Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.52 KB, 31 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
-------

BÀI THU HOẠCH
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Tên đề tài:

“XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM”

Người thực hiện : Lê Minh Trí
Mã số học viên : FF200856
Lớp
: Hồn chỉnh chương trình CCLLCC,
hệ KTT K71-C11 (2020-2021)
Cơ quan cơng tác : Đảng ủy Sở Lao động – Thương
binh và Xã hội Tp. Hồ Chí Minh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1..........................................................................................................2
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2020


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM VỀ DÂN CHỦ........................................................................2
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề dân chủ...................................................................................................2
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ......................................................2


1.1.2. Quan niệm của Đảng Công sản Việt Nam về dân chủ........................2
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy Dân chủ xã hội
chủ nghĩa...............................................................................................................4
Chương 2..............................................................................................................7
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM...........................................................................................................7
2.1. Những yếu tố tác động tới xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam............................................................................................................7
2.1.1. Những yếu tố thuận lợi........................................................................7
2.1.2. Những yếu tố cản trở...........................................................................8
2.2. Một số thành tựu và hạn chế của trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam........................................................................................9
2.2.1. Thành tựu............................................................................................9
2.2.1.1. Dân chủ trong Đảng......................................................................9
2.2.1.2. Dân chủ trong Nhà nước..............................................................11
2.2.1.3. Dân chủ trong xã hội...................................................................12
2.2.2. Một số hạn chế..................................................................................13
2.2.2.1. Dân chủ trong Đảng....................................................................13
2.2.2.2. Dân chủ trong Nhà nước.............................................................15
2.2.2.3. Dân chủ trong xã hội...................................................................15
Chương 3............................................................................................................19


MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..................................................................19
3.1. Phương hướng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam......19
3.2. Những giải pháp lớn về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa...................20
KẾT LUẬN........................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................26



1

MỞ ĐẦU
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nấc thang, một trình độ cao
trong lịch sử phát triển dân chủ của nhân loại và cho đến nay, nó vẫn đang
trong q trình xây dựng và hoàn thiện ở một số nước đi theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Vì thế, có thể nói, dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới mẻ, cần được tiếp tục nghiên cứu. Bắt đầu
từ năm1986, việc đổi mới, dân chủ hóa đời sống xã hội đã trở thành một trong
những mối quan tâm thường trực trong nhận thức và hành động của Đảng ta.
Theo đó, hơn 30 năm qua, nhận thức lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa đã
có nhiều điểm mới, thực tiễn xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã
có những đổi thay có tính bước ngoặt. Tuy nhiên, những thành tựu của quá
trình nhận thức và thực hiện xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nướcta
mới chỉ là bước đầu.Qua 30 năm thực hiện, trên nhiều khía cạnh, quá trình
nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực trạng xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa cịn nhiều hạn chế và nảy sinh khơng ít vấn đề gai góc, phức
tạp.Những vấn đề đó nếu không được nhận thức và giải quyết đúng đắn, kịp
thời thì sẽ là lực cản lớn cho sự phát triển đất nước, sẽ là nguyên nhân trực
tiếp gây ra những bất ổn về chính trị-xã hội, tác động đến cơng cuộc đổi mới,
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Thực tế đang đòi hỏi chúng ta phải có những tổng kết cơng
phu trên phươngdiện lý luận và thực tiễn về dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó
tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, tơi
chọn đề tài “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”
làm đề tài tiểu luận kết thúc môn Chủ nghỉa xã hội khoa học của mình.



2

CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ NHẬN THỨC
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ DÂN CHỦ
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về vấn đề dân chủ
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân chủ và điều kiện
thực tiễn của Việt Nam, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan niệm
“dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”. Đây được coi là một trong
những luận điểm nổi bật trong tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Dân chủ là “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mình dám nói, dám làm”. Người cũng khẳng định: “Chế
độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đánh giá cao vị trí, vai trị
làm chủ xã hội của nhân dân, Người nhấn mạnh: “Bao nhiêu lợi ích đều vì
dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước ta xây dựng là nền
dân chủ đối với quảng đại quần chúng nhân dân. “Đảng ta là Đảng lãnh đạo,
nghĩa là tất cả các cán bộ từ Trung ương đến khu, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở
cấp nào và ngành nào đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Tư
tưởng đề cao nhân dân, hết lịng vì lợi ích nhân dân được Hồ Chí Minh coi
như một chân lý.
1.1.2. Quan niệm của Đảng Công sản Việt Nam về dân chủ
Kế tục tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, quan điểm xuyên
suốt của Đảng ta, đó là: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta,

vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Để đáp ứng yêu


3

cầu mở rộng dân chủ, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội VI của Đảng mở đầu công cuộc đổi mới đã đề ra phương châm
"Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và đúc kết bài học kinh nghiệm:
"Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân
làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động".
Đại hội VII của Đảng nêu yêu cầu, phải tổ chức và vận động các tầng
lớp nhân dân hăng hái tham gia xây dựng pháp luật, chính sách, đóng góp ý
kiến với cơ quan nhà nước các cấp xây dựng các quy chế, quy ước phù hợp
với luật pháp và chủ trương, chính sách của Nhà nước, tham gia phổ biến
pháp luật trong nhân dân và tổ chức các phong trào quần chúng thực hiện
pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Đại hội VIII của Đảng xác định nhiệm vụ xây dựng cơ chế để thực hiện
phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện tốt cơ chế làm chủ của
nhân dân thông qua các cơ quan dân cử, làm chủ trực tiếp bằng hình thức tự
quản, bảo đảm dân chủ trong quá trình ra quyết định và thực hiện các quyết
định.
Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: “Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở
rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã
hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu
hiện dân chủ hình thức. Xây dựng Luật trưng cầu ý dân”.
Đại hội Đảng lần thứ X xác định: “Mọi đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý
kiến của nhân dân”.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục nêu rõ: “Tiếp tục phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà


4

nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ,
nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân
tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan
đến lợi ích, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá
trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực
tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”,“Thể chế hóa và thực hiện tốt phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy Dân chủ
xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta
luôn hướng tới, quyết tâm biến nó thành hiện thực. Đại hội XI của Đảng đã
khẳng định mục tiêu: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân
làm chủ...”. Trong đó có hai điểm mới quan trọng được bổ sung và phát triển
so với Nghị quyết Đại hội X của Đảng: Một là, đưa cụm từ dân chủ lên trước
cụm từ công bằng, văn minh. Điều đó cho thấy Đảng ta đã xác định rõ vị trí
của dân chủ và thực hành dân chủ trong q trình phát triển xã hội. Để có xã
hội dân giàu, nước mạnh, trước hết phải bảo đảm trong xã hội có nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa và phải thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách thực
chất, vì đó là điều kiện tiên quyết, là cơ sở thiết yếu để xây dựng xã hội công
bằng, văn minh. Hai là, khẳng định đặc trưng quan trọng của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do nhân dân làm chủ, thể

hiện rõ bản chất của chế độ xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Trong văn kiện Đại hội XII, sự nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa của việc
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được thể hiện ở chỗ, Đảng ta bổ
sung thêm cụm từ “dân chủ xã hội chủ nghĩa” vào tiêu đề Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội XII của Đảng.


5

Dân chủ xã hội chủ nghĩa còn là động lực của sự phát triển đất nước, là
nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; bởi lẽ, khi nhân
dân đã nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ và thực
sự phát huy quyền dân chủ thì đó sẽ là nguồn sức mạnh to lớn cho sự phát
triển đất nước. Mở rộng dân chủ là một trong những quan điểm phát triển
được Đảng ta nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020;
còn trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2016 - 2020, quan điểm phát triển được Đảng ta nhấn mạnh với yêu
cầu cao hơn: “Phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của người dân trong hoàn
thiện và thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Bảo
đảm quyền con người, quyền công dân”.
Trong tư duy lý luận của Đảng ta, vấn đề không dừng lại ở quan niệm
về dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà điều quan trọng hơn là tiếp tục thực hành,
phát huy dân chủ, nghĩa là phải tạo được bước chuyển căn bản từ nhận thức
đến hành động. Để đạt được mục tiêu xây dựng xã hội thực sự dân chủ, Đại
hội XII xác định rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân
dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên
quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”. Phương thức, cơ chế thực hành

dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt
động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực
tiếp, dân chủ đại diện, mà trọng tâm là “thể chế hóa và thực hiện tốt phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, như văn kiện Đại hội XII
của Đảng đã chỉ ra. Dưới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ thể
của quyền lực, là người thực hiện quyền lực; đa số nhân dân lao động có


6

quyền và được bảo đảm các điều kiện cần thiết để tham gia các hoạt động
quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Trong việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải bảo
đảm cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc tổ chức, lập ra bộ máy nhà
nước, vào việc quản lý các công việc của Nhà nước, quyết định các công việc
trọng đại của đất nước; đồng thời, có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện
việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà
nước, các tổ chức và cá nhân khác được trao những quyền hạn nhất định để
quản lý một số công việc của Nhà nước. Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm
các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do
của mỗi người.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn nhấn mạnh mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa Nhà nước với nhân dân, trong đó, trước hết là
Nhà nước bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Hơn
nữa, Nhà nước có cơ chế và các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vơ trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm
quyền dân chủ của công dân; đồng thời, “Phê phán những biểu hiện dân chủ
cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ
để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm

quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân”


7

Chương 2
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM
2.1. Những yếu tố tác động tới xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
2.1.1. Những yếu tố thuận lợi
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ra đời từ khi giai cấp cơng
nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, đó là kết quả trực tiếp
của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và phát triển trong những điều
kiện kinh tế, xã hội đặc biệt. Bước vào xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, Việt Nam có những thuận lợi cơ bản sau:
Một là, học thuyết Mác-Lênin về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa là
cơ sở lý luận và phương pháp luận để xây dựng nền dân chủ và thực hiện quá
trình dân chủ hóa ở Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu: dân giàu nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh; góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Hai là, kế tục những giá trị của dân chủ trong lịch sử Việt Nam đã được
xây dựng ngay từ buổi đầu dựng nước và nâng lên một chất lượng mới trong
thời đại Hồ Chí Minh. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
độc lập, thống nhất, nhân dân được tự do và trở thành người chủ đất nước,
được tự quyết định vận mệnh và tương lai của mình.
Ba là, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa đã mang lại nhiều thuận lợi rất quan trọng trong quá trình
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bò qua sự thống trị của quan hệ sản

xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ người bóc lột người; bỏ qua sự thống trị của
một nhóm người đối với đa số nhân dân lao động.
Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được xây dựng trong


8

điều kiện có Đảng Cộng sản do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là đại biểu trung thành
cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn thể dân tộc. Hệ
thống chính trị gồm Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội được thiết lập từ Trung ương đến địa phương là cơ sở bảo đảm
cho việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Năm là, cơ sở xã hội của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam
đang xây dựng là lực lượng đông đảo những người lao động được giải phóng
đã vào vị trí người chủ của chế độ mới, nịng cốt là khối liên minh giai cấp
cơng nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức. Đây chính là những cơ
sở quan trọng, những thuận lợi cơ bản trong việc xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.1.2. Những yếu tố cản trở
Một là, vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, những thành quả mà
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đem lại là một bước ngoặt lớn lao
trong việc hình thành và phát triển nền dân chủ ở nước ta. Song một đất nước
vừa thoát khỏi chế độ thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân đang lãnh
đạo chính quyền phần lớn đều xuất phát từ nơng dân, vì thế khơng tránh khỏi
bị ảnh hưởng bởi những tàn tích tư tưởng tiểu nơng, sản xuất nhỏ.
Hai là, đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và nền
dân chủ tư sản, việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gặp
phải khơng ít những khó khăn, trở ngại. Ý thức hệ phong kiến còn ăn sâu vào
xã hội, một xã hội mà nơng dân cịn chiếm đa số trong dân cư; một xã hội

nông nghiệp cổ truyền lạc hậu, lực lượng sản xuất chưa phát triển, phân công
lao động trong xã hội còn giản đơn và hạn chế. Tàn tích của ý thức hệ phong
kiến của người nơng dân với những hạn chế như: tâm lý cục bộ địa phương;
tư tưởng cào bằng, đẳng cấp; dân chủ tự phát… dễ làm triệt tiêu tính tích cực
cá nhân, triệt tiêu động lực phát triển. Không qua chế độ tư bản chủ nghĩa,


9

Việt Nam thiếu tri thức khoa học và kinh nghiệm quản lý hiện đại. Nguồn
nhân lực của chúng ta hạn chế về sự am hiểu, tinh thông nghiệp vụ, chuyên
môn chưa có do chưa có chun mơn hóa sâu. Cùng với hạn chế đó, mặt bằng
dân trí của xã hội còn thấp, kết cấu hạ tầng vật chất – kỹ thuật cịn rất lạc hậu
và chậm phát triển, thơng tin đến người dân còn chậm và chưa đầy đủ, nhất là
ở khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc miền núi, vùng hẻo lánh xa xôi.
Ba là, do Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự
tác động của cơ chế thị trường, sự đan xen giữa cái mới và cái cũ làm nảy
sinh nhiều vật cản trên con đường tiến tới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Những vật cản trở đó là: Trình độ phát triển dân chủ cịn thấp và chưa đầy đủ,
hệ thống pháp luật thiếu và không đồng bộ, chưa tạo ra được khung pháp lý
và cơ chế đủ mạnh để thực hiện dân chủ. Sự suy thoái, biến chất của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên kể cả những người có chức quyền; tệ tham
nhũng, quan liệu, buôn lậu đã trở thành quốc nạn, làm giảm lòng tin của nhân
dân vào bộ máy nhà nước. Tất cả những khó khăn đó gây ảnh hưởng khơng
nhỏ tới việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.2. Một số thành tựu và hạn chế của trong xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.2.1 .Thành tựu
2.2.1.1. Dân chủ trong Đảng
Việc thực hiện dân chủ trong các mặt hoạt động của Đảng, như công

tác lý luận, công tác tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ, công tác kiểm tra,
v.v. đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
Thứ nhất, những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của đổi mới trong 30
năm qua là kết quả của việc thực hiện các chủ trương, đường lối đúng đắn của
Đảng. Sở dĩ có các chủ trương, đường lối đúng đắn là do có dân chủ thảo luận
và Đảng biết lắng nghe ý kiến đóng góp của hàng triệu cán bộ, đảng viên, của
các nhà khoa học và của nhân dân.


10

Thứ hai, về công tác tư tưởng, Đảng ta đã thường xuyên đổi mới,
nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, thuyết phục và vận động
quần chúng. Trong thực tế, kết quả của công tác tư tưởng thể hiện ở chỗ: Tiếp
tục giữ vững ổn định chính trị, người dân ngày càng được biết nhiều hơn về
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cùng với việc dân biết,
dân cũng được bàn bạc và tham gia ý kiến về nhiều việc quan trọng. Nhờ vậy,
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhận được sự đồng tình,
ủng hộ của quảng đại quần chúng nhân dân.
Thứ ba, cơng tác tổ chức, cán bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực:
Các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể được sắp xếp lại, kiện toàn theo
hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp
về công tác cán bộ được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các quy chế, quy định.
Đảng đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu đánh giá, tuyển chọn, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính
sách cán bộ. Công tác tổ chức, cán bộ chuyển hướng theo hướng dân chủ hóa.
Thứ tư, cơng tác kiểm tra, giám sát phải thực hiện trong cả hệ thống
chính trị, kiểm tra, giám sát từng người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ
chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội ở các cấp
trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; kiểm tra, giám sát việc

chấp hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng
và Nhà nước. Trong thời gian qua, công tác kiểm tra, giám sát được cấp ủy, tổ
chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, có nhiều đổi mới và đạt được những
kết quả quan trọng.
Thứ năm, thực hành dân chủ thông qua các quan hệ trong nội bộ
Đảng. Đảng phải gương mẫu thực hành dân chủ không chỉ trong các hoạt
động của Đảng, mà cả trong quan hệ nội bộ đảng mà chủ yếu là quan hệ giữa
cấp trên và cấp dưới. Mặt ưu điểm của thực hành dân chủ trong quan hệ giữa
cấp trên và cấp dưới trong nội bộ đảng thể hiện: (1) Sau khi có nghị quyết Đại


11

hội và các hội nghị Trung ương, các cấp dưới thực hiện việc cụ thể hóa nhanh,
gọn hơn trước; (2) Nhìn chung các cấp ủy đảng đã thể hiện sự chủ động, năng
động cao hơn trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện nghị quyết và đưa nghị
quyết vào cuộc sống; (3) Các cấp ủy đảng đã coi trọng công tác tổng kết thực
tiễn và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết để báo cáo lên cấp trên; (4) Cấp
trên đã chịu khó lắng nghe các ý kiến đóng góp của cấp dưới; cấp dưới đã
mạnh dạn đóng góp ý kiến phê bình, xây dựng với cấp trên; (5) Cùng với việc
kiểm tra từ trên xuống, đã bắt đầu có sự kiểm tra từ dưới lên; (6) Khắc phục
được một bước tình trạng cấp trên quan liêu, độc đốn, chun quyền, dọa nạt
cấp dưới, đồng thời khắc phục được phần nào tình trạng cấp dưới hối lộ, nịnh
bợ cấp trên.
2.2.1.2. Dân chủ trong Nhà nước
Dân chủ trong Đảng gắn liền với dân chủ trong Nhà nước. Nói về
những thành tựu và hạn chế của việc thực hành dân chủ trong Đảng cũng tức
là nói về thành tựu và hạn chế của việc thực hành dân chủ trong Nhà nước.
Tuy nhiên, dân chủ trong Nhà nước cũng có những nét đặc thù.
Nhà nước đã tạo những điều kiện thuận lợi để nhân dân nắm bắt các

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm được các thủ tục hành
chính giải quyết các công việc liên quan với nhân dân, biết được quy hoạch,
kế hoạch của Nhà nước về sử dụng đất đai, về dự toán, quyết toán ngân sách,
v.v.. Đồng thời, cùng với việc dân biết, dân còn được bàn bạc nhiều việc quan
trọng, như những dự án, mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng ở địa phương,
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch dân cư, điều chỉnh địa giới
hành chính, phương án đền bù giải phóng mặt bằng, v.v.. Nhà nước đều hỏi ý
kiến nhân dân.
Quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân có nhiều tiến bộ trên một số mặt,
dần dần thể hiện đúng Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Các cơ quan nhà nước đã từng bước đổi mới tổ chức và hoạt


12

động, thích ứng và tổ chức tốt hơn yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở cửa,
hội nhập và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua,
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có những tiến bộ
nhất định trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội có
những đổi mới quan trọng trong cơng tác lập pháp, đã thông qua một số lượng
lớn luật, bộ luật, pháp lệnh mới với chất lượng ngày càng được nâng cao, tạo
cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước và thực hành dân chủ. Tăng
cường một bước tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, tránh được tình
trạng ơm đồm, cồng kềnh và quan liêu trước đây, thực hiên sự phân cấp, giảm
bớt phiền hà trong bộ máy hành chính. Dần dần thực hiện được tư tưởng quan
trọng là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Nhà nước phục vụ nhân
dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa để bảo đảm dân chủ gắn với kỷ luật, kỷ cương; đồng
thời, chỉ có thực hành dân chủ mới xây dựng được Nhà nước pháp quyền thực

sự của dân, do dân và vì dân.
2.2.1.3. Dân chủ trong xã hội
Dân chủ trong Đảng, dân chủ trong Nhà nước và dân chủ trong xã hội
có liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó dân chủ trong Đảng có ý nghĩa quyết
định. Nếu dân chủ trong Đảng chưa tốt thì dân chủ trong Nhà nước và trong
xã hội cũng chưa thể tốt được.
Nhờ có những chủ trương đúng đắn của Đảng, nhờ việc thể chế hóa
của Nhà nước về những chủ trương đó nên dân chủ trong xã hội đã có những
bước tiến đáng kể. Điều đó thể hiện:
Một là, nhân dân ta cảm nhận bầu khơng khí dân chủ hơn, cởi mở hơn
trong xã hội. Ở cơ sở, người dân đã chủ động bàn bạc, tham gia ý kiến, thực
hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính kiến của mình; đồng thời, tích cực tham gia
cơng tác xây dựng Đảng, chính quyền, thể hiện tốt vai trị giám sát đối với cán


13

bộ, đảng viên, thẳng thắn góp ý kiến về hoạt động của các cơ quan nhà nước ở
địa phương.
Hai là, trong 30 năm đổi mới vừa qua, việc thực hành dân chủ trong
xã hội đã có những bước tiến căn bản trong các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị
đến văn hóa và xã hội. Quyền cơng dân, quyền con người được khẳng định rõ
ràng trong Hiến pháp năm 2013 với số lượng lớn tới 36 điều/120 điều. Ở đây
điều đáng nói là khơng chỉ quy định trong 36 điều mà tư tưởng tôn trọng, bảo
vệ và bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân cịn được đề cập trong hầu
hết các điều khoản còn lại của Hiến pháp. Chỉ trong vịng bốn năm sau đó,
hơn 90 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền con người đã được
thông qua, tiêu biểu, như: Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015, Luật Tiếp cận thơng
tin năm 2016, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Bộ

luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tín ngưỡng, tơn giáo năm 2016, Luật
Phịng, chống tham nhũng năm 2018, Luật Đặc xá năm 2018, Luật Tố cáo
năm 2018… Đây là những nỗ lực, cố gắng không nhỏ của các cơ quan công
quyền trong suốt thời gian qua nhằm nâng cao chất lượng thụ hưởng quyền
con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền. Có thể nói, một
trong thành tựu quan trọng của đổi mới là nền dân chủ đang được hình thành,
đang đóng vai trị là động lực của sự phát triển xã hội.
2.2.2. Một số hạn chế
2.2.2.1. Dân chủ trong Đảng
- Cơng tác tư tưởng cịn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính
chiến đấu cịn hạn chế, chưa sâu sát thực tế, chưa linh hoạt. Tình trạng suy
thối của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống một phần là do công tác tư tưởng chưa làm tốt chức năng, nhiệm
vụ giáo dục chính trị và tư tưởng. Các thơng tin chưa được cung cấp thường
xuyên để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Chưa thật sự mở rộng dân


14

chủ trong tự do ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác biệt. Vẫn tồn tại tình
trạng nói nhiều, làm ít hoặc nói nhưng khơng làm.
- Cơng tác tổ chức, cán bộ vẫn chậm được đổi mới, còn một số biểu
hiện trì trệ, yếu kém, bất cập. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị có q
nhiều đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân không rõ ràng, chất lượng hoạt
động và hiệu quả thấp. Bộ máy còn cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền của nhiều cơ quan còn chồng chéo; cơ chế vận hành và nhiều quan hệ
còn bất hợp lý. Chưa thực sự lắng nghe ý kiến của nhân dân về tuyển chọn,
đào tạo, sắp xếp, sử dụng và đánh giá cán bộ. Chưa thực hành dân chủ trong
công tác tổ chức, cán bộ, chưa thực hiện cơ chế lựa chọn có số dư cho việc
tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ, đặc biệt là chưa mở rộng dân chủ thực sự để

tạo ra môi trường cho tài năng được phát huy. Chưa thực hiện cơng khai hóa,
minh bạch hóa các khâu trong cơng tác cán bộ để nhân dân được biết và có
điều kiện theo dõi, giám sát quá trình triển khai thực hiện;
- Cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng cịn nhiều hạn chế, đặc biệt là
chưa thực hành đầy đủ dân chủ trong công tác này. Hầu hết các vụ tham
nhũng, tiêu cực không phải do cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan kiểm tra phát
hiện được mà chủ yếu do nhân dân phát hiện, tố cáo hoặc báo chí nêu. Vì vậy,
phải xây dựng đầy đủ, đồng bộ cơ chế, chính sách để nhân dân tham gia kiểm
tra, giám sát đối với tổ chức đảng và đảng viên, vì khơng có cơ chế, chính
sách cụ thể, đồng bộ thì nhân dân không thể giám sát, kiểm tra được;
- Trong Đảng vẫn cịn tệ gia trưởng, độc đốn, dân chủ hình thức, đồng
thời vô tổ chức, vô kỷ luật. Nhiều việc đưa ra tập thể cấp ủy bàn bạc, nhưng
chỉ cốt để hợp thức hóa ý đồ của cá nhân người đứng đầu. Vì người đứng đầu
khơng thật sự mở rộng dân chủ, không tôn trọng lắng nghe ý kiến trái với
mình, thậm chí thành kiến, trù dập một cách khơn khéo, nên cấp dưới khơng
dám nói thẳng, nói thật. Ngun tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên
thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do khơng xác định rõ cơ chế trách


15

nhiệm, mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa tập thể và cá nhân, khi sai
sót, khuyết điểm khơng ai chịu trách nhiệm.
Tóm lại, vấn đề thực hành dân chủ trong Đảng đã có nhiều chuyển
biến tích cực so với thời kỳ trước đổi mới, không những thể hiện trong các
Nghị quyết của Đảng, trong pháp luật của Nhà nước mà cả trong thực tế cuộc
sống. Những chuyển biến đó thể hiện trong các hoạt động của Đảng và trong
các quan hệ nội bộ đảng. Nhưng cũng phải thấy rằng, việc thực hành dân chủ
trong Đảng vẫn còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Đảng cần phải phát huy ưu
điểm, khắc phục khuyết điểm để thực hành dân chủ trong Đảng ngày càng tốt

hơn, đồng thời nêu tấm gương tốt cho việc thực hành dân chủ trong Nhà nước
và trong xã hội.
2.2.2.2. Dân chủ trong Nhà nước
- Dân chủ trong Nhà nước vẫn còn những hạn chế nhất định. Trong
chế độ dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước khơng phải là quyết
định tự có của Nhà nước, mà quyền lực đó được nhân dân ủy quyền, giao
quyền. Quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước,
giao cho những con người cụ thể, mà ở con người cụ thể khi các dục vọng,
thói quen nổi lên thì khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực càng lớn.
Không thể khẳng định người được ủy quyền luôn làm đúng, làm đủ những gì
mà nhân dân ủy quyền. Vì vậy, phải kiểm soát quyền lực nhà nước để hạn chế
sự lộng quyền, lạm quyền. Muốn kiểm soát quyền lực nhà nước thì phải thực
hành dân chủ rộng rãi. Nhưng dân chủ chưa được thực hành rộng rãi nên vẫn
còn sự lộng quyền, lạm quyền, vẫn cịn tình trạng quan liêu, cửa quyền, phiền
hà đối với nhân dân, chưa khắc phục được bệnh tham ơ, lãng phí, v.v..
- Nhà nước cịn chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân
chủ thành pháp luật, thành quy chế, nên các chủ trương của Đảng đi vào cuộc
sống rất chậm làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
2.2.2.3. Dân chủ trong xã hội


16

Thực hành dân chủ trong xã hội ở nước ta còn một số hạn chế sau
đây:
Thứ nhất, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên
và nhân dân còn nhiều hạn chế, nên thiếu trách nhiệm trong việc triển khai
thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Thứ hai, nhiều chủ trương về thực hành dân chủ trong xã hội chưa
được thể chế hóa, nên chủ trương thì đúng và hay, nhưng thực tế thực hành

dân chủ trong xã hội chưa tốt, quyền làm chủ của nhân dân chưa được tơn
trọng và phát huy đầy đủ, thậm chí quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi,
trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ cịn mang tính
hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội
bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
Thứ ba, việc giải quyết yêu cầu phát huy dân chủ, tự do ngôn luận,
lắng nghe các ý kiến khác biệt, tư duy phản biện trong xã hội với việc giữ
vững kỷ luật, kỷ cương, phép nước cịn nhiều bất cập. Tình trạng tách rời,
thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, dân chủ và pháp luật cịn xuất
hiện ở khơng ít người. Trong xã hội cịn khơng ít hiện tượng vừa chun
quyền, độc đốn, mất dân chủ hay dân chủ hình thức, lại vừa dân chủ quá
trớn, cực đoan.
Thứ tư, chưa có cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể
của quyền lực, trên thực tế, quyền lực vẫn thuộc về các cơ quan nhà nước.
Việc nhân dân giám sát chính quyền cũng chưa có cơ chế rõ ràng, trên thực tế,
việc giám sát này cịn rất mờ nhạt. Tình trạng quan liêu của bộ máy hành
chính làm cho yêu cầu quản lý các quá trình kinh tế - xã hội và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân chưa thật nhanh, nhạy và hiệu quả cao. Trong
nhiều trường hợp, “hành chính” trở thành “hành dân là chính”.
Thứ năm, trong hơn 30 năm qua, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có
nhiều đổi mới, Nhà nước đã cố gắng xây dựng, ban hành pháp luật và đưa


17

pháp luật trở thành công cụ quan trọng trong quản lý đất nước, thực hành dân
chủ trong xã hội. Tuy nhiên, nhìn chung, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa
đồng bộ, khơng thống nhất, hay thay đổi gây khó khăn cho các cơ quan thi
hành pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã
hội.

Tóm lại, so với thời kỳ trước đổi mới thì hiện nay vấn đề dân chủ đã
có nhiều tiến bộ nhưng một số vấn đề vẫn cần tiếp tục nghiên cứu và lý giải
một cách nghiêm túc, khoa học, như: vấn đề nhân dân làm chủ như thế nào?
Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền như thế nào để tạo cơ sở cho dân chủ phát
triển? hay như việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ cịn
chậm, khơng kịp thời, không rõ ràng, không đầy đủ, không nhất quán nên việc
thực hành dân chủ trong xã hội còn nhiều khó khăn, hoặc rơi vào tình trạng
dân chủ hình thức hoặc rơi vào tình trạng dân chủ quá trớn.
2.2.3. Nguyên nhân của mặt hạn chế về dân chủ ở nước ta
Thứ nhất, vấn đề dân chủ ở nước ta còn chưa được giải quyết tốt cả về
lý luận lẫn thực tiễn, nhiều vấn đề đặt ra chưa được giải quyết rõ ràng. Điều
đó gây khó khăn cho việc thực hành dân chủ. Cụ thể như việc chúng ta chưa
làm sáng tỏ cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Mặc
dù Đảng đề ra cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
nhưng chưa phân rõ chức năng lãnh đạo với chức năng quản lý nên vẫn có sự
chồng chéo lên nhau; nhân dân làm chủ như thế nào vẫn chưa rõ và chưa có
cơ chế rõ ràng.
Bên cạnh đó, mặc dù chúng ta coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động
lực, nhưng chưa có lộ trình để đạt mục tiêu đó và vẫn coi nhẹ thực hành dân
chủ với tư cách là một động lực của sự phát triển xã hội nên chưa phát huy
được động lực này. Chúng ta cũng chưa có nhận thức đầy đủ về mối quan hệ
giữa dân chủ và kỷ cương nên cả hai đều thực hiện chưa tốt, dân chủ chưa
được phát huy, kỷ cương không được xiết chặt, cả dân chủ lẫn kỷ cương đều


18

vừa thiếu lại vừa yếu.
Thứ hai, việc thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước của
chúng ta chưa tốt nên ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội, Đảng

chưa nêu được tấm gương về thực hành dân chủ.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền đang trong giai đoạn hình thành cho nên
việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ chưa kịp thời. Mặt khác,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa thực hiện triệt để vai
trò giám sát và phản biện xã hội. Chúng ta còn né tránh và chưa cho phép xây
dựng các thiết chế xã hội để giảm sát và phản biện các vấn đề xã hội. Điều
này ảnh hưởng to lớn tới việc thực hành dân chủ trong xã hội.


19

Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Phương hướng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội XII của Đảng đã khẳng
định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được
thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo
đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết
định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia
thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng
những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân
dân”(8). Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta hướng tới xây dựng và
hoàn thiện là nền dân chủ rộng rãi, mang tính tồn diện, được thực hiện thơng
qua hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, trước hết là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng mở rộng và phát huy quyền làm chủ

của nhân dân lao động, thu hút nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội nhằm phục vụ cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động và
bảo đảm quyền làm chủ của họ cả về mặt pháp lý cũng như trên thực tế. Việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân là phương hướng, cách thức cơ bản để phát huy dân
chủ và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, vì Nhà nước đó sẽ bảo đảm tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.


20

3.2. Những giải pháp lớn về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa


21

Một là, tiếp tục phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng. Để phát huy dân
chủ trong Đảng đòi hỏi các cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng
đầu phải quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn nữa các quan
điểm, đường lối của Đảng về phát huy dân chủ; đồng thời, đẩy mạnh công tác
tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về phát huy quyền làm chủ; giải
quyết tốt mối quan hệ hữu cơ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”; tạo điều kiện cần và đủ để nhân dân làm chủ thực chất, hiệu
quả. Tiếp tục bổ sung các quy chế, quy định về dân chủ để thực hiện thống
nhất trong toàn Đảng. Trước hết, quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những
quyết định của mình. Bổ sung quy định về phát huy dân chủ trong công tác
cán bộ đi đơi với kiểm sốt quyền lực trong cơng tác cán bộ. Đảng thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Bảo đảm nguyên tắc tập trung
dân chủ, mọi quyết định về công tác cán bộ phải được thảo luận tập thể và

quyết định theo đa số. Công khai, minh bạch về chỉ tiêu, về kế hoạch tuyển
dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ, thi nâng ngạch, nâng bậc, xét
danh hiệu thi đua, xét nâng hạng; tiêu chuẩn, điều kiện, số lượng, cơ cấu,
quy trình luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Thực
hiện bỏ phiếu kín đối với những nội dung cần biểu quyết trong cơng tác cán
bộ, có quy chế cạnh tranh lành mạnh trong công tác cán bộ. Mỗi cán bộ đủ
điều kiện, tiêu chuẩn trong diện quy hoạch đều có cơ hội như nhau để thể hiện
phẩm chất, năng lực của mình trong tuyển dụng, tuyển chọn vào các chức
danh lãnh đạo, quản lý. Thực hiện bầu cử có số dư, bổ nhiệm cán bộ có cạnh
tranh, thơng qua thi tuyển hoặc bảo vệ chương trình hành động. Đi đôi với
phát huy dân chủ trong công tác cán bộ phải có quy định về kiểm sốt, giám
sát quan hệ lợi ích trong cơng tác cán bộ để công tác cán bộ thực sự khách
quan, công tâm. Tiếp tục thực hiện tốt chế độ Bộ Chính trị báo cáo cơng việc
và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; ban


22

thường vụ báo cáo công việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp cấp ủy;
cấp ủy báo cáo trước tổ chức đảng hoặc cơ quan bầu ra mình. Nâng cao chất
lượng, hiệu quả quy định hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn trong sinh
hoạt đảng, đưa hoạt động này thành chế độ nền nếp. Để thực hành dân chủ
trong Đảng đòi hỏi mỗi đảng viên phải thực hiện nghiêm Quy định số 08Qđi/TW, ngày 25-10-2018, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm nêu gương của
cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng”. Trong nhiều nội dung về nêu gương
phải coi trọng nêu gương về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối
của Đảng về phát huy dân chủ thành chính sách, pháp luật và tăng cường xây
dựng, củng cố, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.



×