Tải bản đầy đủ (.docx) (118 trang)

Luận văn thạc sỹ - Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực giao tiếp sư phạm cho giáo viên các trường mầm non huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.12 KB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
-----˜&˜-----

PHẠM THỊ NHÃ

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC
GIAO TIẾP SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG
MẦM NON HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG
TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI – 2022

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
-----˜&˜-----

PHẠM THỊ NHÃ

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC
GIAO TIẾP SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG
MẦM NON HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG
TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 8.14.01.14


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG TRUNG HỌC

HÀ NỘI - 2022

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu và tài liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu
này không trùng lặp với bất cứ cơng trình nào đã cơng bố trước đây.
Tơi xin chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Tác giả luận văn

Phạm Thị Nhã

3


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến lãnh đạo và quý thầy/cô
giảng viên Học viện Quản lý giáo dục đã trang bị kiến thức, tạo điều kiện thuận
lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Đặc biệt, tác giả xin trân trọng cảm ơn sâu sắc nhất đến TS Hoàng Trung
Học, người hướng dẫn khoa học, đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp
đỡ và động viên tơi trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thành luận văn.
Tơi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến đội ngũ cán bộ quản lý, giáo
viên ở các trường Mầm non huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương đã động viên,

giúp đỡ nhiệt tình, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình học
tập và nghiên cứu.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn trong luận văn khơng tránh
khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo và góp ý của q
thầy cơ, các bạn đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

Phạm Thị Nhã

4


MỤC LỤC

5


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

CBQL
ĐBCL
GDMN
GD&ĐT
GVMN
GTSP
HĐBD

NLGTSP
QLGD
QLGD

Cán bộ quản lý
Đảm bảo chất lượng
Giáo dục mầm non
Giáo dục và Đào tạo
Giáo viên mầm non
Giao tiếp sư phạm
Hoạt động bồi dưỡng
Năng lực giao tiếp sư phạm
Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục

6


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

7


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động giao tiếp là một tập hợp những quy tắc, nghệ thuật, cách ứng
xử, đối đáp được đúc rút qua kinh nghiệm thực tế hằng ngày, giúp mọi người
tương tác hiệu quả. Đây là một trong những năng lực cực kỳ quan trọng trong xã
hội hiện đại. Để có được năng lực giao tiếp tốt đòi hỏi người sử dụng phải thực
hành thường xun, áp dụng vào mọi hồn cảnh để khơng ngừng đúc rút, hoàn

thiện năng lực giao tiếp.
Ở trong bất kỳ lĩnh vực nào, giao tiếp một cách thông minh khéo léo, tế
nhị, kịp thời có hiệu quả đạt tới mức độ nghệ thuật, được coi là bí quyết thành
cơng của chủ thể hoạt động. Trong hoạt động sư phạm, giao tiếp vừa là một
công cụ lao động đặc biệt, vừa là một phương tiện giúp giáo viên hồn thành tốt
cơng việc của mình. Vì vậy, năng lực sư phạm của nhà giáo, chịu ảnh hưởng
trực tiếp của năng lực giao tiếp. Giáo viên càng lành nghề, tầm ảnh hưởng của
năng lực giao tiếp càng có ý nghĩa quan trọng trong các hoạt động nghiệp vụ sư
phạm. Trong giao tiếp của giáo viên mầm non, việc ứng xử khéo léo và xử lý
các tình huống sư phạm trong quá trình tương tác, nói chuyện, cách chăm sóc,
giáo dục trẻ và trong các mối quan hệ với đồng nghiệp và cả phụ huynh có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây vừa là một năng lực, vừa là một phương tiện, là
bí quyết giúp nhà giáo tự tin thực hiện và đạt được các thành công trong các hoạt
động nghiệp vụ.
Trong bối cảnh ngành giáo dục đang tích cực chuẩn bị cho đổi mới
chương trình giáo dục phổ thơng từ năm 2020, việc phát triển năng lực đội ngũ
nhà giáo đáp ứng yêu cầu của cơng cuộc đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và
đào tạo có ý nghĩa then chốt, quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.Đổi
mới giáo dục cũng đặt ra yêu cầu về năng lực giao tiếp sư phạm của GVMN rất
lớn. Đòi hỏi GVMN cần phải có kỹ năng giao tiếp sư phạm một cách chuẩn
mực.Một số nghiên cứu về giao tiếp sư phạm của GVMN hiện nay cho thấy
8


nhiều GVMN hạn chế trong giao tiếp khi xử lý tình huống sư phạm khi đối diện
với phụ huynh và cũng như giao tiếp với trẻ trong chương trình giáo dục.Chính
vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực giao
tiếp sư phạm cho giáo viên các trường mầm non huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục”, làm đề tài cho luận văn cao học
chuyên ngành quản lý giáo dục. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao năng

lực giao tiếp sư phạm của GVMN, góp phần thực hiện thành cơng đổi mới căn
bản và tồn diện giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu lý luận, thực trạng về quản lý hoạt động bồi dưỡng
năng lực giao tiếp sư phạm cho GVMN và đề xuất biện pháp quản lý bồi dưỡng
năng lực giao tiếp sư phạm cho giáo viên các trường mầm non huyện Thanh
Miện, tỉnh Hải Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là hoạt động bồi dưỡng năng lực giao
tiếp sư phạm cho giáo viên các trường mầm non huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng và biện pháp quản lý hoạt
động bồi dưỡng năng lực giao tiếp sư phạm cho giáo viên các trường mầm non
huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
4. Giả thuyết khoa học
Việc triển khai công tác bồi dưỡng thường xuyên nâng cao năng lực giao
tiếp sư phạm cho giáo viên các trường mầm non tại huyện Thanh Miện bước đầu
đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Công
tác quản lý bồi dưỡng, thường xuyên cho giáo viên trong việc nâng cao
NLGTSP trên thực tế cịn lúng túng, chưa có mục tiêu rõ ràng; hình thức, nội
dung bồi dưỡng thiếu linh hoạt, sáng tạo nên hiệu quả chưa cao.
9


Nếu xác lập được các biện pháp quản lý bồi dưỡng năng lực giao tiếp sư
phạm cho giáo viên các trường mầm non huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dươngcó
thể thúc đẩy hiệu quả BDNL GTSP cho giáo viêntrong bối cảnh hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Xây dựng cơ sở lý luận về công tác Quản lý bồi dưỡng năng lực giao
tiếp sư phạm cho giáo viên các trường mầm non huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng việc Quản lý bồi dưỡng năng lực giao tiếp
sư phạm cho giáo viên các trường mầm non huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương
trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
- Đề xuất một số biện pháp Quản lý bồi dưỡng năng lực giao tiếp sư phạm
cho giáo viên các trường mầm non huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương trong
bối cảnh đổi mới giáo dục.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn không gian: Một số trường mầm non trong huyện Thanh Miện.
- Giới hạn thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu số liệu năm học 2020 –
2021.
- Giới hạn chủ thể: Chuyên viên Phòng Giáo dục và Đào tạo, Cán bộ quản
lý, giáo viên các trường trường mầm non.
- Giới hạn phạm vi quy mô, khảo sát: Tổng số đối tượng khảo sát là 120
người. Trong đó, chuyên viên Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Miện,
tỉnh Hải Dương: 02 người; Cán bộ quản lý (các trường, Phó cán bộ quản lý
trường, Tổ trưởng và tổ phó chuyên môn) các trường Mầm non trên địa bàn
Huyện: 15 người; Giáo viên và nhân viên các trường Mầm non trên địa bàn
huyện Thanh Miện: 103 người.
- Giới hạn nội dung: Nghiên cứu chú trọng làm rõ thực trạng và tìm kiếm
các biện pháp dưới phương diện quản lý nhằm Quản lý bồi dưỡng năng lực giao
tiếp sư phạm cho giáo viên các trường mầm non huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương trong bối cảnh hiện nay.
10


7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu các
văn bản tài liệu về công tác Quản lý bồi dưỡng năng lực giao tiếp sư phạm cho
giáo viên các trường mầm non huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương trong bối
cảnh hiện nay.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Quan sát trực tiếp để thu thập các thông tin cần
thiết về các vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra viết: Xây dựng các phiếu điều tra để thu thập số
liệu từ các đối tượng cần khảo sát.
- Phương pháp phỏng vấn: Gặp gỡ và đặt câu hỏi cho các giáo viên, cán
bộ quản lý các trường MN, để thu thập, xác minh các thơng tin có liên quan đến
công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực giao tiếp sư phạm trong bối cảnh đổi mới
giáo dục.
- Phương pháp chuyên gia: Trao đổi trực tiếp hoặc thông qua phỏng vấn
để các chun gia tư vấn, những người có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm về
chuyên ngành giao tiếp sư phạm, góp ý cho các nội dung liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
- Phương pháp khảo nghiệm: Tiến hành khảo nghiệm ý kiến về tính hiệu
quả và tính khả thi của một số biện pháp quản lý mà đề tài đề xuất.
7.3. Phương pháp xử lý thông tin
Sau khi thu thập thông tin, tác giả tiến hành tổng hợp, thống nhất tồn bộ
nội dung, các nhận xét từ đó tìm ra mối liên hệ giữa các thông tin thông qua việc
lập các biểu đồ, bảng thống kê số liệu bằng cách sử dụng phần mềm SPSS. Các
số liệu sau khi được xử lý, được sắp xếp một cách hợp lý để xây dựng cơ sở dữ
liệu thống kê cho các kết luận nghiên cứu.

11


8. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo
và phần Phụ lục, luận văn được trình bày với 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực giao
tiếp sư phạm cho giáo viên các trường mầm non trong bối cảnh đổi mới giáo
dục.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực giao tiếp sư
phạm cho giáo viên các trường mầm huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương trong
bối cảnh đổi mới giáo dục.
Chương 3:Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực giao tiếp sư
phạm cho giáo viên các trường mầm non huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương
trong bối cảnh đổi mới giáo dục.

12


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
NĂNG LỰC GIAO TIẾP SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG
MẦM NON TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở nước ngoài
Vấn đề quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực giao tiếp sư phạm được các
nhà nghiên cứu quan tâm từ rất lâu, cho đến nay đã có rất nhiều cơng. Đã có khá
nhiều nhà quản lý, nhà khoa học đề cập tới sự cần thiết phải bồi dưỡng NLGTSP
cho giáo viên và chỉ ra mục tiêu, nội dung, hình thức tiến hành hoạt động này,
trong đó có thể kể đến một số cơng trình sau đây.
Raja Roy Sing (1991) trong cơng trình nghiên cứu với tựa đề “nền giáo
dục cho thế kỷ XXI - Những triển vọng của châu Á - Thái Bình Dương” đã
khẳng định: Khơng một hệ thống giáo dục nào có thể vươn cao quá tầm những
giáo viên làm việc cho nó. Do vậy, để phát triển giáo dục, các quốc gia phải làm

tốt việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, qua đó hình thành ở họ phẩm chất, NLSP,
năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác làm việc, óc phê phán, suy luận và
có sáng kiến [20].
Các tác giả Michael Fullan, Andy Hargreaves (2014) trong cơng trình “Sự
phát triển của giáo viên và thay đổi trong giáo dục” đã chỉ ra các cấp độ phát
triển năng lực chuyên mơn, nghiệp vụ của giáo viên, đó là: Phát triển các kỹ
năng tồn tại; thành thạo các kỹ năng dạy học cơ bản; mở rộng sự linh hoạt
chuyên môn; trở thành chuyên gia; có khả năng giúp đồng nghiệp phát triển
chun mơn; tham gia đóng góp vào quyết sách giáo dục. Để đạt đến các cấp độ
này giáo viên phải được đào tạo, bồi dưỡng trong suốt quá trình hoạt động sư
phạm. [24]

13


Raza và đồng nghiệp (2018) cũng đưa ra mơ hình của Hersey and
Blanchard vào ứng dụng phân tích ảnh hưởng của phong các lãnh đạo của giáo
viên.Khi đề cập đến chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục, tác giả
đã cho rằng: phải có nhiều hình thức, phương pháp bồi dưỡng giáo viên nhằm
thúc đẩy sự phát triển bền vững và đưa tới sự thích ứng nhanh của giáo viên với
thực tiễn giáo dục. Trong những hình thức, phương pháp bồi dưỡng giáo viên,
theo các tác giả, việc bổ sung, cập nhật những kiến thức, kỹ năng, phương pháp
dạy học mới phải kết hợp với đúc rút kinh nghiệm sư phạm trong thực tiễn dạy
học và tự bồi dưỡng của mỗi giáo viên [21].
Hobson Andrew J. (2003) trong nghiên cứu về khái niệm và đánh giá của
sinh viên sư phạm theo học thuyết đào tạo GV ban đầu đã khẳng định cách tiếp
cận ngay từ khi còn trong nhà trường sinh viên phải học tập, rèn luyện kinh
nghiệm dạy học và thực hành quá trình dạy kèm (thực tập) trong công việc đào
tạo GV ban đầu (sau tốt nghiệp) [19].
Leandro S.Almeida và Susana Caires (2007) trong nghiên cứu về khía

cạnh tích cực của việc giám sát đào tạo sư phạm: Quan điểm của sinh viên sư
phạm đã đi sâu vào nghiên cứu tầm quan trong việc giám sát, kèm cặp, hướng
dẫn trong thời gian thực tập của sinh viên sư phạm của các GV tại các nhà
trường phổ thơng. Chính q trình này sẽ ảnh hưởng và tác động đến quan điểm
hình thành nghề nghiệp cũng như các kinh nghiệm dạy học mà sinh viên sư
phạm sẽ học tập được sau khi ra trường. Đội ngũ GV ở các trường thực hành
nghề nghiệp là lực lượng quan trọng giúp sinh viên sư phạm hình thành được kỹ
năng nghề nghiệp và đánh giá được việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của các
bạn sinh viên [23].
Nhìn chung ở nước ngồi có rất nhiều cơng trình, đề tài nghiên cứu của
các tác giả khác nhau đề cập đến việc đào tạo sinh viên sư phạm để sau này có
đủ kỹ năng về dạy học, kỹ năng giáo dục để phục vụ cho hoạt động giáo dục
14


nhưng ít đề tài nào đề cập trực tiếp đến bồi dưỡng năng lực giao tiếp sư phạm
cho giáo viên mầm non. Những nghiên cứu này có thể xem là tiền đề quan trọng
để đề tài luận văn thực hiện được hướng nghiên cứu của mình.
1.1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, bồi dưỡng giáo viên là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng
của cơ quan QLGD và của mỗi cơ sở GD. Mục đích chủ yếu của bồi dưỡng giáo
viên là nâng cao trình độ, nghề nghiệp sư phạm cho người giáo viên. Trong
những năm qua có rất nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan tới bồi dưỡng giáo
viên, QL bồi dưỡng giáo viên.
Trần Công Phong và đồng nghiệp (2019) đã nghiên cứu, cho rằng: tác
động của bối cảnh đổi mới giáo dục đến khung năng lực GVMN, yêu cầu “tính
chuyên nghiệp” của giáo viên, thực trạng đào tạo và bồi dưỡng…đưa tới đòi hỏi
phải nâng chuẩn trình độ đào tạo và kỹ năng nghề nghiệp của GVMN. Vì vậy,
tăng cường quản lý nhà nước về giáo viên và nghề dạy học bậc mầm non, thực
hiện đổi mới quản lý đào tạo, bồi dưỡng GVMN trong bối cảnh đổi mới giáo

dục đang trở thành một nhu cầu cấp thiết [7].
Tác giả Nguyễn Thị Thùy (2018) đã phân tích thực trạng về nhận thức và
thực trạng thực hiện các chức năng QL vào hoạt động bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên mầm non. Tác giả đã đánh giá nhận xét về ưu nhược điểm của QL bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non. Tuy nhiên trong phạm vi bài viết tác giả
chưa đưa ra các biện pháp để khắc phục hạn chế đó [14].
Tác giả Nguyễn Minh Ngọc (2017) với cơng trình “năng lực giao tiếp của
GVMN với trẻ mẫu giáo lớn” đã nghiên cứu trên 4 trường mầm non nội thành
Hà Nội (Mầm non Thực hành Hoa Sen, Mầm non Thăng Long Kidsmart, Mầm
non Mỹ Đình 1, Mầm non Mai Dịch) và 4 trường Mầm non ngoại thành Hà Nội
(Mầm non Di Trạch, Mầm non Tân Hội, Mầm non An Thượng A, Mầm Non
15


Hoa Nắng). Nghiên cứu xác định phạm vi đối tượng nghiên cứu gồm 3 nhóm kỹ
năng: Kỹ năng lắng nghe, kỹ năng tự chủ cảm xúc, kỹ năng sử dụng các phương
tiện giao tiếp. Trong đó, năng lực giao tiếp của GVMN với trẻ mẫu giáo lớn là
sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm của GVMN vào thực hiện các hành động/
hoạt động lắng nghe, tự chủ cảm xúc và sử dụng các phương tiện giao tiếp với
trẻ mẫu giáo lớn có hiệu quả nhằm đạt mục đích giao tiếp đã đề ra”. Theo đó, tác
giả này quan niệm: “ Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp là sự vận dụng
tri thức, kinh nghiệm về việc sử dụng trang phục, sử dụng phương tiện ngôn
ngữ, phương tiện phi ngôn ngữ của GVMN với trẻ mẫu giáo lớn để đạt được
những mục tiêu giáo dục đã đề ra” [6].
Tác giả Nguyễn Thị Bạch Mai (2015) với luận án tiến sĩ “Phát triển đội
ngũ GVMN đáp ứng yêu cầu phổ cập GDMN cho trẻ em 5 tuổi các tỉnh Tây
Nguyên” [16] đã cho rằng: Nếu áp dụng đồng bộ các giải pháp: quy hoạch đội
ngũ GVMN, thực hiện tốt việc tuyển chọn, tổ chức bồi dưỡng kỹ năng sư phạm
và kỹ năng giao tiếp, sử dụng tiếng dân tộc, tăng cường kiểm tra, đánh giá giáo
viên theo chuẩn nghề nghiệp thì đội ngũ GVMN sẽ đảm bảo đủ số lượng, nâng

cao chất lượng, đáp ứng được yêu cầu phổ cập GDMN cho trẻ em 5 tuổi. Để
thực hiện các giải pháp này, các chủ thể quản lý phải coi trọng quản lý đào tạo,
bồi dưỡng theo hướng: Nâng chuẩn trình độ đào tạo; thực hiện bồi dưỡng theo
các yêu cầu của Chuẩn nghề nghiệp GVMN; đẩy mạnh bồi dưỡng thường
xuyên, bồi dưỡng theo các chuyên đề và bồi dưỡng kỹ năng sử dụng tiếng dân
tộc. Những nội dung và phương thức tổ chức bồi dưỡng vừa nêu trên, tuy chưa
đầy đủ nhưng là những vấn đề cấp bách của bồi dưỡng GVMN, cần được tiếp
tục nghiên cứu [5].
Tác giả Lê Thị Bích (2014), nghiên cứu đề tài: “QL hoạt động bồi dưỡng
giáo viên trường mầm non thành phố ng Bí, tỉnh Quảng Ninh theo chuẩn
nghề nghiệp ”đã đưa ra nội dung bồi dưỡng giáo viên mầm non theo chuẩn nghề
nghiệp và các nội dung QL giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp, từ đó
16


khảo sát thực trạng và đe ra được 6 biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non [3].
Qua các cơng trình nghiên cứu nêu trên và thực tiễn cho thấy, QL hoạt
động bồi dưỡng cho giáo viên được nhiều nhà khoa học, QL và giáo viên quan
tâm nghiên cứu. Tuy tiếp cận ở các giác độ khác nhau, song các cơng trình
nghiên cứu đều tập trung vào hai mảng chính đó là nghiên cứu công tác QL hoạt
động bồi dưỡng đội ngũ giáo viên theo cấp học, ngành học và nghiên cứu QL
hoạt động bồi dưỡng đội ngũ giáo viên theo từng cơ sở GD thuộc bậc, cấp,
ngành học theo chuẩn nghề nghiệp bằng con đường tổ chức các hoạt động đào
tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Qua đó, các cơng trình nghiên cứu cũng đều đã
khẳng định vị trí, vai trị, sự cần thiết và một số biện pháp tiến hành công tác bồi
dưỡng và QL hoạt động bồi dưỡng cho giáo viên tại các cơ sở GD. Mặc dù vậy,
đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu về QL hoạt động bồi
dưỡng năng lực giao tiếp sư phạm cho giáo viên các trường mầm non trong bối
cảnh đổi mới giáo dục, đặc biệt là trên địa bàn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải

Dương. Đây là một hướng nghiên cứu mở rộng mà tác giả theo đuổi với mục
đích nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non huyện Thanh Miện, tỉnh
Hải Dương.
1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1. Quản lý
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang (1989) thì: “Quản lý là sự tác động có
mục đích, có kế hoạch của chủ thê QL đến tập thế những người lao động (nói
chung là khách thể QL) nhằm đạt được những mục tiêu dự kiến” [8].
Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2011)cho rằng: “Quản lý là tác
động có định hướng, có chủ đích của chủ thể QL (người QL) đến khách thể QL
(người bị QL) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục đích của tổ chức” [4].
17


Trong nghiên cứu của tác giả Đặng Quốc Bảo và cộng sự (2015), khái
niệm quản lý là: “Quản lý là một phạm trù của khoa học QL, có sự tác động qua
lại của chủ thế QL và khách thể QL, trong đó chủ thể QL đóng vai trị chủ đạo”.
Đây là một khái niệm làm cho hoạt động QL vừa mang tính cơng nghệ, vừa
mang tính khoa học và đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ [2].
Hay như Harold Koontz (2010) cho rằng: “Quản lý là một yếu tố cần thiết
để đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của
nhóm (tổ chức). Mục tiêu của QL là hình thành một mơi trường mà trong đó con
người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và
sự bất mãn cá nhân ít nhất” [24]. Do vậy, QL với tư cách thực hành thì nó là một
nghệ thuật, cịn kiến thức có tổ chức làm cơ sở cho nó có thể coi như là một
khoa học.
Tất cả các khái niệm về QL đều có đặc điểm chung là: khẳng định chủ
thể, đối tượng QL, nội dung, phương thức và mục đích của q trình QL. Để
thực hiện các mục tiêu đó chủ thể QL sử dụng các tri thức khoa học, các văn bản

pháp luật, các phương tiện kỹ thuật... các công cụ QL, các cách thức QL
(phương pháp QL) để tác động đến các đối tượng một cách linh hoạt trong điều
kiện liên biến động của mơi trường bên trong, ngồi tổ chức. Sự tác động ấy
phải trên cơ sở khai thác các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đưa tổ chức
đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Bởi vậy, nghiên cứu này tác giả sử dụng khái niệm
"QL là quá trình tác động có chủ định, hướng đích của chủ thể QL lên đối tượng
QL nhằm tạo ra các hoạt động hướng tới đạt mục đích chung của tổ chức dưới
sự tác động của môi trường”.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Theo Phạm Minh Hạc (1986): Quản lý nhà trường (quản lý giáo dục nói
chung) là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của
mình đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo
18


dục, mục tiêu đào tạo đối với thế hệ trẻ và với từng học sinh. Quản lý giáo dục là
hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhằm làm cho hệ thống được quản lý vận hành theo đường lối giáo dục và
nguyên lý của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học-giáo dục thế hệ trẻ,
đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất [11].
Từ nghiên cứu này, tác giả đưa ra khái niệm về quản lý giáo dục như sau:
“Quản lý giáo dục là quá trình tác động có chủ định, hướng đích của chủ thể
quản lý ở các cấp lên đối tượng quản lý nhằm đưa các hoạt động giáo dục ở cơ
sở và tồn bộ hệ thống giáo dục đạt tới mục đích chung của tổ chức dưới sự tác
động của môi trường”.
1.2.3. Giao tiếp sư phạm
Khái niệm giao tiếp được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở một
phạm vi hẹp, GTSP được xác định trong việc giảng dạy, truyền thụ tri thức sao
cho hoạt động này diễn ra có hiệu quả. Đồng thời hạn chế đối tượng chỉ là học

sinh. Hay nói cách khác, tổng hợp theo tác giả Trần Thị Huyền (2010), cho rằng
GTSP là phương tiện để thực hiện hoạt động dạy - giáo dục của người GV.
Nghiên cứu này đã trích dẫn quan niệm “Giao tiếp sư phạm là năng lực truyền
đạt tri thức cho trẻ bằng cách trình bày rõ ràng, hấp dẫn” của N.D. Levitốp và
“Giao tiếp sư phạm là năng lực truyền đạt một cách dễ hiểu để các em học sinh
nắm vững và ghi nhớ tốt tài liệu” của Ph.N. Gônôbôlin. Đồng thời tác giả cũng
trích dẫn khái niệm của A.I. Secbacov với quan niệm: “Năng lực giao tiếp sư
phạm giúp xác lập nên mối quan hệ qua lại đúng đắn với trẻ, sự khéo léo đối xử
sư phạm, việc tính tốn tới đặc điểm cá nhân và lứa tuổi”[12].
Hay tác giả Lê Xuân Hồng (2014) cho rằng: “GTSP trong hoạt động của
GVMN là hệ thống sự tác động qua lại giữa GVMN và trẻ nhằm mục đích hiểu
19


biết về trẻ; tổ chức các mối quan hệ qua lại có mục đích giáo dục rõ ràng, hình
thành bầu khơng khí thuận lợi cho sự phát triển của trẻ” [10].
Như vậy, nhìn chung các tác giả theo xu hướng này đều cho rằng GTSP là
một nhân tố rất quan trọng trong việc thực hiện hoạt động nghề nghiệp của
người GV. Tuy nhiên, các tác giả chỉ bó hẹp chủ thể giao tiếp là người giáo viên.
Trên thực tế, để dạy học và giáo dục cho học sinh nhằm hình thành, phát triển và
hồn thiện nhân cách HS thì địi hỏi khi thực hiện hoạt động dạy học và giáo dục
của mình thì người GV phải biết kết hợp với các đồng nghiệp, với gia đình HS
và các lực lượng xã hội khác, tức các chủ thể giáo dục khác. Do đó, ở một phạm
vi rộng hơn, GTSP được xác định bao quát về đối tượng, đồng thời cũng nhấn
mạnh hơn đến bản chất và chức năng của GTSP.
Theo tác giả Hồ Lam Hồng (1996) thì: “GTSP của GVMN được hiểu là
sự tiếp xúc giữa GV với trẻ lứa tuổi mầm non, là sự tiếp xúc giữa GV với người
khác (cha mẹ hay người thân của trẻ, giữa GV với nhau, giữa GV với các thành
viên khác trong cộng đồng.) trong mối quan hệ hợp tác cùng chăm sóc và giáo
dục trẻ. GTSP của GVMN chủ yếu diễn ra trong mối quan hệ giữa GV với trẻ,

mà là trẻ em dưới 6 tuổi, thơng qua các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ” [9].
Theo Hoàng Anh và các cộng sự (2014) đã đưa ra khái niệm: Giao tiếp sư
phạm là q trình tiếp xúc tâm lý, trong đó diễn ra sự trao đổi thông tin, cảm
xúc, nhận thức và tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, nhằm thiết lập nên
những mối quan hệ giáo dục giữa nhà giáo dục với đối tượng giáo dục, giữa nhà
giáo dục với các lực lượng giáo dục, giữa các nhà giáo dục với nhau để thực
hiện mục đích giáo dục” [1].
Như vậy, khi nghiên cứu trên góc độ rộng hơn, chủ thể GTSP khơng cịn
bó hẹp là GV mà là tất cả các lực lượng có liên quan đến việc giáo dục HS.
Đồng thời, mục tiêu cuối cùng của GTSP không phải chỉ là sự truyền đạt tri thức
một cách có hiệu quả mà còn nhằm thiết lập các mối quan hệ sư phạm và phát
20


triển nhân cách học sinh. Do đó, GTSP cịn là q trình trao đổi thơng tin, tiếp
xúc tâm lý, tình cảm, nhận thức, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chủ thể
tham gia giao tiếp.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu sử dụng khái niệm GTSP như sau: “GTSP là
quá trình tiếp xúc tâm lý, trong đó diễn ra sự trao đổi thông tin, cảm xúc, nhận
thức và tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, nhằm thiết lập nên những mối
quan hệ giáo dục giữa các chủ thể liên quan đến quá trình giáo dục và giữa chủ
thể giáo dục với đối tượng giáo dục để thực hiện mục đích giáo dục”.
1.2.4. Năng lực giao tiếp sư phạm
* Năng lực
Thuật ngữ “năng lực” được nhiều tác giả đề cập trong nhiều cơng trình
nghiên cứu khác nhau, dưới nhiều góc độ phân tích khác nhau. Tuy nhiên, về cơ
bản các tác giả đều xét năng lực như là các đặc điểm cá nhân cho phép tạo ra
chất lượng thực thi công việc tốt (Anne Bourhis, 2000) [16]. Theo Alan
Mumford “năng lực là khả năng áp dụng hoặc sử dụng kiến thức, kỹ năng, hành
vi và đặc điểm cá nhân để thực hiện thành công nhiệm vụ công việc quan trọng

gắn với chức năng cụ thể, hoặc hoạt động trong một vai trị hay vị trí nhất
định”. Ơng cho rằng đặc điểm cá nhân chính là tinh thần, trí tuệ, nhận thức, xã
hội, tình cảm, thái độ và tâm thần (tâm vận) là những thuộc tính cần thiết, quan
trọng để thực hiện công việc [16].
Theo Richard E. Boyatzis (2008) và các cộng sự “năng lực là tập hợp các
khả năng, nguồn lực của một con người hay một tổ chức nhằm thực thi một
cơng việc nào đó” [22].
Theo Bernard Wynne (1990), “Năng lực là một tập hợp các kỹ năng,
kiến thức, hành vi và thái độ được cá nhân tích lũy và sử dụng để đạt được
21


kết quả theo yêu cầu công việc” (Năng lực = Kỹ năng + Kiến thức + Hành vi
+ Thái độ) [17].
Ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Quang Uẩn và cộng sự (2017) quan niệm
năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu
cầu đặc trưng trong một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo có kết quả tốt
trong lĩnh vực hoạt động ấy. Khi nói đến năng lực khơng phải là một thuộc tính
tâm lý duy nhất nào đó (ví dụ: khả năng tri giác, khả năng ghi nhớ,...) mà là tổ
hợp các thuộc tính tâm lý của cá nhân đáp ứng được yêu cầu của hoạt động và
đảm bảo cho hoạt động đó đạt kết quả mong muốn [15]. Theo quan điểm của
tác giả Phạm Minh Hạc (1986) thì: “Năng lực (Competency) là một tổ hợp
thuộc tính tâm lí phức hợp gồm kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm và nghệ thuật
cũng như thái độ của chủ thể đối với đối tượng trong quá trình hoạt động.
“Năng lực” trong nghiên cứu này đề cập đến năng lực làm việc hay năng lực
thực thi cơng tác - đây là thuật ngữ có xu hướng được sử dụng rộng rãi trong
quản lý nguồn nhân lực khu vực công cũng như khu vực tư, thể hiện được mức
độ phù hợp, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của một cá nhân, đối sánh với yêu cầu
công việc. Như vậy, năng lực là khả năng thực hiện có chất lượng một nhiệm vụ
nào đó của cá nhân. Năng lực có thể được quan sát, đo lường trong điều kiện

làm việc. Năng lực chỉ được xác định trong hành động và chỉ có thể nhận biết
năng lực của một cá nhân qua cơng việc người đó thực hiện” [11].
Từ những phân tích trên, có thể hiểu năng lực là tổ hợp các kiến thức, kỹ
năng, thái độ đảm bảo cho con người thực hiện có hiệu quả hoạt động trong một
lĩnh vực nhất định.
* Năng lực giao tiếp sư phạm
Như vậy có thể hiểu năng lực giao tiếp sư phạm là sự phối hợp hài hòa
giữa kiến thức, kỹ năng và thái độ của giáo viên mầm non trong giao tiếp để
thực hiện có hiệu quả hoạt động giáo dục trong nghề nghiệp của mình.
22


Về kiến thức, người giáo viên mầm non được trang bị đầy đủ kiến thức về
giao tiếp sư phạm thông qua quá trình đào tạo giáo viên mầm non tại các trường
sư phạm, thơng qua q trình thực tập tại các cơ sở giáo dục mầm non và qua
quá trình bồi dưỡng thường xuyên hàng năm cho giáo viên. Việc trau dồi và học
học hỏi không ngừng sẽ giúp cho cán bộ giáo viên sẽ được ôn lại và cập nhật
thêm những kiến thức mới nhằm đáp ứng được kịp thời yêu cầu của xã hội trong
từng thời kỳ. Không chỉ thế, quá trình học tập và bồi dưỡng cũng giúp hỗ trợ
hình thành và phát triển kỹ năng giao tiếp sư phạm.
Về kỹ năng, có nhiều định nghĩa về kĩ năng giao tiếp tùy theo quan niệm
của mỗi người. Theo tác giả Lê Xuân Hồng (2014), “Kĩ năng giao tiếp sư phạm
là khả năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngồi và diễn biến tâm
lí bên trong của trẻ và của bản thân. Đồng thời biết sử dụng hợp lí các phương
tiện giao tiếp ngơn ngữ và phi ngôn ngữ để tổ chức, điều chỉnh, điều khiển q
trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giáo dục” [10]. Theo tác giả Nguyễn Thị Bích
Thu (2010), “Kĩ năng giao tiếp là khả năng nhận biết mau lẹ những biểu hiện
bên ngồi và diễn biến tâm lí bên trong của con người (với tư cách là đối tượng
giao tiếp), đồng thời biết sử dụng phương tiện ngôn ngữ và phi ngơn ngữ, biết
cách định hướng để điều khiển q trình giao tiếp đạt tới mục đích đã định”

[13]. Từ những quan niệm trên, tác giả đưa ra khái niệm: “Kĩ năng giao tiếp của
GVMN là khả năng nhận biết nhanh chóng những biểu hiện bên ngồi và đốn
biết diễn biến tâm lí bên trong của đối tượng giao tiếp, đồng thời giáo viên (GV)
biết sử dụng phương tiện ngôn ngữ, phi ngôn ngữ, biết cách định hướng để điều
khiển, điều chỉnh quá trình giao tiếp của mình đạt hiệu quả”.
Như vậy, có thể hiểu kĩ năng giao tiếp của GVMN là khả năng nhận biết
nhanh chóng những biểu hiện bên ngồi và đốn biết diễn biến tâm lí bên trong
của đối tượng giao tiếp, đồng thời giáo viên (GV) biết sử dụng phương tiện ngôn
ngữ, phi ngôn ngữ, biết cách định hướng để điều khiển, điều chỉnh quá trình
giao tiếp của mình đạt hiệu quả. Kĩ năng giao tiếp của GVMN thực chất là sự
23


phối hợp phức tạp giữa những chuẩn mực hành vi xã hội (con người, nghề
nghiệp) nhưng lại mang tính rất cá nhân qua cách thể hiện những cử động, vận
động của cơ mặt, ánh mắt nụ cười (đây là vận động môi, miệng), tư thế đầu,
cổ,vai, chân... và những cử động của ngón tay, cổ tay, bàn tay... đồng thời với
ngơn ngữ nói của GV. Sự phối hợp hài hịa giữa các cử động đều mang một nét
tâm lí riêng nhất định phù hợp với mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, ngôn ngữ của
GVMN. Kĩ năng giao tiếp của GVMN được hình thành theo các con đường sau:
những thói quen ứng xử được hình thành trong gia đình; do vốn sống, vốn kinh
nghiệm, kinh nghiệm công tác của GV qua tiếp xúc với mọi người trong các mối
quan hệ xã hội; rèn luyện thường xuyên qua thực hành giao tiếp trong các tình
huống cụ thể.
Tóm lại, kỹ năng giao tiếp của GVMN được thể hiện qua việc GV nhận
thức đánh giá bản thân trên cơ sở nhận thức đánh giá người khác (trẻ, đồng
nghiệp, cha mẹ) thông qua giao tiếp; từ đó, nâng cao khả năng tự giáo dục và tự
hồn thiện mình, nỗ lực và phấn đấu, phát huy những mặt tích cực và hạn chế
những mặt yếu kém. Tuy nhiên, để có thể giao tiếp hiệu quả và mang lại sự
thành cơng đó địi hỏi GVMN phải rèn luyện các kĩ năng giao tiếp thường xuyên

thông qua thực hành, thực tiễn và qua các tình huống giao tiếp cụ thể nhằm giúp
trẻ phát triển toàn diện nhân cách.
Về thái độ giao tiếp sư phạm, các nhà quản lý và giáo viên mầm non cần
để ý lứa tuổi mầm non là thời kì phát triển đặc biệt quan trọng, đây là giai đoạn
trẻ phát triển rất nhanh. Nếu trẻ được sống trong một môi trường được tạo ra
bằng những cảm xúc tích cực và được cơ giáo u thương, quan tâm, ln hỗ
trợ, động viên, khích lệ thì trẻ sẽ tích cực khám phá và sẽ phát triển tốt. Để thực
hiện tốt việc chăm sóc và giáo dục trẻ, giáo viên mầm non cần có tình thương
u trẻ và gắn bó với nghề, ln đặt kỉ cương, tình thương, trách nhiệm lên trên
hết. Trong giao tiếp, ứng xử với trẻ mầm non, giáo viên phải tuân thủ các quy
24


định về đạo đức nghề nghiệp của giáo dục mầm non, từ đó hình thành những
phẩm chất bên trong được thể hiện ra bên ngoài qua nhận thức, thái độ, hành vi.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã ban hành một số chỉ thị, nghị định quy
định chuẩn mực đạo đức trong nhân cách của GVMN. Như: Chỉ thị số 8077/CTBGDĐT ngày 21/12/2007 của Bộ GD-ĐT về tập trung kiểm tra, chấn chỉnh vi
phạm đạo đức nhà giáo và Quy định về đạo đức nhà giáo (ban hành kèm theo
Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/2008 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT
quy định về đạo đức nghề nghiệp) đã chú trọng nhiệm vụ đánh giá, rà soát, sắp
xếp lại đội ngũ nhà giáo, nâng cao trình độ chun mơn, bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp, giúp đỡ kịp thời GV, cán bộ quản
lí (CBQL) giáo dục và nhân viên vượt qua khó khăn trong cuộc sống, công tác;
đảm bảo trong nhà trường, trong cơ quan quản lí giáo dục khơng có giáo viên,
CBQL giáo dục và nhân viên vi phạm đạo đức nhà giáo, vi phạm quy chế
chuyên môn nghiệp vụ; Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
ngày 15/5/2016 đã nêu rõ: cần phải tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đặc biệt cần “xây dựng đội ngũ cán
bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm

nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, đẩy mạnh
đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”; Quyết định số
02/2008/QĐ-BGDĐT ngày 22/01/2008 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT quy định về
Chuẩn nghề nghiệp của GVMN đã quy định về đạo đức lối sống của GVMN ở
điều 5 các yêu cầu thuộc lĩnh vực phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; Chỉ thị
số 505/CT-BG DĐT của Bộ trưởng Bộ GDĐT ngày 20/02/2017 về việc tăng
cường đảm bảo an toàn trong các cơ sở giáo dục.
Kết luận, để có được những năng lực giao tiếp sư phạm đáp ứng nhu cầu
của xã hội, đòi hỏi mỗi sinh viên - giáo viên mầm non tương lai phải tích cực
25


×