Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

TIỂU LUẬN: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.35 KB, 93 trang )





TIỂU LUẬN:

XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA GIAI
CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP
HOÁ THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI VÀ HỘI
NHẬP QUỐC TẾ











Trên cơ sở khái quát hoá quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về giai cấp công
nhân, tác giả đã phân tích sự biến đổi của giai cấp công nhân hiện đại trên thế giới
về trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp, về quyền sở hữu,…Đặc biệt, tác giả đã rút
ra một số nhận định về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Việc
nhận thức rõ các xu hướng này để có những đối sách thích hợp nhằm làm cho giai
cấp công nhân dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ được vai trò tiên phong của mình.

1. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự phát triển của kinh tế tri thức


cùng với quá trình toàn cầu hoá đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã
hội loài người, làm thay đổi các mối quan hệ giữa những nước có thể chế chính trị xã
hội khác nhau cũng như mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên, đồng thời
cũng làm thay đổi cả kết cấu xã hội ở những mức độ khác nhau trong nội bộ từng
nước. Sự giàu có lên nhanh chóng và sự nghèo đi ở các nước thuộc những châu lục
và khu vực khác nhau trên thế giới, sự chuyển đổi ngành nghề của người lao động do
những đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ đã dẫn

đến sự phân tầng diễn ra phổ biến trong nội bộ từng nước, trong kết cấu các giai cấp
trong nửa thế kỷ qua là điều đã được giới nghiên cứu khoa học thế giới ghi nhận và
nói đến nhiều lần. Đặc biệt, ở tất cả các nước, dù là các nước đã phát triển ở trình độ
rất cao hay các nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi, sự phân
tầng và sự phát triển của giai cấp công nhân tuy diễn ra ở các mức độ khác nhau
nhưng đều có những nét tương đồng và rất mới so với quá trình này đã diễn ra trong
quá khứ. Việc nghiên cứu, tìm ra những nét chung này để từ đó, đưa ra những đánh
giá và những dự báo về sự phát triển của giai cấp công nhân nước ta trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế, chỉ ra những
vấn đề cần quan tâm trong việc hoạch định đường lối, chính sách nhằm xây dựng
giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là hết sức
quan trọng.
2. Để bàn về giai cấp công nhân thì một trong những vấn đề đầu tiên cần phải đạt được
là một sự nhất trí, dù chỉ nhất trí tương đối, đó là về khái niệm giai cấp công nhân, nhất
là về giai cấp công nhân đương đại.
Cũng như các khái niệm khoa học khác, khái niệm giai cấp công nhân cũng có sự
thay đổi nội hàm của nó cùng với tiến trình vận động của lịch sử. Chính C.Mác,
trong bộ Tư bản, đã viết về sự mở rộng của các khái niệm, như khái niệm lao động
sản xuất, người lao động (người công nhân) cùng với sự mở rộng của sự xã hội hoá
sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự thay đổi về chất của tính chất hợp tác của bản thân
lao động như sau: “Khi quá trình lao động còn là một quá trình thuần tuý cá nhân, thì

cùng một công nhân ấy kết hợp tất cả các chức năng mà sau này bị tách riêng ra.
Trong chiếm hữu cá nhân những vật thể tự nhiên vì mục đích sinh sống của mình,
người công nhân đó tự mình kiểm soát lấy mình. Về sau, người đó lại bị kiểm soát.
Một người riêng rẽ không thể tác động đến tự nhiên nếu không vận động các bắp thịt
của mình dưới sự kiểm soát của bộ não của mình. Cũng như trong hệ thống tự nhiên,
đầu và tay gắn với nhau, thì trong quá trình lao động, lao động trí óc và lao động
chân tay cũng kết hợp lại với nhau. Sản phẩm nói chung đã từ sản phẩm trực tiếp của
người sản xuất cá nhân biến thành sản phẩm xã hội, thành sản phẩm chung của người
lao động tổng thể(**), tức là của một số người lao động kết hợp mà những thành viên

của nó đều có tác động hoặc gần hoặc xa đến đối tượng lao động. Vì vậy, cùng với
tính chất hợp tác của bản thân quá trình lao động thì khái niệm lao động sản xuất và
người đảm nhiệm nó, tức là người lao động(**) sản xuất, cũng tất yếu mở rộng ra.
Muốn lao động sản xuất, bây giờ không cần phải trực tiếp mó tay vào nữa; chỉ cần
làm một khí quan của người lao động tổng thể, chỉ cần thực hiện một trong những
chức năng nào đó của người ấy là đủ”(1).
Đoạn trích dẫn C.Mác trên đây cho chúng ta thấy vì sao trong khi bàn về vấn đề giai
cấp xã hội nói chung, và giai cấp công nhân nói riêng, cả C.Mác và Ph.Ăngghen đã
có những sự bổ sung, sự phát triển nhất định qua các thời kỳ.
Vào năm 1847, trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen coi
“giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao
động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào, đó là
một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều
phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của
công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản
nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp những người vô sản là giai cấp lao động
trong thế kỷ XIX”, là “giai cấp những người hoàn toàn không có của”(2).
Năm 1888, trong lời chú thích cho lần xuất bản bằng tiếng Anh Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản, Ph.Ăngghen viết: “Giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm
thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc phải bán sức lao

động của mình để sống”(3).
Như vậy, đặc trưng chủ yếu của giai cấp vô sản, hay giai cấp công nhân thế kỷ XIX,
theo Ph.Ăngghen, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, không có
của cải, không có tài sản gì khác ngoài tài sản sức lao động của bản thân; phải bán
sức lao động, đi làm thuê trong các lĩnh vực lao động sản xuất vật chất nặng nhọc để
được nhận một khoản giá trị sức lao động gọi là tiền lương nhằm tái sản xuất sức
lao động của mình.
Tuy nhiên, vào ngày 19 tháng Chạp năm 1893, Ph.Ăngghen đã nêu ra một quan điểm
mới rất đáng chú ý. Trong thư Gửi Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa,
Ph.Ăngghen hy vọng các sinh viên “hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được
rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai

cấp đó có sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ với những
người anh em của họ, những người công nhân lao động chân tay”, bởi vì, trong “sự
nghiệp giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sỹ, kỹ sư, nhà hoá
học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm lấy việc quản lý không
phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa”(4). Điều đó có
nghĩa rằng, trong giai cấp công nhân tương lai sẽ có những công nhân tri thức, sẽ có
tầng lớp lao động trí óc.
Như vậy, sự tiến triển trong quan điểm của Ph.Ăngghen về giai cấp công nhân là rất
rõ ràng và chúng ta nên chú ý đến sự tiến triển đó. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp
với quan niệm của C.Mác. Bởi vì, từ nửa sau thế kỷ XIX, do nhận thấy sự tăng lên
không ngừng của đội ngũ những người lao động trí óc nhằm đáp ứng các nhu cầu của
các ngành sản xuất khác nhau của chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã nói đến những khái
niệm “người công nhân (lao động) tổng thể”, “công nhân thương nghiệp”(5), “giai
cấp vô sản trí óc”, “giai cấp đông đảo những người giám đốc công nghiệp và thương
nghiệp”(6), v.v Quan niệm mới trên đây của C.Mác và Ph.Ăngghen từ những năm
60 thế kỷ XIX trở đi về các bộ phận khác nhau họp thành giai cấp công nhân cần
được xem như cơ sở để chúng ta bàn luận về giai cấp công nhân đương đại, để dự
báo về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn đẩy mạnh

công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội nhập ngày càng sâu hơn với quốc tế.
3. Ngày nay, không thể coi công nhân chỉ là những người lao động cơ bắp và không
thể coi giai cấp công nhân chỉ gồm toàn những người lao động cơ bắp thuần tuý.
Trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp chuyên môn của giai cấp công nhân trên thế
giới hiện nay, nhất là ở các nước phát triển, các nước đã đi vào nền kinh tế tri thức, là
rất cao, thậm chí ở một số ngành nghề, một số lĩnh vực còn chiếm tỷ lệ khá lớn. Do
vậy, ngày nay để có thể xuất khẩu được lao động cho các nước khác nhau chúng ta
cũng đã phải có đội ngũ công nhân có trình độ trí tuệ cao bên cạnh một số nhất định
có trình độ tay nghề cao nhưng học vấn bình thường. Không phải ngẫu nhiên mà Hội
nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá X (tháng 1-2008) đã ghi nhận: “Giai
cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm
những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình
sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có

tính chất công nghiệp”(7). Đây là một nhận thức rất mới so với trước đây. Đất nước
ta đang đổi mới toàn diện, mạnh mẽ và hiệu quả. Chính giai cấp công nhân với tư
cách một bộ phận đông đảo dân cư trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam là những
người lao động làm công hưởng lương, có tri thức, tay nghề ở các trình độ khác
nhau, có hoặc không có vốn liếng, cổ phần, hoạt động trong môi trường công nghiệp
hoặc có tính chất công nghiệp, trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng các nhu cầu
đa dạng của xã hội, đang giữ vai trò tiên phong trong sự nghiệp đổi mới đó, nhất là
trong quá trình quá trình công nghiệp hoá theo hướng hiện đại vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Việc Đảng ta chính thức thừa nhận trong giai cấp công nhân có những người lao
động trí óc không những đã xoá đi mặc cảm đã từng tồn tại dai dẳng trong xã hội ta
hễ là lao động trí óc(***) thì đều không thể coi là công nhân, đều bị xếp vào hàng
tiểu tư sản, mà còn là sự đề cao về chất lượng mới của giai cấp công nhân nước ta
hiện nay, là thừa nhận sự tăng lên của nhân tố tri thức trong lao động phổ
thông. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu
ở trên, phù hợp với xu thế phát triển của giai cấp công nhân đương đại và của xã hội

hiện đại. Nếu tham khảo kinh nghiệm thực tiễn và đối chiếu với lý luận của các
nước, chẳng hạn của Trung Quốc, thì quan điểm trên đây cũng khá phù hợp.
Chẳng hạn, các học giả Trung Quốc cho rằng, “giai cấp công nhân đã trở thành một
khái niệm đa tầng với nội hàm rộng lớn, là một tổng thể thống nhất bao gồm công
nhân phổ thông, thành phần trí thức, nhân viên kỹ thuật và người quản lý kinh doanh.
Chỉ thừa nhận lao động chân tay là giai cấp công nhân là hoàn toàn phiến diện, chỉ
nhấn mạnh vai trò của trí thức và nhà quản lý kinh doanh mà coi nhẹ vai trò của công
nhân phổ thông, trên thực tế là đã chia cắt và đặt hai lĩnh vực đối lập nhau, và tất
nhiên là một việc sai lầm. Giai cấp công nhân tổng thể không chỉ bao gồm lao động
trí óc và lao động chân tay, mà cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nhân
tố tri thức của lao động chân tay được nâng cao, tỷ lệ lao động trí óc của lao động
phổ thông cũng không ngừng tăng lên, ranh giới giữa lao động chân tay và lao động
trí óc có xu hướng mờ nhạt đi”. Do vậy, “các chuyên gia học giả thuộc lĩnh vực khoa
học tự nhiên và khoa học xã hội mũi nhọn, các giáo sư uyên bác, các bác sĩ tài ba và
những người quản lý xã hội các cấp, v.v. họ đều thuộc phạm trù giai cấp công

nhân”(8).
Dĩ nhiên, quan điểm trên đây của các nhà khoa học Trung Quốc có thể còn phải bàn
luận thêm, nhất là một số ý của câu sau cùng, song, việc đề cập đến trình độ học vấn
của công nhân trong tất cả các lĩnh vực ngày càng được nâng cao, hoặc như C.Mác
gọi là “giai cấp vô sản trí óc”, “giai cấp đông đảo những người giám đốc công nghiệp
và thương nghiệp” phản ánh đúng xu hướng phát triển của giai cấp công nhân đương
đại. Có thể nói, đây là những cơ sở hết sức quan trọng mà chúng ta cần tham khảo để
đánh giá hiện trạng và xem xét xu hướng phát triển của giai cấp công nhân nước ta
trong giai đoạn sắp tới.
4. Một sự thật khác đã trở nên phổ biến trên thế giới và cũng đã bắt đầu hiện diện ở
nước ta cần được tính đến là không phải mọi công nhân, không phải toàn bộ giai cấp
công nhân đều là thuộc “giai cấp những người hoàn toàn không có của cải”, “không
có tài sản”, “hoàn toàn không có tư liệu sản xuất”, hoàn toàn “không sống bằng lợi
nhuận”, đều là vô sản. Ngay ở nước ta, chính quá trình đổi mới nền kinh tế từ nền

kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường; chính việc chuyển đổi các hình
thức sở hữu, việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu, việc cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nước, việc bán cổ phần ưu đãi cho công nhân, việc huy động vốn của các
công ty cổ phần, v.v. đang từng bước làm cho một bộ phận công nhân trở thành
những người chủ sở hữu thực sự bên cạnh những người công nhân là đồng sở hữu
khu vực kinh tế nhà nước. Mặc dù rất khó để những người làm lý luận có thể đưa ra
các đánh giá chính xác về mức độ, tỷ lệ số công nhân nước ta hiện đã có quyền sở
hữu thực sự đối với các loại tài sản và vốn liếng đã được họ đem ra đầu tư vì cho đến
nay không có một thống kê hay một nghiên cứu chính xác và cụ thể nào về vấn đề
này được công bố, song thông qua những sự kiện thực tế và sự cảm nhận qua các
cuộc khảo sát ở tất cả các vùng miền khắp cả nước có thể thấy được những thay đổi
này.
5. Từ tất cả những điều trình bày trên đây có thể rút ra một số nhận định sau đây về
xu hướng phát triển của giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn sắp tới khi đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế.
5.1. Trong thời gian qua và nhất là sắp tới, giai cấp công nhân sẽ có sự thay đổi lớn
không những về số lượng mà cả về chất lượng, thay đổi về khu vực và ngành nghề,

về quyền sở hữu tài sản.
Mặc dù khu vực kinh tế nhà nước giảm đi rõ rệt nhưng khu vực kinh tế tư nhân và cổ
phần, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hoặc 100% vốn nước ngoài lại tăng mạnh,
cho nên nhìn trên tổng thể thì yêu cầu về lao động đã và vẫn sẽ tăng rất nhanh. Nếu
năm 2000, số lao động trong các doanh nghiệp khu vực nhà nước là 2.088.531 người,
chiếm tới 59,05% tổng số lao động trong các doanh nghiệp cả nước là 3.536.998
người, thì vào năm 2006, số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước chỉ còn là
1.899.937, chiếm tỷ lệ 28,29% trong tổng số 6.715.166 người ở cả 3 khu vực. Để đáp
ứng nhu cầu tăng số lượng công nhân của tất cả các khu vực kinh tế quốc dân trong
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá thì một bộ phận lao động không nhỏ từ nông
thôn sẽ gia nhập hàng ngũ công nhân. Điều này có ảnh hưởng nhiều mặt đến giai cấp
công nhân mà dưới đây chúng ta sẽ nói đến.

Tuy con số lao động tuyệt đối trong các doanh nghiệp khu vực nhà nước giảm không
thật nhiều nhưng tỷ lệ giảm lại khá lớn. Trong khi đó, số lao động trong các doanh
nghiệp khu vực ngoài nhà nước và các doanh nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài lại có tỷ lệ tăng rất đáng kể. Nếu vào năm 2000 cả hai khu vực này chỉ chiếm
có 40,95% (29,42%+11,53%) thì cho đến cuối năm 2006, tỷ lệ đó đã tăng lên tới
71,71% (50,19%+21,52%).
Nếu các số liệu trong Niên giám thống kê năm 2007(9) là hoàn toàn chính xác thì
chúng ta cũng rất khó xác định (hoặc không thể xác định) trong số 6.715.166 người
lao động đang làm việc tại tất cả các loại hình doanh nghiệp của cả nước (doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần hoá, doanh nghiệp tư nhân các loại) có bao
nhiêu người có quyền sở hữu hoặc không có quyền sở hữu cũng như mức độ sở hữu
của họ là như thế nào. Mặc dù vậy, có một điều chắc chắn là tất cả 1.445.374 người
(tức là 21,52% tổng số người lao động trong các doanh nghiệp của cả nước) hiện
đang làm việc trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều là những
người hoàn toàn không có quyền sở hữu mà chỉ là những công nhân làm công hưởng
lương, hay nói cho đúng ra, đều là những người đang bán sức lao động, đang làm
thuê cho các nhà tư bản nước ngoài để nhận tiền công theo hợp đồng lao động.
5.2. Sự thay đổi về cơ cấu kinh tế và sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội đã
làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân cũng thay đổi. Cụ thể là, sự thay đổi ở khu

vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã kéo theo sự thay đổi
quan trọng rất đáng chú ý, không chỉ là sự thay đổi tính chất các loại hình sở hữu, mà
còn dẫn đến sự thay đổi cả tỷ lệ trong số lượng công nhân, trình độ công nhân và
thành phần giai cấp công nhân, hay có thể nói là dẫn đến sự phân tầng trong nội bộ
giai cấp công nhân. Sự phân tầng này biểu hiện trên tất cả các mặt từ trình độ học
vấn, trình độ nghề nghiệp, mức thu nhập đến quyền sở hữu tài sản.
Trước hết, về trình độ học vấn và trình độ nghề nghiệp.
Nếu xét về trình độ học vấn thì tỷ lệ công nhân lao động không biết chữ và chưa tốt
nghiệp phổ thông cơ sở năm 2005 đã giảm xuống chỉ còn ở mức 3,3% so với 5,1%
vào năm 1996. Trong khi đó, số công nhân lao động có trình độ phổ thông trung học

đã tăng từ 56% năm 1996 lên 82,44% vào năm 2005. Xu hướng trình độ học vấn của
công nhân tất cả các khu vực kinh tế được nâng cao thêm nữa trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hoá là hiện thực. Xu hướng nâng cao trình độ học vấn này sẽ tác
động không nhỏ đến xu hướng phân tầng mạnh hơn trong nội bộ giai cấp công nhân.
Trình độ nghề nghiệp của công nhân mấy năm gần đây tuy có tăng hơn nhưng nói
chung tốc độ tăng còn tương đối chậm, mặc dù số người chưa qua đào tạo đều đã
giảm dần qua từng năm. Nếu tính riêng số công nhân chưa qua đào tạo nghề nghiệp
năm 2005 chỉ là 25,1% so với 45,7% năm 1996 thì số lao động nói chung chưa qua
đào tạo nghề nghiệp như vậy của cả nước hiện nay vẫn còn khá cao. Bên cạnh đó, sự
mất cân đối về ngành nghề và về trình độ chuyên môn của công nhân lao động giữa
các ngành nghề, nhất là giữa các vùng và các miền, là rất đáng kể. Cụ thể hơn,
theo đánh giá của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì trong cả nước, số lao
động chưa qua đào tạo hiện đang là hơn 74,6% (riêng khu vực đồng bằng sông Cửu
Long con số đó là rất cao, tới 83,25%). Tình hình này chắc chắn sẽ được khắc phục và
nhất định phải phải sớm được khắc phục do chúng ta đã có ý thức hơn trước những đòi
hỏi cao và cấp thiết của sự phát triển kinh tế.
Mặc dù mặt bằng chung về trình độ học vấn và trình độ nghề nghiệp chuyên môn của
công nhân trong những năm qua có tăng lên nhưng đồng thời sự đòi hỏi của các
ngành nghề, các khu vực và các lĩnh vực kinh tế đối với đội ngũ này lại rất khác
nhau. Đặc biệt, khi chúng ta càng đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại,
khi càng hội nhập sâu với thế giới để đi vào nền kinh tế tri thức thì càng đòi hỏi một

số lượng lớn hơn số người lao động có học vấn, có trình độ nghề nghiệp chuyên môn
cao cao hơn nữa. Vì vậy, sự phân tầng, nếu xét về trình độ học vấn và trình độ
chuyên môn, là điều khó tránh khỏi, là tất yếu. Sẽ hình thành các tầng lớp công nhân
tri thức, tầng lớp giám đốc, kỹ thuật, đốc công, quản lý, v.v Tính tất yếu này dẫn
đến một tất yếu khác là sẽ có sự phân tầng về mặt lương thưởng, về mặt hưởng thụ
hay về thu nhập nói chung. Hiện nay, chúng ta đang được chứng kiến sự chênh lệch
khá lớn, có khi đến hàng chục lần, về thu nhập của công nhân không chỉ thuộc các
ngành kinh tế khác nhau, mà của cả các tầng lớp công nhân khác nhau trong cùng

một ngành kinh tế nhưng thuộc các khu vực khác nhau (khu vực nhà nước, khu vực
tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài). Mặc
dù có những sự chênh lệch và khác biệt như vậy nhưng xu hướng trí tuệ hoá, tri thức
hoá giai cấp công nhân sẽ là xu hướng tất yếu khi đất nước đẩy mạnh tiến trình công
nghiệp hoá theo hướng hiện đại cho đến khi về cơ bản trở thành nước công nghiệp.
5.3. Sự phân tầng trong công nhân còn do quyền sở hữu và mức độ sở hữu tài sản
khác nhau hoặc không có quyền đó trong thực tế, do có hay không có tài sản hoặc
nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế hoặc các lĩnh vực hoạt động khác nhau
(sản xuất, kinh doanh, chứng khoán, tiết kiệm ngân hàng, v.v.) quyết định. Như đã
nói ở trên, hiện người nghiên cứu chưa có những số liệu đáng tin cậy để có thể đánh
giá chính xác sự phân tầng do nguyên nhân này nhưng có cơ sở để tin rằng đó là hiện
tượng có thực có thể cảm nhận được.
5.4. Những hệ quả dễ thấy của tất cả những sự phân tầng trên đây là sự mâu thuẫn về
lợi ích, là khoảng cách giàu nghèo trong nội bộ giai cấp công nhân, là sự không
đồng nhất về nhiều mặt.
Sự gia nhập hàng ngũ công nhân của số đông lao động từ nông thôn sẽ làm cho giai
cấp công nhân không còn thuần nhất về thành phần xuất thân, không còn đồng đều
về trình độ giác ngộ chính trị, không còn giữ được sự thống nhất cao về tư tưởng, về
ý thức tổ chức kỷ luật, về tác phong công nghiệp như khi chủ yếu còn là kinh tế nhà
nước, khi nhà máy, xí nghiệp còn thuộc sở hữu toàn dân trước đây. Tầng lớp công
nhân mới xuất thân từ nông dân này cũng như tầng lớp công nhân chủ yếu làm lao
động chân tay đơn giản sẽ là tầng lớp chịu nhiều thiệt thòi nhất, là những người yếu
thế nhất và dễ bị tổn thương nhất. Bên cạnh tầng lớp yếu thế đó lại cũng sẽ hình

thành những tầng lớp có ưu thế, có thu nhập cao, thậm chí rất cao.
Một khi đã diễn ra sự phân tầng, đã hình thành các tầng lớp khác nhau trong nội bộ
giai cấp công nhân thì không tránh khỏi sẽ có những lợi ích khác nhau và dó đó ý
thức cũng sẽ khác nhau. Chính sự khác nhau về lợi ích này sẽ đẻ ra không ít nguy cơ
về tư tưởng, về nhận thức và cả về ý thức tổ chức, do đó sẽ làm giảm sức mạnh đoàn
kết của giai cấp công nhân. Chắc chắn đây sẽ là một trong những hệ quả gây nhiều

rắc rối nhất cho phong trào công nhân và công đoàn, cho sự lãnh đạo của Đảng đối
với giai cấp công nhân và công đoàn. Chính vì vậy mà cần sớm có những khảo sát,
điều tra, nghiên cứu nghiêm túc và thật sự khoa học về hiện trạng và triển vọng sự
phân tầng trong giai cấp công nhân nước ta để từ đó có các giải pháp cho hoạt động
của công đoàn cũng như sự lãnh đạo kịp thời và có hiệu quả hơn của Đảng.
Trên đây chỉ là một số xu hướng lớn trong sự phát triển của giai cấp công nhân nước
ta thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Trong
số các xu hướng ấy, có xu hướng lành mạnh, tốt hơn và chiếm ưu thế nhưng cũng có
xu hướng sẽ làm giảm sự thống nhất, giảm sự đoàn kết, do đó làm giảm sức mạnh
của giai cấp cần được đặc biệt quan tâm. Nhận thức rõ tất cả những xu hướng này để
có những đối sách thích hợp nhằm làm cho giai cấp công nhân dù trong hoàn cảnh
nào cũng giữ được vai trò tiên phong của mình./.

(*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(**) Tất cả các thuật ngữ người lao động ở đây trong Tư bản luận bản tiếng Trung
Nxb Nhân dân Bắc kinh xuất bản năm 1975, tr.556 đều dịch là người công nhân.
Điều này cũng có lý vì vào thời đó giai cấp công nhân được hiểu là những người lao
động làm thuê, là giai cấp vô sản. Chính Ph.Ăngghen, trong Lời tựa viết ngày 15-03-
1845 cho cuốn Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh đã nói rõ: “Tôi thường dùng
những từ: người lao động hoặc công nhân (working men) và người vô sản, giai cấp
công nhân, giai cấp không có của, giai cấp vô sản như những từ đồng nghĩa” (C.Mác
và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.327-328).
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.23. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993,
tr.717-718 Tôi nhấn mạnh – N.T.C.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.4, tr.456, 458.

(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.4, tr.596.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.22, tr.613.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.25, Ph.1, tr.444-446, v.v
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.25, Ph.1, tr.595.

(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương khoá X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.43.
(***) Cần phân biệt lao động trí óc với trí thức. Đây là vấn đề rất phức tạp và còn có
những ý kiến khác nhau, cần được nghiên cứu tiếp



CÁCH THỨC TIẾP THU DI SẢN TƯ TƯỞNG NHÂN LOẠI Ở HỒ CHÍ MINH



ĐỖ HUY (*)
Luận giải nội dung trong những tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu từ di
sản tư tưởng nhân loại (Nho giáo, Cơ Đốc giáo, Phật giáo, Tôn Dật Tiên, Mác -
Lênin,…), trong bài viết này, tác giả đã khẳng định: Mặc dù tiếp thu nhiều dòng tư
tưởng khác nhau, song tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống nhất quán, không lẫn
lộn với bất cứ nhà tư tưởng nào của dân tộc và nhân loại. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh đã thể hiện trình độ phát triển cao về trí tuệ, nhân cách đạo đức và tầm thước
của một vĩ nhân. Nguyên lý triết học chi phối cách tiếp biến các giá trị tư tưởng này
không chỉ là quan điểm toàn diện, chỉnh thể, mà còn là tinh thần khoan dung và gắn
kết với thực tiễn Việt Nam.
Sinh thời, trong một lời tự bạch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Học thuyết của
Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jêsu có ưu điểm
của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc
biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với
điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó
sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội.
Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với

nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học

trò nhỏ của các vị ấy”(1)
Đọc những lời viết trên, khi tiếp cận với tư tưởng Hồ Chí Minh, đã có rất nhiều ý
kiến khác nhau. Có người cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự phát triển một cách
sáng tạo tư tưởng của C.Mác và V.I.Lênin. Không ít người lại khẳng định tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh mang nội dung Nho giáo rõ rệt và chính sách phát triển đất
nước Việt Nam của Người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ chủ nghĩa Tam dâncủa Tôn
Trung Sơn, nhất là khi Người viết: “Tôi kính cẩn cầu Đức Thượng đế phù hộ dân tộc
Việt Nam và giúp cho Việt Nam đi đến cuộc thắng lợi cuối cùng. Thượng đế và Tổ
quốc muôn năm”(2) thì nhiều người tin rằng lòng nhân ái, khoan dung của Jêsu là
một mẫu mực đối với “người học trò nhỏ” Hồ Chí Minh.
Sự thật thì tư tưởng Hồ Chí Minh đã từng tiếp cận và tiếp thu nhiều dòng tư tưởng
khác nhau, đã từng “ mưu cầu hạnh phúc cho loài người”. Tư tưởng Hồ Chí Minh
không chỉ tiếp thu Nho giáo, Cơ Đốc giáo, Mác - Lênin, Tôn Dật Tiên, mà còn tiếp
thu cả Phật giáo, hệ tư tuởng tư sản; ca ngợi cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ; tiếp
cận với tư tưởng về nhà nước của A.Lincôn; cổ vũ tinh thần yêu nước của đạo Cao
Đài, Hoà Hảo. Hồ Chí Minh đã từng viết: “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ, cứu
nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác
ma… Chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca…”(3).
Tiếp thu nhiều dòng tư tưởng khác nhau, song tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
nhất quán, không lẫn lộn với bất cứ nhà tư tưởng nào của dân tộc và của nhân loại,
mặc dù Người tiếp nhận các giá trị từ truyền thống văn hoá của dân tộc và loài người
tiến bộ. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã vận động trong lịch sử dân tộc và loài người, xác
lập thành nền tảng tư tưởng của thời đại Hồ Chí Minh. Đó là thời đại mà nhân dân
Việt Nam đã nâng các giá trị truyền thống lên một tầm cao mới và hiện diện trước
loài người như một dân tộc anh hùng, văn minh, lịch thiệp, hiện đại.
Mỗi nhà tư tưởng lớn trong văn hoá nhân loại đều có sắc thái riêng của mình. Hồ Chí
Minh nói mình là “một người học trò nhỏ” của Khổng Tử! Thật ra, tư tưởng Hồ Chí
Minh không chỉ khác về cơ bản, mà còn vượt rất xa tư tưởng của Khổng Tử trên mọi
phương diện. Hồ Chí Minh ca ngợi ưu điểm của học thuyết Khổng Tử là tu dưỡng cá
nhân, song ngay từ năm 1927, Người đã viết: “Khổng giáo dựa trên 3 sự phục tùng:


quân - thần; phụ - tử; phu - phụ và năm đức chủ yếu: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Khổng
Tử đã viết Kinh Xuân thu để chỉ trích “những thần dân nổi loạn” và “những đứa con
hư hỏng”, nhưng ông không viết gì để lên án những tội ác của “những người cha tai
ác” và “những hoàng tử thiển cận”… Ông rõ ràng là người phát ngôn bênh vực
những người bóc lột chống lại những người bị áp bức… Nếu Khổng Tử sống ở thời
đai chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm ấy thì ông sẽ trở thành
phần tử phản cách mạng”(4).
Theo Hồ Chí Minh, về mặt học thuyết thì tư tưởng của Khổng Tử là hệ tư tưởng chỉ
phù hợp với “một xã hội bình yên không bao giờ thay đổi” và do vậy, trênphương
diện hệ thống, nó không thể phù hợp với xã hội mới. Song, về yếu tố,nó thiên về triết
lý nhập thế, hành đạo giúp đời, mong muốn thế giới đại đồng có những kỹ năng giáo
dục đạo đức tỉ mỉ; mặc dù không phải nội dung của mọi yếu tố này đều mang ý nghĩa
tiến bộ. Khi nghiên cứu nội dung của những yếu tố trong học thuyết của Khổng Tử,
Hồ Chí Minh đã tách chúng ra khỏi ý thức hệ của giai cấp phong kiến thống trị, giai
cấp từng tạo sự bất bình đẳng về giới tính, thế hệ, giai cấp và dân tộc. Người cũng sử
dụng những khái niệm nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư
của Nho giáo, nhưng đó là Nho giáo đã Việt Nam hoá, mang rất nhiều yếu tố dân tộc
và tam giáo đồng hành. Những yếu tố này đã được Người xây dựng nội hàm cách
mạng và hiện tại trong hệ thống tư tưởng của mình. Nội hàm của những khái niệm
này khác hoàn toàn với nội hàm thuộc hệ tư tưởng Nho giáo.
Cũng như vậy, Hồ Chí Minh đã ca ngợi lòng nhân ái cao cả của Thiên Chúa giáo.
Chúa Jêsu đã kêu gọi con chiên của Chúa “Hãy yêu kẻ thù của mình, làm ơn cho kẻ
ghét mình, cho phước cho kẻ rủa mình và cầu nguyện cho kẻ sĩ phục mình”. Chúa
Jêsu dạy con người không tham lam, trộm cắp, hãy sống trong sạch, hãy cho khi
người ta xin. Hồ Chí Minh đã đọc rất kỹ Tân ước và Cựu ước, hiểu thấu đáo sách
Mathiơ và Luca. Người thấy nhân tố thương yêu con người thì Thiên Chúa giáo với
Khổng giáo cũng cùng chung một ưu điểm. Trong một bức thư phúc đáp ngài
G.Bidon, Thủ tướng của Chính phủ Pháp - nước đang xâm lăng Việt Nam lúc đó,
Người đã viết: “Chúng ta đều được kích thích bởi một tinh thần. Triết lý đạo Khổng,

và triết lý phương Tây đều tán dương một nguyên tắc đạo đức: “Kỷ sở bất dục, vật
thi ư nhân”(5). Nhấn mạnh lòng thương người của một số học thuyết tôn giáo, một

lần khác, Người lại viết: “Chúa Jêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo
đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”(6). Tiếp thu tư tưởng nhân ái
bao la của Đức Chúa Jêsu, song Hồ Chí Minh cũng thấy rằng, “cách đây 2000 năm,
Đức Chúa Jêsu đã nói là ta phải yêu mến các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn
chưa thực hiện được”(7).
Vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là thương người, mà cònphải
hành động như thế nào để giải thoát cảnh cực khổ của những người bất hạnh. Khi
tiếp thu triết lý thương người của mọi tôn giáo, Hồ Chí Minh đã tìm cách giải thoát
những con người đang bị áp bức, bóc lột ra khỏi lầm than, cơ cực. Khi đồng cảm với
triết lý thương người của Đức Chúa Jêsu, Người không dừng lại ở triết lý ấy trong
suy nghĩ mà luôn hành động, luôn thực hiện cái triết lý ấy trong hoạt động thực tiễn.
Giáo sư Trần Văn Giàu, khi nghiên cứu tình thương yêu bao la của Hồ Chí Minh, đã
viết rằng: “Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn giải thoát của
những lớp người hèn yếu, lao khổ, của các dân tộc bị chà đạp, giải thoát chính bằng ý
thức, lực lượng của mình”(8).
Khi tiếp thu các tư tưởng nhân ái bao la của các bậc đại nhân tiền bối, Hồ Chí Minh
không chỉ gắn tình yêu của mình vào con người, vào đồng loại, rộng lượng đối với
kẻ thù, chấp nhận độc thoại giữa các chính kiến, mà còn quan tâm sâu sắc hơn đến
việc thực hiện, việc giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con
người. Yêu con người, Hồ Chí Minh đã tìm mọi phương thức mang lại tự do cho con
người. Triết lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Người chính là hệ quả của
cách tiếp thu lòng nhân ái bao la của các bậc đại trí, đại nhân tiền bối.
Ai cũng biết Hồ Chí Minh là một người mácxít. Trong lời tự bạch dẫn ở trên, Người
đã ca ngợị phương pháp làm việc biện chứng của chủ nghĩa Mác. Chính chủ nghĩa
Mác - Lênin đã thức tỉnh và làm hoàn thiện chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh gắn
với thời đại mới. Khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin đã cung cấp cách nhìn mới về
thế giới cho mình, Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động,

phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một
mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi
đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta”(9).

Hoàn toàn tin theo phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh đã
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam ngay từ những năm 20 của thế kỷ
XX. Theo phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác, Người đã xuất bản
báoLeParia, viết báo L’humanité và La vie Ouvriere, công bố Bản án chế độ thực
dân Pháp, Đường Cách Mệnh và nhiều tác phẩm lớn khác. Trong ý tưởng triết học
của Người, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác là một thế giới khoa học, là
một vũ khí cách mạng mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Nhiều người thấy Hồ Chí
Minh vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp luận mácxít đã khẳng định tư tưởng Hồ
Chí Minh chính là tư tưởng của chủ nghĩa Mác được vận dụng vào thực tiễn Việt
Nam. Chính Người đã chỉ ra rằng: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một
triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì?
Đó chưa phải là toàn nhân loại”(10).
Phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác đã chỉ dẫn cho Hồ Chí Minh mối quan
hệ tương hỗ giữa cái riêng và cái chung, giữa dân tộc và nhân loại, truyền thống và
hiện đại, dân tộc và tộc người, cá nhân và xã hội, lý luận và thực tiễn trong quá trình
phát triển. Người thấy rõ nguyên tắc căn bản của phương pháp biện chứng mácxít là
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn. Người viết: “Trong khi nhấn mạnh sự quan
trọng của lý luận, đã nhiều lần đồng chí Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách
mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng; và lý
luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn
cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động… Phải
cụ thể hoá chủ nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng lúc và
từng nơi”(11). Do vậy, theo Người, “học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái
tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình… Học để mà
làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”, chứ không phải “học thuộc lòng”, “học để trang

sức”(12).
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh tuy hội tụ những giá trị nhân văn cao cả trong các
học thuyết Khổng Tử, Jêsu, C.Mác và V.I.Lênin, nhưng tư tưởng đó là tư tưởng Hồ
Chí Minh chứ nhất định không thể là tư tưởng Nho giáo, Thiên Chúa giáo, Mác -
Lênin hay Tôn Văn. Một số người đã dựa vào lời tự bạch của Hồ Chí Minh: “Chủ
nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta”

để cho rằng, trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Tôn Văn biểu hiện
khá rõ nét trên nhiều lĩnh vực chính trị quan trọng.
Chủ nghĩa tam dân (dân tộc, dân quyền, dân sinh) của Tôn Trung Sơn là một học
thuyết nằm trong phạm trù cách mạng tư sản khi phong trào duy tân nổi lên ở Nhật
Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Ở Việt Nam, do ảnh hưởng chủ nghĩa tam dân của
Tôn Trung Sơn, học thuyết dân quyền với những nội dung dân sinh, dân trí, dân khí
đã được các nhà ái quốc trong phong trào Duy Tân đề xướng. Hồ Chí Minh ngưỡng
mộ Tôn Dật Tiên không chỉ ở chủ thuyết dân tộc, dân quyền, dân sinh, mà còn tìm
hiểu chủ trương “Liên Nga, liên cộng, phù trợ công” này của ông. Tôn Dật Tiên đã
phê phán đạo đức học của Hán và Tống Nho, đồng thời xây dựng lý tưởng đạo đức
thiên hạ vị công.
Sự gặp gỡ giữa tư tưởng của Tôn Trung Sơn với Hồ Chí Minh là gặp ở quan điểm
về chủ nghĩa dân tộc. Trong chủ nghĩa tam dân, Tôn Trung Sơn quan tâm sâu sắc đến
quyền lợi dân tộc. Ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh cũng đã nhận định: “Chủ nghĩa
dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Cùng với chủ nghĩa dân tộc, Người cũng
rất quan tâm tới xây dựng một nền đạo đức mới vượt qua học thuyết đạo đức của
Khổng Tử. Song, trong tư tưởng của Người, chủ nghĩa dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa quốc tế. Người viết: “Khi chủ nghĩa dân tộc… thắng lợi, thì… nhất định chủ
nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”(13).
Hồ Chí Minh đã nói tới độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào, hạnh phúc cho nhân
dân. Ở Người, đặc điểm nổi bật là tin tưởng sắt đá vào sức mạnh của nhân
dân. Phạm trù nhân dân đã tạo nên sức sống và sự sáng tạo to lớn trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Người viết: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới

không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(14). Tin tưởng vào sức mạnh
của nhân dân với ý nghĩa nhân dân là người có thể cách mạng tới cùng thì không thể
giống với tư tưởng dân sinh của Tôn Văn.
Rõ ràng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có sự tiếp thu nhiều di sản tư tưởng trong
văn hoá nhân loại, nhưng đây là một sự tiếp biến đặc biệt, sự tiếp biến vượt gộp để
tạo ra một giá trị tư tưởng độc đáo, mới mẻ, cách mạng. Trong hệ tư tưởng Hồ Chí
Minh, chúng ta thấy rất rõ nền tảng tinh thần sâu sắc nhất là những giá trị truyền
thống của dân tộc. Đó là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần khoan dung, ý chí tự lực tự

cường và ý thức đoàn kết. Song, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần khoan dung, ý chí tự lực tự cường, ý thức đoàn kết dân tộc truyền
thống. Nếu Hồ Chí Minh chỉ là hiện thân của những giá trị văn hoá truyền thống thì
tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không vượt qua chủ nghĩa dân tộc chật hẹp của nhiều
nhà tư tưởng trong nền văn hoá truyền thống Việt Nam. Cũng thế, nếu Hồ Chí Minh
chỉ tiếp thu sự tu dưỡng trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử, lòng nhân ái của
Jêsu, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác và chính sách Tam dân của Tôn
Dật Tiên thì tư tưởng của Người cũng không vượt qua được những hạn chế của thời
đại phản ánh trong hệ tư tưởng của những nhà tiền bối. Chính nhờ đã cởi bỏ đựơc
chiếc dây ràng buộc học thuyết của các vị tiền bối trong khuôn khổ tính thời đại của
họ mà tư tưởng Hồ Chí Minh đã mang giá trị của thời đại mới, vượt hẳn những tư
tưởng của thời đại đã qua. Hồ Chí Minh đã tiếp biến nhiều tư tưởng của các vị tiền
bối và các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc ta trong thời đại cách mạng khoa
học - kỹ thuật và những phong trào cách mạng lớn đang dâng lên cuồn cuộn ở thế kỷ
XX: phong trào dân chủ, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào xã hội chủ
nghĩa.
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt qua chiếc áo chật trong tư tưởng tu thân
của Khổng Tử. Chủ nghĩa nhân văn hành động của Hồ Chí Minh đã vượt xa lòng
thương người của tôn giáo Jêsu. Sự vận dụng sáng tạo phép biện chứng của chủ
nghĩa Mác vào việc giải quyết những vấn đề dân tộc ở Việt Nam đã làm phong phú
phép biện chứng duy vật và mang một sức mạnh mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa yêu nước quốc tế ở Hồ Chí Minh khác hẳn với chủ nghĩa vị quốc chật
hẹp. Quan điểm về tính nhân dân với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội của Hồ Chí Minh khác rất xa với chủ nghĩa Tam dân Tôn Trung Sơn. Phong
cách tư duy của Hồ Chí Minh là phong cách tư duy tổng hợp, khái quát, độc lập, tự
chủ, sáng tạo gắn với thực tiễn đang vận động.
Tiếp biến nhiều dòng tư tưởng trong di sản tinh thần của nhân loại, song tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống tư tưởng được hình thành trong ba phong trào lớn của thế
kỷ XX, nhằm đưa dân tộc Việt Nam tới độc lập, đất nước thống nhất tiến lên chủ
nghĩa xã hội, nhân dân được sống tự do, ấm no, hạnh phúc, góp phần ổn định tình
hình thế giới, phát triển hữu nghị giữa các dân tộc, vì tiến bộ xã hội và sự phát triển

tốt đẹp các giá trị cá nhân và cộng đồng con người và tự nhiên.
Cách tiếp thu các di sản tư tưởng nhân loại của Hồ Chí Minh đã xác lập hệ tư tưởng
Hồ Chí Minh sáng tạo, thống nhất bởi bốn tiểu hệ thống:
Thứ nhất là chủ nghĩa yêu nước và tình yêu con người. Đó là tình yêu những con
người bị áp bức, bị bóc lột; là chủ nghĩa yêu nước quốc tế kết hợp với sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh cá nhân với sức mạnh cộng đồng trên cơ sở tư
tưởng nền tảng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Thứ hai là tư tưởng xây dựng nhà nước kiểu mới. Đó là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, trên cơ sở một nền dân chủ của dân, do dân, vì dân và sức mạnh thuộc về
nhân dân.
Thứ ba là tư tưởng về tương lai của con người, của xã hội loài người, của đất nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một chủ nghĩa xã hội Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là “xã hội văn hoá cao”.
Thứ tư là tư tưởng về mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, con người và tự nhiên.
Đó là những tư tưởng lớn về một thế giới hoà bình, đầy tình hữu nghị, về một môi
trường tự nhiên thân thiện, tươi đẹp và trong lành.
Bốn tiểu hệ thống này liên kết với nhau bởi quan điểm toàn diện nhằm gắn sự phát
triển đời sống vật chất với đời sống tinh thần của con người, truyền thống với hiện
đại, cá nhân với xã hội, dân tộc với quốc tế, con người với tự nhiên.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ trình độ phát triển cao về trí tuệ, nhân
cách đạo đức và tầm thước của một vĩ nhân, khi tiếp biến các giá trị tư tưởng của
truyền thống và nhân loại. Nguyên lý triết học chi phối cách thức tiếp biến các giá trị
tư tưởng truyền thống và nhân loại không chỉ là quan điểm chỉnh thể, toàn diện mà
còn là tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh. Có lần Người đã tự bạch rằng: “Phải có
độ lượng vĩ đại thì mới có thể… chí công vô tư”, “sông to, biển rộng, thì bao nhiêu
nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một
chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ”(15).
Yêu con người, yêu đồng loại, yêu người cùng khổ, tin tưởng và yêu thương nhân
dân, yêu thiên nhiên từ mầm lá đến nhành hoa, rộng lượng đối với kẻ thù, chấp nhận
đối thoại giữa các chính kiến là nhân cách Hồ Chí Minh, khi tiếp biến các di sản tư
tưởng trong văn hoá nhân loại. Nhờ cách tiếp thu sáng tạo những di sản này để mưu

cầu hạnh phúc cho dân tộc và loài người và với nhiều cống hiến khác trong giáo dục
nghệ thuật, giao lưu quốc tế và giữ gìn bản sắc dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
được UNESCO tôn vinh là một anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất
của nhân loại./.

(*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Hồ Chí Minh Truyện (Bản dịch Trung văn của Trương Niêm Thức. Bát Nguyệt
xuất bản xã Thượng Hải xuất bản, 1949). Dẫn theo: Phan Văn Các. Nho giáo xưa và
nay. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.490.

(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.197.
(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.2, tr.453 - 454.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.267.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.6, tr.225.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.272.
(8) Trần Văn Giàu. Vĩ đại một con người. Nxb Long An, 1990, tr.92.

(9) Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.127.

(10) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.464 - 465.
(11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.496.
(12) Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr.292.
(13) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.467.
(14) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.279.
(15) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.279, 644.




NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG “XÃ THƯƠNG PHÁP” CỦA CHU HY VÀ VAI
TRÒ ĐẢM BẢO XÃ HỘI CỦA NÓ

TRƯƠNG PHẨM ĐOAN (*)

Chế độ lấy vật chất hiện thực để đảm bảo xã hội có lịch sử lâu đời ở Trung Quốc cổ
đại, trong số đó được tôn sùng là “Xã thương pháp” của Chu Tử. Nội dung cơ bản
của nó là: thứ nhất, xã thương thiết lập ở hương lý, quan đốc dân làm; thứ hai, cho
vay mượn để thu lợi tức, tự hành tích luỹ của cải, tài sản; thứ ba, tác dụng của xã
thương pháp đối với những năm mất mùa là cứu tế, những năm không mất mùa là
giúp đỡ người nghèo, đảm bảo sức sản xuất, tái sản xuất. Thực thi xã thương pháp
không chỉ giảm gánh nặng kinh tế cho triều đình, mà còn làm thay đổi quan điểm
của triều đình đối với người dân gặp thiên tai. Ngoài ra, xã thương pháp còn có tác
dụng giáo dục nông dân về ý thức tự đảm bảo cuộc sống và duy trì sự ổn định của
xã hội.
Vào năm 1171, tại xã Khai Diệu, thôn Ngũ Phu, Sùng An, Phúc Kiến (nay là thành
phố Vũ Di Sơn), Chu Hy đã sáng tạo ra “Ngũ Phu xã thương”. Trên cơ sở tổng kết
những kinh nghiệm thực tiễn, ông còn đặt ra “Xã thương sự mục”. Vào đời Thuần

Hy năm thứ 8 (1181), ông đã dâng trình Nam Tống Lý Tông hoàng đế phê chuẩn
“Hành hạ chư lộ châu quân”(1). Sau đó, “xã thương pháp” đã trở thành phương
thức chủ yếu của việc cứu tế xã hội và tích trữ lương thực đề phòng mất mùa ở
nông thôn. Xã thương pháp của Chu Hy (người sau gộp “xã thương sự mục” với
phương pháp quản lý kinh doanh “Ngũ Phu xã thương” và gọi chung là “xã thương
pháp Chu Tử”) trở thành một hình thức lấy “thực vật” (vật chất hiện thực - ND) để
thực hành việc đảm bảo xã hội. Xã thương pháp của Chu Hy đã có tác dụng hết sức
quan trọng trong việc đảm bảo xã hội Trung Quốc cổ đại, được người sau tôn vinh là
“tiên Nho kinh tế thịnh tích” (tạm dịch: dấu tích kinh tế hưng thịnh của tiên Nho -
ND). Hiện nay, nghiên cứu xã thương pháp của Chu Hy (sau đây gọi tắt là xã thương
pháp) vẫn là một việc làm có ý nghĩa cần thiết.
1. Nguyên nhân ra đời của xã thương pháp và sự phát triển của nó
Thời Nam Tống, đời Lý Tông năm thứ 4 (1167), khu vực Mân Bắc của Phúc Kiến
có trận lụt to, khi đó Chu Hy đang ở huyện Sùng An, Khai Diệu hương, Ngũ Phu
thôn. Ông “xuất phát từ trận lụt ở Sùng An, thảo hịch trình quan huyện để đề nghị
cứu trợ”(2). Sau khi đi thị sát tình hình lũ lụt, ông dâng sớ phản ánh tình trạng thiên
tai, đồng thời cảm thán nói: “Nay những kẻ no đủ, thờ ơ với nỗi khổ của dân”(3).
Để giải quyết thiên tai, Chu Hy đã kêu gọi những gia đình có tấm lòng từ thiện hãy

dành ra những khoản lương thực dư thừa, dựa vào giá thông thường để bán cho
người dân bị thiên tai; đồng thời ông còn viết thư cho quan tri phủ huyện Kiến Ninh
để kêu gọi mở kho dự trữ lương thảo cứu tế cho nhân dân, làm lợi cho sản xuất. Tri
phủ huyện Kiến Ninh sau khi nhận được thư, liền lệnh cho tri huyện Sùng An đưa
thuyền vận chuyển 600 hộc lúa đến bến Hưng Điền huyện Sùng An. Chu Hy dẫn
người dân không quản đêm tối chuyển lúa về Khai Diệu hương phát cho mọi người,
do đó tình hình thiên tai dần được giải quyết, “người dân thoát khỏi cảnh chết đói,
hết sức mừng vui”(4). Đến cuối năm, người dân được mùa bội thu, liền chọn lựa
lương thực tốt mang đến kho huyện hoàn trả. Tri phủ Kiến Ninh mới về nhận chức,
khi chứng kiến cảnh này đã hết sức vui mừng. Năm sau, Chu Hy lại viết thư cho tri
phủ mới của Kiến Ninh đề nghị: “Lương thực tích trữ ở nhà dân, không tiện lợi cho

việc trông coi, thu nạp, đề nghị áp dụng theo phương pháp trước đây, lấy xã thương
để làm nơi tích trữ….”(5). Sau đó, Tri phủ Kiến Ninh đã bỏ tiền ra xây kho. Mùa
thu năm 1171, kho trữ lương ở Ngũ Phu đã hoàn thành, mang lại cái lợi lớn cho
dân.
Sau khi Chu Hy xúc tiến việc xây kho ở Ngũ Phu; Kiến Dương, Quang Trạch, Kiến
Ninh, Thuận Xương, v.v. của huyện Mân Bắc cũng tiến hành xây dựng xã thương.
Không lâu sau đó, Mân Bắc đã có hơn 100 xã thương, việc xây dựng xã thương ở
thời gian này phát triển cực thịnh. Về sau, xã thương không ngừng mở rộng ra các
nơi khác. Thời Nam Tống, đời Thuần Hy năm thứ 2 (1175), cha của Lữ Tổ Khiêm,
một nhà nho lớn ở Triết Đông đến diện kiến Chu Hy, khi đến Ngũ Phu, tận mắt
chứng kiến ưu điểm của xã thương, khi quay về lập tức bắt tay xây dựng xã thương.
Tiếp theo, đến lượt Giang Tô, Giang Tây xây dựng xã thương. Từ thời Nam Tống,
đời Thuận Hy thứ 8 (1181) trở về sau, do sự thúc đẩy của Chu Hy và Lý Tông, xã
thương lan rộng trong toàn quốc, đồng thời trở thành hình thức chủ yếu tích trữ
lương thực để đề phòng thiên tai, mất mùa ở nông thôn.
Ở đây, cần nói rõ một điểm, xây dựng xã thương hoàn toàn không phải do Chu Hy
là người đầu tiên đưa ra. Ngay ở đời Tống, theo ghi chép: “Xã thương xây dựng ở
thời Bắc Tống năm Nhân Tông thứ nhất (1041)… xây dựng xã thương ở châu
huyện”(6). Nhưng việc xây dựng xã thương ở xã thôn thì Chu Hy là người đầu tiên.
Lý Tâm Truyền đời Tống nói: “Chu Nguyên Hối tiên sinh xây dựng ở xã thôn, mỗi

năm cho dân vay, cuối năm thu lại, nay nếu xây dựng xã thương ở xã thôn, giúp cho
người dân được thuận lợi, đó chính là hợp với ý của tiên sinh”
(7)
. Minh Gia Cảnh
trong “Kiến Ninh phủ chí” cũng ghi: “Xã thương không do quan lại nắm giữ, nó
nguyên là của người dân xã thôn, những người dân mất mùa đói kém cầu sự no đủ
mà không muốn phạm pháp, liền hợp lực, mua ruộng tích trữ lương thực, lập ra xã
thương”.
Ưu điểm của xã thương, cổ nhân đã có sự khẳng định. Đổng Hoa Minh đời Minh

trong “Khang tế lục” viết: “Tích trữ những sản phẩm của xã thôn ngay tại xã
thôn,… thì thôn thôn đều có tích trữ, không sợ thiếu đói”.
Tháng 11 năm Thuần Hy thứ 8 (1181), Chu Hy dâng trình Lý Tông hoàng đế thực thi
“xã thương sự mục”. Tháng 12 cùng năm, Lý Tông hoàng đế chuẩn y ban hành “xã
thương sự mục” của Chu Hy ở các châu phủ.
2. Nội dung cơ bản của xã thương pháp
Nội dung xã thương pháp của Chu Tử gồm có 4 điểm:
Thứ nhất, xã thương thiết lập ở xã thôn, quan đốc dân làm. Xã thương phân bố ở xã
thôn có thể kịp thời cứu tế người dân khi gặp nạn, thuận tiện cho dân, khắc phục
những hạn chế của xã thương thông thường. Chu Hy trong “Kiến Ninh phủ, Sùng
An huyện, Ngũ Phu xã thương ký” đã chỉ rõ: “… xã thương theo quan điểm trước
đây, đều đặt ở châu huyện, có thể mang lại ích lợi chỉ là ở thị thành, còn đối với
những nơi “thâm sơn cùng cốc”, có cố gắng mang đến cho người dân, thì có khi
người dân chết đói cũng không đến kịp, lại thêm cách làm nghiêm ngặt, cho vay
khó khăn, thường xuyên đóng kín, thậm chí tích luỹ 10 năm, đến khi đem ra sử
dụng thì không thể dùng được nữa”(8). Xã thương có thể tránh được sự phát sinh
của các vấn đề trên. Xã thương dân làm, tuy có những ưu điểm, song không thể tách
khỏi sự giám sát và trợ giúp của quan phủ. “Xã thương sự mục” quy định:một là,
việc cho vay, thu hồi lương thảo trong kho, đầu tiên cần phải báo cáo châu huyện
phê chuẩn; hai là, khi cho vay và thu hồi, huyện phủ cần cử “quan thanh liêm” đến
hiện trường giám sát, đồng thời mang theo sổ sách, dụng cụ đo lường, dùng đấu
quan phủ để làm tiêu chuẩn; ba là, công việc thu xuất xong xuôi, người phụ trách
xã thương cần sổ sách, ghi chép đến châu huyện báo cáo; bốn là, trong quá trình cho
vay, nếu có vấn đề gì, cần lập tức báo cáo để quan phủ xem xét, giải quyết. Mục đích

của những quy định trên là: thứ nhất, làm cho châu huyện nắm được tình hình xã
thương cũng như tình hình cứu tế để dễ bề điều chỉnh; thứ hai, để ngăn chặn, phòng
ngừa các hiện tượng tham ô, gian dối phát sinh. Tất cả những điều đó đã nói lên xã
thương chứa đựng một cách rõ nét đặc điểm “quan đốc dân làm”.
Thứ hai, xã thương pháp quy định cho vay thu lãi, tự tiến hành tích luỹ tiền, tài sản.

Việc tích trữ lương thảo kho quan, trong lịch sử đa phần áp dụng biện pháp thu
thuế. Việc thu thuế, bất luận là áp dụng theo mẫu ruộng hay theo hộ, v.v. đều xâm
hại đến lợi ích của địa chủ quan liêu, luôn gặp phải sự chống đối của họ. Ngoài ra,
lương thực trong kho thường bị quan phủ chuyển sang việc khác, danh không phù
hợp với thực. “Xã thương sự mục” quy định biện pháp cho vay thu lãi như sau:
“Mỗi thạch thu lãi hai đấu”, “hoặc là khoản vay nhỏ, thì miễn lãi một nửa; còn khi
nạn đói xảy ra thì miễn hoàn toàn”. Đến khi có lãi nhiều thì “càng không lấy lãi,
mỗi thạch chỉ thu 3 thăng”(9). Khi mùa giáp hạt, thì thu lãi mỗi thạch 3 đấu, lãi này
không phải là thấp, cũng khá là ưu đãi. Quy định như vậy về lãi suất chủ yếu nhằm
không ngừng tăng lượng tích trữ lương thực, lấy nhiều bù đắp thiếu, đạt được mục
tiêu cứu trợ thiên tai. Chu Hy áp dụng biện pháp cho vay lấy lãi, mỗi năm tích luỹ
nhiều hơn để xây dựng và phát triển xã hội, kết quả thu được rất tốt.
Thứ ba, lương thảo trong kho dùng cho cứu chẩn trong những năm thiên tai, giúp
đỡ người nghèo những năm không mất mùa. Những kho lương thảo thông thường
dùng cho cứu chẩn, bình thường không mở cửa, thậm chí để lương thực hư hỏng
cũng không cho vay. Xã thương của Chu Hy thì không phải như vậy, ông quy định
trong “xã thương sự mục” như sau: “Những năm không mất mùa, nếu như dân
muốn vay thì cũng mở hai kho, giữ lại một kho. Nếu gặp cảnh đói kém thì mở cả 3
kho, đối với những người dân ở nơi hẻo lánh heo hút thì việc cho vay có mùa
vụ”(10). Quan điểm chủ đạo là: Bất luận năm được mùa hay mất mùa đều cho vay,
năm bình thường cho vay thu lãi, năm mất mùa thì giảm lãi, miễn lãi. Năm mất mùa
dùng để đảm bảo cuộc sống của người dân đói kém, đảm bảo sản xuất; năm bình
thường thì cho vay, giúp đỡ những nông dân cấy trồng ở những nơi “thâm sơn cùng
cốc”, giải quyết cho nông dân những khó khăn trong kỳ giáp hạt. Cách làm như vậy
có thể biến “lúa chết” thành “lúa sống”, phát huy tác dụng trợ giúp sản xuất, tăng
cường tác dụng phòng chống thiên tai, lại vừa tránh cho nông dân nghèo khổ tránh

được phải trả lãi suất cao. Đồng thời, lại giúp cho kho lương thực hàng năm luôn
được đổi mới, không bị ẩm mốc, hư hỏng.
Thứ tư, xã thương dựa vào quan xã, sĩ nhân quản lý. Trong xã hội phong kiến, “trị

nhân không trị pháp”, những quy định nói chung của xã hội không đủ sức mạnh cần
thiết, mấu chốt là ở chỗ người chấp hành các quy định đó. Nếu là người không đủ
thanh liêm công chính và lòng nhiệt tình với công việc chung, lợi ích chung thì dù
có xã thương pháp tốt cũng không thể phát huy tác dụng. Nhằm giải quyết vấn đề
quản lý xã thương, Chu Hy đã đề ra chủ trương “xuất đẳng nhân hộ” có nghĩa là
quan xã, sĩ nhân (còn gọi là cử tử, cử nhân) hoặc những người từ quan.
Theo Chu Hy, dựa vào quan xã, sĩ nhân để quản lý xã thương là tương đối thuần tuý
để dựa vào người đứng đầu, đảm bảo cho lợi ích dài lâu, hạn chế những rủi ro. Từ
góc độ chính trị, Tống Nho tôn sùng Lý học, đa số người đều có tư tưởng lo lắng
cho đất nước, lo lắng cho dân; từ góc độ tu dưỡng đạo đức mà nói, sĩ đại phu đời
Tống lấy việc “giảng đạo đức, bàn nhân nghĩa” làm tấm gương noi theo, họ đều
muốn có tiếng tốt là “có nghĩa hành”, lại thêm gia đình họ khá giả, sẽ không nhân
cơ hội làm quản lý xã thương mà tự tư tự lợi, tham cái lợi nhỏ. Ngoài ra, những
huyện quan, sĩ nhân ở địa phương đều có danh tiếng nhất định, có sức kêu gọi, quy
tụ nhất định. Đồng thời, giữa họ và quan phủ địa phương cũng có sự liên hệ nhất
định, do đó thuận tiện cho công việc,…
Ngoài ra, một vấn đề khó khăn khác của việc quản lý kinh doanh là cho vay thì dễ
nhưng thu hồi thì khó: “Tiền vào tay dân, cho dù dân nghèo cũng không được lạm
dùng; khi muốn thu về, ngay cả người giàu cũng không tránh khỏi quá hạn”. Nhằm
giải quyết vấn đề này, “xã thương sự mục” quy định: Vay lương thực từ xã thương
tất yếu phải có sự đảm bảo, không có người đảm bảo thì không được vay; hộ vay
nếu như không trả hoặc đã chết thì do người đảm bảo chịu trách nhiệm. Những quy
định này có tác dụng thúc người vay tự giác trả, giám sát, nhắc nhở lẫn nhau, cùng
chịu trách nhiệm, giúp cho số lương thực cho vay có thể được trả kịp thời, đủ cơ số,
không dẫn đến tình trạng “kho trống rỗng, khó có thể tiếp tục”.
3. Tác dụng đảm bảo xã hội của xã thương pháp
Việc lấy vật chất hiện thực làm trọng tâm trong chế độ đảm bảo xã hội đã có lịch sử
lâu đời ở Trung Quốc cổ đại, trong số đó được tôn sùng nhiều nhất là “xã thương

×