Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

TIỂU LUẬN: VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 115 trang )






TIỂU LUẬN:

VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ LÃNH ĐẠO, QUẢN
LÝ TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, PHÁT
TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM











Phát triển xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu, lợi ích ngày càng cao, càng phong phú của
các chủ thể xã hội, xét đến cùng, là mục tiêu cơ bản của toàn bộ hoạt động của con
người và xã hội loài người. Vậy, vai trò của nhân tố lãnh đạo, quản lý trong quá
trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam phải được lý giải như thế nào và cách thức để tạo lập sự phát triển
bền vững ở nước ta từ góc độ này là gì? Đó là những vấn đề lý luận và thực
tiễn quan trọng mà bài viết này tiếp cận và kiến giải.

1. Phát triển xã hội và vai trò của nhân tố lãnh đạo, quản lý


Ngày nay, có đủ cơ sở khoa học để khẳng định rằng, quá trình vận động và phát
triển của xã hội loài người diễn ra một cách khách quan dưới tác động của một hệ
thống các quy luật phổ biến. Nguồn gốc của sự vận động và phát triển của thế giới
trước hết là do sự khác biệt tạo nên những mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng;
động lực thúc đẩy sự phát triển là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Nếu không có
đấu tranh giữa các mặt đối lập, tức là không có sự xuất hiện và giải quyết mâu
thuẫn thì không thể có sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế
giới Và, cũng với cách quan sát đó, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định rằng, xã
hội loài người là một bộ phận của thế giới vật chất được “tách” ra từ thế giới ấy
trong những điều kiện đặc biệt. Đó là nấc thang phát triển cao nhất của hệ thống
sống (hữu cơ). Vì thế, như tất cả mọi sự vật của thế giới vật chất, xã hội loài người


cũng trải qua một quá trình, một lịch sử tiến hoá lâu dài.
Từ khi xuất hiện đến nay, lịch sử vận động, biến đổi của nhân loại chẳng qua chỉ là
kết quả của những hành động của con người (cá nhân và cộng đồng) đang theo đuổi
mục đích (thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần) của mình. Vì thế, hoàn toàn đúng
khi nói rằng, con người là nhân vật trung tâm hay chủ thể của mọi sự kiện lịch sử, mọi
tiến trình phát triển xã hội.
(*)

Nếu lập luận trên có lý, thì phát triển xã hội hay nội hàm của khái niệm phát triển
phải bao hàm trong đó những mặt, những quá trình, những kết quả về sự tương tác
giữa CON NGƯỜI và HOÀN CẢNH, trong đó con người vừa là sản phẩm của
hoàn cảnh vừa là tác giả của lịch sử; vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát
triển xã hội. Nói cách khác, phát triển trong bất cứ hình thái xã hội nào đều phụ
thuộc chủ yếu vào con người, con người nhận thức và con người hành động thực
hiện nhu cầu, vào việc tổ chức xã hội, lãnh đạo, quản lý trong sản xuất và tái sản
xuất ra đời sống xã hội.
Theo lôgíc đó, trong sự vận động, phát triển của xã hội loài người, khi lực lượng

sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định và cùng với nó diễn ra sự phân công
lao động xã hội thì sự phân tầng xã hội, phân hoá giai cấp, xuất hiện nhà nước là
một tất yếu. Kể từ đó trở đi có thể nhận thấy, con người với tư cách tổng hoà các
quan hệ xã hội đã tồn tại như một thực thể chính trị. Với tư cách đó, con người và
xã hội đã, đang và sẽ tìm cách thoát khỏi tình trạng trói buộc của tự nhiên, thoát
khỏi tình trạng sản xuất thấp kém, thoát khỏi nghèo nàn, bệnh tật, thoát khỏi tình
trạng bị áp bức, nô dịch (giai cấp, dân tộc), vươn tới tự do, làm chủ tự nhiên, làm
chủ xã hội, làm chủ bản thân. Vì lẽ đó, có thể đồng tình với ý kiến cho rằng, con
người là một “động vật chính trị” có sứ mệnh giành quyền làm chủ xã hội; rằng,
mỗi bước tiến của xã hội trên con đường văn minh cũng là một bước tiến của tự
do.
Với cách tiếp cận đó, chúng ta có thể chia sẻ với một số quan niệm về phát triển



sau:
Một là, quan điểm cho rằng, “phát triển là quá trình cho phép con người hoàn thiện
nhân cách của mình, tự trị ở chính mình, là quá trình giải phóng các cư dân thoát
khỏi sự lo âu về nhu cầu, về sự bóc lột và đẩy lùi sự áp bức về chính trị, kinh tế, xã
hội. Sự phát triển là một cố gắng của nhân dân, do dân và vì dân. Sự phát triển
thực sự lấy con người làm trung tâm”(1).
Khi đề cập đến nội dung tổng thể của phát triển, trong tác phẩm Phản phát triển -
cái giá phải trả của chủ nghĩa tự do, Richard Bergeron không đưa ra một định nghĩa
hoàn chỉnh, nhưng ông đã viện dẫn một số quan niệm đáng chú ý về các nhân tố cấu
thành sự phát triển. Chẳng hạn, Francois Partant chỉ ra năm nhân tố của sự phát
triển, gồm: kinh tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị và văn hoá, trong đó sự liên kết giữa
kỹ thuật và kinh tế, tức là cái nền kinh tế - kỹ thuật trùm lên tất cả những cái còn
lại. Hoặc Serge Latouche lại chỉ ra ba nhân tố: công nghiệp hoá, đô thị hoá và “chủ
nghĩa quốc gia dân tộc”. Còn Walter Rostow thì xác định bốn nhân tố cấu thành là:
kinh tế, không gian xã hội/ chính trị, không gian nông thôn/ đô thị và văn hoá/ năng

suất luận (1)
Từ những ý kiến ấy, R.Bergeron nêu lên quan niệm cho rằng, phát triển là một quá
trình bao gồm nhiều thành tố khác nhau, mỗi thành tố trong các thành tố ấy là một
quá trình - chuỗi tiến hoá liên tục hoàn bị Do đó, sự phát triển sẽ là một đại quá trình
do một loạt quá trình nhánh khác nhau hợp thành
Hai là, một định nghĩa khác có tính tổng hợp hơn cho rằng, “phát triển là quá trình
hướng tới việc thiết lập một nền dân chủ ổn định cho phép không ngừng nâng cao
điều kiện sống của quần chúng nhân dân theo một cách thức mang tính nhân văn
và công bằng. Nói cách khác, phát triển là một quá trình tiến hoá đồng bộ năm
thành tố cơ bản: tăng trưởng kinh tế, ổn định, công bằng, dân chủ và quyền con
người”(2).
Từ những quan niệm và lập luận trên, có thể hiểu phát triển xã hội là một quá trình


trong đó xã hội, nhà nước, công dân tạo ra các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội để bảo đảm cho con người – nhân vật trung tâm của sự phát triển, ngày càng
tự do hơn trong làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân vì những nhu
cầu, lợi ích chính đáng của mình.
Nếu định nghĩa trên là hợp lý thì có thể nói, thước đo sự phát triển là đa diện, hệ
thống tiêu chí tổng hợp. Trong đó, xét về mặt định tính, cơ sở hay nền tảng của sự
phát triển là những điều kiện, những khả năng để thoả mãn nhu cầu vật chất, tức là
sức mạnh kinh tế (của mỗi quốc gia, mỗi thời đại). Sự phát triển không chỉ đo bằng
mức độ thoả mãn các nhu cầu vật chất, cho dù đó là nhu cầu thiết yếu đầu tiên, mà
còn phải được đo và phản ánh thông qua sự tự do của con người trong các quan hệ
xã hội; từ đó, vươn tới thoả mãn các nhu cầu văn hoá, những nhu cầu hoàn toàn có
tính người, hưởng thụ và sáng tạo cái mới, cái đẹp. Đồng thời, phát triển còn
là cách thức mà con người và các cộng đồng người hành động để thoả mãn các
nhu cầu. Chính cách thức ấy sẽ toát lên tính văn hoá hay phản văn hoá, nhân bản
hay phi nhân bản trong hoạt động sống của con người. Vì thế, C.Mác đã có lý khi
viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì

mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”(3).
Từ phương diện các nhân tố hợp thành sự phát triển của xã hội đương đại, có
thể được nhận biết qua các thành tố cơ bản sau: một nền chính trị hợp lý, có hiệu
quả, ổn định, nền chính trị dân chủ hiện thực (theo cách nói của C.Mác); tăng
trưởng kinh tế gắn liền với công bằng, tiến bộ xã hội;văn hoá ngày càng phong phú,
đa dạng trên nền tảng chân, thiện, mỹ; các yếu tố nội lực, nội sinh (của mỗi quốc gia
dân tộc) được khẳng định, phát huy, đủ sức hội nhập, giao lưu; con người ngày
càng hoàn thiện nhân cách: tự do, hài hoà, sáng tạo - bùng nổ nhân tố NGƯỜI.
(3)

Từ góc độ tiếp cận này, có thể hiểu phát triển xã hội là sự vận động có định hướng
của mỗi quốc gia, dân tộc trên con đường đạt tới mục tiêu: ổn định chính trị - xã
hội, tăng trưởng kinh tế, dân chủ, công bằng, nhân văn - vì con người, do con



người. Hay nói theo cách nói của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong cách quan niệm này, các nhân
tố chính trị (đảng chính trị, nhà nước) và sự hoàn thiện của nó không chỉ là điều
kiện, mà còn là một bộ phận hợp thành sự phát triển. Mặc dù là cái phái sinh từ
kinh tế (và tất nhiên cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa, xã hội), nhưng
đến lượt nó, chính trị luôn tác động trở lại (thúc đẩy, kìm hãm hoặc thúc đẩy lúc
này, lĩnh vực này, kìm hãm lúc khác, lĩnh vực khác) đối với kinh tế, văn hóa, xã
hội và nói chung đối với sự vận động, biến đổi của xã hội.
Sự tác động của chính trị, nhà nước đến các quá trình kinh tế, văn hóa, xã hội có
thể trực tiếp hoặc gián tiếp, và thường diễn ra thông qua tác nhân của thể chế chính
trị, nhà nước và cách thức, cơ chế vận hành, hoạt động của nhà nước, của hệ thống
chính trị. Trong đó, nổi lên là vai trò và sự tác động của các yếu tố: cương lĩnh,
chiến lược, chủ trương, chính sách phát triển xã hội, phát triển quốc gia của
Đảng cầm quyền; thẩm quyền, chức năng cũng như khả năng, năng lực và cách

thức thực hành thẩm quyền, chức năng đó của bộ máy nhà nước; trình độ, năng lực
của nguồn nhân lực (trong đó đặc biệt quan trọng là chất lượng của đội ngũ cán bộ,
công chức của nhà nước hay của hệ thống chính trị).
2. Phép biện chứng về vai trò của nhân tố lãnh đạo, quản lý trong quá trình xây
dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
Việt Nam vốn là một nước nghèo, kinh tế - kỹ thuật lạc hậu lại bị chiến tranh tàn
phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản
và nhân dân Việt Nam, là khát vọng chính đáng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi
lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là câu hỏi lớn, cực kỳ hệ trọng và câu trả lời
thật không đơn giản.
Là nước vừa thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, lựa chọn con đường xã
hội chủ nghĩa, Việt Nam hoàn toàn có lý do để áp dụng mô hình và cách làm một


thời có hiệu quả của Liên Xô, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung. Trên thực tế, mô
hình, cách làm này đã đáp ứng được yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước trong
một giai đoạn nhất định, đặc biệt là trong điều kiện đất nước có chiến tranh. Nhưng
về sau mô hình này đã dần dần bộc lộ những khuyết tật của nó, mà biểu hiện rõ nhất
là việc các chủ thể cầm quyền phạm phải những sai lầm: bệnh giáo điều, chủ quan,
duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội không tôn trọng quy luật
khách quan, không chú ý đến tính đặc thù trong phương thức và con đường phát
triển của mỗi nước.
Nhận ra những vấp váp, sai lầm ấy, Đại hội VI (tháng 12-1986) của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã kịp thời phát hiện: “Trong nhận thức cũng như trong hành động
chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta đang
tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và dụng đúng quy luật về
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất”(4). Để khắc phục những khuyết điểm ấy, Đảng đã chỉ rõ: “Quá trình từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hóa nền kinh tế còn nhiều

tính tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa việc sử dụng đầy đủ và đúng đắn
quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong kế hoạchhóa nền kinh tế quốc dân là một tất yếu
khách quan việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với
thị trường”(5).
Có thế nói, đó là bước khởi đầu quan trọng trong việc chuyển đổi tư duy kinh tế của
Đảng Cộng sản Việt Nam sang hướng xây dựng, phát triển kinh tế thị trường…
Nhưng từ Đại hội VI đến Đại hội VIII, khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” vẫn chưa được sử dụng. Đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001)
mới chính thức khẳng định: “… thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần… nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội”(6). Kế thừa tư duy này, Đại hội X của Đảng đã tiếp tục làm sáng tỏ



thêm một số nội dung cơ bản của sự định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình
xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự đúc rút từ kinh
nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm sử dụng kinh tế thị
trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Có thể nói,
kinh tế thị trường là “cái phổ biến“ còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của
Việt Nam.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có
chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò của thị trường, của nhân
tố cạnh tranh trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến
kỹ thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần
làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân của chủ thể lãnh đạo, quản lý ở

Việt Nam trong những năm qua. Tất nhiên, cùng với việc kiến tạo động lực thông qua
cạnh tranh trên thị trường, Đảng và Nhà nước cũng thực hành những biện pháp hữu
hiệu nhằm hạn chế những “mặt trái” luôn tiềm ẩn ở kinh tế thị trường, như lợi nhuận
thuần túy, phân hóa giàu nghèo quá mức, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội,
làm nghèo và phá hủy môi trường…
(6)

Theo tinh thần đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối
bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở
hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo
các nguyên tắc của thị trường, có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân


giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp…
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân. Đồng thời, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc
của thị trường và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế Nhà nước; kết
hợp sử dụng thị trường - áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp kinh tế của
thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực,

hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của thị trường, bảo đảm lợi ích chính đáng của
các chủ thể kinh tế, của người lao động và toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn
và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng
trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nâng cao dân trí,
giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất
nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ



quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó cũng là quá trình nhận thức và xử lý
biện chứng mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của
xã hội Viêt Nam, đồng thời có tính đến đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại.
Phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là những điều còn rất mới mẻ chưa có tiền lệ,
nếu không xác định rõ nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa và xác lập rõ yêu cầu,
cách thức tác động, điều tiết của nhân tố lãnh đạo, quản lý trong quá trình đó thì
những khuyết tật của kinh tế thị trường tất yếu sẽ phát sinh, mà những hậu quả của nó
đã được thực chứng trong tiến trình phát sinh, hình thành và phát triển của chủ nghĩa
tư bản thị trường tự do.
Từ đó, có thể khẳng định rằng, trong điều kiện mới của thời đại ngày nay, nhất
định không thể duy trì mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, cũng không thể
áp dụng rập khuôn mô hình kế hoạch - tập trung do nhà nước chỉ huy tất cả; rằng,
động lực căn bản của sự phát triển kinh tế chỉ có thể tìm thấy, kiểm định trên thị
trường, nhưng tính hiệu quả xã hội của các quá trình kinh tế lại phụ thuộc căn bản

vào vai trò, cách thức tác động, điều tiết của nhà nước, của nhân tố lãnh đạo, quản
lý đối với các quá trình đó.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề mới trong tư
duy, trong đường lối xây dựng và phát triển kinh tế của những người cộng sản Việt
Nam, và trên thực tế cũng đã xuất hiện không ít vấn đề phức tạp, những thách thức
lớn , đặc biệt nhìn từ góc độ toàn cầuhóa. Từ góc nhìn này, Văn kiện Đại hội X của
Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa chỉ rõ: “ nước ta đang đứng trước nhiều
thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể
coi thường bất cứ thách thức nào ”. Để “tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát triển với tốc độ nhanh hơn và
bền vững hơn”, Đảng ta đã xác định mục tiêu, phương hướng tổng quát và hệ giải
pháp cho sự phát triển đất nước trong thời kỳ tiếp theo… Đó là những căn cứ quan
trọng định hướng tiến trình giải quyết các vấn đề thực tiễn liên quan đến việc hoàn


thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tăng cường vai trò
của nhân tố lãnh đạo, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước
trong những năm qua ở Việt Nam.
Xuất phát từ nhận thức đó, việc nâng cao vai trò của nhân tố lãnh đạo và quản lý
trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong những năm tiếp theo, phải chăng cần tập trung giải quyết
các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị, thể chế nhà nước theo hướng
dân chủ hiện thực. Trọng tâm là thiết kế một hệ thống tổ chức quyền lực có khả
năng vận hành trôi chảy, tạo lập động năng cho sự phát triển; đồng thời tạo lập một
hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, khoa học và ổn định, qua đó tạo môi trường
pháp lý cho các chủ thể yên tâm, phát huy tối đa các năng lực thị trường vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Xét từ nội dung này, trách nhiệm thuộc về các cấp độ chủ thể có thẩm quyền tuyển
chọn nhân sự, xây dựng bộ máy có chức năng sản xuất thể chế. Vấn đề cốt tử đặt

ra là tạo lập cơ chế để qua đó, có thể lựa chọn được những đại diện có đủ trình độ,
năng lực tham gia vào các quá trình hoạch định quyết sách chính trị, xây dựng luật
và thông qua luật.
Thứ hai, trên cơ sở thể chế hợp lý, ổn định, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước
thực sự trong sạch, hoạt động có hiệu quả. Chất lượng, hiệu quả của bộ máy nhà
nước phải bảo đảm, ít nhất cũng phải đáp ứng được các tiêu chí cơ bản sau:
- Một đội ngũ công chức có năng lực thực sự, có phẩm chất tương xứng, xứng
đáng là công bộc mẫn cán của nhân dân.
- Có sự phân định rõ chức năng, thẩm quyền của mỗi cơ quan, mỗi bộ phận cấu
thành bộ máy nhà nước, đặc biệt là các cơ quan chủ yếu, từ lập pháp, hành pháp
đến tư pháp để có thể tạo nên sự độc lập tương đối và khả năng kiểm tra, giám sát
lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực này.



- Hoàn thiện chính sách công, nâng cao chất lượng và tính khả thi của các quyết
sách nhà nước.
- Tạo lập cơ chế thẩm định, đánh giá, kiểm tra, xử lý chính xác, kịp thời mọi hoạt
động ở mọi mắt khâu, từng bộ phận hợp thành thể chế, cơ chế vận hành của bộ máy
nhà nước. Trên cơ sở đó, ngăn chặn, giảm thiểu sự độc quyền, chuyên quyền, quan
liêu nói chung là ngăn chặn nguy cơ “thahóa” từ phía bộ máy nhà nước.
- Có chính sách đãi ngộ, trả công xứng đáng đối với đội ngũ công chức với những gì
họ đã làm được cho nhân dân, đất nước.
Thứ ba, Nhà nước sử dụng những công cụ quản lý vĩ mô để quản lý, điều hành đất
nước, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội theo
mục tiêu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, vững bước đạt tới những mục tiêu, nhiệm vụ
lâu dài, có tính chiến lược.
Tóm lại, từ mẫu số chung về mặt lợi ích, cái tạo ra sự đồng thuận về mặt lý tưởng,
vấn đề còn lại là Đảng, Nhà nước phải phát huy tốt nhất vai trò của mình trong tổ
chức, phối hợp các lực lượng xã hội để tạo nên động lực mạnh mẽ cho quá trình

làm giàu của mỗi cá nhân, làm giàu cho đất nước và từ đó, tạo ra được một cách
thức phân bổ các giá trị có được một cách hài hòa, hợp lý./.

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III, Đà Nẵng.
(1) Ban phương Nam. Những thách thức của phương Nam. Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1996, tr.26.
(2) Xem: Các lý thuyết phát triển. Thông tin chính trị học, số 2 năm 2000, tr.29.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.23. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993,
tr.269.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.23.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.


Sđd., tr.63.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.23.



NHỮNG ĐI
ỀU CỐT YẾU TRONG DI SẢN HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC ĐỂ PHÁT TRIỂN DÂN TỘC TỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


HOÀNG CHÍ BẢO
(*)


Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng sáng tạo, mà còn là sự phát triển

chủ nghĩa Mác – Lênin trong thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới
ở thời đại mới – thời đại sinh thành chủ nghĩa xã hội hiện thực và quá độ tới chủ
nghĩa xã hội. Ở Việt Nam, thời đại ấy là thời đại của độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Những điều cốt yếu trong di sản Hồ Chí Minh là tư tưởng về giải phóng
dân tộc, về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc; về
Đảng cách mạng chân chính với tư cách Đảng kiểu mới; về chủ nghĩa xã hội và
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.


1. Di sản Hồ Chí Minh – quan niệm và bản chất
Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng mácxít sáng tạo lớn nhất của Việt Nam trong thế kỷ
XX. Tư tưởng của Người không chỉ là sự vận dụng sáng tạo, mà còn là sự phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng như cách
mạng thế giới trong thời đại mới – thời đại được mở ra từ thắng lợi của Cách mạng
tháng Mười, thời đại sinh thành chủ nghĩa xã hội hiện thực và quá độ tới chủ nghĩa



xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển.
Thời đại ấy, ở Việt Nam là thời đại Hồ Chí Minh như đánh giá của Đảng ta, thời
đại của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Như nhiều học giả đã đánh giá, đây là tư tưởng chủ đạo, nổi bật, xuyên
suốt như một sợi chỉ đỏ trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể nhấn mạnh
thêm rằng, đây là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới,
là phát kiến lý luận đặc biệt quan trọng của Người. Quy luật đó đã vận động và
phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam không chỉ trong thế kỷ XX, mà còn
cả hiện nay, trong suốt thế kỷ XXI, gắn liền với lịch sử đấu tranh cách mạng của
Đảng – một Đảng chân chính cách mạng do chính Người sáng lập.
(*)
Vượt ra khỏi

giới hạn của tính đặc thù Việt Nam, giờ đây, quy luật do Hồ Chí Minh phát hiện và
vận dụng đã mang tính phổ biến, đã chứng thực bởi thực tiễn cách mạng thế giới
và tỏ rõ xu thế khách quan của lịch sử, của tiến trình phát triển đưa các dân tộc tới
chủ nghĩa xã hội sau khi đã giành được độc lập dân tộc trong cách mạng giải
phóng dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. Cống hiến lịch sử vô
giá này của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một trong những cốt yếu lý luận,
in đậm dấu ấn sáng tạo của Người, là giá trị đặc sắc trong di sản mà Người để lại
cho dân tộc và nhân loại.
Hồ Chí Minh không chỉ là anh hùng giải phóng dân tộc của dân tộc Việt Nam, mà
còn là ngọn cờ của phong trào giải phóng của các dân tộc chống áp bức, bóc lột,
bất công của đế quốc, thực dân, đưa các dân tộc tới độc lập, tự do, hạnh phúc, tới
dân chủ, công bằng và bình đẳng xứng đáng với cuộc sống của con người, giành
lại lương tri, phẩm giá, đạo lý làm người cho tất cả mọi người trong thế giới nhân
loại. Bởi thế, tầm tư tưởng, trí tuệ Hồ Chí Minh thuộc về tầm tư tưởng, trí tuệ của
vĩ nhân, được cả thế giới tôn vinh. Hơn nữa, người chiến sĩ đấu tranh hết
mình và quên mình cho độc lập tự do, nhà tư tưởng lỗi lạc, kiệt xuất với tầm mắt
đại dương, tầm nhìn vượt trước thời đại còn đồng thời là một danh nhân văn hoá,


có năng lực thâu thái tri thức mọi thời đại Đông – Tây – Kim – Cổ, có bản lĩnh hội
nhập, tiếp biến để phát triển dân tộc, con người và đất nước Việt Nam; cả một đời
mang hoài bão, khát vọng về một nền hoà bình vững chãi trên quả đất, về tự do –
bình đẳng – bác ái đích thực cho tất cả các dân tộc, về một thế giới văn minh thắng
bạo tàn, nhân tính vượt lên thú tính, con người yêu thương và tin cậy lẫn nhau,
sống trong tình yêu và hạnh phúc “quan san muôn dặm một nhà, bốn phương vô
sản đều là anh em”…; là một người có đạo đức cao cả, với động cơ vĩ đại, cao
thượng và lối sống thanh tao, giản dị của bậc hiền triết Á Đông, mang đậm nét bản
sắc Việt Nam.
Trả lời một nhà báo cộng sản Cu Ba về điều quan trọng nhất trong cuộc đời mình,
Hồ Chí Minh đã nói: “Tôi hiến đời tôi cho nhân dân tôi, cho dân tộc tôi và cho cả

nhân loại”.
Cũng như vậy, khi được hỏi về những giá trị chủ đạo nào mà Người đã theo đuổi
trong cả sự nghiệp đấu tranh cách mạng của mình, Người nhấn mạnh, độc lập cho
Tổ quốc, tự do cho dân tộc và hạnh phúc cho đồng bào mình và cho tất cả mọi
người. Đó chính là hệ giá trị của phát triển: Độc lập – Tự do – Hạnh phúc. Hệ giá
trị đó được Người nghiền ngẫm lựa chọn và theo đuổi suốt đời mình. Đó là chỗ kết
tinh, cô đọng những tư tưởng cao sâu của Người nhìn từ mọi góc độ, chiều cạnh:
học thuyết giải phóng, triết lý nhân sinh, chủ thuyết phát triển của Người; là chính
kiến, chủ kiến của Người trong hành động; là nơi quy tụ cả triết học và minh triết
của Người trên tư cách nhà tư tưởng và bậc minh triết.
Bởi vậy, nói đến di sản Hồ Chí Minh, trước hết, chúng ta nói đến di sản của Người
trên lĩnh vực tư tưởng lý luận. Đó là cả một hệ thống lớn những quan điểm và quan
niệm, những nguyên tắc và phương pháp của Người về cách mạng Việt Nam, một
bộ phận hữu cơ của phong trào cách mạng thế giới, về con đường phát triển của
Việt Nam theo lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cũng có
người nhấn mạnh đó là độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nếu nghiên



cứu kỹ lưỡng cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Người, các trước tác, văn
phẩm Hồ Chí Minh cũng như hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú mà Người
trải qua hơn 6 thập kỷ, từ tuổi trẻ đến những năm tháng cuối đời, chúng ta sẽ thấy,
dân chủ là mối quan tâm thường trực ở Người, thấm sâu vào trong độc lập dân tộc,
trong chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mà Người hằng theo đuổi. Điều đáng
nói là ở chỗ, Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng, người thiết kế lý luận về dân
chủ, mà còn là người đặc biệt quan tâm tới thực hành dân chủ. Sự kết hợp nhuần
nhuyễn này đã làm nên điểm đặc sắc nối liền tư duy và hành động, lý luận và thực
tiễn ở Hồ Chí Minh. Người thực sự có những phát triển sáng tạo về lý luận và
phương pháp cách mạng, làm phong phú và sâu sắc thêm chủ nghĩa Mác - Lênin,
làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin sống động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam

cũng như cách mạng thế giới mà Người đã có ảnh hưởng to lớn, đã để lại những
dấu ấn sâu đậm không phai mờ trong lịch sử – cả lịch sử tư tưởng lẫn lịch sử đấu
tranh cách mạng, trong đời sống chính trị thực tiễn hiện đại và đương đại.
Cần nhận rõ nội dung di sản tư tưởng lý luận Hồ Chí Minh, giá trị và ý nghĩa lịch
sử của di sản ấy, thấy ở đó một chủ nghĩa Mác - Lênin sáng tạo được hiện hữu
qua tinh thần vàphương pháp Hồ Chí Minh, qua đạo đức và văn hoá của Người,
tựu trung lại là một chủ nghĩa nhân văn, giá trị nhân văn Hồ Chí Minh, sự chung
đúc làm một, khoa học, cách mạng và nhân văn Hồ Chí Minh. Đó cũng chính là
bản chất, là đặc điểm nổi bật, nhất quán trong di sản tư tưởng của Người cũng như
trong hành động, trong lối sống, trong văn hoá, đặc biệt là văn hoá ứng xử của
Người.
2. Di sản Hồ Chí Minh - nội dung, giá trị và ý nghĩa
Là một hệ thống lớn, di sản tư tưởng lý luận Hồ Chí Minh bao quát những vấn đề
sau đây:
- Tư tưởng về giải phóng dân tộc, về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc. Trên phương diện này, lý luận cách mạng giải phóng dân


tộc của Hồ Chí Minh là lý luận chống chủ nghĩa thực dân, cả thực dân cũ và thực
dân mới mà Người gọi là hai đế quốc to. Về mặt học thuyết, Hồ Chí Minh là người
đề xướng học thuyết giải phóng, bao gồm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội và giải phóng con người. Điểm sáng tạo mới mẻ của Hồ Chí
Minh là ở chỗ, giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, do đó, một
mặt, Người vượt qua ý thức hệ phong kiến và tư sản, lập trường nông dân và chủ
nghĩa dân tuý, đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân cách mạng. Mặt khác,
giải phóng dân tộc để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc, dân chủ, Hồ Chí Minh
nhận ra mối liên hệ hữu cơ giữa giai cấp (giai cấp công nhân) với dân tộc, dân tộc
với giai cấp và do vậy, độc lập dân tộc tất yếu gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đặt
cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản, quá độ bỏ qua chủ
nghĩa tư bản để tiến tới chủ nghĩa xã hội. Người đứng trên lập trường cộng sản,

chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân để tìm con đường và động lực phát triển
của cách mạng, coi chủ nghĩa dân tộc là một động lực của tiến bộ, phát triển, miễn
là đặt nó gắn liền với chủ nghĩa quốc tế. Người cũng nhận rõ cách mạng Việt Nam
là một bộ phận không tách rời của cách mạng thế giới.
- Tư tưởng về Đảng cách mạng chân chính với tư cách Đảng kiểu mới. Đảng mang
bản chất khoa học và cách mạng, bản chất giai cấp công nhân. Đảng là đội tiên
phong của giai cấp, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc. Hồ Chí Minh có đóng góp quý giá về việc luận chứng sự cần thiết phải có
Đảng, trong Đảng phải có chủ nghĩa (Mác - Lênin) làm cốt, ai ai cũng phải hiểu,
phải tin theo, làm theo chủ nghĩa đó. Luận chứng về tính đặc thù Việt Nam trong
quy luật ra đời của Đảng, Người nhấn mạnh tới phong trào yêu nước của dân tộc
kết hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân.
Điều này chứng tỏ rằng, từ trong bản chất của mình, Đảng ta ngay từ khi ra đời đã
gắn bó máu thịt với nhân dân và dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt
Nam và tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân ta đã tạo nên sức mạnh và trở



thành cơ sở xã hội – lịch sử của giai cấp công nhân và của Đảng. Nhờ đó, dù còn
nhỏ bé về số lượng và về chất lượng, tuy chưa trải nghiệm đầy đủ trong môi
trường đại công nghiệp, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam vẫn đảm trách được
sứ mệnh vẻ vang của mình. Đảng ta là con nòi của giai cấp, Đảng phấn đấu hy sinh
vì giai cấp, dân tộc và nhân loại. Đảng tồn tại chỉ với lý do đó, tồn tại để một đời
phụng sự lợi quyền của dân, vì dân. Giải thích ấy của Hồ Chí Minh giúp chúng ta
nhận rõ vì sao Đảng tin dân và dân một lòng theo Đảng, cảm nhận một cáchthực
tế, trực tiếp rằng, Đảng là Đảng của mình. 80 năm trong lịch sử Đảng, với 65
năm Đảng ở vị trí Đảng cầm quyền, đánh thắng “hai đế quốc to”, kiên định con
đường phát triển xã hội chủ nghĩa, khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
ngày nay, tạo nên thế và lực của Việt Nam trong thế giới đương đại - đó là những
bước ngoặt phát triển đã gắn liền Đảng với dân, dân với nước, với Đảng. Khi còn

phôi thai, trứng nước, Đảng chưa ra đời, Nguyễn Ái Quốc trong “Đường Cách
mệnh” (1927) đã chỉ rõ “tư cách của người cách mệnh”, đã nhấn mạnh 4 đức –
cần, kiệm, liêm, chính, đã khẳng định “phải giữ chủ nghĩa cho vững và phải ít
lòng tham muốn về vật chất”, “phải làm cách mạng cho đến nơi, tức là triệt để”.
Hai mươi năm sau, vào năm 1947, “Sửa đổi lối làm việc” ra đời trên chiến khu
Việt Bắc, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trở lại mới vừa bắt
đầu. Có thể nói, đây là tác phẩm đặt nền móng tư tưởng lý luận cho đổi mới sau
này, đổi mới trong điều kiện Đảng đã cầm quyền. Điểm nhấn đặc biệt về Đảng
trong tác phẩm này là đoạn Người viết về “12 điều xây dựng Đảng chân chính
cách mạng”, trong đó Người nói rõ Đảng là một tổ chức cách mạng có sứ mệnh
phục vụ giai cấp, dân tộc và nhân loại. Đảng không phải là một tổ chức để làm
quan phát tài.
Nổi bật trong các mối quan hệ được bàn tới là quan hệ giữa Đảng với dân. Theo
đó, phải dựa vào dân mà xây dựng Đảng, dựa vào dân mà chỉnh đốn tổ chức và
giáo dục, rèn luyện cán bộ. Đảng phải thường xuyên xem xét lại nghị quyết, chủ


trương, đường lối, chính sách của mình. Tất cả phải xuất phát từ dân, nhất quán
với mục đích vì dân.Không có dân thì Đảng không có lực lượng và sức mạnh.
Không có Đảng thì dân không có người dẫn lối chỉ đường. Để xứng đáng với lòng
tin của dân và làm tròn sứ mệnh vẻ vang do giai cấp – dân tộc và nhân dân uỷ thác,
Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố tổ chức, giáo dục rèn luyện đảng viên,
bồi dưỡng tư tưởng, thực hành đạo đức, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương;
đường lối, chính sách đúng lại phải có cách lãnh đạo khéo, làm cho quyết tâm của
Đảng biến thành hành động của dân. Muốn vậy, phải khắc phục những hạn chế,
tẩy bỏ những khuyết điểm, lỗi lầm mà một số người trong Đảng đã mắc phải.
Người chỉ ra một cách nghiêm khắc rằng, thói coi khinh lý luận, bệnh giáo điều
sách vở, phù phiếm, hình thức khoa trương, lãnh đạo lại không được dân chủ, óc
địa vị, bè phái, dùng người thì tư túng, thiên vị, ưa những kẻ xiểm nịnh, tâng bốc,
chán ghét những người cương trực, ngay thẳng… đó là những chứng bệnh nguy

hiểm, có hại tới sự nghiệp chung, xa lạ với bản chất của một Đảng cách mạng.
Những chỉ trích, phê phán đó, dù đã hơn 60 năm trôi qua, ngày nay vẫn không hề
mất đi tính thời sự và ý nghĩa cảnh báo đối với Đảng cầm quyền, với mỗi tổ chức
Đảng, mỗi cấp uỷ và từng đảng viên.
Người nêu bật một chủ đề lớn trong giáo dục toàn Đảng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Đó là bài báo nổi tiếng 700 từ được công bố
trên báo Đảng, năm 1969 khi kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng (1930-
1969). Và, Di chúc, văn kiện 1000 từ được Người nghiền ngẫm suốt 4,5 năm liền
(1965-1969), đó là một đại tổng kết lý luận – thực tiễn về cách mạng Việt Nam,
một áng thiên cổ hùng văn mà trước hết, Người nói về Đảng. Người khẳng
định Đảng ta là một Đảng cầm quyền, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý
báu của Đảng và của nhân dân ta. Người căn dặn phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Chỉ trong một đoạn ngắn nói về
Đảng cầm quyền, đã bốn lần Người nhấn mạnh chữ “Thật”: mỗi đảng viên và cán



bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sựcần kiệm liêm chính, chí
công vô tư. Phải giữ gìn Đảng tathật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Có biết bao điều hệ trọng liên quan
tới cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang tiến gần tới ngày thắng lợi hoàn
toàn, liên quan tới vận Đảng, vận nước, những trù tính, lo toan ở tầm chiến lược
tới tương lai và triển vọng của dân tộc và đất nước, những công việc cụ thể, tỷ mỷ,
thiết thực thuộc về kế hoạch và chính sách mà Đảng và Chính phủ phải quan tâm
được thể hiện trong Di chúc. Di chúc còn nói tới công việc đầu tiên là “công việc
đối với con người". Ở đó toát lên tình thương yêu vô hạn, sự ân cần chu đáo, lòng
bao dung nhân ái, vị tha của Người với con người, với cuộc đời, với đồng bào,
đồng chí, bạn bè. Di chúc, trong hình thứctối thiểu của ngôn từ đã chứa đựng
cái tối đa của tư tưởng, triết học, triết lý, chủ kiến, chủ thuyết và cả minh triết Hồ
Chí Minh về phát triển đất nước, chấn hưng dân tộc, quản lý xã hội, giáo dục con

người và gìn giữ, bảo vệmôi trường sinh thái.
Sâu xa và tinh tế biết bao, khi chuẩn bị đi vào cõi trường sinh, về với chốn vĩnh
hằng, Người đã kín đáo gửi vào trong Di chúc một quan niệm về chủ nghĩa xã hội
- đó làchủ nghĩa xã hội Việt Nam và một định nghĩa về đổi mới -đó là đổi mới vì
phát triển, đổi mới để phát triển.
Chiều sâu tư tưởng, giá trị và ý nghĩa lý luận của Di chúclà ở đó.
- Di sản Hồ Chí Minh, xét trên bình diện tư tưởng lý luận, còn chứa đựng những
kiến giải đặc sắc của Người về chủ nghĩa xã hội và công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Từ khi giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy chân lý của thời đại, Hồ Chí
Minh đã theo đuổi đến cùng con đường cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Người khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mác - Lênin là
chân chính nhất, cách mạng nhất, mau mắn thắng lợi nhất. Chỉ có chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để cho tất cả mọi người lao động


khỏi ách áp bức, bóc lột, nô dịch của tư bản đế quốc, thực dân, mới đem lại cuộc
sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho các dân tộc, cho mọi người trên trái đất.
Sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, trong chính cương, sách lược vắn tắt và
chương trình hành động của Đảng do Người soạn thảo đầu tiên, Người cùng với
Đảng đã nhìn thấu suốt con đường phát triển của Việt Nam là giành lấy độc lập
cho dân tộc và tiến tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Trong quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội, Người không chỉ theo
đuổi nhất quán với những quan điểm, nguyên lý kinh điển mácxít mà còn có
những tìm tòi, phát hiện lý luận đầy sáng tạo. Tiếp cận đạo đức học về chủ nghĩa
xã hội là một trong những kiến giải mới mẻ, độc đáo của Người. Đây cũng là sự bổ
sung, phát triển mới của riêng Hồ Chí Minh, làm phong phú thêm cho nội dung lý
luận Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh, tư tưởng xã hội chủ
nghĩa đối lập với tư tưởng cá nhân chủ nghĩa. Muốn xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội thì phải ra sức đánh bại chủ nghĩa cá nhân. Muốn vậy, phải suốt đời

trau dồi, thực hành đạo đức cách mạng trong toàn Đảng, trong mỗi cán bộ đảng
viên, trong nhân dân và xã hội. Người cũng nhận thấy, muốn chống được quan liêu
– tham nhũng, chống quan liêu, lãng phí, tham ô thì phải ra sức và thường xuyên
thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là thực hành dân chủ trong Đảng. Đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân như chống một thứ giặc nội xâm, kẻ thù nguy hiểm nhất,
một thứ giặc ở trong lòng mình, Người thấu hiểu tất cả sự cam go, phức tạp, lâu
dài và cả đau đớn nữa trong cuộc đấu tranh này, cho nên xây phải đi
liền chống. Với Hồ Chí Minh, chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là chống
cá nhân, giày xéo lên lợi ích cá nhân, trái lại, mỗi cá nhân là một con người, một
nhân cách, ai cũng có lợi ích riêng, sở trường riêng, cá tính riêng. Nếu những cái
thuộc về cá nhân mà không đối lập với xã hội, không làm phương hại tới người
khác và tới xã hội thì không phải là xấu, phải tôn trọng nó và vun trồng cho nó
phát triển. Chỉ chống chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, ích kỷ, hại tới xã hội mà thôi.



Người còn nói rõ, không có chế độ nào như chế độ xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ
quan tâm đầy đủ và tốt đẹp nhất cho sự phát triển của cá nhân, đem lại cho con
người triển vọng phát triển tốt đẹp nhất cùng với sự phát triển của cả cộng đồng xã
hội. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có con người xã hội chủ
nghĩa, đó là những con người có đức và có tài mà đức là gốc, lại phải có tài để làm
việc hữu ích cho xã hội. Giáo dục - đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng, phải
quan tâm thực hiện chiến lược con người, vì lợi ích trăm năm thì phải “trồng
người”. Chủ nghĩa xã hội phải kết hợp hài hoà sự phát triển cá nhân và phát triển
xã hội, công bằng không phải là bình quân, chia đều. Phải làm cho mọi người dân
được giải phóng để bộc lộ mọi khả năng sáng tạo của mình và phát triển ngày
một hoàn thiện. Do đó, phải thường xuyên đổi mới, phá cái cũ lạc hậu, lỗi thời,
xấu xa, hư hỏng, đổi ra cái mới tiến bộ, tốt tươi, mới mẻ. Đó là cách mạng, cách
mạng chính bản thân con người và xã hội, tổ chức và thể chế, luật pháp và chính
sách, đem lại sự thụ hưởng thiết thực, chính đáng những lợi ích thường nhật cho

mỗi con người. Chỉ như vậy, dân chủ mới mang nội dung, ý nghĩa thực chất của
nó và quyền làm chủ của con người đối với xã hội mới được thực hiện. Đó là bản
chất sâu xa nhất của chủ nghĩa xã hội, dựa trên phát triển sản xuất và lực lượng sản
xuất, xác lập từng bước sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất trong quan hệ sản xuất
mới, tiên tiến. Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh là một xã hội
phát triển và ngày càng hoàn thiện, đảm bảo cho dân thực sự là chủ và làm
chủ. Bao nhiêu lợi ích đều thuộc về dân, bao nhiêu quyền hành đều là của dân.
Quyền hành và lực lượng đều ở trong dân. Xây dựng một xã hội như thế, phải có
sự lãnh đạo của Đảng với đường lối, chính sách đúng đắn, có cơ sở khoa học chắc
chắn, vững vàng, có sự quản lý, điều hành của Nhà nước với luật pháp nghiêm
minh, có sự tham gia chủ động, tích cực của đông đảo dân chúng, nhất là dựa trên
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự gương mẫu, liêm khiết của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, công chức “thạo chính trị, giỏi chuyên môn, tận trung với nước, tận


hiếu với dân, trọng dân, trọng pháp…”. Chủ nghĩa xã hội phải là một xã hội giàu
có bằng lao động, có kỹ thuật, có công nghệ hiện đại của những người lao động
làm chủ, tự giác, sáng tạo. Trước hết phải xoá được đói, vượt được nghèo, tiến tới
khá giả, no đủ, giàu có, đã giàu có rồi thì giàu có nữa, giàu có mãi, miễn là bằng
sức lao động của mình. Trong xã hội đó, đời sống vật chất ngày càng tăng, đời
sống tinh thần ngày một tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ. Đó là xã hội xã
hội chủ nghĩa thấm nhuần quan điểm thực tiễn và phát triển.
Tại lễ ra mắt Đảng Lao động Việt Nam, 3-3-1951, sau Đại hội II của Đảng, Hồ
Chí Minh nói rằng, đường lối, chính sách của Đảng đúc vào trong một câu: xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và phú cường.
Điều mong muốn cuối cùng của Người trong Di chúccũng vậy: xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Đó là chủ nghĩa xã hội, là chủ nghĩa xã hội Việt Nam thấm nhuần sâu sắc triết lý
nhân dân, vì dân – dân tộc – dân chủ, hài hoà trong phát triển mà có lần Người
nói, đó là một chủ nghĩa xã hội vừa có lý, vừa có tình. Người nhận rõ động lực

phát triển của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là lợi ích và quyền lực của dân, là công
bằng và bình đẳng, dân chủ, tự do, sáng tạo, đổi mới và phát triển. Người còn
thấy ở đó những mục tiêu, giá trị cao quý, đồng quy vào hệ giá trị độc lập – tự do
– hạnh phúc.
Con người, vốn người, nhân dân là quý nhất. Sức mạnh to lớn nhất hợp thành từ
sức mạnh đoàn kết của toàn dân. Sức cổ vũ, thúc đẩy nhân dân hành động, sáng
tạo lại từ sự gương mẫu, lời nói đi đôi với việc làm của đảng viên, cán bộ trong
Đảng, trong Nhà nước và trong các đoàn thể. Bởi thế, Người khái quát rằng, gương
mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất đối với Đảng cầm quyền.
Người còn thấu hiểu rằng, khoa học, kỹ thuật, học vấn và văn hoá gắn liền với trí
thức, nhân tài, hiền tài của đất nước là điều không thể thiếu, không thể yếu trong sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học sẽ là nguồn



sức mạnh vô tận. Văn hoá không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị. Văn
hoá soi đường cho quốc dân đi. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội văn hoá cao, phải
dùng văn hoá mà chữa bệnh quan liêu, xoá bỏ những thói phù hoa xa xỉ. Dân tộc
Việt Nam phải trở thành một dân tộc thông thái và Đảng là đạo đức, là văn minh.
Những ý tưởng, những khát vọng như thế ở Hồ Chí Minh cho thấy, chủ nghĩa xã
hội Việt Nam trong thiết kế mô hình lý luận của nó không chỉ dựa trên những trụ
cột kinh tế thịnh vượng (giàu có, phú cường), chính trị dân chủ (pháp quyền, nhân
nghĩa), xã hội công bằng, bình đẳng, dân tộc đoàn kết, đồng thuận, cá nhân tự do
sáng tạo và làm chủ,mà còn là văn hoá, văn minh, hiện đại, môi trường bền vững,
an toàn. Đó là một Việt Nam phát triển với sự thấm nhuần và phát huy các giá trị
nhân đạo và nhân văn truyền thống, cố kết sức mạnh cộng đồng, thu hút và nảy nở
những tinh hoa của mọi thế hệ người Việt Nam; đồng thời, lại biết làm giàu trí tuệ
và bản lĩnh Việt Nam bằng cách tiếp thu những giá trị tinh hoa của thời đại, của
thế giới nhân loại. Tiếp biến văn hoá để phát triển thông qua đổi mới – mở cửa –
hội nhập quốc tế - đó là con đường đưa Việt Nam đến với cộng đồng nhân loại.

Việt Nam là một thực thể sống động trong thế giới hiện đại, văn minh chứ không
thể là một ốc đảo khép kín, biệt lập với thế giới ấy. Ngay sau lễ tuyên bố độc lập,
Hồ Chí Minh đã có thư cho Tổng thống các nước phương Tây, Người đã thay mặt
quốc dân đồng bào mình chuyển tới cộng đồng quốc tế một thông điệp; tinh thần
của bức thông điệp ấy lại hiện rõ trong diễn văn khai mạc phiên họp đầu tiên của
Chính phủ dân chủ cộng hoà ngày 3-9-1945 do chính Người soạn thảo và tuyên
đọc. Việt Nam mong muốn là bạn bè của tất cả các nước dân chủ, Việt Nam quyết
không thù oán với một ai. Người, ngay từ hồi đó, đã trù tính thiết lập các mối bang
giao và sẵn sàng gửi nam nữ thanh niên Việt Nam sang học tập, tiếp thu kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến của nước ngoài để kiến thiết đất nước. Cũng như vậy, 20 năm
trước đó (1925), khi Đảng còn chưa ra đời, Người đã trù tính, sau này đất nước
độc lập, đi vào kiến thiết chế độ mới, nhất định ta phải học tập, áp dụng “Tân kinh


tế chính sách” của V.I.Lênin (NEP).
V.I.Lênin là nhà cách tân vĩ đại đầu tiên trong lịch sử chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Hồ Chí Minh đưa ra những quan niệm, những kiến giải của mình về chủ nghĩa xã
hội hiện thực Việt Nam cũng trên tinh thần cách tân, đổi mới, sáng tạo như thế. Đó
là điểm tương đồng tư tưởng của các vĩ nhân. Với Hồ Chí Minh, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là cả một quá trình lâu dài, là sự nghiệp của rất nhiều thế
hệ. Điều quan trọng không chỉ là thiết kế lý luận, mà còn là thực hành, là tạo dựng.
Tầm nhìn dẫn tới hành động được Người gọi giản dị là cách làm, bước đi mà cách
làm tốt nhất là dựa vào dân, đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu cầu
hạnh phúc cho dân, phát triển sức dân, bồi dưỡng sức dân lại phải tiết kiệm sức
dân. Cái gì có lợi cho dân, tốt cho dân, cái đó là chân lý. Phục vụ nhân dân là phục
tùng chân lý cao nhất. Làm công bộc tận tuỵ, đầy tớ trung thành của dân là lối
sống cao thượng nhất. Cái gì lợi cho dân thì quyết làm cho bằng được. Cái gì hại
tới dân thì quyết tránh cho bằng được.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa xã hội khoa học đã được
thực tiễn hoá từ thực tiễn Việt Nam, trở thành chủ nghĩa xã hội Việt Nam, chủ

nghĩa xã hội nhân văn và văn hoá Hồ Chí Minh. Đúng quy luật, thuận lòng dân,
hợp thời đại là sự khái quát tư tưởng lý luận, phương pháp, phong cách Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội.
Giá trị này trong di sản Hồ Chí Minh đang được thể hiện sinh động trong thực tiễn
Việt Nam. Đổi mới hướng tới phát triển nhanh và bền vững, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.q


(*) Giáo sư, tiến sĩ, Hội đồng Lý luận Trung ương.



×