Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

SO SÁNH GIỌT NƯỚC MẮT BÀ CỤ TỨ VÀ GIỌT NƯỚC MẮT NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.54 KB, 18 trang )

SO SÁNH GIỌT NƯỚC MẮT BÀ CỤ TỨ VÀ GIỌT NƯỚC MẮT NGƯỜI ĐÀN BÀ
HÀNG CHÀI.
A. NỘI DUNG
2.1. Cảm nhận chi tiết “dòng nước mắt” trong tác phẩm “Vợ nhặt” – Kim Lân
2.1.1. Hoàn cảnh dẫn đến giọt nước mắt:
Truyện ngắn Vợ nhặt được đặt trong bối cảnh nạn đói thê thảm năm 1945 với trên hai triệu
đồng bào nước ta bị chết đói. Trong cái chết bủa vây ấy, Tràng dẫn cô vợ về nhà ra mắt mẹ.
Sự kiện này làm xáo động cả vùng quê, cả xóm ngụ cư nghèo khổ. Họ ngạc nhiên vì trong
thời buổi đói khát này, Tràng lại liều mạng rước thêm một miệng ăn. Là người trong cuộc
nhưng chính Tràng cũng ngạc nhiên khơng kém, anh khơng thể ngờ được mình lại có vợ, vợ
theo, lấy vợ một cách hiển hách. Rồi đến cả bà cụ Tứ, dường như bà như không dám tin vào
mắt vào tai mình.
Việc Tràng dẫn người con gái lạ về ra mắt mẹ đã khiến cho bà cụ Tứ ngạc nhiên. Khi vào
nhà, bà băn khoăn ngồi xuống giường. Tràng mở lời: “Nhà tơi nó mới về làm bạn với tôi
đấy u ạ !”. Chữ “nhà tôi” rồi “làm bạn” của anh Tràng nghe mà đứt ruột. Đến lúc này bà cụ
mới hiểu ra “cơ sự”, người mẹ nhạy cảm nhận ra cảnh bi hài của câu chuyện, để rồi nỗi tủi
thân đã hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước
mắt”. Lòng bà ngổn ngang trăm mối, chồng chất bao nỗi niềm suy tư.
2.1.2. Ý nghĩa của dòng nước mắt
“Dòng nước mắt” của bà cụ Tứ là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận: con lấy vợ vào giữa
ngày đói khiến bà lão vừa mừng lại vừa tủi, vừa lo lắng. Giọt nước mắt chỉ “rỉ” ra hiếm hoi
bởi cả đời đã cạn khô nước mắt trong những tháng ngày khốn khổ dằng dặc. “Kẽ mắt kèm
nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn
tuổi. Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: tình thương con thắt lịng.
Đó là nước mắt bà hờn tủi cho mình, xót thương cho các con:


Bà cụ tủi thân vì cho rằng mình chưa làm trịn bổn phận người mẹ:“chao ơi, người ta dựng
vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt
sau này. Cịn mình thì…”. Với người phụ nữ Việt Nam thì nào đâu chỉ có việc mang nặng
đẻ đau, ni con trưởng thành, mà còn phải lo cho con yên bề gia thất. Cha mẹ nào chưa lo


được tấm chồng, cô vợ cho con thì chết khơng nhắm mắt được. Với quan niệm truyền thống
ấy, bà cụ Tứ cũng hiện lên đầy tâm sự. Trong lời độc thoại ở trên, bà đã thầm so sánh “người
ta” với “mình”, nghĩ đến người ta, bà thấy tủi thân mình, vì người ta giàu có, có của ăn của
để lo được cho con, cịn bà thì có “dăm ba mâm cơm” cũng khơng lo được cho con. Đằng
sau dấu chấm lửng mà Kim Lân cố tình để lại ấy là nỗi lịng, là nước mắt của người mẹ già
tội nghiệp. Bà xót thương cho các con: Thứ nhất là xót thương cho “số kiếp đứa con
mình” vì bà hiểu rằng con trai bà khơng được bình thường, khơng được may mắn như con
nhà người. Nghĩ thế nhưng bà không hề rẻ rúng coi thường cơ con dâu mà ngược lại tấm
lịng người mẹ ấy trào dâng những tình cảm dành cho người con gái cùng đường lỡ
bước:“Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con
mình mới có được vợ…”. Trong suy nghĩ đầy nhân văn ấy, người mẹ đã đồng cảm với cô
con dâu bị nạn đói đẩy cho tới đường cùng buộc phải liều thân theo một anh chàng xấu xí về
làm vợ. Cũng trong suy nghĩ ấy bà cũng thầm cảm ơn cơ con dâu vì nhờ thị mà con trai bà
mới có được vợ. Tình thương người đàn bà vợ nhặt ấy còn được thể hiện trong hành động
vồn vã, ân cần, cử chỉ quan tâm “con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”;
trong suy nghĩ nhân hậu: “bà lão nhìn người đàn bà, lịng đầy thương xót. Nó bây giờ là
dâu là con trong nhà rồi”.
Đó là nước mắt “mừng”cho hạnh phúc của các con:
Bao nhiêu nỗi niềm được nén lại của người mẹ trong mấy chữ:“Ừ! thơi thì các con đã phải
dun phải kiếp với nhau, u cũng mừng lịng”. Mẹ chỉ “mừng lịng” chứ khơng phải là “vui
lịng”. Vì một lẽ giản đơn, đặt trong hồn cảnh đói kém như thế nỗi mừng chưa đủ để gọi là
vui. Nhưng chính câu nói ấy đã xua tan nỗi phấp phỏng lo âu cho Tràng, xóa đi nỗi bẽ
bàng, lo sợ cho người con dâu, thổi vào tâm hồn đơi trẻ một luồng gió mới và mở ra một
hạnh phúc trong tầm tay. Bà cụ khuyên nhủ, động viên con những điều chí tình, đơn
hậu, tràn đầy niềm lạc quan. Là người từng trải, kinh qua bao nỗi nhọc nhằn nên người
mẹ ấy hiểu lắm, cảm thông lắm. Khổ đau, đói rét khơng quật ngã được người mẹ ấy vì mẹ
tin rằng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Đó cũng là triết lý sống dân gian đã dưỡng nuôi


bao tâm hồn con người Việt. Mẹ động viên “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày

liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá…”. Lời động viên ấy là lời chí tình
là cả niềm tin mãnh liệt của bà. Bà dặn dò, bảo ban hai con “Cốt làm sao chúng mày hòa
thuận là u mừng rồi”. Lời khuyên ấy của người mẹ là món q vơ giá, gói trọn bao tình u
thương vơ bờ của bà dành cho các con. Tấm lòng người mẹ ấy cao đẹp biết nhường nào!
Đó là dịng nước mắt bà lo lắng cho tương lai của các con:
Kim Lân ba lần tả bà cụ Tứ khóc và bốn lần trực tiếp tả nỗi lo lắng của bà: “Biết rằng
chúng nó có ni nổi nhau sống qua được cơn đói khát này khơng ?”. Nghĩ về cuộc đời
mình bà lại càng lo cho con: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời nó liệu có hơn bố mẹ
trước kia không ?”. Lần thứ hai, người mẹ nghèo khổ ấy để những giọt nước mắt lo lắng,
tủi buồn của mình chảy rịng rịng trên khn mặt già nua khắc khổ: “Năm nay thì đói to
đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Đến lúc nghe tiếng trống thúc thuế đầu
làng, bà cụ lại một lần nữa xót xa: “Giời đất này khơng biết có sống qua được khơng các
con ạ?”. Nỗi lo lắng ấy và nước mắt bao lần chảy xi chính là lịng u thương con vơ bờ
bến của người mẹ Việt Nam. Thật đáng tự hào và quý trọng biết bao.
Gạt đi nước mắt để sống lạc quan, bà là điểm tựa cho hạnh phúc của đôi vợ chồng son:
Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui
hơn “làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. Khn mặt bà cụ Tứ có sự thay
đổi từ “bủng beo u ám” nay đã “rạng rỡ hẳn lên”. Kim Lân đã làm thay đổi mạch cảm xúc
của tồn bộ câu truyện. Cái khn mặt ấy ngày hôm qua “bủng beo u ám” bao nhiêu thì
hơm nay “rạng rỡ” bấy nhiêu đã làm cho sức sống của câu truyện bỗng bừng sáng ở những
dòng cuối.
Hòa chung trong tâm trạng “lửng lơ êm ái” của Tràng, trong cái dáng điệu “hiền
hậu đúng mực” của người vợ nhặt. Bà cụ Tứ quả thật đã như được hồi sinh lần thứ hai. Bà
đã nhóm lên bếp lửa niềm tin cho các con bằng chính ngọn lửa lạc quan đang thắp sáng cõi
lịng bà. Bữa ăn đầu đón nàng dâu thật thảm hại nhưng tất cả đều ăn rất ngon, vui vẻ. Dù ăn
cả “chè khoán” bằng cám nhưng bà cụ vẫn tươi cười, chuyện trị rơm rả, thân mật với hai
con. Bà lão nói “tồn chuyện vui, tồn chuyện sung sướng về sau này”. Bà cịn mở ra một


viễn cảnh tươi sáng qua câu chuyện đàn gà: “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đơi gà.

Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại
chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Hình ảnh đàn gà trong câu chuyện của bà cụ
Tứ như một liều thuốc tinh thần mở ra bao điều tốt đẹp. “Đôi gà – đàn gà” là sự sinh sôi –
sự sinh sôi lấn át sự huỷ diệt, sự sống lấn át cái chết. Chính câu chuyện ấy đã thổi hồn vào
bữa ăn, vào khát vọng hạnh phúc của Tràng và người đàn bà. Về điều này, Kim Lân khẳng
định “Khi đói người ta khơng nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”.
Đó cũng là tinh thần của nhân dân ta từ bao đời nay “Còn da lơng mọc cịn chồi nảy cây”.
(Ths Phan Danh Hiếu)
2.1.3. Đánh giá chi tiết:
Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc:
phơi bày tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng và trong nạn đói 1945; cảm thơng
thương xót; tố cáo xã hội; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ
Đặc sắc nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diễn tả nội tâm
nhân vật đặc sắc; tình huống truyện độc đáo; nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, đối
thoại sinh động, hấp dẫn; ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc
kĩ lưỡng, tạo sức gợi đáng kể; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo…; trần thuật hấp dẫn.

2.2. Cảm nhận chi tiết “dịng nước mắt” trong Chiếc thuyền ngồi xa
2.2.1. Giới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiết giọt nước mắt
Người nghệ sĩ Phùng đang có cơ hội đứng trước một kiệt tác nghệ thuật có một khơng hai
của mình trong sự nghiệp cầm máy ảnh. Đó là một bức tranh đẹp, ưng ý, một bức tranh
“cảnh đắt trời cho”. Chiếc thuyền ngồi xa trong ống kính của Phùng thật lộng lẫy, thật đẹp
đẽ khiến cho trái tim người nghệ sĩ ấy rung lên, tâm hồn anh thăng hoa cùng những siêu
thăng nghệ thuật. Cái đẹp làm anh nhận ra “khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn” và chân
lý “cái đẹp chính là đạo đức”. Nhưng đằng sau những thăng hoa ấy là sự sụp đổ, sự hụt hẫng


khi anh nhìn thấy bên trong cái đẹp của bức tranh anh vừa chụp là một sự thật trần trụi,
nghiệt ngã. Cảnh lão chồng đánh vợ thô bạo, cảnh thằng Phác cứu mẹ: “Thằng nhỏ cho đến
lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang

xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt”.
2.2.2. Cảm nhận, phân tích chi tiết “dịng nước mắt”:
Dịng nước mắt ấy là biểu hiện của nỗi đau đớn.
Đi sâu vào tìm hiểu cuộc đời của người đàn bà làng chài ta mới thấy hết được số
phận éo le, bất hạnh của chị. Chị là nạn nhân của đói nghèo và tình trạng bạo lực gia
đình: cái xấu đã đeo đuổi chị như một định mệnh, trận đậu mùa quái ác đã để lại những nốt
rỗ chằng chịt trên khuôn mặt. Vì xấu khơng ai lấy nên chị trót có mang với anh hàng chài
vẫn thường đến nhà chị mua bả về đan lưới. Từ đấy, chị gắn đời mình với sông nước. Cuộc
sống nghèo khổ, thuyền chật con đông:“nhiều lần biển động phải ăn xương rồng luộc chấm
muối”. Vì túng quẫn, đói nghèo, thất học, lạc hậu… lão chồng của chị từ một anh con
trai “hiền lành” đã trở thành một kẻ vũ phu thô bạo. Hắn đã lấy phương pháp đánh vợ để
giải tỏa những bế tắc cuộc sống: “Ba ngày một trận nhẹ. Năm ngày một trận nặng”. Gia
cảnh nghèo khó bế tắc. Cuộc sống đầy tình trạng bạo lực gia đình khơng lối thốt càng làm
cho “dịng nước mắt” ấy thêm đắng cay, nghiệt ngã.
Dòng nước mắt của người đàn bà ấy còn là nước mắt của con người giàu lịng tự
trọng, là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng, khi chồng đánh
khơng hề có bất kì phản ứng nào, nhưng hành động của thằng con khiến chị như sực
tỉnh, như bị một viên đạn xuyên qua tâm hồn để thức dậy nỗi đau tận cùng.
Trận đòn cay nghiệt từ lão chồng khơng có gì kỳ lạ vì nó vẫn là hình ảnh quen thuộc được
tính theo chu kỳ “ba ngày, năm ngày” nhưng kỳ lạ là ở thái độ người đàn bà. Trước đòn roi,
chị vẫn lặng im chịu đựng, vẫn lặng yên cam chịu như một thói quen: “Người đàn bà với
một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, khơng chống trả, cũng khơng tìm
cách chạy trốn”. Đặc biệt phía sau trận địn ấy người đàn bà không nước mắt. Thể xác bị
chà đạp, tinh thần bị lăng nhục nhưng chị khơng khóc. Đó khơng phải là sự vơ cảm, lãnh
cảm hay mẫn cảm với địn roi mà phía sau đó là cả một tấm lịng, một đức hi sinh, vị tha cao


thượng của người vợ, người mẹ. Nước mắt ấy chỉ rơi xuống khi việc làm của thằng chồng
đã bị con trai và người khách lạ tên Phùng chứng kiến. Bấy giờ chị mới khóc, nước mắt ấy
vừa xấu hổ, vừa nhục nhã, nhưng trên hết vẫn là nước mắt của con người giàu lòng tự trọng.

Nỗi khổ đau ấy chị muốn mình âm thầm gánh chịu. Chị khơng muốn ai biết, ai hay. Tấm
lòng ấy ở người mẹ, người vợ, người phụ nữ thật cao thượng biết bao.
Dòng nước mắt lo lắng cho con hay nuốt nước mắt vào trong để sống vì con. Nước mắt
ấy là nước mắt của tình mẫu tử sâu nặng.
Nhìn thấy thằng Phác vì thương mẹ mà phạm vào tội ác trái luân thường đạo lí. Người mẹ
ấy đã có ứng xử bất ngờ: vái con, ơm con vào lịng. Chi tiết người mẹ vái lạy thằng con
khiến người đọc khơng thể khơng xót xa, ái ngại. Chị không biết phải giải quyết như thế nào
mới phải đạo, cũng khơng tìm được giải pháp. Đó là nỗi lo lắng về sự phát triển nhân cách
lệch lạc của con.
Trước đó vì thương con, người mẹ đã gửi thằng Phác lên rừng ở với ông ngoại; xin lão
chồng có đánh thì mang lên bờ mà đánh. Đó là bởi vì chị thương con, lo lắng cho tương lai
của con, không muốn con bị tổn thương tinh thần.
Vượt lên trên sự cay đắng và cơ cực ấy, tình mẫu tử của chị tỏa sáng, đó chính là đức
hi sinh cao thượng của thiên chức làm mẹ: Chị gồng mình gánh chịu địn roi của chồng là
bởi vì những đứa con: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ khơng thể sống
cho mình như ở trên đất được!”. Chị hiểu rằng bất kỳ một cuộc hôn nhân tan vỡ nào thì
người tổn thương nhất chính là những đứa con. Bởi vậy chị gồng mình gánh lấy những đòn
roi của chồng để giữ lại hai chữ Gia Đình cho các con. Chính tình mẫu tử thiêng liêng cao
thượng đã chắp cánh cho chị, đưa đàn con bay vút lên trên sự cơ cực, đói kém, nhọc nhằn và
lam lũ. Đã từng trải qua những giông tố của cuộc đời, từ cuộc tình dang dang dở, cuộc sống
mưu sinh đầy bấp bênh, khó nhọc đến bi kịch khổ đau trước sự hành hạ của người chồng, có
lẽ hơn ai hết, người phụ nữ miền biển này đã quá thấu hiểu: Cuộc đời này vốn dĩ không đơn
giản mà chứa đựng biết bao hiểm nguy và cạm bẫy, đe dọa, rình rập con người. Như con
chim sợ cành cây cong, chị như con gà mái mẹ đang xịe đơi cánh vững chãi chở che cho
đàn con của mình. Lo cho chúng từ miếng ăn, giấc ngủ, người phụ nữ ấy biết chắt chiu, giữ
gìn những hạnh phúc đời thường. Đó là những niềm vui thật nhỏ bé, bình dị, đơn giản chỉ là


những giây phút “vợ chồng con cái hòa thuận, vui vẻ”, là những lúc “con cái được ăn
no” cho dù có lẽ những khoảnh khắc ấy là khơng nhiều trong cuộc sống của chị. Nó như

những ánh sao băng vụt sáng qua bầu trời trong thoáng chốc để rồi nhường chỗ lại cho sự
thăm thẳm, mờ mịt của vũ trụ. Song người đàn bà hàng chài ấy vẫn cứ nhớ, vẫn cứ nâng niu
như là điểm tựa tinh thần bình yên cho thị để sống và nuôi đàn con.
2.2.3. Đánh giá vấn đề
Giá trị nội dung: Dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài đã thể hiện giá trị hiện thực
và giá trị nhân đạo sâu sắc. Nhà văn đã phơi bày tình cảnh xã hội những năm sau chiến
tranh và đêm trước thời kì đổi mới 1986. Đồng thời bày tỏ niềm cảm thơng thương xót trước
số phận đầy nghiệt ngã của người lao động sau chiến tranh; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm
hồn người mẹ giàu đức hi sinh.
Nghệ thuật: tình huống truyện mang tính khám phá, nhận thức, phát hiện đời sống. Ngôn
ngữ kể chuyện khách quan, giàu sức thuyết phục. Nhân vật được đặt trong những tình
huống khác nhau; được khắc hoạ khách quan, chân thực, vừa có cá tính sắc nét vừa có tính
điển hình; ngơn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách.
Có thể khẳng định: Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì
đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc
đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh
Châu đã nói: “Nhà văn khơng có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần
phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
B. SO SÁNH
3.1. Điểm tương đồng
Về nội dung:
Đều là những dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hồn cảnh nghèo đói và khốn
khổ; đều là “giọt châu của lồi người”, giọt nước mắt chan chứa tình người trào ra từ tâm
hồn những người mẹ giàu lòng vị tha, đức hi sinh; đều góp phần thể hiện giá trị hiện thực và


nhân đạo của tác phẩm: phản ánh hiện thực xã hội trong những thời điểm khác nhau; thể
hiện tấm lòng thương cảm đối với bi kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời,
tình người của tác giả.
Về nghệ thuật: Đều cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc của hai nhà

văn qua việc lựa chọn chi tiết đặc sắc.
3.2. Điểm khác biệt
Về nội dung: Hoàn cảnh riêng của hai nhân vật khác nhau – nước mắt cũng mang những
nỗi niềm riêng
Chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ giữa
lúc đói kém; bà cụ cảm thấy ai ốn, xót thương cho số kiếp đứa con mình và cũng xót tủi
cho chính thân phận mình. Cịn dịng nước mắt của người đàn bà hàng chài chan chứa sau
sự việc thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le, ngang trái của gia đình bà
đã diễn ra trước mắt nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng; người phụ nữ vùng biển này thấy đau đớn,
nhục nhã vì khơng thể giấu được bi kịch gia đình, vì thương xót, lo lắng cho con. Phía trước
chị là một màu mù xám, bế tắc.
Về nghệ thuật thể hiện: Để khắc họa chi tiết dịng nước mắt, Kim Lân sử dụng hình thức
diễn đạt trực tiếp, giản dị; Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn đạt ví von, hình ảnh.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn văn bà nhận dâu: “Bà lão càng ngạc nhiên
hơn... nước mắt chảy xuống ròng ròng” ( trích “Vợ nhặt”-Kim Lân)
MẪU 1:
Diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích:


+ Khi hiểu cơ sự, bà cúi đầu nín lặng; lịng ai ốn, xót thương cho số kiếp đứa con mình:
“Chao ơi, … Cịn mình thì…”; khóc và lo lắng cho số phận của các con: “Biết rằng chúng
nó… này khơng”
+ Bà thở dài, cảm thơng với hồn cảnh của người đàn bà lạ: “Người ta có gặp bước khó
khăn,… con mình mới có vợ được…” và mở rộng lịng mình chấp nhận nàng dâu mới.
+ Bà mừng cho hạnh phúc của con “Ừ, thơi thì … u cũng mừng lịng…”, khun và động
viên con bằng những lời đơn hậu, trăn trở cho hồn cảnh gia đình mình.
+ Thương xót, ái ngại cho tình cảnh của nàng dâu mới; xúc động, nghẹn ngào: “nghẹn lời
…chảy xuống ròng ròng”
+ Nghệ thuật: Bằng vài chi tiết miêu tả hành vi, cử chỉ; khắc họa qua ngôn ngữ giản dị,

phương ngữ Bắc bộ ngữ, Kim Lân đã thể hiện một cách tinh tế, sinh động tâm trạng phức
tạp, đầy mâu thuẫn của một người mẹ nghèo, trải đời.
– Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân: Qua nhân vật bà cụ Tứ, tác phẩm ca ngợi vẻ
đẹp tâm hồn người lao động nghèo Việt Nam nói chung, người phụ nữ nói riêng: nhân hậu,
bao dung, vị tha, yêu thương con, lạc quan, sẵn lịng cảm thơng và cưu mang những người
cùng cảnh ngộ, …
HÀNH VĂN 1:
Lang thang trong cõi ta bà, Basho chợt đón lấy nhành hương mà cất lên tiếng thở nhẹ nhàng:
“Mùi hoa mơ ơi
Con đường núi mọc
Bỗng nhiên mặt trời.”
Còn ta khi lang thang trong cõi thơ văn ta được gì ? Đó là những khung cảnh , những con
người, những câu chuyện của những vùng đất mới lại được cô đọng trong giọng văn dạt dào
trầm ấm , tha thiết cho thân phận con người. Kim Lân, từ trang văn của mình trong nạn đói
Ất Dậu 1945 đã phác lên những nét vẽ thật tang thương và chết chóc về số phận con người
và lịng bao dung, nhân hậu của con người trong nhân vật bà cụ Tứ. Để từ con chữ ấy, người
đọc lại thương tiếc cho số phận cùng đường của những con người trong nạn đói khủng khiếp
năm ấy.


Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ
vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là
phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp
phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai
bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão khơng cịn tin vào cảm giác của bà
nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn,
và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, khơng
thể tin rằn con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một
tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.
Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dịng cảm xúc tn trào, là cơn

bão lịng đang cuộn xốy với tình thương con vơ bờ bến. Bây giờ thì bà khơng chỉ biết sự
việc “Nhà tơi nó mới về làm bạn với tơi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra
biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân,
tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà
ăn lên làm nổi, cịn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con
bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của
người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương
xót, tủi buồn.
Bà đã chấp nhận nàng dâu khơng phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là
sự cảm thơng với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu
tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u
cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng
trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà
làm cuộc hơn nhân của Tràng và thị khơng cịn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà
là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số
phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một
người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu
cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lịng đầy thương xót.
Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với
chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không


phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng
đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài
dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi
“nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.
Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một
tương lai tươi sang phía trước. Khn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà
xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang
quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá. Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao

thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn
nước và món chính là chè khốn- cháo cám nhưng khơng khí gia đình thật ấm áp, tình
chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để
vượt qua thực tại.
Bà cụ Tứ tồn nói chuyện của tương lai, tồn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão
bàn với con tính chuyện ni gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu
chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng
giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc
quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong
hồn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi- Cịn da lơng mọc, cịn chồi nảy cây”.
Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống
thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài
trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này khơng
chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình
qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.


Kết bài:

Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ – người mẹ
thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hồn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay
đón nhận người con dâu mặc dù trong lịng cịn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lịng các
con ngọn lửa sống trong hồn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.




HÀNH VĂN 2

Bà cụ Tứ, người phụ nữ nghèo khổ, chồng mất sớm, là dân ngụ cư, sống lay lắt trước nạn

đói đang đe dọa. Bà sống cùng Tràng – người con trai làm nghề kéo xe bò thuê, xấu trai, ế
vợ.
Tác phẩm đặt nhân vật vào hoàn cảnh hoàn tồn bất ngờ trước tình huống đứa con trai vào
những ngày đói khủng khiếp, bỗng dưng nhặt được vợ về. Nhà văn đã theo dõi và phân tích
một cách độc đáo những diễn biến tâm trạng của người mẹ nghèo.
Bà cụ Tứ ngạc nhiên trước việc con trai có vợ. Khi vừa đến nhà thấy đứa con trai “reo lên
như một đứa trẻ”. Bà “phấp phóng” theo con vào trong nhà, khi thấy có người đàn bà xa lạ
đến nhà mình và gọi mình bằng u, bà hết sức ngạc nhiên.
Nhà văn Kim Lân đã chọn ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng ngạc nhiên của
bà cụ. Bà lạo đứng sững lại, với bao nhiêu câu hỏi ùa về: “Quái sao lại có người đàn bà lạ
trong nhà ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao
lại chào mình bằng u? Khơng phải con cái Đục. Ai thế nhỉ?”
Bà lão “thấy mắt mình nhoèn đi thì phải” bà nhìn kĩ lại người đàn bà nhưng bà vẫn “khơng
hiểu”. Bà không hiểu bởi lẽ, bà hiểu rất rõ gia cảnh của mình cùng cảnh ngộ của đứa con
trai trong nạn đói. Ai đến nhà bà trong hồn cảnh này? Thế mà lại có người đàn bạ lạ hiện
diện trong nhà bà, lại chào bà bằng u.
Khi hiểu ra, bà cụ vừa tủi thân, vừa xót thương lo lắng, vừa mừng vui cho con trai và con
dâu. Nhưng bằng sự kinh nghiệm và sự từng trải, qua thái độ rối rít như một đứa trẻ cùng
với những câu phân trần, cắt nghĩa không mấy rành rẽ của con trai bà đã hiểu ra cơ sự.
Khi hiểu ra con trai có vợ “bà cúi đầu nín lặng”. Một sự nín lặng chất chứa bao suy
nghĩ “Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai
ốn xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà lão tủi thân, xót thương và lo lắng cho con.
Bà tủi thân bởi bà là mẹ mà bà không vun vém được hạnh phúc cho con, bà day dứt vì mình
chưa làm trịn bổn phận: “chao ơi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn
nên làm nối… cịn mình thì”. Bà khóc thương cho con “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ


xuống hai dòng nước mắt”. Bà lo lắng cho cuộc sống trước mắt của con mình “Biết rằng
chúng nó có ni nổi nhau sống qua được cơn đói khát này hay khơng”
Từ chỗ xót xa cho đứa con trai bà chuyển sang thương xót cho người đàn bà. Bà thấu hiểu,

xót thương cảnh ngộ của người phụ nữ xa lạ bỗng trở thành con dâu mình… Tác giả sử
dụng ngơn ngữ độc thoại diễn tả thật xúc động những suy nghĩ âm thầm của người mẹ:
“Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình
mới có vợ… Thơi thì bổn phận bà là mẹ, bà chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua
khỏi cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ơng giời bắt
chết thì cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được”.
Bà ôn tồn, nhẹ nhàng nói với nàng dâu: “Ừ, thơi thì các con đã phải duyên phải kiếp với
nhau u cũng mừng lịng”. Câu nói của bà làm cho ngực Tràng nhẹ hẳn đi đồng thời cũng là
trả lại danh dự và giá trị cho người vợ nhặt. Có thể nói sự từng trải, trái tim nhân hậu bao
dung đã giúp bà mẹ nghèo vượt qua được những định kiến hẹp hòi để đạt đến sự cảm thông
lớn lao, chấp nhận con dâu và mừng hạnh phúc cho con.
Bà cụ vẫn không hết lo lắng, từ tốn dặn dò, bảo ban nàng dâu mới những điều chí tình chí
nghĩa, hướng con đến tương lai: “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo
nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó
ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng may về sau…”
Ngòi bút của nhà văn thật tinh tế khi miêu tả sâu sắc tâm trạng lẫn lận buồn vui, lo lắng của
bà cụ Tứ. Niềm vui của người mẹ nghèo khổ trong cảnh ngộ này thật tội nghiệp. Nó trở nên
héo hắt vì khơng sao thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của sự buồn tủi, xót thương. “Bà lão thở nhẹ
ra một hơi dàu. Bà lão nghĩ đến ông lạo, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lạo nghĩ đến cuộc đời
cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có
hơn bố mẹ trước kia khơng?”. Bà lão, nhìn người đàn bà, lịng đầy xót thương. Bà mong con
mình: “Cốt làm sao chúng mày hịa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày
lấy nhau lúc này, u thương quá”. Bà nghẹn lời khơng nói được được nữa, nước mắt cứ chảy
xuống ròng ròng.
Thế nhưng, sự xuất hiện của nàng dâu mới đã đem đến cho cái gia đình nghèo khổ này một
khơng khí đầm ấm, hịa hợp chưa bao giờ có. Trong khơng khí ấy, bà cụ Tứ “nhẹ nhõm, tươi


tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Cùng với nàng dâu,
bà cụ “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa” cho quang quẻ, nề nếp để “cuộc đời họ có thể

khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”.
Trong bữa cơm sáng dù chỉ có cháo lỗng, ít ra chuối chấm muối và chè cám đắng chát
nhưng cả nhà đầu ăn rất ngon, bà cụ “nói tồn chuyện vui, tồn chuyện sung sướng về sau”.
Bà cố vui để động viên an ủi con trai, con dâu. Bà đang nhen nhóm niềm vui, niềm hi vọng
cho dâu con của mình hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bởi hơn ai hết bà hiểu nạn đói
đang ập xuống đầu mẹ con bà “bà vội ngoảnh mặt ra ngồi. Bà lão khơng để cho con dâu
nhìn thấy bà khóc”.


Kết bài:

Khắc họa diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ, ngòi bút của nhà văn rất tỉ mỉ, chân thực,
cảm động, nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, ngơn ngữ q kiểng mà trong sáng chọn lọc.
Nhà văn đã miêu tả thành công nhân vật bà cụ Tứ với những tâm trạng khác nhau. Bà là một
người mẹ nghèo, rất mực thương con, nhân hậu bao dung, có niềm tin vào tương lai hạnh
phúc tươi sáng. Bà là hình ảnh tiêu biểu mang phẩm chất của người mẹ Việt Nam.

HÀNH VĂN 3:
Kim Lân là nhà văn xuất thân từ tầng lớp bình dân. Ơm mộng trở thành họa sĩ nhưng vì nhà
nghèo khơng có tiền ăn học nên ơng đã đến với văn chương như một duyên nợ. Chính cuộc
sống nghèo khổ đã giúp Kim Lân có cái nhìn rưng rưng, thấu cảm với những kiếp nhân sinh
nhọc nhằn. Ông đã xây dựng thành công nhân vật người mẹ bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo
khổ trên bối cảnh của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Khó có thể hình dung truyện ngắn
Vợ nhặt sẽ thế nào nếu thiếu đi nhân vật người mẹ này.
Nhân vật bà cụ Tứ xuất hiện ở nửa sau của truyện. Dưới ngòi bút của nhà văn, người mẹ ấy
mang lấy một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Đói nghèo làm hủy hoại ngoại hình, dáng vẻ.
Kim Lân đã dùng những chi tiết ấn tượng để miêu tả sự xuất hiện của nhân vật. Nhà văn để
cho Tràng ngóng mẹ với trạng thái nơn nóng, sốt ruột. Người con trai bồn chồn đứng ngồi
không yên mong mẹ về bởi anh đang lo lắng, sợ hãi vì tự ý dẫn người đàn bà về làm vợ –



điều mà trước anh chưa nghĩ đến. Giống như Tràng, bạn đọc hẳn cũng hồi hộp, mong chờ sự
xuất hiện của người mẹ. Kim Lân không tả nhiều, chỉ bằng mấy câu “Ngồi ngõ có tiếng
người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào. Bà lão vừa đi vừa lẩm
bẩm, tính tốn gì trong miệng” cũng đủ để nhân vật nhanh chóng đi vào tâm trí của người
đọc.
Từ láy “lọng khọng” gợi hình ảnh một bà lão già yếu, hẳn là còng lưng. Đồng thời, nó cũng
đánh thức trong lịng người đọc bao xót thương. Người mẹ ấy đến già vẫn chưa hết lo toan,
chưa có lúc nào được thanh thản qua dáng vẻ “vừa đi vừa lẩm bẩm tính tốn”. Cuộc sống
mưu sinh vất vả hiện lên qua dáng đi, đậm nét trên khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà. Suốt
cả đời cực khổ kiếm miếng ăn, bà cụ Tứ chưa lúc nào thốt khỏi nỗi lo về đói nghèo. Do
vậy, trước tình cảnh con trai “nhặt” được vợ vào lúc đói, người mẹ ấy lại một lần nữa chua
xót nghĩ đến đời mình “Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình” .
Bà cụ Tứ là người mẹ giàu đức hi sinh, vị tha và hết sức bao dung. Qua tác phẩm Vợ
nhặt, nhà văn Kim Lân đã để lại trong lòng bạn đọc một ấn tượng sâu đậm bằng một tình
huống éo le, cảm động: Tràng “nhặt” được vợ vào nạn đói khủng khiếp. Cái tài của nhà văn
chính là trong tình huống ấy phẩm giá của con người được bộc lộ rõ nét nhất. Nhân vật
người mẹ bà cụ Tứ trong tác phẩm cho thấy điều đó. Trước việc con trai dẫn về nhà một
người đàn bà đồng nghĩa với việc thêm một miệng ăn trong cảnh “tối sầm vì đói khát”,
người mẹ già ấy đã chấp nhận người đàn bà đói, bỏ qua những việc tối cần thiết vào lúc
dựng vợ gả chồng cho con. Bà có trái tim nhân hậu khi vượt qua nỗi ám ảnh của cái đói để
cưu mang, đùm bọc, xót thương người “vợ nhặt” với suy nghĩ “ Người ta có gặp bước khó
khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình” .
Người mẹ chồng ấy nhìn con dâu với ánh mắt xót xa và ái ngại. Bằng tình thương của mình,
bà đã xua đi cái cảm giác mặc cảm của người con dâu qua câu nói: “Ừ thơi thì các con đã
phải dun phải kiếp với nhau, u cũng mừng lịng” . Mừng lịng chứ khơng phải bằng lòng,
bà Tứ nhân hậu là ở chữ ấy, Kim Lân sâu sắc cũng là chữ đấy.
Người mẹ nghèo khở trong tác phẩm đã khơng vì cái đói, cái cực của kiếp người tha
hương cầu thực mà chai sạn tâm hồn, dửng dưng, vơ cảm với tình cảnh khốn cùng của
người khác. Bà nói với người con dâu mới với giọng “thân mật”, chân tình biết bao khi mời

người đàn khốn khổ theo không con trai bà “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ


mỏi chân” . Đọc đến đây người đọc hẳn thấy mình rưng rưng xúc động cũng như cảm phục
tấm lịng nhân ái của người mẹ trong truyện. Đồng thời, ta cảm nhận được tình người thật
ấm áp bởi trong cái đói thê thảm, những người nghèo vẫn giang rộng vịng tay, che chở, yêu
thương nhau. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ ở nhân vật này là vì thế.
Bên cạnh tình yêu thương với người cùng cảnh ngộ, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ
có lịng u thương con vơ bờ. Con trai có vợ vào lúc đói kém, người chết vì đói “như ngả
rạ” đã tác động mạnh đến tâm lí của người mẹ. Bà cụ Tứ có những cảm xúc đan xen phức
tạp, bà vui vì con có được vợ nhưng buồn, lo lắng “Biết rằng chúng có ni nổi nhau sống
qua được cơn đói khát này khơng.” Hơn nữa, nỗi tủi của người mẹ không lo được chuyện
trăm năm cho con cứ đầy lên uất nghẹn: “Thơi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng
được cho con…”. Người đọc nhận thấy sự thay đổi của người mẹ ấy vào sáng hơm sau.
Khơng cịn khn mặt bủng beo u ám mà thay vào đó là nét “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày
thường” “rạng rỡ hẳn lên”, vượt lên cả cái mệt mỏi của dáng đi “lọng khọng” là hàng động
hoạt bát “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”.
Người mẹ ấy ln có mọt niềm tin vững chắc và biết truyền ngọn lửa niềm tin đến với
các con. Trong bữa ăn đầu tiên của gia đình có nàng dâu mới, bà cụ nói chuyện ngăn nhà,
ni gà với bao nhiêu là hi vọng. Người nói đến tương lai nhiều nhất trong truyện lại là bà
mẹ gần đất xa trời. Phải chăng người mẹ muốn gieo vào lòng con trai, con dâu niềm tin vào
sự đổi thay, vào sự sống bất diệt? Cũng trong buổi sáng hôm ấy, bà cụ nấu nồi chè khoán để
đãi nàng dâu mới. Cái dáng lật đật, lễ mễ và hành động vừa khuấy khuấy vừa tươi cười đon
đả mới đáng kính và xúc động làm sao.
Tình cảm của người mẹ được Kim Lân diễn tả đầy đủ và tinh tế qua những từ láy đó. Phải
chăng bà vội vã để níu kéo niềm hạnh phúc mong manh mà bà cảm nhận đang mất đi trước
thực tại đói khổ? Có thể thấy, mọi suy nghĩ, hành động của bà cụ Tứ đều xuất phát từ lịng
thương con vơ bờ. Người mẹ già ít nghĩ đến mình. Bà lo, thương, trĩu nặng, trăn trở vì
con. Đức hi sinh của bà thật cao cả.
Nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ là người mẹ có

trái tim nhân hậu mà cịn là người sắc sảo, trải đời và hiểu đời. Bà ngạc nhiên, “phấp
phỏng” trước thái độ vồn vã, trang trọng của người con trai và còn ngạc nhiên hơn khi trong
nhà mình có một người đàn bà, lại chào bà “U đã về ạ”. Bao suy đoán làm cho bà mẹ cứ
phân vân, băn khoăn, điều bà không bao giờ dám nghĩ tới – con trai bà có vợ, lại đến vào
lúc bà không ngờ nhất. Do vậy, bà cụ Tứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tuy


nhiên, chỉ nghe mấy câu nói của người con trai “Nhà tôi mới về làm bạn với tôi đấy u ạ!
Chúng tơi phải dun phải kiếp với nhau…
Chẳng qua nó cũng là cái số cả…” , bà mẹ ấy “cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lịng người
mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu biết bao cơ sự”. Cái cúi đầu nín lặng của bà cụ Tứ hàm chứa tất
cả những éo le mà bà đã đốn ra. Bà khơng hỏi con trai về điều Tràng đang tránh nói, khơng
dám kể và người phụ nữ lạ kia đang bẽ bàng, tủi hổ. Bằng sự từng trải, người mẹ đã không
tra xét mà bà nhìn, nghe và thấu thị những uẩn khúc trong câu chuyện “nhặt” vợ để con trai
đỡ căng thẳng và người đàn bà theo con trai mình khơng bị tổn thương. Cách ứng xử của
bà cụ Tứ vừa thông minh, vừa nhân ái vô cùng.
Kim Lân xây dựng nhân vật người mẹ trong tác phẩm của mình bằng một tình huống truyện
độc đáo. Việc Tràng dẫn người vợ “nhặt” về nhà giữa cảnh người chết như ngả rạ vì đói đã
tác động mạnh mẽ đến tâm lí của nhân vật người mẹ. Những cảm xúc vui, buồn, âu lo,
thương xót… đan xen nhau trong nội tâm của người mẹ bà cụ Tứ. Nhờ có tình huống truyện
mà tâm lí nhân vật được diễn tả thật tự nhiên, sống động. Vì thế, hình ảnh bà mẹ nhân hậu
đọng lại trong trí nhớ và để lại ấn tượng khó phai trong lịng bạn đọc.
Để miêu tả tâm lí nhân vật, nhà văn cịn dùng phương thức trần thuật theo ngơi thứ ba của
người trần thuật giấu mình nhưng lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật (lời nửa trực
tiếp) “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn nào lại đứng ngay đầu
giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? …”. Những suy nghĩ thầm kín
của bà cụ Tứ đã cho thấy sự tinh tế của nhà văn trong khắc họa phẩm chất của nhân vật. Tìm
hiểu nhân vật này khó có thể bỏ qua những lời độc thoại nội tâm cảm động như thế.




×