Tải bản đầy đủ (.docx) (143 trang)

Mức độ ảnh hưởng của kinh tế ngầm đối với sự phát triển kinh tế quốc dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.66 MB, 143 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DNNN
ĐTNN
EU
GDP
ILO

European Union
Gross Domestic Product
International Labour

Doanh nghiệp nhà nước
Đầu tư nước ngoài
Cộng đồng châu Âu
Tổng sản phẩm nội quốc
Tổ chức lao động thế giới

IMF
LHQ
MPS
NOE
OECD

Organization
International Monetary Fund
United Nations
Materail Product System
Non-Observed Economy
Ogranization for Economic Co-



Quỹ tiền tệ quốc tế
Liên Hợp Quốc
Hệ thống sản phẩm vật chất
Kinh tế chưa được giám sát
Tổ chức hợp tác và phát triển

SNA
TNHH
WB
WTO

operation and Development
System of National Accounts
World Bank
World Trade Organization

1
1

Hệ thống Tài khoản quốc gia
Trách nhiệm hữu hạn
Ngân hàng thế giới
Tổ chức thương mại thế giới


MỤC LỤC

2
2



DANH MỤC BẢNG

3
3


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế ngầm là khái niệm khơng xa lạ gì đối với các nước phát triển, nhưng lại là
một hiện tượng mới ở các nước đang phát triển, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế
chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường như ở nước ta. Quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế mạnh mẽ đã làm bùng phát nhiều mối quan hệ thị trường phức
tạp trên cơ sở nền kinh tế đa thành phần, đa sở hữu, cộng thêm vào đó là sự non trẻ và
thiếu kinh nghiệm của một thể chế quản lý mới … tất cả đã tạo điều kiện hình thành nên
một khu vực kinh tế khơng nhỏ, nhưng hồn toàn nằm ngoài sự quản lý của nhà nước.
Kinh tế ngầm là một phần của khu vực đó, thường được hiểu bao gồm các hoạt động sản
xuất – kinh doanh bất hợp pháp; các hoạt động phi kinh doanh liên quan đến chiếm
dụng tài sản hay tạo thu nhập bất chính thơng qua: gian lận thương mại, tham nhũng,
trốn thuế, cố ý làm thất thoát ngân sách nhà nước… Độ lớn của khu vực kinh tế ngầm
không hề nhỏ (như ở nước ta, chỉ tính riêng trong đầu tư xây dựng cơ bản thất thoát
hàng năm lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng), nên hồn tồn có cơ sở để khẳng định đây là
một trong những cản trở lớn nhất, làm giảm tốc độ cũng như chất lượng tăng trưởng của
kinh tế Việt Nam. Không những thế, kinh tế ngầm còn là “cái ung” chứa đựng những
vấn đề kinh tế - xã hội nhức nhối: tệ nạn xã hội, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo, gian lận
thương mại… và đặc biệt là tham nhũng. Thế nhưng, tới thời điểm này, ngoài một số bài
báo rời rạc đăng trên các tạp chí chuyên ngành (Tia Sáng, Thời báo Kinh tế Việt Nam,
Nghiên cứu Kinh tế) hầu như chúng ta chưa có một cơng trình nào đi sâu tìm hiểu vấn
đề này một cách hệ thống. Trong bối cảnh đó, thiết nghĩ, việc tìm hiểu, nghiên cứu, soạn

thảo phương pháp phù hợp để nhận dạng, đánh giá và tìm cách từng bước đưa khu vực
kinh tế ngầm ra ánh sáng – là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa.

2. Tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước
Trên thế giới, khái niệm khu vực kinh tế ngầm trong nền kinh tế quốc dân đã được
nhắc đến từ những năm 30 của thế kỷ trước. Nhưng phải hơn 40 năm sau, vấn đề này
mới được các nhà kinh tế học nghiên cứu, đánh giá một cách có hệ thống, thể hiện qua
các cơng trình của một số nhà nghiên cứu tên tuổi như: Gutmann P., Altman T.,
Kaufmann D., Kaliberda A., Hernan Soto… Những nghiên cứu này về cơ bản đã xây
dựng được một cơ sở phương pháp luận đủ mạnh để nhận diện và đánh giá khu vực kinh


tế khơng được kiểm sốt, trong đó có kinh tế ngầm. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu
này thường gắn liền với hồn cảnh và trình độ phát triển kinh tế của một giai đoạn, của
một quốc gia cụ thể, do đó khó có thể ứng dụng trực tiếp vào trường hợp nước ta.
Ở trong nước, từ khi chúng ta thực hiện đổi mới, vấn đề kinh tế ngầm, kinh tế phi
chính thức cũng được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Nổi bật nhất là cơng trình
nghiên cứu của các giả Lê Đăng Doanh, Nguyễn Minh Tú, Nguyễn Hữu Đạt, Phạm Văn
Dũng… Tuy nhiên, những cơng trình này chủ yếu tập trung vào đánh giá và nhận dạng
khu vực kinh tế phi chính thức với các đối tượng chủ yếu là kinh tế hộ gia đình với qui
mơ nhỏ và các cá nhân tự tạo việc làm, hiện đang nằm ngồi tầm kiểm sốt và hỗ trợ của
Nhà nước. Khu vực kinh tế ngầm, bao gồm các hoạt động sản xuất – kinh doanh bất hợp
pháp; các hoạt động phi kinh tế liên quan đến chiếm dụng tài sản, tạo thu nhập bất chính
thơng qua gian lận thương mại, tham nhũng, trốn thuế… thì cho đến nay vẫn chưa có
nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu một cách hệ thống.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài mức độ ảnh hưởng của kinh tế ngầm đối với sự
phát triển kinh tế quốc dân.
Phạm vi nghiên cứu:

Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các phương pháp đo lường và đánh giá
ảnh hưởng của kinh tế ngầm, đề xuất lựa chọn phương án phù hợp với điều kiện phát
triển của Việt Nam.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu khu vực kinh tế ngầm tại Việt Nam trong quá trình
chuyển đổi kinh tế từ năm 1986 tới nay, với trọng tâm là giai đoạn 2000-2007. Chú
trọng khảo sát kinh nghiệm nước ngoài, đặc biệt là kinh nghiệm của các nước có nền
kinh tế chuyển đổi giai đoạn từ sau 1990.
Về không gian: Trong khn khổ tài chính cho phép đề tài sẽ tiến hành thử nghiệm
điều tra khảo sát trên địa bàn thành phố Hà Nội (cũ).

4. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là thông qua việc đo lường và đánh giá ảnh hưởng của kinh tế
ngầm đối với nền kinh tế Việt Nam, đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế tối đa mức độ
ảnh hưởng tiêu cực của khu vực kinh tế này đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, chúng tơi đề ra các nhiệm vụ sau:


-

Tìm hiểu và xác định cơ sở lý luận để nhận dạng, phân loại đánh giá
độ lớn của nền kinh tế ngầm tại Việt Nam.

-

Lựa chọn phương pháp xác định độ lớn và đánh giá mức độ ảnh
hưởng của khu vực kinh tế ngầm đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân.

-


Ứng dụng các phương pháp trên để khảo sát và đánh giá độ lớn của
kinh tế ngầm và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế.

-

Nghiên cứu, phân tích và đề xuất giải pháp để tăng cường hiệu quả
quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế này.

6. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu kinh tế ngầm cần phải có cách tiếp cận hệ thống, xem xét sự hình
thành, vận động của khu vực kinh tế này trong mối quan hệ biện chứng với các điều
kiện phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong giai đoạn chuyển đổi sang cơ chế thị
trường. Để tìm ra được một phương pháp đánh giá khu vực kinh tế ngầm phù hợp, nhóm
nghiên cứu sẽ tiến hành cùng lúc một số công việc: 1) nghiên cứu cơ sở lý luận và kinh
nghiệm của các nước phát triển; 2) khảo sát thực tiễn Việt Nam thông qua điều tra,
phỏng vấn hai nhóm đối tượng chính: cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp; 3)
nghiên cứu ý kiến chun gia trong và ngồi nước thơng qua tài liệu thứ cấp; 4) phân
tích, đánh giá, tổng hợp, hình thành phương pháp tối ưu. Trên cơ sở phương pháp được
lựa chọn, nhóm nghiên cứu sẽ tiến hành ứng dụng thực tế để nhận dạng khu vực kinh tế
ngầm và đánh giá ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của một địa phương (thành
phố Hà Nội). Dựa trên việc phân tích các kết quả khảo sát vừa có được, kết hợp với cơ
sở lý luận chung, nhóm nghiên cứu sẽ tiến hành đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường
hiệu quả quản lý nhà nước với khu vực kinh tế ngầm, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nhằm đạt được mục đích đã đề ra, nhóm nghiên cứu
sẽ sử dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu cơ bản: phương pháp phân tích thống
kê, phân tích – tổng hợp, tốn kinh tế, phương pháp nghiên cứu điển hình kết hợp điều
tra khảo sát thực tế.

7. Đóng góp mới của đề tài

-

Hệ thống hóa lý luận cơ bản để nghiên cứu khu vực kinh tế phi chính thức nói
chung và kinh tế ngầm nói riêng.

-

Đề xuất phương pháp đánh giá độ lớn và mức độ ảnh hưởng của khu vực kinh
tế ngầm trong điều kiện kinh tế nước ta.


-

Đưa ra đánh giá tổng quát về ảnh hưởng của khu vực kinh tế ngầm tới sự phát
triển của nền kinh tế quốc dân.

-

Khái quát một số đặc điểm nhận dạng khu vực kinh tế ngầm trên địa bàn thành
phố Hà Nội.

-

Đề xuất nhóm giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước với khu
vực kinh tế ngầm.

8. Cấu trúc của đề tài
Đề tài bao gồm 120 trang, 32 bảng và 7 hình. Ngồi lời mở đầu, phần kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài sẽ gồm những nội dung chính như sau:
Chương I. Một số vấn đề cơ bản kinh tế ngầm

Chương II. Phương pháp đo lường độ lớn và đánh giá mức ảnh hưởng của khu
vực kinh tế ngầm trong điều kiện phát triển kinh tế Việt Nam
Chương III. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của khu vực kinh tế ngầm tại Việt Nam
Chương IV. Giải pháp nhằm quản trị ảnh hưởng của khu vực kinh tế ngầm tại Việt
Nam.


CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KINH TẾ NGẦM
1.1.

KHÁI NIỆM KINH TẾ NGẦM

1.1.1. Đôi nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề kinh tế ngầm
Thực tế cho thấy, khi đánh giá thực lực của một nền kinh tế để ra sách lược phát
triển mà chỉ xem xét tới khu vực kinh tế hợp pháp, chính thống, kiểm sốt được là hồn
tồn khơng khách quan và thiếu chính xác. Khu vực kinh tế phi chính thức, dù chúng ta
có muốn hay khơng thì vẫn ln ln tồn tại và đóng một vài trị khơng nhỏ trong sự
vận động của nền kinh tế quốc dân. Khu vực kinh tế này hiện diện ở khắp mọi nơi, ở bất
kỳ nước nào từ các nước kém phát triển tới những nước có nền kinh tế thị trường lâu đời
và được coi là hoàn hảo nhất. Tuy nhiên, với các nền kinh tế đang ở trong giai đoạn
chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang thị trường như ở nước ta hiện nay, vai trị của
khu vực kinh tế ngồi chính thống lại càng có một vị trí đặc biệt. Đơn giản là vì trong
quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, các thể chế kinh tế cũ đương nhiên bị phá vỡ,
trong khi các thể chế mới chưa được hình thành, các chủ thể kinh tế đặc biệt là các cơ
quan hoạch định chính sách ln ở trong tình trạng “vừa dò đường vừa tiến”. Tất cả đã
tạo nên mảnh đất màu mỡ cho kinh tế phi chính thống phát triển.
Như chúng ta đã biết mỗi quốc gia có những đặc điểm kinh tế, xã hội khác nhau, nên cách
tiếp cận, cách phân loại, phương pháp đánh giá khu vực kinh tế phi chính thống này mỗi nơi
một khác. Ngay như tên gọi cũng đã cho ta thấy sự đa dạng và phong phú của nó:


-

kinh tế (khu vực) phi chính qui (Informal Economy (Sector);

-

kinh tế bóng đen (Shadow Economy);

-

kinh tế chìm (Underground Economy);

-

kinh tế ngầm (Hidden Economy);

-

kinh tế phi chính thức (Unofficial Economy);

-

kinh tế khơng được giám sát (Non-observed Economy; Unobserved Economy);

-

khu vực phi kết cấu (Unstructural Sector);

-


kinh tế song song (Parallel Economy);

-

kinh tế đen (Black Economy);

-

kinh tế xám (Grey Economy);

-

kinh tế bất hợp pháp (Illegal Economy);


-

kinh tế vơ hình (Invisible Economy);

-

kinh tế giấu diếm (Concealed Economy);

-

khu vực phi chính quy thành thị (Urban Informal Sector);

-

khu vực phi doanh nghiệp (Unincorporated Sector);


-

khu vực dịch vụ phi chính quy (Informal Service Sector);

-

và nhiều tên gọi khác nữa.1
Nhưng dù được gọi bằng nhiều tên khác nhau, thì tất cả các khái niệm trên đều cùng một
điểm chung là phản ánh các hoạt động kinh tế ở một khu vực trái với khu vực kinh tế chính
thống và khu vực này rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tổng quát các khái niệm của
một số tổ chức và quốc gia trên thế giới về khu vực kinh tế này đã được hai tác giả Lê Đăng
Doanh và Nguyễn Minh Tú (1997) trình bày tương đối cặn kẽ trong cuốn “Khu vực kinh tế phi
chính quy: Một số kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam trong quá trình chuyển đổi kinh
tế” (tr. 9-33). Dưới đây chúng tơi xin tóm tắt và bổ sung thêm một số quan điểm mà các tác giả
trên chưa đề cập đến.
Bảng 1.1.Tóm tắt quan niệm của các nước về khu vực kinh tế phi chính thức
ST
T
1.
2.

Các nước hoặc tổ chức

Nội dung

Quan niệm của Cộng hịa
Liên Bang Đức

Khu vực phi chính qui ở các nước thế giới thứ ba là mảnh đất

nuôi dưỡng hàng triệu con người muốn làm việc trong hệ thống
kinh tế chính thức nhưng khơng tìm được việc làm ở đó.
Kinh tế chìm là khu vực kinh tế trốn thốt khỏi mạng lưới thống
kê và khơng định lượng được.
Kinh tế không được giám sát là các hoạt động lẽ ra phải được liệt
kê nhưng lại không liệt kê trong số liệu thống kê chính thức. Kinh
tế ngầm là các hoạt động khơng báo cáo cơ quan tài chính và kinh
tế bất hợp pháp là các hoạt động vi phạm pháp luật.
Khu vực phi chính qui bao gồm các đơn vị khơng đăng ký và
khơng được liệt kê chính thức, cũng như không rơi vào phạm vi
hoạt động của pháp luật và quy định của nhà nước.
Khu vực phi chính qui là các đơn vị kinh tế có quy mơ nhỏ, sản
xuất và phân phối hàng hóa và dịch vụ do người lao động tự do,
người lao động trong gia đình và một số ít người lao động khác
đảm nhận. Đặc điểm của khu vực này là dễ thâm nhập, yêu cầu
về vốn thấp, sử dụng công nghệ và kỹ năng đơn giản, năng suất
lao động thấp.
Kinh tế ngầm được sử dụng để biểu thị tất cả các hoạt động về
nguyên tắc phải được tính vào GDP nhưng thực tế lại khơng tính
được do chúng được giấu giếm trước cơ quan nhà nước. Đó là
hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ hợp pháp nhưng không
khai báo, sản xuất hàng hóa dịch vụ bất hợp pháp và thu nhập vơ
hình.

3.

Quan niệm của Liên
minh châu Âu (EU)
Quan niệm của Hà Lan


4.

Quan niệm của Ấn Độ

5.

Quan niệm của Tổ chức
lao động thế giới (ILO)

6.

Quan niệm của Tổ chức
hợp tác và phát triển kinh
tế (OECD)

1 Lê Đăng Doanh, Nguyễn Minh Tú (1997). Khu vực kinh tế phi chính quy: Một số kinh nghiệm quốc tế và thực
tiễn Việt Nam trong quá trình chuyển đổi kinh tế. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr. 8-9.


7.

Quan niệm của Ngân
hàng thế giới

Hoạt động phi chính thức là hoạt động mà giá trị gia tăng không
được ghi nhận do các hãng hoặc cá nhân cố ý khai báo sai hoặc
trốn tránh không khai báo.

Như vậy, dù với cách nhìn nhận như thế nào thì các nhà nghiên cứu đều có chung
một điểm thống nhất: kinh tế ngầm là một bộ phận không thê tách rời của kinh tế phi

chính thức và đóng vài trị hết sức quan trọng trong cơ cấu kinh tế của các quốc gia.
Kinh tế ngầm (Hidden Economy) như là một bộ phận của khu vực kinh tế phi
chính thức bắt đầu được nhắc tới nhiều vào những năm 30 của thế kỷ 20, khi các tổ chức
tội phạm có tổ chức (mafia) Ý tấn cơng vào nền kinh tế Mỹ. Khi đó, kinh tế ngầm đồng
nghĩa với các hoạt động phạm pháp của mafia, chủ yếu liên quan đến sản xuất vận
chuyển buôn bán hàng quốc cấm. Từ đó đến nay, kinh tế ngầm đã có sự dịch chuyển
đáng kể từ khu vực tội phạm hình sự sang khu vực kinh tế, xã hội. Nếu những năm 30
các nghiên cứu về kinh tế ngầm chỉ đề cập đến khía cạnh hình sự thì đến những năm 70
các nhà kinh tế đã thực sự vào cuộc. Tác giả của một trong những nghiên cứu đầu tiên
về lĩnh vực này là nhà khoa học Mỹ P. Gutmann.Trong bài báo mang tên “The
Subterranean Economy” 2 (Kinh tế chìm) ơng đã chứng minh một cách hết sức thuyết
phục rằng khơng thể khơng tính đến sự tồn tại của các hoạt động kinh tế ngầm. Từ thời
điểm này bắt đầu xuất hiện nhiều tác phẩm nghiên cứu sâu về kinh tế ngầm với các tên
tuổi: Carter M., Kaufmann D., Kaliberda A., Д. Арваи, Д. Блейдс, Б. Даллаго, А.
Дилнот, Л. Дрекслер, Б. Контини, К. Моррис, Е. Фейг, Б. Казимер3 và nhiều người
khác. Có thể chia các nghiên cứu này thành hai nhóm lớn: các nghiên cứu về kinh tế
ngầm tại các nước phát triển và các nghiên cứu tại các nước đang và kém phát triển.
Điểm khác biệt cơ bản trong cách tiếp cận của hai nhóm này xuất phát từ bản chất khác
nhau của các hoạt động ngầm. Với các nước phát triển, khu vực kinh tế ngầm được xem
như là một phần cịn bỏ sót, cần tính thêm của nền kinh tế quốc dân. Còn đối với các
nước thứ 3, khu vực này lại được xem là một phần không thể thiếu, không thể tách rời
của nền kinh tế quốc dân.
Các nghiên cứu cho thấy, ở các nước phát triển kinh tế ngầm có thể phát triển với
mấy nguyên nhân sau:

-

tỷ lệ thất nghiệp cao;
2 Gutmann P.M. The Subterranean Economy // Financial Analysts Journal. 1977. November – December.


3

Carter M. Issues in the hidden economy: A Survey // Economic record. Parkville, 1984. V.60.#170. Gutmann
P.M. The grand unemployment illusion // Journal of the institute for Socioeconomic Studies. 1979.V.4. #2.
Kaufmann D., Kaliberda A. Integrating the unofficial economy into the dynamics of postsocialist economies: a
framework of analysis and evidence / Economic transition in Russia and the new states of Eurasia. Armonk, NY.:
M.E. Sharpe, Inc.


-

chi phí sản xuất quá lớn;

-

sự thay đổi trong thời gian làm việc: thu ngắn tuần làm việc;

-

tăng tuổi thọ trung bình;

-

thuyên giảm bảo đảm xã hội cho người về hưu.
Khác với các nước thứ ba, khu vực kinh tế ngầm tại các nền kinh tế phát triển
thường thu hút lao động khơng có năng lực cạnh tranh như: người nhập cư (hợp pháp và
không hợp pháp), nội trợ, sinh viên, người về hưu. Với những đối tượng này, hoạt động
ngầm (bán thời gian, không khai báo hay đăng ký) dường như là một loại hình cơng việc
duy nhất để kiếm thu nhập. Doanh nghiệp nhu nhận các đối tượng này làm việc với mục
đích tăng phần lợi nhuận của hoạt động kinh doanh. Điểm này rất khác với mục đích

tham gia vào khu vực kinh tế ngầm của người dân ở các nước đang phát triển – là để tồn
tại.
Trong nhóm các nghiên cứu về khu vực kinh tế ngầm ở các nước đang phát triển
chúng tôi muốn nhắc tới cơng trình nổi bật nhất của nhà kinh tế học người Pêru De Soto
Hernando4. Sở dĩ chúng tôi chọn Soto Hernando bởi đối tượng nghiên cứu của tác giả
này có nhiều nét tương đồng với hồn cảnh của Việt Nam. Vừa mới ra đời, tác phẩm
“Con đường khác…” của Soto Hernando đã nhận được sự đánh giá rất cao của cộng
đồng khoa học quốc tế. Mục đích nghiên cứu của tác Ernando rất rõ ràng: “Tơi muốn chỉ
ra vì sao nước tơi lại có tới 48% các hoạt động kinh tế và 61,2% thời gian làm việc của
người dân đều ở khu vực bất hợp pháp. Khu vực này hiện chiếm tới 38,9% tổng sản
phẩm quốc gia (GNP) và vì sao với năng suất sản xuất chỉ bằng 1/3 khu vực hợp pháp
kinh tế khu vực bất hợp pháp này vẫn tiếp tục phát triển, dự định có thể đạt tới 61,3%
GNP vào năm 2000”5. Một trong những nguyên nhân chính của hiện tượng này Soto cho
rằng chính là vì sự đổ bộ ồ ạt của dân nhập cư từ nông thôn về thành phố: “Để tồn tại,
những người nhập cư khơng cịn cách nào khác là phải vi phạm pháp luật. Nếu như họ
muốn cư trú, buôn bán, sản xuất, vận chuyển thậm chí cả tiêu dùng thì phần lớn các hoạt
động này dù khơng muốn nhưng ít nhiều họ đều phải vi phạm qui định của pháp luật,
cho dù mục đính và bản thân các hoạt động đều hợp pháp như: xây nhà, cung ứng các
loại dịch vụ hoặc buôn bán nhỏ lẻ”. Tất nhiên mức độ vi phạm của những hoạt động này
khác hẳn với các hoạt động tội phạm gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội như: buôn

4 Де Сото Эрнандо. Иной путь. Невидимая революция в третьем мире. М.: Catallaxy, 1995 (1989).
5 Sách đã dẫn, trang 15.


bán ma túy, mại dâm, trộm cắp, cướp bóc. Vì sao lại có tình trạng như thế? Kết quả
nghiên cứu của Soto Hernando đã chỉ ra một số kết luận:

1.


Kinh tế phạm pháp (ngầm) là phản ứng thầm lặng và đầy sức sáng tạo của người dân
trước những bất lực của chính phủ trong việc đáp ứng những yêu cầu tồn tại cơ bản của
số đơng người nghèo khó.

2.

Thị trường đen (chợ đen) là kết qủa phản ứng của số đơng trước các qui định có tính
phân biệt về kinh tế cũng như luật pháp của bản thân hệ thống. Để tồn tại người dân sẽ
bất chấp qui định của pháp luật lấn chiếm lòng đường, bán hàng rong, cung cấp dịch vụ
khơng có giấy phép, tổ chức sản xuất chìm…

3.

Hoạt động ngầm sẽ càng có sức hấp dẫn và cơ hội để phát triển nếu khi vi phạm pháp
luật người dân lại thấy cuộc sống đỡ khó khăn hơn. Điều này có nghĩa các hoạt động
ngầm sẽ phát triển nếu qui định của pháp luật vượt quá một mức giới hạn nào đó. Đơn
giản như việc đánh thuế thu nhập cá nhân. Nếu mức sàn chịu thuế quá thấp và thuế suất
quá cao thì rõ ràng nhà nước đang đẩy người dân đến ngưỡng phi pháp – trốn thuế.

4.

Nếu chi phí để khơng phạm pháp (ví dụ xin giấy phép, đóng thuế, kiểm tra chất lượng
sản phẩm…) vượt quá mức độ cho phép để người dân có thể tiến hành sản xuất, kinh
doanh trong điều kiện bình thường – thì người ta sẽ tìm đến các hoạt động ngầm. Điều
này cũng dễ hiểu, trên thực tế có nhiều tình huống chúng ta muốn minh bạch, nhưng
minh bạch đồng nghĩa khơng cịn lợi nhuận, chính vì vậy ta phải tìm cách lách luật, đi
ngầm. Đơn cử như việc đánh thuế lợi nhuận doanh nghiệp 28% là một mức thuế cao.
Doanh nghiệp đương nhiên sẽ tìm mọi cách để giảm thiểu lợi nhuận trốn thuế, từ việc
mua hóa đơn khống đến ký các hợp đồng ma, đội giá nguyên vật liệu đầu vào… với
mục đích tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận.

Bắt đầu từ những năm 1980 người ta thường xuyên tổ chức các hội thảo quốc tế về
kinh tế ngầm. Nội dung của các cuộc hội thảo này bàn về rất nhiều vấn đề khác nhau
như: Làm thế nào để đánh giá, thống kê độ lớn của khu vực kinh tế này? Kinh tế ngầm ở
nền kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch hóa tập trung giống và khác nhau ra sao? Ví
dụ trong cơng trình nghiên cứu của Ofer G., Vinokur A. (1980), các tác giả còn chỉ ra
rằng khu vực kinh tế ngầm ở các nước kinh tế kế hoạch hóa tập trung chỉ chiếm 3-4%
GDP, nhỏ hơn rất nhiều so với các nước phát triển kinh tế thị trường 6. Năm 1991 tại
châu Âu tại Geneva đã diễn ra Hội thảo của cá nhà thống kê châu Âu về Kinh tế phi
6 Ofer G., Vinokur A. The Soviet Household under the Old Regime: Economic Conditions and Behavior in the
1970. Cambridge University Press, p.84.


chính qui và kinh tế ngầm. Kết quả của cuộc hội thảo này đã được in thành một Bản
hướng dẫn có tính chất tham khảo dùng để đánh giá khu vực kinh tế ngầm trong các
nước có nền kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực thống kê, từ những năm hai mươi của thế kỷ trước, trên thế giới có
hai hệ thống thông tin kinh tế-xã hội tổng hợp:
- hệ thống Bảng cân đối kinh tế quốc dân (Material Product System - MPS) được
vận dụng ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có Việt Nam;
- hệ thống Tài khoản quốc gia (System of National Accounts - SNA) được vận
dụng ở hầu hết các nước.
Cả hai hệ thống thơng tin kinh tế-xã hội tổng hợp trên cùng có mục đích phản ánh
q trình tái sản xuất xã hội của mỗi quốc gia dựa trên cơ sở thu nhập, xử lý và tổng hợp
thông tin kinh tế xã hội vĩ mơ, qua đó phản ánh điều kiện sản xuất, kết quả sản xuất, quá
trình phân phối thu nhập, mối quan hệ giữa các ngành kinh tế trong quá trình sản xuất và
sử dụng cuối cùng kết quả sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Tuy có chung một mục
đích nhưng về bản chất hai hệ thống này được xây dựng trên nền tảng lý luận thuộc các
trường phái kinh tế- chính trị khác nhau dẫn đến phương pháp luận tính tốn cũng khác
nhau7. Tuy nhiên, từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan vỡ vào những năm 1990, thì hầu
hết các nước đều chuyển sang dùng hệ thống SNA thống nhất.

Ở Việt Nam, trong khoảng thời gian 1989-1992 ngành Thống kê được sự tài trợ của
Cơ quan Thống kê Liên Hợp Quốc đã tiến hành nghiên cứu và vận dụng SNA vào Việt
Nam. ngày 25/12/1992 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 183/TTg về việc Việt
Nam chính thức áp dụng dụng SNA và tính chỉ tiêu Tổng sản phẩm nội quốc trên phạm
vi cả nước, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thay cho MPS và chỉ tiêu Thu nhập
quốc dân đã thực hiện trong thời gian trước đây.
Có điểm đáng lưu ý là, dù ra đời từ rất sớm nhưng trước phiên bản SNA93, hệ
thống Tài khoản quốc gia SNA khơng có các chỉ dẫn để đánh giá khu vực kinh tế khơng
chính thức, đặc biệt là kinh tế ngầm. Có mấy lý do chính. Thứ nhất, là vì hầu hết trong
nền kinh tế của các nước đóng vai trị chủ chốt trong việc soạn thảo SNA vào thời điểm
những năm 1980 trở về trước ảnh hưởng của khu vực kinh tế ngầm chưa đủ lớn, chưa có
dấu hiệu ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế quốc gia. Thứ hai, các nhà
soạn thảo chưa thể thống nhất được về cách tiếp cận cũng như phương pháp luận để
7 Lê Văn Toàn (Chủ biên) và các tác giả khác. Phương pháp biên soạn Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) ở Việt
Nam. Hà Nội: Tổng cục Thống kê, 1998. tr. 5


đánh giá độ lớn của khu vực kinh tế này, trong khi kinh nghiệm thực tế gần như chưa có
gì. Chính vì vậy phải đợi tới phiên bản SNA93 (ra đời vào năm 1993) người ta mới đưa
ra được hướng dẫn tương đối hoàn chỉnh về việc định lượng các khu vực kinh tế nằm
ngồi nền kinh tế chính thống, trong đó có kinh tế ngầm. Đây là một trong những cơ sở
nền tảng cần nghiên cứu kỹ khi tiến hành đánh giá khu vực kinh tế ngầm. Chúng tôi sẽ
làm chi tiết công việc này trong những phần sau.
1.1.2 Kinh tế ngầm như là một bộ phận của nền kinh tế phi chính thức
Như vậy, muốn hiểu và xác định được một cách rõ ràng hơn về khái niệm kinh tế ngầm,
trước hết chúng ta cần có cách nhìn tổng quát về các khu vực của một nền kinh tế quốc dân,
phân tích được các mối liên hệ cơ bản, ranh giới giữa các khu vực này. Làm được như vậy
chúng ta mới đủ khả năng để nhìn nhận và đánh giá về một khu vực kinh tế vốn dĩ đã rất phức
tạp bởi bản chất tàng hình sẵn có. Tuy nhiên, chúng ta biết, mỗi quốc gia đều có những đặc
điểm và cấu trúc kinh tế khác nhau, do đó đã dẫn đến sự đa dạng và khác biệt trong nhiều cách

tiếp cận. Bản thân khái niệm kinh tế ngầm (hidden economy) cũng có nhiều khái niệm đồng
dạng khác, ví dụ kinh tế bóng đen (shadow economy); kinh tế chìm (underground economy);
kinh tế đen (black economy); kinh tế vơ hình (invisible economy)… Cho đến nay thì trên thế
giới, cũng như ở Việt Nam, chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu bản chất của các
thuật ngữ này để phân biệt chúng với nhau. Bản thân chúng tôi cũng chưa thể làm công việc
này bởi đơn giản các nền kinh tế không đứng yên mà luôn luôn chuyển động, thay đổi và phát
triển. Việc mà chúng ta có thể làm được là tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế, qua đó hiểu rõ bản
chất của nền kinh tế phi chính thức và tìm một hướng tiếp cận phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế ở nước ta. Dưới đây xin được trình bày cách hiểu của chúng tôi về kinh tế ngầm dựa
trên cách tiếp cận của Hệ thống tài khoản quốc gia 1993 – SNA93.
Nền kinh tế quốc dân thông thường được chia làm hai phần rõ ràng nhất. Một là khu vực kinh
tế chính thức (Official Economy), bao gồm toàn bộ các hoạt động sản xuất – kinh doanh (kinh tế)
phù hợp và không vi phạm pháp luật, không bị pháp luật nghiêm cấm. Hai là khu vực kinh tế cịn
lại mà ta có thể gọi chung với tên gọi – khu vực phi chính thức (Unofficial Economy). Đây là khu
vực hoạt động của nhiều loại hình kinh tế phức tạp, với nhiều nét đặc thù khác nhau, phụ thuộc rất
nhiều vào trình độ phát triển kinh tế của từng quốc gia. Tuy nhiên, có thể thấy tại khu vực phi chính
thức này nổi cộm lên ba nhóm hoạt động cơ bản. Đó là: 1) kinh tế phi chính qui (Informal
Economy); 2) kinh tế ngầm (Hidden Economy); 3) kinh tế khơng được kiểm sốt (Non-observed
Economy) (xem 1).


Kinh tế Quốc dân
(National Economy)

Kinh tế chính thức
(Official Economy)

Kinh tế phi chính thức (Unofficial Economy)

Kinh tế ngầm (Hidden

Kinh
Economy)
tế phi chính qui (Informal Economy)

Kinh tế không được giám sát (Non-observed Economy)

1

Cấu trúc của các khu vực kinh tế trong nền kinh tế quốc dân

Sản xuất phi pháp và phân phối các mặt hàng quốc cấm

Hoạt động kinh tế có đăng

Kinh tế không được giám sát (Non-observed Economy)

Kinh tế ngầm (Hidden Economy)Kinh tế phi chính qui
(Informal Economy)

Các hoạt động ngầm phi kinh tế

2

Mối quan hệ giữa các khu vực trong kinh tế phi chính thức


Mối quan hệ hữu cơ giữa ba khu vực kinh tế này được mơ tả trên Hình 1.2. Như
vậy, để làm rõ khái niệm Kinh tế ngầm cùng lúc chúng ta phải làm rõ các khái niệm nêu
trên.
Khu vực Kinh tế phi chính qui (Informal Economy)

Thơng thường đây được gọi là tầng tự nhiên của nền kinh tế phi chính thức (nằm
ngồi sự kiểm sốt của nhà nước), bao gồm các hoạt động sản xuất – kinh doanh có
qui mơ nhỏ, rất nhỏ với điều kiện thô sơ, vốn thấp, sử dụng lao động là chính. Do đó
năng suất thấp, cung cấp sản phẩm với giá cả chất lượng thấp, khối lượng nhỏ (bn
bán nhỏ, phục vụ gia đình, phục vụ nhân lực cho hoạt động xây dựng, vận tải chính
qui, hụi, họ, sửa chữa nhỏ…). Với tính chất này, khu vực kinh tế phi chính qui năng
động, linh hoạt dễ dàng chuyển đổi sang hoạt động khác. Một số đặc điểm cơ bản của
khu vực phi chính qui là:

1)

sử dụng tiềm năng tại chỗ là chủ yếu;

2)

chủ cơ sở sản xuất đồng thời là người lao động, sử dụng lao động trong gia đình
hoặc có th một số ít lao động;

3)

sản phẩm và dịch vụ được coi là hợp pháp;

4)

hoạt động kinh doanh không đăng ký theo luật;

5)

không thực hiện chế độ kế tốn, thống kê của nhà nước;


6)

khơng nộp thuế, nhưng có thể nộp những phí hoặc lệ phí hoặc các khoản đóng
góp tài chính khác cho chính quyền địa phương;

7)

những người thuộc khu vực này phần lớn là người nghèo. Một điểm đáng chú ý
là sự tồn tại của khu vực này thường được xem như là tự nhiên, pháp luật và các qui
định hành chính chưa với tới họ hoặc chưa có ý thức pháp luật về cơng việc của họ. 8
Tóm lược cấu trúc của Khu vực phi chính qui được thể hiện trên 3
Kinh tế khơng được kiểm sốt (Non-observed Economy)
Theo mơ tả trên 2. ta thấy Khu vực kinh tế không được kiểm soát là một khu vực
phức tạp, nằm trong phần giao thoa giữa kinh tế ngầm và khu vực phi chính qui. Nó bao
gồm tồn bộ các hoạt động kinh tế chính thức và phi chính thức nhưng khơng đăng
ký cộng với các hoạt động khơng chính thức phi thị trường.

8 Lê Đăng Doanh, Nguyễn Minh Tú (1997). Sách đã dẫn. tr.60-61.


Trên thực tế, khu vực kinh tế không được kiểm soát thường được xét bao gồm các
hoạt động dưới đây:

1.

Các hoạt động kinh tế hợp pháp nhưng bị các nhà sản xuất cố tình che dấu với mục đích
trốn thuế.
Khu vực phi chính qui

Khu vực thị trường


Khu vực phi thị trường

Hoạt động sản xuất phi doanh nghiệp trong
Sảnkhn
xuất sản
khổphẩm
hộ giadùng
đìnhcho nhu cầu nội bộ (sử dụng cuối cùng, trung c

Hoạt động có đăng ký

3

2.

Hoạt động khơng đăng ký

Các hoạt động cơ bản trong khu vực kinh tế phi chính quy

Các hoạt động kinh tế phi chính thức như:

-

hoạt động của các doanh nghiệp, sản xuất phục vụ nhu cầu nội bộ;

-

hoạt động của các doanh nghiệp sử dụng nguồn nhân lực phi chính thức (khơng
hợp pháp như sử dụng lao động trẻ em, sinh viên, hưu trí);


-

hoạt động của những người kinh doanh khơng có tư cách pháp nhân (bn bán
nhỏ, lẻ).

3.

Hoạt động kinh tế hợp pháp nhưng không được tính tới do sự thiếu hồn
thiện và khả năng hạn hẹp của hệ thống thống kê quốc gia.

4.
-

Các hoạt động phạm pháp:
Các hoạt động vốn hợp pháp nhưng trở nên bất hợp pháp vì người sản xuất

(cung ứng) khơng đủ điều kiện thực hiện theo qui định của pháp luật (ví dụ cung cấp
dịch vụ chữa bệnh khi chưa có bằng y khoa tương ứng).


-

Hoạt động bất hợp pháp, sản xuất, buôn bán và phân phối các loại hàng hóa hay
dịch vụ bị pháp luật cấm, ví dụ như: sản xuất và bn bán ma túy (chi tiết xem Hình 3).

Khu vực kinh tế chính thức

Hoạt động có đăng ký


Hoạt động khơng đăng ký

Khu vực kinh tế phi chính thức

Khu vực thị trường

Khu vực phi thị trường

Hoạt động có đăng ký

Hoạt động khơng đăng ký

Khu vực kinh tế khơng được kiểm sốt

4 Mối quan hệ của khu vực kinh tế khơng được kiểm sốt với khu vực kinh
tế chính thức và phi chính thức

Như vậy, rõ ràng trong các hoạt động của phần kinh tế khơng được kiểm sốt đã
bao gồm một phần hoạt động kinh tế ngầm (hoạt động kinh tế hoạc phi kinh tế cố tình
che dấu các cơ quan chức năng và hệ thống thống kê) và hoạt động phi chính thức (các
hoạt động không đăng ký hoặc chưa được kiểm sốt vì một lý do khách quan nào đó).
Kinh tê ngầm (Hidden Economy)
Kinh tế ngầm (còn được gọi với nhiều tên khác như: nền kinh tế bóng đen, nền
kinh tế chìm, nền kinh tế bị che giấu) được xem là khu vực hoạt động sản xuất – kinh
doanh vi phạm pháp luật một cách có ý thức. Hay nói cách khác, kinh tế ngầm được sử
dụng để biểu thị tất cả các hoạt động về nguyên tắc phải được tính vào GDP nhưng


thực tế lại khơng tính được do chúng được giấu diếm trước cơ quan nhà nước. Đó là
các hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà việc bn bán, phân phối hoặc sở

hữu chúng bị pháp luật ngăn cấm; Hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ vốn hợp
pháp nhưng trở nên phi pháp vì bản thân người sản xuất khơng có quyền làm việc
đó; hoạt động sản xuất giấu diếm và các hoạt động phi kinh tế tạo thu nhập vơ hình
(bị giấu khơng nhìn thấy được).
Chúng tơi hồn tồn nhất trí với cách hiểu về kinh tế ngầm nêu trên. Thông
thường các nhà nghiên cứu có mấy hướng tiếp cận cơ bản khi tiến hành xác định thành
phần của kinh tế ngầm. Người ta xem đó là tập hợp:

1) các hoạt động kinh tế và phi kinh tế bị cấm;
2) các hoạt động sản xuất ngầm (hidden production/work);
3) các hoạt động kinh tế vì một lý do nào đó mà khơng được hệ thống thống kê
chính thức tính đến, kể cả các hoạt động cố tình trốn thuế;

4) các hoạt động kinh tế khơng đăng ký trong khn khổ cả hai khu vực chính
thức và phi chính thức.
Với cách tiếp cận thứ nhất, kinh tế ngầm được xem đơn thuần là các hoạt động
kinh tế phạm pháp bị cấm đoán. Trong trường hợp này, thậm chí các hoạt động phi kinh
tế hạng nặng như: tội phạm có tổ chức, bảo kê, giết thuê theo đơn đặt hàng... cũng được
liệt kê vào kinh tế ngầm. Các hoạt động này gần như không liên quan trực tiếp đến sản
xuất – kinh doanh, tạo sản phẩm hay thu nhập trực tiếp của người lao động nhưng lại
ảnh hưởng trực tiếp đến việc phân chia lợi nhuận, thu nhập của nhiều thành phần kinh
tế. Do đó chúng hồn tồn có thể được xem như là một bộ phận khó tách rời của các
hoạt động kinh tế khác. Theo cách tiếp cận thứ hai, khái niệm kinh tế ngầm gắn liền với
sản xuất ngầm. Sản xuất ngầm ở đây được hiểu là là các hoạt động sản xuất kinh doanh
được phép nhưng chủ thể sản xuất cố tình che dấu không khai báo với các cơ quan chức
năng với mục đích kinh tế nào đó như: trốn thuế, tăng thu nhập, tránh các trách nhiệm
xã hội... Cách tiếp cận thứ ba cho rằng toàn bộ các hoạt động kinh tế vì một lý do nào
đó khơng được thống kê tới đều được coi là ngầm. Cánh hiểu này rộng hơn so với hai
cách trên, chú trọng vào hình thức thống kê hơn là bản chất của hoạt động kinh tế có
phạm pháp hay khơng. Cách tiếp cận cuối cùng được đánh giá là tổng quát hơn cả. Theo

đó, kinh tế ngầm được xem là toàn bộ các hoạt động kinh tế dấu diếm (ngầm) và bị cấm
ở cả hai khu vực cơ bản chính thức và phi chính thức của một nền kinh tế quốc dân.


Có thể nhận thấy, khó có thể tìm ra một tiêu chuẩn chung để đánh giá kinh tế ngầm
của các nền kinh tế khác nhau trên thế giới. Bởi rất nhiều hoạt động kinh tế hợp pháp tại
nước này, nhưng hoàn toàn bất hợp pháp ở nước khác. Đơn cử như việc mua bán một số
loại ma túy đặc chủng ở rất nhiều nước là hợp pháp. Điều này cần được đặc biệt lưu ý
khi học hỏi kinh nghiệm và tiến hành soạn thảo phương pháp đánh giá kinh tế ngầm tại
một quốc gia cụ thể. Trên 5, chúng tôi giới thiệu cách hiểu về kinh tế ngầm theo quan
điểm của Hệ thống tài khoản quốc gia SNA93.

Kinh tế ngầm

Hoạt động kinh tế ngầm

Hoạt động kinh tế phi pháp

Hoạt động phi kinh tế ngầm

Hoạt động sản xuất ngầm

Hoạt
hàngđộng
hóa sản
và dịch
xuấtvụ
hàng
màhóa
việcvàbn

dịchbán,
vụ vốn
phânhợp
phối
pháp
hoặc
nhưng
sở
Hoạt
hữu
trở
động
chúng
nênchiếm
phi
bị pháp
pháp
đoạtvì
luật
tài
bản
ngăn
sản
thân
(trộm,
cấm.
người
cướp,
sản lừa
xuấtđảo…).

khơng có quyền làm
Tội phạm kinh tế (lừa đảo khách hàng, vi phạm hợp đồng…).
Lạm dụng quyền lực (tham nhũng, cố ý làm trái, lợi dụng quyền lự

5

Các hoạt động cơ bản trong khu vực Kinh tế ngầm

Như vậy, chúng ta thấy khu vực phi chính qui có một số hoạt động giao thoa với
khu vực kinh tế ngầm đó là khi các hoạt động phi chính qui khơng cịn tính “tự nhiên”
mà trở nên cố tình che dấu pháp luật và cơ quan quản lý nhằm mục đích thu lợi. Mặt
khác, khu vực kinh tế ngầm khơng chỉ có ở các hoạt động hộ gia đình mà cịn có mặt ở


nhiều khu vực kinh tế khác. Trong Bảng 1.2. trình bày một cách ngắn gọn các khái niệm
cơ bản và dấu hiệu nhận diện các khu vực kinh tế.

STT
1.
2.

3.
4.

Bảng 1.2.Phân loại các khu vực kinh tế
Khu vực kinh tế
Dấu hiệu nhận biết
Kinh tế phi chính thức
Là tồn bộ các hoạt động khơng nằm trong các hoạt động
(Unoficial Economy)

chính thức
Kinh tế phi chính qui
Các hoạt động sản xuất – kinh doanh có qui mơ nhỏ, rất nhỏ
(Informal Economy)
với điều kiện thơ sơ, vốn thấp, sử dụng lao động là chính.
Do đó năng suất thấp, cung cấp sản phẩm với giá cả chất
lượng thấp, khối lượng nhỏ (buôn bán nhỏ, phục vụ gia
đình, phục vụ nhân lực cho hoạt động xây dựng, vận tải
chính qui, hụi, họ, sửa chữa nhỏ…)
Kinh tế khơng được giám Tồn bộ các hoạt động kinh tế chính thức và phi chính thức
sát (Non-observed
nhưng khơng đăng ký cộng với các hoạt động khơng chính
Economy)
thức phi thị trường.
Kinh tế ngầm
Tất cả các hoạt động về nguyên tắc phải được tính vào GDP
(Hidden Economy)
nhưng thực tế lại khơng tính được do chúng được giấu diếm
trước cơ quan nhà nước. Đó là các hoạt động sản xuất hàng
hóa và dịch vụ hợp pháp nhưng không khai báo; hoạt động
sản xuất hàng hóa và dịch vụ bất hợp pháp và thu nhập vơ
hình (bị giấu khơng nhìn thấy được).

Có thể thấy việc nhận diện khu vực kinh tế nằm ngoài khu vực chính thống ln là
một bài tốn phức tạp, đặc biệt trong điều kiện kinh tế chuyển đổi như ở nước ta. Trong
một thời gian ngắn, nền kinh tế dịch chuyển nhanh chóng từ bao cấp sang thị trường. Hệ
thống thể chế kinh tế cũ bị phá vỡ, trong khi hệ thống mới đang được hình thành. Đây là
thời điểm thuận lợi cho các hoạt động phi chính thức phát triển với rất nhiều hình thức.
Với cách phân loại và nhận dạng như đã trình bày ở trên, chúng tơi mong muốn từng
bước góp phần hồn thiện hơn các cơng cụ để nhận diện và đánh giá các hoạt động kinh

tế phức tạp này tại nước ta.

1.2. PHÂN LOẠI CÁC HOẠT ĐỘNG TRONG KHU VỰC KINH TẾ NGẦM
Các hoạt động thuộc khu vực kinh tế ngầm theo cách hiểu đã được thống nhất ở
trên có thể được chia làm ba nhóm lớn: 1) hoạt động sản xuất ngầm; 2) các hoạt động
kinh tế phi pháp khác ; 3) các hoạt động tội phạm, lừa đảo - phi kinh tế (xem 5).


1.2.1.
Các hoạt động sản xuất ngầm
Các hoạt động sản xuất ngầm được hiểu là các hoạt động sản xuất pháp luật khơng
cấm, nhưng các chủ thể sản xuất cố tình che giấu chúng vì các mục đích riêng như trốn
thuế, trục lợi cá nhân hoặc né tránh các qui chế về an toàn lao động, bảo hiểm xã hội …
được pháp luật qui định. Có thể liệt kê một số hoạt động sản xuất ngầm trên thực tế:
thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, kế tốn tài chính không đúng theo qui định
của pháp luật; không nộp các văn bản, báo cáo tài chính cho các cơ quan quản lý theo
luật định; lập các báo cáo tài chính – kế toán sai nguyên tắc với số liệu thiếu hoặc sai
thực tế.
Hoạt động sản xuất ngầm có qui mơ khác nhau ở các doanh nghiệp. Không thiếu
các daonh nghiệp hồn tồn khơng có hoạt động sản xuất ngầm. Tuy nhiên, hoạt động
này vẫn thường gặp, đặc biệt là ở các doanh nghiệp đang có nền kinh tế chuyển đổi như
ở nước ta. Bởi vì với sự hỗ trợ của hoạt động này các doanh nghiệp có thể giải quyết
được một số bài toán nan giải như:

-

bảo đảm nguồn thu nhập ổn định cho nhân viên trong điều kiện thị trường biến
động bất lợi, thất thường;

-


giữ được mối quan hệ với bạn hàng và đối tác, thông qua tỷ lệ phần trăm hoa
hồng hoặc các khoản thanh toán tiền mặt tức thời;

-

khuyến khích được hệ thống phân phối – một trong những vấn đề quyết định sự
tồn tại của doanh nghiệp;

-

bảo đảm mối quan hệ “tốt” đối với đại diện các cơ quan quản lý nhà nước;

-

tạo khả năng xâm nhập vào các lĩnh vực kinh doanh mới với mức sinh lời cao.
Như vậy, nếu nhìn một cách tổng quát, khơng phải bất cứ hoạt động ngầm nào
cũng có ảnh hưởng xấu tới sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Vấn đề là nhà quản
lý phải làm thế nào để từng bước minh bạch hóa các hoạt động này, hoặc tạo cơ chế để
vừa cơng khai hóa hoạt động vừa khơng ảnh hưởng đến lợi ích sát sườn của doanh
nghiệp.
1.2.2.
Các hoạt động kinh tế phi pháp
Các hoạt động kinh tế phi pháp bao gồm:

-

hoạt động sản xuất và kinh doanh các loại hàng hóa và dịch vụ bị luật pháp cấm
cho dù có nhu cầu rất lớn ở trên thị trường;



-

sản xuất và kinh doanh các loại hàng hóa và dịch vụ mà bản thân nhà sản xuất
khơng có giấy phép hợp lệ.
Nhóm này thường bao gồm các hoạt động như sản xuất và buôn bán ma túy, dịch
vụ môi giới mại dâm và một phần nào đó là các hoạt động sản xuất và bn bán vũ khí
ngầm, kể các hoạt động tổ chức cờ bạc, cá độ trái với qui định của pháp luật. Một trong
những nhóm hoạt động cũng hết sức phổ biến ở khu vực này chính là hoạt động sản xuất
và bn bán bia, rượu, đặc biệt là các hình thức bn bán rượu lậu qua biên giới.
1.2.3.
Các hoạt động tội phạm, lừa đảo – phi kinh tế
Các hoạt động này rất đa dạng và phong phú ví dụ như các hoạt động lừa đảo
chiếm đoạt tài sản; tội phạm kinh tế như cố tình phi phạm hợp đồng, lừa đảo khách hàng
và lạm dụng quyền lực như tham nhũng, cố ý làm trái, lợi dụng quyền lực để trục lợi cá
nhân. Đây là nhóm các hoạt động gây ảnh hưởng nhiều nhất, thiệt hại nhất cho nền kinh
tế quốc dân và cũng là các hoạt động khó định lượng và kiểm sốt nhất. Tuy nhiên, vẫn
có thể chỉ ra một số ngun nhân chính tạo cơ hội cho các hoạt động phạm pháp này gia
tăng, phát triển, ví dụ như:

-

các hình thức ưu đãi đặc thù cho một ngành, một vùng hoặc một loại hình
doanh nghiệp nào đó;

-

điều kiện bất bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế cùng loại;

-


đặc quyền, đặc lợi trong việc quyết định về tài sản, thu nhập, sở hữu;

-

ưu đãi tài trợ từ ngân sách nhà nước cho đối tượng hay chương trình cụ thể;

-

nắm giữ vị trí chủ chốt và quan trọng trong hệ thống điều hành nhà nước;

-

hệ thống các giấy phép rườm rà, rắc rối và nhiều – điều kiện thuận lợi cho tham
nhũng.
Một trong những vấn đề nổi cộm nữa của khu vực hoạt động này chính là các
nguồn tài chính ngầm và các hoạt động liên quan đến vấn đề rửa tiền. Hệ thống tài chính
ngầm, như chúng ta đã biết, là một mạng lưới đa quốc gia với những quyền năng vượt
ngoài sức tưởng tượng của người bình thường. Người ta ước tính dịng tiền ln chuyển
trong hệ thống này hàng năm khơng dưới 600-700 tỷ đô la Mỹ. Tuy nhiên, vấn đề này
vượt ra ngoài điều kiện, khả năng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.


1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỚNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG
KINH TẾ NGẦM
Các yếu tố tạo điều kiện cho kinh tế ngầm phát triển thường được chia làm hai
nhóm lớn: i) các yếu tố kinh tế; ii) các yếu tố chính trị - xã hội.
1.3.1.

Nhóm các yếu tố kinh tế

Khi đi sâu tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc gia tăng các hoạt động kinh tế ngầm,
người ta thấy nổi cộm lên một số yếu tố chính sau:

-

mức độ cung ứng hàng hóa và dịch vụ trên thị trường;

-

mức độ cân đối giữa các khu vực, ngành của nền kinh tế quốc dân;

-

sức mua hạn hẹp của người dân và năng lực giải quyết các vấn đề dân sinh của
nhà nước;

-

- chính sách thuế của Chính phủ;

-

- tỷ lệ thất nghiệp.
Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu ngắn gọn về về các yếu tố này.
Mức độ cung ứng hàng hóa và dịch vụ trên thị trường nội địa. Hàng hóa khan
hiếm là một trong những nguy cơ làm nảy sinh các hoạt động sản xuất kinh doanh
ngầm. Hiện tượng này thường thấy ở các nước với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
trước đây và kinh tế chuyển đổi hiện nay. Tình hình kinh tế Việt Nam thời kỳ bao cấp là
một ví dụ điển hình. Những năm ngay sau khi chiến tranh kết thúc, giai đoạn 19761986, là thời kỳ khó khăn nhất của kinh tê nước ta. Cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội,
phát triển kinh tế kế hoạch hóa tập trung trên phạm vi tồn quốc. Cơ chế bao cấp đã làm

vơ hiệu hóa năng lực phát triển của các nguồn lực kinh tế, tạo nên nhiều nghịch lý: đất
nước nông nghiệp – nhưng phải nhập khẩu lương thực; đất nước của những người con
anh hùng bất khuất, cần cù, chăm chỉ – nhưng đại đa số lại sống dưới mức nghèo khổ;
đất nước có nguồn tài ngun phong phú – nhưng sống trơng chờ vào viện trợ và hàng
hóa nhập khẩu. Khan hiếm hàng hóa tiêu dùng – đó là điểm nổi bật nhất của nền kinh tế
bao cấp. Chính sự khan hiếm này đã làm nền tảng cho các hoạt động kinh tế ngầm phát
triển. Điển hình có thể kể tới hoạt động trao đổi hàng hóa “ngầm”, phá rào bao cấp, tại
phao số khơng giữa chính quyền thành phố Hồ Chí Minh với đối tác nước ngoài để giải
quyết khan hiếm hàng hóa tiêu dùng cho thành phố. Hay như hiện tượng “ngầm” giao
ruộng, giao đất cho hộ nơng dân (Khốn 10 do ông Kim Ngọc khởi xướng) về sau trở
thành một động lực cơ bản của đổi mới.


Thiếu cân đối giữa các khu vực, ngành của nền kinh tế quốc dân cũng góp
phần khơng nhỏ thúc đẩy hoạt động kinh tế ngầm hình thành và phát triển. Trong nhiều
trường hợp sự thiếu cân đối trong các ngành kinh tế cịn thúc đẩy hình thành hẳn các cơ
chế điều tiết hoạt động ngầm. Thị trường dược phẩm tại nước ta trong giai đoạn hiện
nay là một ví dụ. Năng lực sản xuất của các công ty trong nước hiện chỉ đáp ứng được
chưa tới 30% nhu cầu của thị trường. 70% còn lại phụ thuộc vào nhập khẩu. Chính sự
chênh lệch trong xuất – nhập này cộng thêm với cơ chế kiểm soát lỏng lẻo đã tạo điều
kiện cho các hoạt động: nhập lậu thuốc, khai gian trốn thuế và sản xuất thuốc giả gia.
Sức mua hạn hẹp của người dân và năng lực giải quyết các vấn đề dân sinh
của nhà nước cũng là một điều kiện thúc đẩy kinh tế ngầm phát triển. Đồng lương
không đủ sống, thu nhập chính thức khơng đủ để trang trải những nhu cầu thiết yếu hàng
ngày, người dân buộc phải nghĩ cách làm thêm tăng thu nhập. Đã làm thêm thì xu hướng
chính là tránh các hệ thống thống kê chính thức, tránh cơ quan thuế. Đây về nguyên tắc
cũng là một hình thức hoạt động của kinh tế ngầm. Cái nguy hiểm của chúng ta hiện nay
là không phải chỉ người dân làm thêm mà toàn xã hội, đặc biệt là cán bộ công chức đều
làm thêm thêm. Rõ ràng , với mức lương như hiện nay (04.2008) dao động trung bình
trong khoảng từ 800.000 đồng – 3.000.000 đồng/ tháng thì khơng một cán bộ cơng chức

nào có thể tồn tại được nếu khơng có các khoản thu nhập thêm. Ngành ngành làm thêm,
người người làm thêm. Thu nhập thêm chính đáng – có, khơng chính đáng – có. Phần
khơng chính đáng đó – thực chất là khu vực kinh tế ngầm. Tác giả Phan Đình Thế trong
một nghiên cứu được trình bày tại Hội thảo hàng năm của các nhà kinh tế lần thứ 30 tổ
chức tại Đại học Ơxtrâylia (23-26/09/2001) đã thử tính tốn khoản thu nhập thêm của
nhân viên nhà nước. Mặc dù quy mơ cịn nhỏ, nhưng nghiên cứu của ông đã cung cấp
một số số liệu theo chúng tơi là có cơ sở và rất đáng quan tâm. Nghiên cứu này khẳng
định thu nhập khơng khai báo của các hộ gia đình cán bộ nhà nước chiếm khơng ít hơn
½ thu nhập khai báo của họ9. Một số nghiên cứu khác của các tác giả độc lập thuộc một
số tổ chức quốc tế như OECD, WB10 đã đưa ra đánh giá – khu vực kinh tế ngầm tại Việt
Nam có giá trị bằng 50% tổng giá trị GDP.

9 Phan Đình Thế (2001). Phân tích khu vực về nguồn thu nhập không được báo cáo đầy đủ tại Việt Nam. Tham
luận tại Hội thảo hàng năm các nhà kinh tế lần thứ 30, Đại học Tây Ôxtrâylia, ngày 23-26 tháng 09 năm 2001.
10 Schnei Friedrich, Dominik Enste (2000). Các nền kinh tế đen: Quy mô, nguyên nhân và hậu quả. Tạp chí
Journal of Economic Literature, 38. tr.77-114. Stoyan Teney, Amanda Carlier, Omar Chaudry, Nguyễn Quỳnh
Trang. Hoạt động khơng chính thức và mơi trường kinh doanh ở Việt Nam. Washington: IFC, WB và MPDF, 2003.
tr. 18-19.


×