhất trong
cùng một điều luật là thời hạn hay thời gian.
- Điều 170, Bộ luật dân sự ngoài những
căn cứ đã được ghi nhận cần có quy định
bổ sung nội dung: Nếu đương sự nhận thấy
có dấu hiệu lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm để
chiếm đoạt tài sản, đã gửi đơn đến cơ quan
cảnh sát điều tra hoặc các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền yêu cầu xem xét
nhưng không được giải quyết cũng phải

được coi là thời gian không tính vào thời
hiệu khởi kiện. Vì vậy, nếu sau khi điều
tra, xem xét thấy không có đủ yếu tố cấu
thành tội phạm để khởi tố vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật hình sự mà chỉ
là quan hệ dân sự hoặc quan hệ kinh tế thì
thời gian cơ quan cảnh sát điều tra thụ lí và
xem xét cũng phải được coi là khoảng thời
gian không tính vào thời hiệu khởi kiện.
- Quy định như Điều 171 có thể gây ra
nhiều cách hiểu khác nhau. Bắt đầu lại theo
quy định tại Điều 171 Bộ luật dân sự là bắt
đầu lại từ đầu của thời hiệu khởi kiện tính
theo quy định chung (nếu bổ sung Điều
168). Trong điều luật này, để các chủ thể
dễ hiểu và áp dụng đề nghị nên quy định
cụ thể hơn. Ví dụ: "Thời hiệu khởi kiện bắt
đầu lại, kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy
ra sự kiện quy định tại khoản 1 Điều này”
cần bổ sung thêm quy định: "Kể từ ngày
tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện, thời hiệu
khởi kiện được tính là 3 năm” hoặc: "Kể từ
ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện, thời
hiệu khởi kiện được tính lại từ đầu”./.

(1).Xem: Các điều từ Điều 2271 đến Điều 2281 Bộ
luật dân sự của nước Cộng hoà Pháp, Nxb. Chính
trị quốc gia năm 1997.
(2).Xem: "Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật
Bản", Nxb. Chính trị quốc gia năm 1995, tr. 184 - 207).

(3).Xem: "Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan",
Nxb. Chính trị quốc gia năm 1995.
(4).Xem: Luật hợp đồng nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa thông qua ngày 15/3/1999. Bản dịch của
tổ chức hợp tác quốc tế JICA Nhật Bản cung cấp.
(5).Xem: "Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt
Nam", tập I, Viện nghiên cứu khoa học pháp lí - Bộ
Tư pháp, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2001, tr. 314.
(6).Xem: Báo cáo tổng kết công tác ngành toà án năm
1999 và phương hướng nhiệm vụ công tác ngành toà
án năm 2000 số 40 BC/VP ngày 11/3/2000, tr.54.

×