LỜI MỞ ĐẦU
Thu nhập của người dân ở mọi nơi đều là vấn đề thu hút sự quan tâm của những
người nghiên cứu, cho dù đó là quốc gia giàu mạnh hay nghèo đói hay là những địa
phương nhỏ. Bới vì, nó chính là chỉ báo quan trọng có ý nghĩa kinh tế để đánh giá mức
sống, sự phát triển của mỗi khu vực địa lý cũng như ở khía cạnh nào đó nó là nguyên
nhân của nhiều vấn đề xã hội khác.
Và một trong những cách để đánh giá về nguồn thu nhập của người dân hay của một
đất nước chính là nhìn vào nguồn thu nhập công của quốc gia đó. Thu nhập công chính là
các khoản thu nhập của Nhà nước được hình thành trong quá trình Nhà nước tham gia
phân phối sản phẩm xã hội dưới hình thái giá trị. Và đặc điểm nổi bật nhất của thu nhập
công đó là phần lớn được xây dựng trên nền tảng nghĩa vụ công dân, mang tính bắt buộc,
cưỡng chế là chủ yếu. Vì thế thu nhập công càng lớn, điều đó có thể gián tiếp suy ra rằng
mức sống của người dân đang ngày một tăng lên và ngược lại. Vậy thì những nhân tố nào
đang trực tiếp tác động đến nguồn thu nhập công của Nhà nước lại là một vấn đề chúng ta
rất cần tìm hiểu để có thể đưa ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao thu nhập công
những như tăng lên mức sống của người dân, đẩy mạnh kinh tế phát triển hơn. Nhận thức
được tính cấp bách của đề tài, nhóm chúng tôi đưa ra quyết định sẽ nghiên cứu về vấn đề:
" Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập công. Đánh giá mức độ ảnh hưởng các
nhân tố đó tới thu nhập công ở Việt Nam hiện nay".
Do hạn chế về năng lực cũng như thời gian nên trong quá trình báo cáo còn nhiều
thiếu sót. Mong thầy cô và các bạn thông cảm.
Nhân dịp này chúng tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Đỗ Thanh Huyền
đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành bài báo cáo này.
I. PHẦN LÝ THUYẾT
1) Khái niệm , đặc điểm và phân loại thu nhập công
a) Khái niệm
Thu nhập công là quá trình nhà nước sử dụng quyền lực huy động một phần của cải
của xã hội hình thành nên các quỹ tài chính nhà nước nhằm đáp ứng nhu càu chi tiêu của
nhà nước .Thu nhập công là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trính hình
thành các quỹ tài chính cuả nhà nước
b) Đặc điểm của thu nhập công
Đặc điểm nổi bật nhất của thu nhập công là phần lớn các khoản thu nhập
công được xây dựng trên nền tảng nghĩa vụ công dân, điển hình là thuế. Ngoài ra
thu nhập công còn bao gồm các khoản thu dựa trên cơ sở trao đổi như lệ phí và phí
thuộc ngân sách nhà nước, các khoản thu do thỏa thuận như vay mượn, các khoản
thu do
Các khoản thu nhập công không mang tính bồi hoàn trực tiếp
Các tổ chức cá nhân nộp thuế cho nhà nước không có nghĩa là phải mua một hàng hóa
dịch vụ nào đó của nhà nước. tuy nhiên, nhà nước sẽ dung thuế nhằm tạo ra những hàng
hóa dịch vụ công và tất cả các hàng hóa và dịch vụ công đó sẽ được thụ hưởng bởi chính
người dân, như thế, các khoản thu nhập công được chuyển trở lại cho dân chúng một
cách gián tiếp và công cộng.
Thu nhập công gắn chặt với việc thực hiện các nghĩa vụ của nhà nước
Nhà nước thu đẻ tài trợi cho mọi hoạt động của nhà nước tức là thu để chi tiêu công chứ
không phải thu để kiếm lợi nhuận. do đó thu nhập công phát triển theo các nhiệm vụ của
nhà nước.
Thu nhập công khó kiểm soát và đánh giá hiệu quả
Phần lớn chi tiêu của nhà nước tạo ra hàng hóa dịch vụ công là những sản phẩm được
tiêu dung công cộng nên không có người thụ hưởng cụ thể để kiểm soát quá trình chi
tiêu. Mặt khác nhà nước không phải là một doanh nghiệp nên không thể lấy tiêu chí lợi
nhuận làm thước đo hiệu quả. Phần lớn các khoản chi tiêu của chính phủ mang tính chất
công cộng nghĩa là không đòi hỏi người thụ hưởng phải trả phí nên không thể so sánh
doanh thu và chi phí như một doanh nghiệp.
c) Phân loại thu nhập công
• Căn cứ theo tính chất của thu nhập công
- các khoản thu từ thuế: là những khoản thu mang tính chất bắt buộc và không hoàn trả
trực tiếp, được xây dựng trên cơ sở nghĩa vụ công dân. Thuế được nhà nước áp đặt bằng
quyền lực chính trị được thể chế hóa bằng pháp luật các pháp nhân và thể nhân đều phải
nghiêm chỉnh chấp hành. Thuế chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhân sách nhà nước ở
hầu hết mọi quốc gia.
- các khoản thu không phải thuế: bao gồm phí và lệ phí, quyên góp, vay mượn đây là
những khoản thu mang tính chấp đối giá( dichj vụ hàng hóa công được hưởng tương ứng
với số tiền phải bỏ ra) và xây dựng trên cơ sở thỏa thuận giữa dân chúng và Chính phủ.
Mặc dù tỷ trọng nhỏ trong tổng ciw cấu thu NSNN song đây cũng là khoản thukhoong
thể thiếu.
• Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ
- thu trong nước: bao gồm các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí, vay trong nước, cho thuê
công sản, khai thác và bán tài nguyên, thu khác…
- thu nước ngoài: bao gồm các khoản thu từ đầu tư nước ngoài, viện trợ nước ngoài, vay
nước ngoài.
Đây là nguồn ngoại lực giúp đất nước tích tụ và tập trung vốn đầu tư vào nhiều công trình
then chốp từ đó tạo ra những bước chuyển đáng kể trong tiến trình phát triển.
• Căn cứ vào nội dung kinh tế
- các khoản thu không mang nội dung kinh tế: bao gồm thuế , các khoản quên góp, viện
trợ nước ngoài và thu khác( thu từ phạt vi cảnh, thanh lý tài sản, quà biếu tặng …
Thuế là khoản thu chiếm tỷ trọn lớn được xây dựng trên cơ sở trao đổi nghĩa vụ giữa
công dân và nhà nước, còn quyên góp và viện trợ nước ngoài là những khoản thu hình
thành trên cơ sở tự nguyện chiếm tỷ trọng nhỏ. Đây là những khoản thu không mang tính
chất đối ứng với việc thụ hưởng các dịch vụ hàng hóa công của các chủ thể, tức là không
phải cứ nộp ngân sách nhiều thuế hay ủng hộ chính phủ nhiều… là được hưởng nhiều
hàng hóa dịch vụ công hơn người khác
- các khoản thu mang nội dung kinh tế: bao gồm lệ phí và phí , cho thuê cồn sản và bán
tài nguyên thiên nhiên…
Lệ phí và phí là những khoản thu mang tính chất đối giá. Là khoản thu có tỷ trọng nhỏ
hơn so với thuế nhưng góp phần quan trọng cho quá trình nâng cao hiệu quả cung cấp và
sử dụng hàng hóa dịch vụ công đảm bảo phân phối một cách tương đối công bằng phúc
lợi công cộng cho mọi công dân trong xã hôi.
Vay nợ trong nước và nước ngoài là khoản thu mang tính bồi hoàn , nó tích cực đẩy
nhanh tốc độ tích tụ và tập trung vốn tạo những công trình lớn khi các khoản thu từ thuế,
phí và lệ phí chưa đáp ứng được đẩy đủ nhu cầu chi đầu tư phát triển của nhà nước.
Nhưng nếu những công trình đầu tư từ vay nợ mà không mang lại lợi ích kinh tế xã hội
như mong đợi thì sẽ trở thành gánh nặng do phải trả cả gốc và lãi. Do đó phải xác định rõ
vay nợ sử dụng cho mục đích gì và sử dụng như thế nào.
Cho thuê công sản bao gồm thuê đất, bầu trời, mặt nước, vùng lãnh thổ… là những khoản
thu tương đối hấp dẫn nhưng cái giá phải trả là sự tổn hại vầ môi trường thiên nhiên sau
thời hạn thuê.
Thu từ tài nguyên thiên nhiên là những khoản thu do bán quặng, dầu thô, than khoáng
sản của rừng nguyên sinh… tài nguyeenthieen nhiên là nguồn lợi do thiên nhiên ban tặng
và đa phần là không thể tái tạo do đó cần phải có chính sách khai thác và sử dụng hợp lý.
• Ngoài ra căn cứ vào tính chất phát sinh của các khoản thu
Thu nhập công bao gồm: các khoản thu thường xuyên và thu không thường xuyên
- Thu thường xuyên: thu thuế, phí , lệ phí
- Thu không thường xuyên : thu từ lợi tức và tài sản thuộc sở hữu nhà nước, thu
từ tài sản bị tịch thu, thu tiền phạt, thu từ quà biếu tặng…
c. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập công
- Trình độ phát triển kinh tế
- Trình độ tổ chức hoạt động thanh toán và hạch toán
- Trình độ nhận thức của dân chúng
- Năng lực pháp lý của bộ máy nhà nước
- Hiệu quả hoạt động của chính phủ
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CÔNG VÀ ĐÁNH
GIÁ MỨC ĐỘ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ
1. Tổng quan thực trạng thu nhập công hiện nay ở Việt Nam ( TUẤN ANH)
Năm 2013 là bước tiếp nối của giai đoạn Việt Nam đối mặt với bất ổn kinh tế vĩ mô
kéo dài nhất kể từ thập niên 1990. Tuy vậy năm 2013 với nhiều ghi nhận tích cực về các
chỉ số kinh tế vĩ mô, nhưng cũng đồng thời, còn nhiều yếu tố mang tính nền tảng khác
vẫn chưa được giải quyết triệt để, đặc biệt là đề án tái cơ cấu nền kinh tế vẫn còn đang
dang dở Kinh tế Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, đang phục hồi và hướng tới tốc
độ tăng trưởng cao hơn, dự báo năm 2014 vẫn sẽ là năm có rất nhiều áp lực và thách
thức đối với thu ngân sách nhà nước nói riêng và thu nhập công nói chung.
Theo dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2014, dự toán thu 782,7 nghìn tỷ đồng,
trong đó thu nội địa chiếm 539 nghìn tỷ, từ dầu thô là 85,2 nghìn tỷ.
Thu từ dầu thô tháng đầu năm 2014 ước đạt 8.200 tỷ đồng, bằng 9,6% dự toán. Giá dầu
thô trên thị trường thế giới từ tháng 12/2013 nhìn chung ổn định và duy trì ở mức cao,
nhờ đó giá dầu thô thanh toán của Việt Nam trong tháng 1/2014 đạt xấp xỉ 113
USD/thùng, tăng 15 USD/thùng so với giá xây dựng dự toán; sản lượng thanh toán ước
đạt 1,2 triệu tấn, bằng 8,4% kế hoạch
Ngoài lý do suy thoái kinh tế toàn cầu, cần nhắc đến một số yếu tố khác ảnh hưởng
đến thu NSNN. Đó là do thực hiện một số giải pháp miễn, giảm, giãn thuế. Theo Tổng
cục Thuế, nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước năm 2014 đảm bảo vượt tối thiểu 5% dự
toán pháp lệnh đã được Quốc hội, Chính phủ giao cho cơ quan thuế quản lý. Theo dự
toán pháp lệnh năm 2014 là 624.200 tỉ đồng.Chính phủ được điều hành linh hoạt chính
sách thuế và xem xét các điều kiện cụ thể đê giảm, giãn, hoãn một số thuế nhằm hỗ trợ
sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu, chủ động ngăn ngừa sự suy giảm kinh tế trong nước.
Kinh tế suy giảm, doanh nghiệp khó khăn, việc miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ
giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn nhưng đối với ngành thuế lại là một thách thức, con
số giảm thu sẽ lên đến hàng chục tỷ đồng.
Trong khi nguồn thu ngân sách đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thì tình trạng
gian lận thuế vẫn là những thách thức đối với ngành tài chính, cho dù luật quản lý thuế đã
trao khá nhiều quyền hạn cho cơ quan quản lý thuế ( cơ quan thuế và hải quan) trong việc
xử lý tình trạng này.
Thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu: tổng số thu ước đạt 15.000 tỷ đồng (bằng
khoảng 80,3% mức thu bình quân 1 tháng theo tiến độ dự toán, thấp hơn yêu cầu khoảng
3.666 tỷ đồng), bằng 6,7% dự toán, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Sau khi thực
hiện hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ (5.000 tỷ đồng), thu cân đối NSNN ước đạt
10.000 tỷ đồng, bằng 6,5% dự toán. Trong tháng 1/2014, giá trị xuất nhập khẩu ước giảm
13,1% so với tháng 12/2013 và giảm 6,5% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó: kim
ngạch xuất khẩu ước giảm 11,5% so với tháng 12/2013 và giảm 10,8% so với cùng kỳ;
kim ngạch nhập khẩu ước giảm 14,6% so với tháng 12/2013 và giảm 1,9% so với cùng
kỳ năm 2013. Bên cạnh đó việt nam kể từ khi gia nhập WTO do cam kết hội nhập kinh tế
và khu vực nên thu thuế về xuất nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt và VAT hàng nhập khẩu
cũng bị giảm theo. Việc cắt giảm thuế quan theo các hiệp định đã ký kết dẫn đến tổng thu
nhập nhập khẩu giảm theo.
Ngoài các khoản thu nhập từ thuế thì thu nhập công không thể thiếu một phần quan trọng
đó là các khoản thu từ phí, thu lệ phí, vay nợ, cho thuê công sản, bán tài nguyên…
• Việc đóng góp phí, lệ phí là một việc rất bình thường bởi người dân phải có trách nhiệm
đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua việc sử dụng các dịch vụ hoặc một số công
việc liên quan đến quản lý nhà nước. Nguồn thu đó góp phần đầu tư vào các công trình
phục vụ chính người dân. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại trong việc thực hiện pháp lệnh
phí và lệ phí. Trong 340 loại phí, lệ phí Chính phủ chỉ đạo các địa phương phải bãi bỏ thì
một số địa phương vẫn chưa có báo cáo cụ thể về việc bãi bỏ. Theo đánh giá của Ủy ban
Tài chính - ngân sách của Quốc hội, Chính phủ vẫn chưa bao quát hết những khoản phát
sinh phí, lệ phí và mức thu chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chậm được bổ sung. Một
số qui định còn thiếu nhất quán, bất cập. Công tác kiểm tra, kiểm soát thực hiện pháp lệnh
phí và lệ phí còn thiếu chặt chẽ. Hiện nay dư luận đang lên tiếng về vấn đề lạm thu khoản
đóng góp này của NSSN.
• Có 3 nhà tài trợ cung cấp chủ yếu là Nhật Bản , Ngân hàng thế giới(WB) và ngân hàng
phát triển châu Á (ADB), chiếm khoảng 80% tổng giá trị ODA đã kí kết. Đến nay, ở Việt
Nam đã có trên 50 nhà tài trợ song phương và đa phương đang hoạt động, cung cấp nguồn
ODA và vốn vay ưu đãi cho hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội.Tính đến tháng
12/2012, đã có 20 Hội nghị CG thường niên và 15 Hội nghị CG giữa kỳ (tổ chức đầu
tháng 6 hàng năm) được tổ chức. Thông qua các hội nghị này, 78,195 tỷ USD vốn ODA
đã được các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam. Tổng vốn ODA ký kết từ năm 1993-
2012 đạt trên 56,05 tỷ USD, chiếm 71,69% tổng vốn ODA cam kết. Trong đó, vốn ODA
vay ưu đãi đạt 51,607 tỷ USD và chiếm khoảng 88,4%, vốn ODA không hoàn lại đạt 6,76
tỷ USD và chiếm khoảng 11,6%. Vốn ODA giải ngân qua 20 năm đã đạt 37,59 tỷ USD,
chiếm trên 66,92% tổng vốn ODA ký kết.Trong số 51,607 tỷ USD các khoản ODA vay ưu
đãi đã ký kết, phần lớn có lãi suất rất ưu đãi, thời gian vay và ân hạn dài. Khoảng 45%
khoản vay có lãi suất dưới 1%/năm, thời hạn vay từ 30-40 năm, trong đó có 10 năm ân
hạn; khoảng 40% khoản vay có lãi suất từ 1-3%/năm, thời hạn vay từ 12-30 năm, trong đó
có 5-10 năm ân hạn; còn lại là các khoản vay có điều kiện ưu đãi kém hơn.
Mặc dù nguồn vốn ODA chỉ chiếm khoảng 4% GDP, song lại chiếm tỷ trọng đáng kể
trong tổng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bình quân chiếm khoảng 15-17%).
Điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển của
ta còn hạn hẹp, trong khi nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lại rất lớn.
Thực trạng thu nhập công ở Việt Nam hiện nay vẫn còn gặp khá nhiều khó khăn và
thách thức đòi hỏi nhà nước cần có những chính sách mang tính chiến lược nhằm điều
tiết cân đối nguồn thu nhập công đạt hiệu quả tốt nhất.
2. Phân tích đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến thu nhập công
• Mức độ ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế
Thu nhập công được chủ yếu hình thành từ những giá trị do nền kinh tế tạo ra, muốn
thu nhập công nhiều và bền vững thì chỉ có cách duy nhất là thúc đẩy nền kinh tế sáng tạo
ra ngày càng nhiều giá trị gia tăng chứ ko phải là nhà nước dùng quyền lực ép buộc dân
chũng và các tổ chức kinh tế chuyển cho mình thu nhập nhiều hơn.
GDP là cơ sở duy nhất và bền vững nhất của thu nhập công, mối quan hệ giữa GDP và
thu nhập công được biểu hiện dưới công thức:
Thu nhập công = f(GDP)
Mọi nguồn vay hay viện trợ chỉ đáp ứng nhu cầu tạm thời và đều phải trích từ thuế để trả,
vì vậy chăm lo phát triển kinh tế chính là chăm lo nguồn thu nhập công trong tương lai.
Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quan trọng với những nước đang phát triển. Nó là tiền
đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo, giảm khoảng cách tụt hậu với các nước phát
triển, củng cố quốc phòng, an ninh chính trị, tạo niểm tin cho cộng đồng quốc tế. Tăng
tưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết thất nghiệp, tăng thu nhập và phúc lợi xã hội cho
người dân. Từ đó tạo đà cho nhà nước thu ngân sách nhà nước, giúp tăng ngân sách nhà
nước. Của cải xã hội được làm ra ngày càng nhiều, tăng thu nhập công mà không tăng
gánh nặng cho xã hội.
Mặt khác, tăng thu nhập công cũng sẽ tạo đà giúp nền kinh tế phát triển. tăng thu nhập
công sẽ giúp nhà nước có điều kiện đầu tư cho các công trình sự nghiệp, các chương trình
phúc lợi xã hội, các cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển đất nước. … từ đó người dân càng
được hưởng nhiều lợi ích từ các dịch vụ công này. Tạo cơ sở vật chất cho phát triển xã
hội, giúp phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế và thu nhập công có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với công, thu
nhập công tăng cũng hỗ trợ phát triển kinh tế. nhưng ngược lại nếu kinh tế chậm phát
triển, lạc hậu sec tạo ra ít của cải xã hội, thất nghiệp gia tăng sẽ làm giảm thu nhập công.
Muốn kinh tế ổn định thì nhà nước phải tăng chi tiêu công trong khi thu nhập công thấp,
làm mất cân đối NSNN làm nền kinh tế them tụt hậu.
Sơ đồ mối quan hệ giữa thu nhập công và phát triển kinh tế:
Sơ đồ 1: Thu nhập công với nền kinh tế phát triển
Sơ đồ 2: Thu nhập công với nền kinh tế lạc hậu
Thực tiễn ở Việt Nam gần đây, sau khi ra nhập WTO dự báo thu nhập công giảm đi
nhanh chóng do theo cam kết ta phải giảm thuế nhập khẩu cho nhiều mặt hàng nhập
khẩu. tạo nguy cơ cạnh tranh gay gắt giữa hàng nước ngoài và hàng nội địa. tuy nhiên,
việc giảm thu nhập công từ thuế nhập khẩu chỉ vào khoảng 10% tổng thu từ hoạt động
xuất nhập khẩu, còn lợi ích với nền kinh tế khi gia nhập WTO là lớn hơn nhiều. Suy thoái
kinh tế thế giới năm 2008 ảnh hưởng khá nhiều đến hoạt động thu NSNN ở Việt Nam,
kinh tế nước ta cũng lâm vào tình trạng khủng hoảng, bị ảnh hưởng nặng nề. Thu NSNN
bị đè nặng bởi khủng hoảng kinh tế và các chương trình phát triển kinh tế. Năm 2008,
kinh tế nước ta bị khủng hoảng nặng nề. Bởi sự phát triển quá nóng những giai đoạn
trước mà dẫn đến lạm phát phi mã, chính phủ phải sử dụng đến những biện pháp kinh tế
vĩ mô có tính tạm thời để giảm lạm phát. Đẩy mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất
sàn, các ngân hàng phải nâng mức lãi suất cho vay lên cao, đến 24%. Nhà đầu tư và
người đi vay khốn đốn và giảm các hoạt động đầu tư. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 62,9
tỷ USD nhưng tổng kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 80,4 tỷ USD. Cán cân thương mại
không đều. Bội chi ngân sách nhà nươc là 66,200 tỷ đồng. Năm 2011, Bộ Tài chính đã
trình Chính phủ miễn giảm khoảng 4.200 tỷ đồng và gia hạn 6.900 tỷ đồng tiền thuế cho
khoảng 303.200 DN. Chính sách thuế do Chính phủ thực hiện đã góp phần giúp cộng
đồng DN duy trì sản xuất kinh doanh, tác động tích cực đến kết quả thu ngân sách nhà
nước (NSNN) năm 2011. Ước thực hiện thu NSNN năm 2011 đạt 674.500 tỷ đồng, vượt
13,4% dự toán, tăng 20,6% so với thực hiện năm 2010. Công tác chi NSNN được thực
hiện theo hướng thắt chặt, tiết kiệm, bội chi NSNN được giảm xuống mức 4,9% (giảm
0,4% GDP so với dự toán).
Thu NSNN năm 2012 là 740.500 tỷ đồng, lũy kế thu cả năm ước đạt 742.380 tỷ đồng,
đạt 100,3% dự toán, trong đó: Thu nội địa đạt 459.480 tỷ đồng, bằng 92,9% dự toán; Thu
từ dầu thô đạt 144.400 tỷ đồng, bằng 166% dự toán; Thu cân đối ngân sách từ hoạt động
xuất nhập khẩu đạt 131.500 tỷ đồng, bằng 85,4% dự toán; Thu viện trợ đạt 7.000 tỷ đồng,
bằng 140% dự toán. Dự toán chi NSNN năm 2012 là 903.100 tỷ đồng, lũy kế cả năm ước
đạt 905.250 tỷ đồng, đạt 100,2% dự toán. Trong năm 2012 đã huy động vốn cho NSNN
và cho đầu tư phát triển thông qua phát hành trái phiếu chính phủ đạt 140.000 tỷ đồng,
đạt 100% kế hoạch đề ra, bằng 177% so với năm 2011. Trong năm 2012, công tác tổ
chức điều hành NSNN đã được triển khai tích cực, chủ động; trong điều kiện thu khó
khăn, công tác quản lý chi NSNN được tăng cường, bảo đảm tiết kiệm, chặt chẽ và hiệu
quả.
Với việc triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp, năm 2013 ngành. Thuế thu
NSNN ước đạt 659.255 tỷ đồng, tăng 2,3% so với dự toán, bằng 109,8% so với thực hiện
năm 2012, trong đó: Thu từ dầu thô ước đạt 116.500 tỷ đồng, bằng 117,7% so với dự
toán, bằng 83,2% so với thực hiện năm 2012, trong đó ghi thu - ghi chi là 7.669 tỷ đồng;
Thu nội địa ước đạt 542.755 tỷ đồng, bằng 99,5% so với dự toán, tăng 17,8% so với thực
hiện năm 2012: Tiền sử dụng đất ước đạt 42.525 tỷ đồng, bằng 109% so với dự toán,
bằng 93,9% so với thực hiện năm 2012; Số thu không kể tiền sử dụng đất ước đạt
500.230 tỷ đồng, bằng 98,8% so với dự toán, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm 2012. Năm
2013 trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tuy có nhiều dấu hiệu khả quan nhưng chưa
ổn định và không đồng đều giữa các khu vực, kinh tế trong nước tuy đã có bước tăng
trưởng nhưng còn nhiều thách thức, mức tăng GDP chưa đạt kế hoạch, sản xuất kinh
doanh gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp, tạm ngưng hoạt động. Với
sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, Bộ Tài chính, sự vào cuộc đồng bộ của
các cấp các ngành, cấp uỷ chính quyền các địa phương và sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả
của các đơn vị tham mưu thuộc Bộ Tài chính, ngay từ đầu năm 2013, Tổng cục Thuế đã
cụ thể hoá các chỉ đạo của Bộ về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số
01/NQ-CP về những giải pháp chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội và Nghị
quyết số 02/NQ-CP về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị
trường, giải quyết nợ xấu, theo đó cơ quan thuế từ trung ương đến cơ sở đã đồng loạt
triển khai quyết liệt các giải pháp quản lý thu, kiểm soát chặt chẽ nguồn thu, tăng cường
chống thất thu thuế, thu hồi nợ đọng và khai thác tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà
nước
• Trình độ tổ chức hoạt động thanh toán và hạch toán (châm)
Khi trình độ hiện đại trong thanh toán và hạch toán gia tăng, thu nhập công cũng sẽ
tự động tăng theo mà không cần điều chỉnh mức thu .Vì lúc đó mọi khoản thu và chi phí
của mọi tổ chức và cá nhân được ghi chép và phản ánh minh bạch hơn, nên quá trình Nhà
nước động viên một phần thu nhập của nhân dân cũng chính xác và công bằng hơn, đặc
biệt trong quản lý và thu thuế. Vì trong thu nhập công, thuế chiếm hơn 70% tổng thu ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trình độ thanh toán và hạch toán càng hiện đại, nhà
nước có thể giảm và kiểm soát phần nào sự thất thoát trong thu ngân sách, tăng thu ngân
sách và đảm bảo công bằng giữa các chủ thể trong xã hội. Tăng động viên vào ngân sách
nhà nước và làm lành mạnh hóa đời sống kinh tế- xã hội.
Xu hướng chung khi mà nền kinh tế các phát triển thì tỷ trọng thanh toán không dùng
tiền mặt trong nền kinh tế càng tăng, theo đó thu nhập công cũng tăng lên. Tính hiện đại
trong công nghệ thanh toán và hạch toán không chỉ phát huy tác dụng tích cực trong động
viên nguồn thu cho NSNN, mà còn là điều kiện quan trọng để làm lành mạnh hóa đời
sống kinh tế xã hội. Trình độ tổ chức hoạt động thanh toán thể hiện trước hết ở sự phong
phú, đa dạng của phương tiện thanh toán, loại hình thanh toán, trình độ công nghệ, sự
phát triển của tổ chức tài chính trung gian cung cấp dịch vụ và tiếp sau là thói quen của
dân chúng. Xu hướng chung là nền kinh tế càng phát triển, xã hội càng văn minh thì tỷ
trọng thanh toán không dung tiền mặt trong nền kinh tế càng gia tăng, theo đó thu nhập
công cũng sẽ tăng lên. Trình độ hạch toán cao sẽ làm giảm được thất thoát ngân sách và
phản ánh minh bạch, chính xác hơn các khoản thu và chi phí của mọi tổ chức và cá nhân.
Ở Việt Nam hiện nay mọi doanh nghiệp, tổ chức đều hạch toán theo chế độ kế toán Việt
Nam và chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành theo quyết định số 15/2006/QĐ-BTC
ngày 23/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính được sửa đổi bổ sung theo thông tư số
161/2007/TT-BTC ngày 31/12/2007 của Bộ Tài Chính.
Cuối tháng 8-2007, thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị về thực hiện chi trả lương
các đối tượng được hưởng lương từ nguồn ngân sách Nhà nước qua tài khoản từ đầu năm
2008. Lợi ích của việc chi trả lương qua tài khoản không chỉ dừng lại ở việc góp phần
hạn chế và ngăn chặn được tình trạng tham nhũng vì kiểm soát được nguồn thu của cán
bộ, công nhân viên chức qua tài khoản, mà ý nghĩa của nghiệp vụ này còn rộng lớn hơn.
Đó là tiết kiệm nhân lực và tiết kiệm hàng loạt chi phí cho các đơn vị chi trả lương, tiết
kiệm chi phí cho hệ thống Kho bạc Nhà nước và tiết kiệm thời gian cho người hưởng
lương… Hiệu quả chung mà cả nền kinh tế tiết kiệm được thật sự là rất lớn. Cũng chính
nhận thấy hiệu quả của dịch vụ này mà các đơn vị tiên phong chính là các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp có đông công nhân, đã chủ động
phối hợp với các Ngân hàng thương mại thực hiện từ nhiều năm qua. Bởi vì tiết kiệm các
chi phí trong chi trả lương cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức mạnh cạnh tranh, vì có
thể giảm chi phí, giảm giá thành, tăng lợi nhuận. Từ những lợi ích đó mà thu nhập công
tăng lên.
Việc thực hiện trả lương qua tài khoản đã góp phần minh bạch hóa một phần thu nhập
của cán bộ công chức là tiền đề để triển khai dần việc thực hiện các khoản chi khác của
đối tượng hưởng lương từ NSNN qua tài khoản trong thời gian tới; qua đó cũng tạo điều
kiện thuận lợi cho cơ quan quản lý thuế tăng dần việc quản lý nguồn thu thuế từ cá nhân,
tổ chức.
Thúc đẩy hệ thống kho bạc hiện đại hóa công nghệ thanh toán, giảm bớt chi phí vận
chuyển, kiểm đếm, cất giữ tiền mặt: việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng
hưởng lương từ NSNN đã giảm thiểu gánh nặng chi tiền mặt cho KBNN, từ đó giảm bớt
được khối lượng đáng kể công việc, thời gian, nhân lực và chi phí quản lý tiền mặt cho
KBNN trong các khâu vận chuyển, kiểm đếm, bảo quản tiền mặt Tỷ lệ chi tiền mặt
trong NSNN ngày càng có xu hưởng giảm, góp phần tăng tỷ trọng thanh toán bằng
chuyển khoản qua ngân hàng, cụ thể như chi thanh toán cho cá nhân bằng tiền mặt trong
năm 2008 chiếm 55% tổng số chi thanh toán cho cá nhân, trong năm 2009 tỷ lệ này giảm
xuống còn 42%, năm 2010 tiếp tục giảm ước còn 35-40%.
Về lâu dài Ngân hàng nhà nước cho rằng, Bộ Tài chính cần sớm hoàn thiện và triển
khai các đề án thành phần trong Đề án thanh toán không dung tiền mặt của Chính phủ,
đặc biệt với nội dung khuyến khích dịch vụ này bằng chính sách thuế giá trị gia tăng và
chính sách thuế xuất nhập khẩu.
Trước đây, trong thời kỳ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp việc hạch toán ở các
cửa hàng cấp 2, cấp 3, cấp 3 còn thô sơ, nhà nước quản lý không chặt chẽ làm thất thoát
trong thu, chi công, do đó đã dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách nhà nước, lạm phát
tăng hơn 700%. Hiện nay, ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác hạch toán kế toán
với các phần mềm tiện ích như : Misa ,fast ,bravo công tác kế toán đã được đơn giản
hoá, chính xác và minh bạch hơn. Từ đó cung cấp các số liệu chính xác hơn, là cơ sở để
nhà nước thu thuế, tránh được tình trạng tham nhũng lãng phí quỹ công.
Như vậy, tính hiện đại trong tổ chức hoạt động thanh toán và hạch toán vừa, là kết
quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội vừa hỗ trợ hữu hiệu cho quá trình này.
• Mức độ ảnh hưởng của trình độ nhận thức của dân chúng
Khi ý thức của người dân càng cao họ càng nhận ra sự cần thiết của nhà nước và trách
nhiệm của mỗi bên ( nhà nước và dân chúng ) trong tiến trình thúc đẩy kinh tế xã hội phát
triển. Khi đó, đóng góp tài chính do Nhà nước là một nghĩa vụ hiển nhiên của mọi công
dân để cùng chia sẻ những chi phí công cộng. Đến khi đó nghĩa vụ đóng góp tài chính
cho nhà nước không còn là nặng nề nữa bởi nó là kết quả của một quá trình nhận thức
của dân chúng về trách nhiệm của mình với nhà nước.
Trình độ nhận thức của dân chúng cũng giúp Chính phủ có những hành xử công bằng
sòng phẳng hơn và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng đạt hiệu quả hơn.
Hiện nay, Việt Nam đã được thế giới công nhận về nỗ lực xóa đói giảm nghèo, tuy nhiên
bên cạnh nghèo đói kinh tế, hiện người ta đang nghiên cứu thêm nghèo đói dưới các góc
độ nghèo tri thức và nghèo nhân văn: “Nghèo về tri thức và nhân văn cho thấy nhiều
người giàu lên có thể vẫn ít có ý thức về việc học hành, nâng cao nhận thức về văn hóc
thực thụ, dù họ có nhiều cơ hội hơn và thay vào đó, một số có thể dẫm đạp lên các giá trị
nhân văn và còn có các hành vi làm tổn hại tới cộng đồng, xã hội và lịch sử”. Vì vậy mà
vẫn tồn tại một bộ phận người dân chưa thực sự hiểu được vai trò của tài chính công đỗi
với sự phát triển của xã hội, chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của Nhà nước. Chính vì
vậy họ cũng chưa ý thực được trách nhiệm và nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước. Nên
đâu đó một bộ phận người dân cố tình khai khống thuế, trốn thuế, cá biệt có doanh
nghiệp cố tình dây dưa chiếm dụng tiền thuế ( do lãi suất vay ngân hàng lớn hơn tỉ lệ phạt
chậm nộp ) làm thất thu ngân sách Nhà nước mỗi năm lên tới hàng nghìn tỷ đồng ảnh
hưởng tới chương trình phát triển kinh tế xã hội của chính phủ ta.
Hiện tượng chốn thuế đặc biệt là ở nhóm giàu ở trên đỉnh cùng, mà hiện khó xác định là
chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong nhóm chiếm khoảng 5-10% dân số Việt Nam, có vẻ là một
trong các nguyên nhân trực tiếp của bất bình đẳng xã hội và khoảng cách giàu nghèo
đang giãn rộng trong nhóm dân số giàu có, có hiện tượng một bộ phận không nhỏ được
hưởng lợi từ hệ thống chính trị, quyền lực và đang đảm bảo lợi thế xã hội giàu có của
mình bằng việc trốn thuế đặc biệt là thuế thu nhập và lợi tức cá nhân. Hiện tượng này
cũng xảy ra trong một bộ phận những người có quyền chức ở địa phương, nhiều người có
thể trốn thuế thu nhập, lợi tức qua việc khai báo đầy đủ hoặc lách luật đối với những tài
sản hoặc dòng thu nhập dẫn tới tài sản của họ như buôn bán, tích trữ địa ốc, tài chính, cổ
phiếu và các tài sản có giá trị khác.
Hiện tượng trốn thuế thu nhập và lợi tức, mặc dù đang được kỳ vọng xử lý, đã lan rộng từ
các lĩnh vực kinh tế tới giáo dục, nơi thu nhập cá nhân khai thuế của các viên chức ở khu
vực công mới bắt đầu được xử lý giản đơn qua hình thức ‘Trả lương qua thẻ tín dụng
ngân hàng’.
• Mức độ ảnh hưởng của năng lực pháp lý của bộ máy nhà nước
Chính Phủ là một bộ máy do xã hội xây dựng để dẫn dắt xã hội đạt được những mục tiêu
công cộng. Do đó bộ máy này đương nhiên phải dựa trên một căn bản pháp lý vững chắc
và phải được mọi thành viên trong xã hội tôn trọng. Năng lực pháp lí của bộ máy nhà
nước được nâng cao sẽ giúp Chính phủ đặt ra và quản lí hữu hiệu các khoản thu phù hợp
thể chế và khả năng chịu đựng của doanh nghiệp cũng như của dân chúng. Đồng thời hạn
chế thất thu đến mức tối thiểu ở cả khu vực Nhà nuớc lẫn khu vực ngoài Nhà nuớc. Qua
đó góp phần nâng cao tính minh bạch trong quá trình động viên và sử dụng một phần của
cải của xã hội.
Năng lực pháp lý của nhà nước đối với thu nhập công thể hiện ở chỗ hệ thống bộ
máy thu thuế, phí, lệ phí, và các khoản thu khác hoàn thiện tới đâu, chặt chễ tới đâu, chặt
chẽ đến đâu và có hiệu quả đến đâu.
Để đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác quản lý thu thuế, Chính phủ sẽ
ban hành Luật quản lý thuế nhằm quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của đối tượng nộp
thuế, cơ quan thuế và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan và bổ sung quyền cưỡng chế
thuế, điều tra khởi tố các vụ vi phạm về thuế. Chiến lược cải cách hệ thống thuế Việt
Nam cũng đặt ra mục tiêu: Các chính sách thuế phải huy động đầy đủ các nguồn thu vào
Ngân sách Nhà nước, đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước và giành một
phần cho tích luỹ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Thực hiện
tỷ lệ động viên thuế và phí vào Ngân sách Nhà nước bình quân hàng năm 20%-21%
GDP. Thực hiện hệ thống phục vụ đối tượng nộp thuế có chất lượng cao theo mô hình
"một cửa", giảm chi phí cho cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế. Xây dựng các quy trình,
thủ tục quản lý thuế đơn giản, minh bạch.
Năng lực pháp lý của bộ máy nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập công ở Việt
Nam. Nhờ có bộ máy quản lý hoàn thiện, minh bạch và chặt chẽ mà xác định được các
khoản thu thuế, phí, lệ phí phù hợp với thể chế. Đồng thời xem xét và đưa ra những quy
định về các trường hợp được miễn giảm thuế, điều đó tạo cho nguồn thu vào ngân sách
nhà nước được ổn định và duy trì ở mức hợp lý. Tuy nhiên còn nhiều điểm còn chưa thật
sự hoàn thiện và chặt chẽ trong công tác quản lý và giám sát, vì vậy năng lực pháp lý bộ
máy của nhà nước cần được hoàn thiện hơn để đảm bảo đầy đủ các nguồn thu vào ngân
sách nhà nước một cách hợp lý.
kinh tế phát triển
Thu NSNN nhiều
Đầu tư công được tăng cường
• Mức độ ảnh hưởng của hiệu quả hoạt động của chính phủ.
Chính phủ hoạt động hiệu quả khi nó sử dụng nguồn lực một cách thích hợp để cung
cấp những hàng hóa dịch vụ công được xã hội chấp nhận.
Hiện nay ở Việt Nam hiệu quả hoạt động của chính phủ chưa thật sự hiệu quả vẫn còn
nhiều bất cập trong quá trình sử dụng nguồn lực. rất nhiều các dự án công trình đang thi
công bị bỏ dở gây lãng phí rất nhiều nguồn lực quốc gia, thậm trí có những dự án kéo dài
mấy chục năm mà vẫn chưa được hoàn thiện chưa cung cấp được những dịch vụ công
đáp ứng nhu cầu của xã hôi
Mặc dù chưa có một cơ quan, tổ chức nào đưa ra được tỷ lệ và số liệu chính xác về thất
thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB là bao nhiêu (10, 20 hay 30% như nhiều chuyên gia
nhận định) nhưng thất thoát, lãng phí là có thực và nó xẩy ra ở tất cả các khâu, giai đoạn
của quá trình đầu tư, từ chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, cấp phát vốn
đầu tư, đến khâu nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào sử dụng và quyết toán vốn đầu
tư xây dựng công
Mặt khác, theo các con số chính thức, nợ công của Việt Nam hiện nay chiếm khoảng
55,4% tổng sản phẩm nội địa (GDP) nghĩa là còn trong ngưỡng an toàn. Tuy nhiên hiện
nay ngay báo chí nhà nước cũng đã đặt dấu hỏi về con số này, và đưa ra tỉ lệ nợ công lên
đến 95% GDP. Trong khi đó, vừa rồi Chính phủ đã đề nghị Quốc hội cho nâng trần bội
chi ngân sách lên 5,3% và phát hành thêm 170.000 tỉ đồng trái phiếu. Theo tính toán của
một tờ báo trong nước, cứ mỗi ba tháng Việt Nam phải trả nợ một tỉ đô la. Gánh nặng
đang đè lên thế hệ tương lai khi con cháu chúng ta phải trả nợ về những khoản nợ hiện
tại, như vậy chính phủ hoạt động đã thật sự hiệu quả chưa?
Chính phủ càng hoạt động hiệu quả thì khả năng thu từ các khu vực kinh tế và dân cư
càng cao; và ngược lại thu nhập công được gia tăng thì chính tiềm lực tài chính này là
tiền đề để phát triển các hoạt động của chính phủ.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
Dựa vào kiến thức đã được học và hiểu biết của mình nhóm xin đưa ra một số giải pháp
tăng thu nhập công như sau:
Thứ nhất, dựa vào mối quan hệ giữa thu nhập công và sự phát triển kinh tế cần có những
chính sách tăng trưởng và phát triển kinh tế phù hợp góp phần tăng thu nhập công.
Năm 2014 được các chuyên gia kinh tế nhận định tình hình kinh tế tuy có nhiều dấu
hiệu khả quan tích cực hơn so với năm 2013 nhưng sản xuất kinh doanh vẫn chưa ổn
định, vẫn còn khá nhiều thách thức phía trước, mức tăng trưởng GDP không cao, khó có
thể đạt được kế hoạch đề ra, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn đình trệ dẫn
đến nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp và tạm ngừng hoạt động trong thời gian dài. Trước
tình hình hình đó để thu nhập công đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ các mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội cần phải kết hợp nhiều biện pháp. Khủng hoảng kinh tế thế giới
làm các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, đầu tư, việc làm, thu ngân sách nhà
nước…đã gặp rất nhiều khó khăn vì vậy đòi hỏi mọi người phải đồng lòng triển khai
những giải pháp cấp bách mà nhiệm vụ hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế. Để ngăn
chặn suy giảm kinh tế Chính phủ cần đưa ra các giải pháp cấp bách nhằm ổn định nền
kinh tế vĩ mô, tiếp tục kiềm chế lạm phát.
Thứ 2, tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế ở tất cả các khâu, các bộ
phận, các lĩnh vực, đảm bảo phương châm hành động theo Tuyên ngôn ngành
Thuế :“Minh bạch, chuyên nghiệp, liêm chính, đổi mới” đi vào thực chất. Tuân thủ các
văn bản của Bộ Tài chính, Chính phủ về hướng dẫn và triển khai thực hiện tuyền truyền,
phổ biến rộng rãi trong xã hội; đồng thời nâng cấp đồng bộ ứng dụng công nghệ thông
tin; bổ sung, sửa đổi quy trình quản lý để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý thuế.
Thứ ba, kiểm soát chặt chẽ nguồn thu ngân sách, thường xuyên kiểm tra, rà soát để nắm
bắt kịp thời số lượng, tình trạng hoạt động của DN, hộ kinh doanh trên địa bàn để đưa
vào diện quản lý. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu ngân sách, chú
trọng việc thanh tra đối với các chuyên đề như: chuyển giá, thương mại điện tử, kinh
doanh qua mạng, hoàn thuế, hộ kinh doanh cá thể; thanh tra đối với các DN lớn, DN có
vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, đẩy mạnh áp dụng các biện pháp thu nợ và cưỡng chế nợ thuế nhằm hạn chế nợ
mới phát sinh, động viên kịp thời nguồn lực cho NSNN góp phần tăng thu nhập công.
Thứ năm, Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế nhằm cắt
giảm chi phí tuân thủ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để DN phát triển sản xuất kinh doanh;
đẩy mạnh triển khai thực hiện các đề án thuộc Chiến lược phát triển hệ thống thuế giai
đoạn 2011-2020, đảm bảo lộ trình và yêu cầu đã đề ra.
kinh tế lạc hậu
Thu NSNN
ít
đầu tư công manh mún, nhỏ bé, kém hiệu
quả
KẾT LUẬN
Thu nhập công không chỉ mang lại lợi ích chi nhà nước, cho các bộ ngành, địa phương
mà còn mang lại lợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân - những người giám sát và thụ hưởng
các dịch vụ công cộng. Để nâng cao hiệu quả của thu nhập công trong giai đoạn hiện nay
là một vấn đề nhạy cảm luôn tiềm ẩn khó khăn, thách thức vì vậy cần được quan tâm chỉ
đạo và có biện pháp thực hiện một cách thường xuyên, có chương trình cụ thể cho từng
giai đoạn. Trên đây là một số giải pháp nổi bật nhằm nâng cao hiệu quả của thu nhập
công để góp một phần nào đó vào quá trình sử dụng nguồn tài chính nhà nước, từ đó ổn
định kinh tế đảm báo an sinh xã hội.
Vì thời gian thảo luận có hạn cộng thêm năng lực và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên
bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm chúng tôi rất mong nhận
được sự chỉ bảo tận tình của thầy cô giáo và sự góp ý chân thành của các bạn để bài viết
này được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.