Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.88 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
-------

BÀI THU HOẠCH
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

Tên đề tài:

“ĐỔI MỚI ĐỒNG BỘ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY”

Người thực hiện : Lê Minh Trí
Mã số học viên : FF200856
Lớp
: Hồn chỉnh chương trình CCLLCC,
hệ KTT K71-C11 (2020-2021)
Cơ quan cơng tác : Đảng ủy Sở Lao động – Thương
binh và Xã hội Tp. Hồ Chí Minh

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1..........................................................................................................2
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 2021
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ ............2
1.1. Khái niệm “kinh tế" và "chính trị..............................................................2


1.2. Chủ nghĩa Mác Lênin về quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
...............................................................................................................................2
1.3. Tính tất yếu và bản chất của quá trình đổi mới.........................................4
Chương 2..............................................................................................................6


NỘI DUNG ĐỔI MỚI ĐỒNG BỘ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ VÀ
THỰC TRẠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................................................6
2.1. Nội dung đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị.................................6
2.2. Thực trạng đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện
nay.....................................................................................................................8
Chương 3............................................................................................................14
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI ĐỒNG BỘ GIỮA KINH TẾ VÀ
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .........................................................14
3.1. Quan điểm mang tính định hướng của Đảng về đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị ở Việt Nam.................................................................................15
3.2. Một số giải pháp đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam
hiện nay...........................................................................................................15
3.2.1. Nhận thức đầy đủ về tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị...........................................................................................................15
3.2.2 .Giải quyết hiệu quả mối quan hệ đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và
chính trị...........................................................................................................16
3.2.3. Đồng bộ giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế chính là vấn đề
xây dựng Đảng về văn hóa..............................................................................17
KẾT LUẬN........................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................19


1

MỞ ĐẦU
Thực tiễn lịch sử cho thấy, mọi cuộc đổi mới đều bắt đầu trước hết từ
đổi mới tư duy, tiếp đó là đổi mới thể chế và cuối cùng là đổi mới tổ chức, bộ
máy, con người cho phù hợp với yêu cầu mới. Kinh tế và chính trị là hai mặt
trọng yếu nhất của đời sống xã hội; đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là
một trong những nội dung quan trọng nhất trong quá trình đối mới, phát triển

kinh tế và hội nhập quốc tế. Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội từ một nước có nền nơng nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, nước ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, khó khăn, phức
tạp với nhiệm vụ quan trọng là xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, điều kiện tiên quyết là phải có một nền kinh tế vững chắc, ổn
định dựa trên một thể chế chính trị tiến bộ, phù hợp.
Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong tám
mối quan hệ lớn được nêu trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011).
Tuy nhiên, vấn đề này được đặt ra ngay từ khi đất nước tiến hành cơng cuộc
đổi mới, trong đó trực tiếp và trước hết là đổi mới kinh tế. Đây cũng được coi
là một bước ngoặt lịch sử, một sự thay đổi căn bản, sâu sắc và toàn diện, cả về
nhận thức và hành động, để chuyển đất nước từ mơ hình phát triển cũ sang
mơ hình mới, là tiền đề quan trọng để đem lại thành quả to lớn và có ý nghĩa
lịch sử ngày hôm nay. Đổi mới đồng bộ kinh tế với chính trị ở Việt Nam hiện
nay là vấn đề lớn cần tổng kết, tiếp tục nghiên cứu, và có cách thức phù hợp.
Việc nghiên cứu vấn đề đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị nhằm giúp
chúng ta nhận thức rõ hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, thúc
đẩy sự phát triển nhanh chóng và bền vững của đất nước trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Vì vậy, tơi chọn đề tài “Đổi
mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu
luận kết thúc mơn Triết học Mác-Lênin của mình.


2

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
1.1. Khái niệm “kinh tế" và "chính trị"
"Kinh tế" là một phạm trù dùng để chỉ tổ hợp tất cả các quan hệ kinh tế

(quan hệ giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất) của một xã hội ở thời
điểm lịch sử xác định, để chỉ cơ sở kinh tế của xã hội. Trong tổ hợp tất cả các
quan hệ ấy thì quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trị quyết định,
chi phối các quan hệ kinh tế khác, như quan hệ tổ chức sản xuất xã hội, quan
hệ phân phối sản phẩm. Kinh tế là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi
của một chế độ xã hội, là nguồn gốc của mỗi biến đổi xã hội và những đảo lộn
chính trị. Đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay là đổi mới về tư duy lý luận về
kinh tế, đổi mới quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật kinh tế và hoạt
động chuyển đổi nền kinh tế.
"Chính trị" theo nghĩa chung nhất được hiểu như hoạt động liên quan
đến mối quan hệ giữa các nhóm xã hội lớn, trước hết là giữa các giai cấp, xét
rộng hơn nữa là quan hệ giữa các dân tộc, giữa các quốc gia trên thế giới. Xét
về thực chất, chính trị là quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã
hội, các quốc gia dân tộc, trong đó trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế trong
việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Chính trị là tồn bộ những
hoạt động có liên quan đến mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia,
các lực lượng xã hội xoay quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực
chính trị, mà cơ bản nhất là quyền lực nhà nước.
1.2. Chủ nghĩa Mác Lênin về quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị
Sự phát triển, bổ sung của V.I.Lênin vào quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen về vai trị của chính trị đối với kinh tế được thể hiện đặc biệt rõ
nét ở hai luận điểm kinh điển của Người: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung


3

của kinh tế" và "Chính trị khơng thể khơng chiếm địa vị hàng đầu so với kinh
tế".
Về luận điểm thứ nhất: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế".

Luận điểm này cần được hiểu như sau: Sự hình thành, tồn tại và phát triển của
chính trị là trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế, của
thực trạng kinh tế, của sự liên hệ những lợi ích kinh tế căn bản của các giai
cấp, tầng lớp khác nhau trong nền kinh tế. Chẳng hạn, phong trào cơng nhân,
cơng đồn, các đảng cộng sản... như là sự phản ánh trực tiếp vị trí, những lợi
ích cơ bản của giai cấp cơng nhân cơng nghiệp trong thời kỳ cách mạng công
nghiệp.
Về phương diện nhận thức, việc khẳng định sự ưu tiên của chính trị so
với kinh tế là đúng, hợp lý. Bởi vì, ưu tiên cho chính trị là ưu tiên cho những
vấn đề căn bản, quyết định đối với sự phát triển của bản thân kinh tế.
Về phương diện thực tiễn, giành, nắm quyền lực chính trị là điều kiện
cần, có ý nghĩa quyết định để giai cấp cách mạng triển khai xây dựng một chế
độ kinh tế - xã hội vì lợi ích của bản thân và những giai cấp, lực lượng xã hội
đồng minh với mình. Hơn thế, trong thực tế nếu khơng có một đường lối
chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất định không thể giữ vững được sự
thống nhất chính trị của mình và do vậy cũng khơng thể hồn thành được
nhiệm vụ kinh tế. Như Lênin đã khẳng định: "Khơng có một lập trường chính
trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, khơng thể nào giữ vững được sự
thống trị của mình và do đó, cũng khơng thể hồn thành được nhiệm vụ của
mình trong lĩnh vực sản xuất".
- Vai trò quy định của kinh tế được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, với tư cách nền tảng vật chất, cơ cấu kinh tế hiện thực của xã
hội, kinh tế sản sinh ra một kết cấu, thể chế chính trị tương ứng.
Thứ hai, xét đến cùng sự biến đổi căn bản trong kinh tế dẫn đến sự biến
đổi căn bản trong chính trị. Với sự biến đổi căn bản của kinh tế, thì trong


4

chính trị trước sau cũng diễn ra những biến đổi tương ứng. Khi trong kinh tế

chưa diễn ra những thay đổi căn bản thì trong lĩnh vực chính trị cũng khó xảy
ra biến động gì đáng kể.
Quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị cịn là sự tác động trở lại
của chính trị đối với kinh tế. Chủ nghĩa duy vật mác xít chỉ ra rằng, chính trị
nảy sinh trên nền tảng kinh tế, chịu sự quy định của kinh tế, song nó lại mang
tính độc lập tương đối. Chính trị khơng phải là sản phẩm thụ động của kinh tế
mà nó tác động trở lại rất mạnh đối với kinh tế. Trong hệ thống chính trị của
xã hội thì Nhà nước có vai trị đặc biệt quan trọng, quyết định sự hiện thực
hóa các tất yếu kinh tế, vì như Ph.Ăngghen chỉ rõ: "Bạo lực (nghĩa là quyền
lực nhà nước) cũng là một tiềm lực kinh tế".
1.3. Tính tất yếu và bản chất của q trình đổi mới
Sự nghiệp đổi mới đất nước là một tất yếu khách quan của cách mạng,
là vấn đề mang tầm chiến lược đối với cách mạng Việt Nam, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), lần thứ IX (2001) tiếp tục
khẳng định công cuộc đổi mới, khẳng định tính nhất quán của “Con đường đi
lên của Việt Nam là sự Nghị quyết Đại hội VI của Đảng nêu rõ: “Để tăng
cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi
mới nhiều mặt; đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức;
đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác” [6, tr.124],
Đại hội VII chỉ rõ: “Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải
tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của
nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến
hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế,


5


phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị” [7, tr.54].
Đại hội VIII chỉ ra những bài học kinh nghiệm quý báu: “Kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời đổi mới chính trị” [8, tr.71]. Đại hội IX khẳng định tiếp
tục quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới trên tất cả các mặt của đời sống xã
hội, coi đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Những thành tựu của đổi mới
kinh tế là điều kiện cơ bản để đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác
của đời sống xã hội. Đại hội lần thứ X nhấn mạnh: Đổi mới toàn diện, đồng
bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ
nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị đến tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Phát triển quan điểm đổi mới từ Đại hội VI đến
Đại hội XIII đã nhấn mạnh “đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo”.


6

Chương 2
NỘI DUNG ĐỔI MỚI ĐỒNG BỘ GIỮA KINH TẾ
VÀ CHÍNH TRỊ VÀ THỰC TRẠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Nội dung đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị
Về bản chất, kinh tế thị trường là hệ quả tất yếu của q trình xã hội
hóa các lực lượng sản xuất; là hệ thống các quan hệ kinh tế do nền sản xuất
hàng hóa tạo ra, có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực rất quan
trọng; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh
tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trị chủ yếu trong huy động và phân
bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng

sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược quy
hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trị định
hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch và lành mạnh. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
trong phát triển kinh tế - xã hội.
Năng suất lao động xã hội bình qn tăng đổi mới hệ thống chính trị đã
và đang được triển khai trên các nội dung chủ yếu:
Một là đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã
hội nói chung và các thành tố trong hệ thống chính trị nói riêng.
Hai là đổi mới hoạt động lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội.
Ba là đổi mới tổ chức, bộ máy và phương thức điều hành của Chính
phủ, gắn với cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia.
Bốn là đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Năm là đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị.
Bước vào giai đoạn phát triển mới, đổi mới hệ thống chính trị cần thực


7

hiện theo những nội dung: Phải tạo điều kiện chuyển biến nhận thức và thống
nhất nhận thức trong toàn Đảng, trong các cơ quan nhà nước, trong hệ thống
chính trị, nắm vững cơ sở khoa học của đổi mới từ đổi mới nhận thức phải
chuyển thành đổi mới trong tổ chức và hành động. Thực chất của đổi mới hệ
thống chính trị là dân chủ hóa đời sống của Đảng, của Nhà nước và của xã
hội. Điều đó phải gắn liền với thể chế hóa bằng pháp luật, dựa vào pháp luật.
Đảm bảo cho việc đổi mới luôn xuất phát với tinh thần trọng dân và trọng
pháp.
Trong các thành tố đó, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo về đường lối,
chủ trương chính sách ở tầm chiến lược, Nhà nước trực tiếp quản lý và điều

hành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tham gia phối hợp giám sát, kiểm tra,
tư vấn, phản biện chính trị xã hội, tạo ra được hệ thống dân chủ năng động,
hợp tác cộng đồng trách nhiệm, đồng thuận, phát triển nhằm mục đích ổn định
chính trị, phát triển văn hóa, xây dựng mơi trường xã hội lành mạnh, cộng
đồng đoàn kết, tăng cường pháp luật, đem lại lợi ích thiết thực cho người dân,
tạo bước chuyển biến tích cực trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí.
Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Đảng ta đã khởi
đầu bằng đổi mới toàn diện và sớm chú trọng giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Phải tập trung làm tốt đổi mới
kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm
và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, xem đây là một điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới chính trị.
Đồng thời đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và
năng lực sáng tạo của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.


8

2.2. Thực trạng đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị ở Việt
Nam hiện nay
Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong tám
mối quan hệ lớn được nêu trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011).
Tuy nhiên, vấn đề này được đặt ra ngay từ khi đất nước tiến hành cơng cuộc
đổi mới, trong đó trực tiếp và trước hết là đổi mới kinh tế. Đây cũng được coi
là một bước ngoặt lịch sử, một sự thay đổi căn bản, sâu sắc và toàn diện, cả về
nhận thức và hành động, để chuyển đất nước từ mơ hình phát triển cũ sang
mơ hình mới, là tiền đề quan trọng để đem lại thành quả to lớn và có ý nghĩa
lịch sử ngày hôm nay. Ở Việt Nam, đổi mới khơng có nghĩa là phủ định mọi

thành quả của đất nước đã đạt được, mà là sự kế thừa, “sửa chữa những sai
lầm, khuyết điểm”, tôn trong quy luật khách quan, đảm bảo cho đất nước phát
triển nhanh và bền vững theo mục tiêu đã lựa chọn. Văn kiện của Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định “Đổi mới tư duy khơng có nghĩa là phủ nhận những
thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác
định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”.
Về kinh tế, đó cũng là q trình đổi mới tư duy kinh tế, từ tư duy của
kinh tế hiện vật, bao cấp khép kín với tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí,
“càng cơng hữu nhiều, càng nhiều chủ nghĩa xã hội”, sang hệ thống quan
điểm phát triển mới, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đó cũng là quá trình khắc phục những sai lầm, khuyết điểm
của tư duy giáo điều, coi kinh tế thị trường đồng nhất với chủ nghĩa tư bản,
kinh tế kế hoạch đồng nhất với chủ nghĩa xã hội. Chuyển từ nền kinh tế bị
chia cắt, khép kín trong nước sang hội nhập quốc tế, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh của thời đại, tham gia sâu vào phân công lao động và hợp
tác quốc tế với tư cách là thành viên có trách nhiệm, đối tác tin cậy trong cộng


9

đồng quốc tế…
Đổi mới tư duy kinh tế ở Việt Nam cịn là q trình bổ sung, phát triển
vừa tuần tự kế thừa, vừa đi tắt đón đầu, tơn trọng quy luật khách quan, tiếp
tục hoàn thiện tư duy kinh tế, hình thành hệ thống các quan điểm kinh tế mới
phù hợp với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đổi mới kinh tế đòi hỏi phải thế chế hoá các chủ trương, quan điểm đổi
mới trong kinh tế thành luật pháp, cơ chế chính sách, đảm bảo cho nền kinh tế
vận hành trên nền tảng của thể chế phát triển mới.

Từ những tư tưởng đổi mới kinh tế của Đại hội VI của Đảng, nhiều cơ
chế, chính sách mới được ban hành, đảm bảo tính pháp lý cho quan hệ hàng
hoá- tiền tệ, các thành phần kinh tế được tồn tại và phát triển, bình đẳng trước
pháp luật với nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chuyển chức năng quản lý kinh tế của
Nhà nước, từ trực tiếp kinh doanh sang xây dựng thể chế, tạo môi trường, xây
dựng chiến lược, quy hoạch và kiểm tra giám sát, hạn chế tối đa can thiệp vào
thị trường.
Trải qua các thời kỳ, các quan điểm, thể chế phát triển kinh tế thị
trường tiếp tục được hoàn thiện, đến Đại hội IX, Đảng ta khẳng định, mơ hình
kinh tế tổng qt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khẳng định: “Mục đích của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản
xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống của nhân dân”.
Đổi mới kinh tế tiếp tục đi vào chiều sâu trong quá trình phát triển kinh
tế- xã hội ở Việt Nam, những vấn đề đã rõ tiếp tục được khẳng định, vấn đề
chưa rõ được nghiên cứu, bổ sung cả về lý luận và thực tiễn qua các nhiệm kỳ


10

sau này, nhất là các khoá XI, XII. Khẳng định, đó là nền kinh tế thị trường
hiện đại, hội nhập quốc tế, vừa tuân thủ các quy luật khách quan của thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình
thức sở hữu, trong đó vị trí của kinh tế tư nhân được xác định là một trong
những động lực quan trọng. Đó là nền kinh tế hội nhập sâu rộng với thế giới,

nhưng vẫn đảm bảo là nền kinh tế độc lập, tự chủ, phù hợp với các thơng lệ
quốc tế:” bảo đảm tính cơng khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong
xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát
triển kinh tế-xã hội”. Như vậy, quá trình đổi mới tư duy kinh tế, hồn thiện hệ
thống các quan điểm lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam được phát triển lên tầm cao mới. Đặc biệt, dự thảo Văn kiện
trình Đại hội XIII tiếp tục khẳng định:” Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại,
hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước nhằm mục tiêu” dân giầu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
Về đổi mới chính trị, trước hết được xác định là đổi mới tư duy về nền
tảng tư tưởng trên cơ sở kế thừa những giá trị cốt lõi về chủ nghĩa Mác-Lênin,
những vấn đề có tính ngun tắc về mơ hình chủ nghĩa xã hội; về cơ cấu tổ
chức, cơ chế vận hành hệ thống chính trị; về phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị; về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đổi mới việc xây dựng, vận hành nền
dân chủ, pháp quyền xã hội chủ nghĩa…Đây là vấn đề lớn, hệ trọng của đất
nước trong quá trình phát triển.
Từ khi Đảng ta ra đời cho đến nay, thể chế chính trị nước ta đã được tổ
chức chặt chẽ, thể hiện tính ưu việt của nền dân chủ mới, sự đoàn kết thống


11

nhất trong toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đất nước ta, dân tộc ta đã
đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, thống nhất non sông. Tuy nhiên, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới, đòi hỏi
phải đồng bộ, trong đó đổi mới chính trị cho phù hợp là hết sức quan trọng.

Trong nhiệm kỳ Đại hội VI của Đảng, tại Hội nghị Trung ương 6, lần đầu tiên
Đảng ta đề cập rõ nội hàm về hệ thống chính trị trong mối quan hệ thống nhất
của các thành tố: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị.
Theo đó, Hội nghị TW 7, khố VI, xác định: “Chế độ chính trị của chúng ta là
chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta
không chấp nhận chủ nghĩa đa ngun chính trị, khơng để cho các tổ chức
chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, khơng coi việc thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về
kinh tế”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã xác định mục tiêu tổng quát của hệ thống chính trị nước ta là nhằm
từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân; xác định trách nhiệm của Đảng phải liên hệ mật
thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật; xác định rõ lần đầu tiên về phương thức lãnh đạo của
Đảng trong giai đoạn mới, Đảng không làm thay Nhà nước.
Trong các nhiệm kỳ từ khoá VII, đến khoá X, tư duy mới về chính trị
tiếp tục được bổ sung và hồn thiện, thể chế chính trị nước ta từng bước đổi
mới cả phương diện lý luận và thực tiễn hoạt động. Trong điều kiện mới, hệ
thống xã hội chủ nghĩa ở Đông âu và Liên xô sụp đổ, trong nước công cuộc
đổi mới mới bắt đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành nhiều cách thức
nhằm chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; chống suy thối về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Đổi mới từng bước phương thức lãnh đạo của Đảng với đất
nước…Đồng thời, coi trọng đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà


12

nước, theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân; quyền lực nhà nước là thống nhất trên cơ sở có sự phân

công, phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, giữa các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Xác định rõ mọi quyền lực của Nhà nước đều
thuộc về nhân dân, trên nền tảng liên minh giai cấp..
Từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, nhất là các nước đi lên chủ nghĩa xã
hội, đổi mới chính trị, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị
trước hết phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền, theo
hướng khoa học, dân chủ và theo pháp luật, là điều kiện đảm bảo hiệu quả
lãnh đạo. Tiếp đó, phải tập trung xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền, tăng cường kỷ luật, kỷ cương gắn với mở rộng dân chủ trong Đảng và
toàn xã hội.
Trong q trình đó, đầu tiên và trước hết, đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng có vị trí hết sức quan trọng trong đổi mới chính trị. Các nhiệm
kỳ khoá XI, XII của Đảng tiếp tục làm rõ hơn phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị; tập trung sắp xếp, kiện tồn tổ chức bộ máy nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội. Dự thảo Báo cáo chính
trị trình Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ “Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh
đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả
các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Quy định cụ thể
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng đã chỉ ra, q trình đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải
giải quyết, đó là: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm
năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây,
kinh tế vĩ mơ có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục


13


hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế cịn thấp. “Tổ chức bộ máy của Đảng và tồn hệ thống
chính trị cịn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ
chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ
thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ,... Việc kiện toàn tổ chức, bộ
máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội gắn với tinh
giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức kết quả cịn
thấp. Số lượng cán bộ, công chức không những không giảm mà lại tăng...”. Vì
thế, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất
nước trong 5 năm tới là: “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi
phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”. Đến Đại hội XIII
của Đảng, Nghị quyết đã xác định định hướng phát triển đất nước giai đoạn
2021 – 2030 đó là “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ
giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị”. Từ thực tiễn thành tựu và những hạn chế trong đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị tác động đến sự phát triển của đất nước cho thấy, những kết
quả đạt được trong phát triển của đất nước là cơ bản, to lớn và có ý nghĩa lịch
sử, càng khẳng định con đường, mơ hình phát triển và những đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị của Việt Nam là đúng hướng; những hạn chế, thiếu sót
khuyết điểm khơng làm thay đổi bản chất, tính đúng đắn, ưu việt của chế độ
chính trị, nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng.


14

Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI ĐỒNG BỘ GIỮA KINH TẾ
VÀ CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm mang tính định hướng của Đảng về đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị ở Việt Nam

Khái niệm đổi mới được Đảng ta xác định là nhằm kế thừa và phát huy
những thành quả và giá trị mà chủ nghĩa xã hội đã đạt được, thay đổi, uốn nắn
những quan điểm, nhận thức về chủ nghĩa xã hội chưa được xác định đúng
hoặc hiện nay không phù hợp với tình hình mới, sửa chữa những sai lầm,
khuyết điểm, đồng thời xây dựng những chính sách đổi mới, những giải pháp
đúng, phù hợp với cuộc sống để dưa chủ nghĩa xã hội phát triển lên một giai
đoạn mới.
Trong thực hiện đổi mới đất nước, Đảng chủ trương “phải đổi mới tồn
diện, đồng bộ với bước đi thích hợp”. Đổi mới đồng bộ từ kinh tế, chính trị
đến tư tưởng và văn hoá; song trọng tâm là đổi mới kinh tế. Tuy nhiên, nội
dung cốt lõi của đổi mới toàn diện đất nước là trên cơ sở: “kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Đây là bài học vô cùn quý
giá đã được chứng minh trong suốt 35 năm đổi mới vừa qua và tiếp tục được
khẳng định, bổ dung theo tinh thần của Đại hội XIII, đó là “Tiếp tục nắm
vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát
triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị”, “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”.


15

3.2. Một số giải pháp đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị ở
Việt Nam hiện nay
3.2.1. Nhận thức đầy đủ về tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị
- Tính đồng bộ trước hết là tư duy, nhận thức cả đổi mới toàn diện tư
duy kinh tế lẫn đổi mới toàn diện tư duy chính trị. Chúng ta xác định trọng

điểm, điểm nhấn đột phá giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị là đổi mới chính trị trong khi vẫn tiếp tục phát triển
kinh tế, tăng trưởng kinh tế, đổi mới kinh tế để tạo ra tiềm lực vật chất cho xã
hội.
- Đồng bộ về thể chế. Thể chế ở đây là hệ thống luật pháp của Nhà
nước và những hệ thống quy định luật lệ trong Đảng. Điều lệ Đảng phải được
coi như bộ luật của Đảng. Nó quan trọng như Hiến pháp của Nhà nước, khi
đó đảng viên vừa phải tuân theo Hiến pháp với tư cách là công dân, vừa tuân
thủ Điều lệ Đảng với tư cách là đảng viên.
- Tính đồng bộ thể hiện ở chính sách, cơ chế và chế tài. Trong chính
sách là cả một hệ thống lớn: chính sách kinh tế, chính sách chính trị, chính
sách xã hội, chính sách văn hóa; chế tài khơng chỉ tồn tại ở đường lối chiến
lược, chế tài biểu hiện như một chính sách: chính sách chính trị, chính sách
cơng. Có cơ chế chính sách đúng, nhưng khơng đủ điều kiện thì khó có thể
giải quyết tốt được mối quan hệ đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế. Điều
kiện đó bao gồm cả điều kiện vật chất và điều kiện tinh thần, nhất là điều kiện
vật chất. Đã là điều kiện vật chất, phải tính đến phương thức phân bổ các
nguồn lực tài chính. Từ đó, làm cho các giải pháp khả năng thành giải pháp
hiện thực, làm cho tinh thần đổi mới, quyết sách chiến lược đổi mới đến hiện
thực đổi mới.


16

3.2.2. Giải quyết hiệu quả mối quan hệ đổi mới đồng bộ giữa kinh tế
và chính trị
- Về kinh tế, trên cơ sở tiếp tục đổi mới toàn diện về kinh tế để có một
cơ sở đúng đắn cho việc hoạch định chính sách, đường lối kinh tế phát triển:
Trước hết, củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Chủ đạo trên cơ sở
có thực lực, tự phát triển để có thực lực, để đủ sức cạnh tranh bình đẳng trên

thương trường; Tổ chức, sắp xếp lại kinh tế hợp tác, trong đó vấn đề nơng
nghiệp, nơng dân và nông thôn theo hướng kinh tế dịch vụ, hợp tác sản xuất
lớn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; Khuyến khích phát triển các loại hình
doanh nghiệp.
Tiếp tục đổi mới tư duy về kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế tư nhân, thực hiện liên kết kinh tế
nhà nước với kinh tế tư nhân để tăng nguồn lực đầu tư tập trung trọng điểm,
đồng thời khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải, chia cắt, lãng phí. Kinh tế
tư nhân liên kết với kinh tế nhà nước sẽ tạo thành thế và lực của nền kinh tế
để giải quyết các vấn đề về việc làm, đời sống, an sinh, phúc lợi xã hội,... mở
ra điều kiện và tạo động lực để thu hút các nhà đầu tư nước ngồi.
- Về chính trị, đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế,
trước hết là “Tiếp tục nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ lý luận
về Đảng cầm quyền”. Đây là vấn đề quan trọng nhất về chính trị hiện nay ở
Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam - đảng duy nhất cầm quyền. Vấn đề đặt
ra là cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực cần được bắt đầu từ trong Đảng
và đi liền với nó là dân chủ trong Đảng nhằm tạo ra một thói quen, một nhu
cầu biết lắng nghe ý kiến của dân từ cơ sở, tiếng nói của người dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ, quan chức, công chức bắt đầu từ cơ sở. Giải quyết
tốt các vấn đề về thực hành dân chủ, nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền
và kiểm soát quyền lực. Tháo gỡ được những vấn đề này sẽ thúc đẩy kinh tế


17

phát triển chứ khơng cản trở, thậm chí khơng làm tổn hại đến kinh tế và như
thế nhân dân được lợi từ đổi mới chính trị.
3.2.3. Đồng bộ giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế chính là
vấn đề xây dựng Đảng về văn hóa

Nhất là văn hóa của người lãnh đạo quản lý, văn hóa của người đứng
đầu, văn hóa của cấp ủy các cấp và khơng có cái văn hóa nào quan trọng hơn là
văn hóa ứng xử với dân, văn hóa chịu trách nhiệm trước dân, cả xin lỗi, từ chức
và tự xấu hổ.
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng tiếp tục triển khai quyết liệt
hơn, cụ thể hơn, rõ ràng hơn trong nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với 27 biểu hiện
cụ thể để cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng tự soi chiếu, rèn luyện phấn
đấu phòng, chống và khắc phục. Đây là bước tiến rất quan trọng về tính hợp
pháp, hợp lý và tính chính đáng của Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, đến lúc phải
nhấn mạnh xây dựng Đảng về văn hóa chứ khơng chỉ dừng lại ở đạo đức, mặc
dù đạo đức là cái cốt lõi của xã hội, nhưng trong văn hóa cịn có khoa học,
nghệ thuật. Trong văn kiện Đại hội XII cũng đã tiếp cận đến vấn đề văn hóa
khi chỉ ra: “Xây dựng văn hóa vào trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm
lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể;
coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh”. Đại hội XIII cũng chỉ rõ “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn
mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá
tốt đẹp của dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn
luyện, tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hàng ngày”.


18

KẾT LUẬN
Nhìn lại 35 năm qua, dưới ánh sáng của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực,
trước hết là đổi mới tư duy lý luận chính trị và tư duy kinh tế. Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước với những thành tựu quan

trọng, tạo nên thế và lực mới. Điều đó thể hiện sự thống nhất biện chứng
trong ổn định chính trị với phát triển kinh tế là nền tảng cho sự phát triển bền
vững của Việt Nam.
Hiện nay, cơng cuộc đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế đang thực sự
bước vào một giai đoạn mới, địi hỏi phải có những đột phá mới, phải đề ra
được những định hướng cụ thể nhằm đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Thực chất của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị đồng bộ là bảo đảm sự hài
hòa giữa kinh tế với chính trị làm sao kinh tế đóng vai trị thúc đẩy, tạo ra cơ
sở vật chất cho chính trị và chính trị đóng vai trị dẫn đường cho kinh tế, thúc
đẩy kinh tế phát triển, sự tương tác hài hòa. Đổi mới tư duy kinh tế và tư duy
chính trị đều cùng mục tiêu là tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững gắn với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mơi trường, mà mục đích cuối
cùng là dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, góp phần đưa
Việt Nam ngày càng phát triển trên trường quốc tế./.


19

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, H.2004, t.47, tr.460.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, H.2004, t.49, tr.745
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, H.2004, t.55, tr.312
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, H.2004, t.60, tr.181.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr.124.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.54.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H.1996, tr. 71, tr. 72, tr. 113
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001, tr.86-88.
10.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.99-100
11.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần
thứ XII, Hà Nội 2016, tr.104.
12.Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng
tại đại hội chi bộ, đảng bộ cơ sở), H, 2/2020, tr 19, tr.40.



×