Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Mở rộng và phát triển các hoạt động dịch vụ tại Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.18 KB, 84 trang )

Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính

Danh mục các chữ viết tắt, các ký hiệu
• CN : Chi nhánh.
• CBNV : Cán bộ nhân viên.
• ĐH : Đại học.
• GĐ : Giám Đốc.
• HBT : Hai Bà Trưng,
• KVII : Khu vực hai.
• NHCT : Ngân hàng công thương.
• NHTM : Ngân Hàng thương mại.
• NQ : Nghị quyết.
• TGĐ : Tổng giám đốc.
• TTCK : Thị trường chứng khoán.
• TNHH : Trách nhiệm hữu hạn.
• XNK : Xuất Nhập Khẩu.
• KH1 : Khách hàng 1
• KH2 : Khách hàng 2
• VNĐ : Việt Nam Đồng.
• SCK : Séc chuyển khoản.
• SBC : Séc bảo chi.
• UNT : Ủy nhiệm thu.
Đỗ Thanh Minh 1 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
Danh mục bảng biểu

Bảng 1: Hoạt động huy động vốn của ngân hàng 2003-2005…................…40
Bảng 2: Hoạt động tín dụng của ngân hàng 2003-2005………................….43
Bảng 3: Báo cáo tài chính 2003-2005…………………................…………45
Bảng 4: Danh mục phục vụ ngân hàng……………….................…………..46
Bảng 5: Doanh số thanh toán qua ngân hàng…………................………….48


Bảng 6: Thu từ dịch vụ chi trả hộ………………….................……………..49
Bảng 7: Thu từ dịch vụ thu hộ……………………….................…………...50
Bảng 8 : Thu từ dịch vụ chuyển tiền cá nhân trong nước…................……..51
Bảng 9: Quan hệ của chi nhánh với ngân hàng quốc tế…................……….54
Bảng 10: Thu từ dịch vụ chi trả kiều hối………….................……………...55
Bảng 11: Thu nhập từ dịch vụ bảo lãnh………………................………….57
Bảng 12: Doanh thu từ các dịch vụ……………………................…………58
Bảng 13: Thu từ dịch vụ so với tổng thu nhập................... ...........................59
Đỗ Thanh Minh 2 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế phát triển chung của xã hội, cùng với sự đi lên của khoa
học - kỹ thuật - công nghệ thì lĩnh vực Ngân hàng phải là lĩnh vực phát triển
hàng đầu của nền kinh tế, bởi lẽ nó là huyết mạnh của nền kinh tế. Nó đóng
vai trò trung gian tài chính vô cùng quan trọng giữa người gửi tiền và người
vay tiền. Đồng thời nó cũng là nơi cung cấp những dịch vụ mà nhờ đó thúc
đẩy sự lành mạnh hoá, năng động hoá các hoạt động và trao đổi nói chung.
Ngày nay công nghiệp Ngân hàng ngày càng mở rộng, không chỉ có
Ngân hàng trong nước, Ngân hàng liên doanh mà còn có những Ngân hàng
nước ngoài và các trung gian tài chính khác. Vì vậy sự cạnh tranh giữa các tổ
chức tín dụng ngày càng gay gắt, hoạt động Ngân hàng ngày càng sôi động.
Cho nên việc một Ngân hàng có thể tồn tại và thắng trong cạnh tranh không
chỉ đơn thuần là thực hiện các nghiệp vụ truyền thống (nhận tiền gửi, thanh
toán và cho vay) như trước đây, mà bản thân nó phải dần dần thay đổi và phát
triển các nghiệp vụ hiện tại để phù hợp với xu thế chung của thời đại và ngày
càng tiếp cận nhiều hơn với nhu cầu của khách hàng. Việc cung cấp các dịch
vụ với chất lượng cao là một trong những thành tố quan trọng nhất để quyết
định đến vị thế, uy tín của Ngân hàng, là cơ sở chủ yếu để thắt chặt mối quan
hệ giữa Ngân hàng và khách hàng và nó còn mang nhân tố quyết định đến khả
năng sinh lời của Ngân hàng. Các dịch vụ ngân hàng phát triển sẽ thúc đẩy

các nghiệp vụ truyền thống phát triển theo. Do đó việc thường xuyên duy trì,
cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng luôn là mối quan tâm hàng
đầu của hầu hết các Ngân hàng hiện đại và trở thành lợi thế cạnh tranh chủ
yếu để đưa đến sự thành công và phát triển của Ngân hàng trong điều kiện
Ngân hàng càng ngày càng đông đúc, với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Đối với các Ngân hàng Thương mại Việt Nam hiện nay bước đầu đã
hoà nhập vào kinh doanh theo cơ chế thị trường và đã có những cải tiến đáng
kể về dịch vụ Ngân hàng, trong đó có chi nhánh Ngân hàng Công thương Khu
Đỗ Thanh Minh 3 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
vực Hai Bà Trưng. Mặc dù loại hình dịch vụ cung cấp chưa phải là nhiều song
nó cũng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, nâng cao uy tín
Ngân hàng và đóng góp một phần không nhỏ vào thu nhập của Ngân hàng.
Qua quá trình nghiên cứu thực tế tại Ngân hàng Công thương Khu vực
II - Hai Bà Trưng, nhận thấy đây là một vấn đề có tính chất sống còn trong
hoạt động của một Ngân hàng Thương mại. Được sự ủng hộ giúp đỡ của
Banh lãnh đạo, tập thể cán bộ nhân viên đang làm việc tại chi nhánh, cùng sự
hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn Văn Nam, em xin đề cập tới một số
khía cạnh thuộc vấn đề nêu trên qua đề tài được chọn triển khai và nghiên cứu
" Mở rộng và phát triển các hoạt động dịch vụ tại Ngân hàng Công thương
khu vực II- Hai Bà Trưng”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm có 03 chương :
- Chương I : Ngân hàng thương mại và các dịch vụ của ngân hàng thương mại
- Chương II : Thực trạng hoạt động dich vụ tại Ngân hàng Công thương
Khu vựcII- Hai Bà Trưng.
- Chương III : Những giải pháp nhằm mở rộng và phát triển hoạt động dịch
vụ tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Khu vựcII- Hai Bà
Trưng.
Để hoàn thành bản luận văn này, em đã sử dụng phương pháp phân
tích, tổng hợp từ lý luận đến thực tiễn, kết hợp phương pháp duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu
Do thời gian và lĩnh vực nghiên cứu có hạn, bài viết này không tránh
khỏi những thiếu sót. Em kính mong sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các
thầy cô giáo và tập thể cán bộ nhân viên tại Ngân hàng Công thương Khu vực
II- Hai Bà Trưng.
Đỗ Thanh Minh 4 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
CHƯƠNG I
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC DỊCH VỤ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1- VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NÊN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1.1 - Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng là một lĩnh vực hoạt động không thể thiếu của mỗi quốc gia,
vì sự phát triển của hoạt động Ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền
kinh tế sản xuất xã hội và quyết định đến tiềm lực kinh tế của quốc gia đó. Có
thể nói. ngành ngân hàng ra đời là một sự kết tinh của nền sản xuất hàng hoá
nhưng ngược lại cũng chính ngành Ngân hàng lại là động lực rất lớn thúc đẩy
nền sản xuất xã hội phát triển.
Trong thời kỳ đầu, các Ngân hàng xuất hiện và hoạt động một cách
độc lập không chịu sự ràng buộc lẫn nhau, với các nghiệp vụ chủ yếu là đổi
tiền và giữ hộ tài sản, tiền bạc. Hoạt động này nhằm mục đích đáp ứng nhu
cầu phát triển thương mại và giao lưu thương mại. Sản xuất phát triển đưa
hoạt động thương mại vượt ra ngoài phạm vi mỗi lãnh thổ, mỗi vùng nhưng
điều này lại gây khó khăn cho các thương gia do sự lưu hành các loại tiền
khác nhau ở những vùng khác nhau. Và như vậy, các tổ chức Ngân hàng sơ
khai xuất hiện đảm bảo mọi yêu cầu cân thử, đổi tiền của người trao đổi. Vì
khi nền kinh tế phát triển, rủi ro trong nền kinh tế tăng lên, những người giầu
có nghĩ đến việc bảo quản tài sản và các ngân hàng sơ khai đã đảm nhiệm
dịch vụ. Lúc này Ngân hàng phải là nơi an toàn để cất giữ nhiều loại tiền tệ,

là nơi có khả năng đảm bảo chất lượng của các loại tiền được đưa ra trao đổi,
vì đó là nơi được dân chúng tin tưởng để ký gửi tài sản và tiền bạc của mình.
Theo đó nghiệp vụ giữ hộ của cải, thanh toán hộ dần dần phát triển. Trong
việc nhận giữ hộ tài sản trong thanh toán cho khách hàng, mặc dù việc thanh
toán được thực hiện rất thường xuyên nhưng trong quỹ luôn tồn tại một số dư.
Đỗ Thanh Minh 5 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
Vì vậy họ cho rằng không nhất thiết phải giữ lại 100% số tiền mà khách hàng
ký gửi và hoạt động Ngân hàng được mở rộng với nghiệp vụ chiết khấu và
cho vay, phát hành giấy bạc Ngân hàng....Như vậy Ngân hàng đã tác động
trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, với tư cách là một tổ chức trung gian cho
những người có tiền nhàn rỗi và những người cần tiền để đầu tư sản xuất kinh
doanh, Ngân hàng được chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế.
Hiện nay hệ thống Ngân hàng là hệ thống Ngân hàng hai cấp bao gồm:
- Hệ thống Ngân hàng Trung ương làm nhiệm vụ quản lý vĩ mô hoạt
động của toàn hệ thống Ngân hàng và đưa ra những quyết định, chính sách và
thực hiện nghiệp vụ phát hành tiền.
- Hệ thống Ngân hàng Thương mại với chức năng chủ yếu là kinh
doanh tiền tệ để thu lợi nhuận.
Ngân hàng Thương mại cùng với sự phát triển của công nghệ Ngân
hàng đã trở thành Ngân hàng đa năng, thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ về
Ngân hàng. Và cùng với sự phát triển của xã hội thì Ngân hàng Thương mại
trở thành một thực thể không thể thiếu được trong nền kinh tế, nó có vai trò
ngày càng quan trọng mà không ai có thể phủ nhận.
1.1.2 - Các hoạt động chính của Ngân hàng Thương mại
Trước hết là hoạt động nhận tiền gửi.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ hay nói cách
khác, trong hoạt động Ngân hàng thì tiền là một thứ nguyên liệu độc tôn. Một
Ngân hàng muốn tiến hành kinh doanh thì trước hết phải có nguồn vốn của
nó. Nguồn tiền mà Ngân hàng có được đó chính là nguồn tiền gửi từ các cá

nhân, các doanh nghiệp hay từ các tổ chức tín dụng khác. Những người gửi
tiền này có những mục đích khác nhau, có thể là họ tìm kiếm thu nhập từ hoạt
động gửi tiền, cũng có thể là sử dụng dịch vụ của Ngân hàng như bảo quản,
thanh toán hộ... Vì vậy, việc huy động tiền gửi nhiều hay ít tuỳ thuộc vào từng
thời kỳ khác nhau và phụ thuộc vào chính sách của Ngân hàng, các dịch vụ
Đỗ Thanh Minh 6 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
mà Ngân hàng cung cấp. Đây là hoạt động nền tảng để Ngân hàng có thể thực
hiện và phát triển những hoạt động kinh doanh khác của mình.
Tiếp đến là hoạt động tín dụng.
Ngân hàng huy động tiền về không phải để cất giữ trong túi của mình
mà để cho các tổ chức, cá nhân khác vay, phục vụ cho quá trình sản suất kinh
doanh, để tiền gửi có thể sinh lời và Ngân hàng được hưởng một phần khoản
lãi đó. Mặt khác, nếu như Ngân hàng không cho vay được thì lại là mối nguy
hiểm cho Ngân hàng, vì Ngân hàng không thu được gì mà vẫn trả lãi cho
người gửi tiền. Vì vậy, Ngân hàng không ngừng tìm kiếm các dự án hoạt
động có hiệu quả để đầu tư và cho vay.
Và các hoạt động dịch vụ khác.
Ngoài các nghiệp vụ truyền thống phát sinh từ lâu là nghiệp vụ nhận
tiền gửi và cho vay, Ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ thanh toán hộ nhằm
đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế. Vai trò trung gian thanh toán của
Ngân hàng Thương mại được thực hiện thông qua thanh toán bù trừ, qua hệ
thống thanh toán....Việc thanh toán này sẽ hạn chế lượng tiền mặt trong lưu
thông, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế phát triển hoàn thành tốt
chức năng của mình. Cùng với các dịch vụ thanh toán là các dịch vụ khác mà
các Ngân hàng không ngừng khai thác để mở rộng phạm vi kinh doanh của
mình.
1.1.3 - Vai trò của Ngân hàng Thương mại đối với sự phát triển của nền
kinh tế.
Trong thế giới hiện đại, tính đến thời điểm này thì Ngân hàng Thương

mại và cơ cấu hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng nhất trong thể chế tài
chính của mỗi nước. Để hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của Ngân hàng
Thương Mại đối với sự phát triển của nền kinh tế, ta cần phải nghiên cứu xem
Ngân hàng có những vai trò chủ yếu nào ?
Đỗ Thanh Minh 7 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
Thứ nhất : Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và nhà nước trong nền kinh tế, vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu
nhập quốc doanh và giảm nhịp độ tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân tức là
để mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng
hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có
vốn, ngược lại khi nền kinh tế càng phát triển sẽ tạo ra càng nhiều nguồn vốn.
Ngân hàng Thương mại là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất
kinh doanh. Ngân hàng Thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn
rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân. . .rồi đem cho vay. Bằng vốn
huy động được trong xã hội và thông qua nghiệp vụ tín dụng, Ngân hàng
Thương mại đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu
vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất, và nhờ có hoạt động của hệ
thống Ngân hàng Thương Mại, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản
xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả
kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh.
Thứ hai : Ngân hàng Thương mại là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô
nền kinh tế.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thương mại
hoạt động một cách có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của
mình sẽ thực sự là một công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng
hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng Thương mại trong hệ
thống các Ngân hàng Thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung
ứng trong lưu thông. Thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho các ngành

trong nền kinh tế Ngân hàng Thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng
tiền, tập hợp và phân phối trên thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu
quả, thực thi vai trò gián tiếp vĩ mô : "Nhà nước điều tiết Ngân hàng, Ngân
hàng dẫn dắt thị trường”. Nhà nước mà người đại diện là Ngân hàng Trung
Đỗ Thanh Minh 8 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
ương đã điều tiết hoạt động của các Ngân hàng Thương mại để tác động đến
các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế.
Thứ ba : Ngân hàng Thương mại là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với
Quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ
ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước
trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế
mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ
phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy nền tài chính của mỗi nước cũng
phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế. Ngân hàng Thương mại cùng với các
hoạt động kinh doanh của mình đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự
hoà nhập này, thông qua các hoạt động thanh toán buôn bán ngoại hối, quan
hệ tín dụng với các Ngân hàng Thương mại nước ngoài, hệ thống Ngân hàng
Thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết nền kinh tế tài chính trong nước phù
hợp với sự vận động của nền kinh tế quốc tế.
Ngân hàng Thương mại với các hoạt động và vai trò của mình, nhất là
hoạt động trung gian thanh toán nó đã trở thành một bộ phận quan trọng thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
1.2 - SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA VIỆC MỞ RỘNG VÀ
PHÁT TRIỂN CÁC HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ TẠI MỘT NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
Trong đà phát triển ngày càng tăng của công nghệ Ngân hàng thì các
nghiệp vụ Ngân hàng cổ truyền tỏ ra không còn thích hợp cho một thế giới
đang hoà nhập mạnh mẽ như ngày nay. Việc mở rộng lĩnh vực hoạt động, xây

dựng mô hình Ngân hàng hiện đại với các hình thức dịch vụ đa dạng đang là
hướng đi chung của tất cả các Ngân hàng phát triển trên thế giới nói chung và
các Ngân hàng Thương mại Việt Nam nói riêng.Vậy thế nào thì được quan
niệm là một Ngân hàng hiện đại. Trong thực tế, một Ngân hàng hiện đại là
một Ngân hàng hoạt động theo hướng đa năng- Ngân hàng đa năng là Ngân
Đỗ Thanh Minh 9 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
hàng hoạt động trong nhiều lĩnh vưc khác nhau và thực hiện hầu hết các
nghiệp vụ vốn có của Ngân hàng. Nếu như hoạt động của một Ngân hàng đơn
năng chỉ bó gọn trong một vài nghiệp vụ truyền thống của Ngân hàng thì với
độ chuyên môn hoá cao thì tầm hoạt động của Ngân hàng đa năng rộng lớn và
bao quát hơn nhiều. Đặc điểm nổi bật của các Ngân hàng hiện đại (Ngân hàng
đa năng) là dịch vụ chiếm tỷ lệ rất lớn trong hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng. Nó được coi là tiêu chí đánh giá sự phát triển của một Ngân hàng hiện
đại.
Với các thế mạnh của mình, mô hình Ngân hàng đa năng đã chứng tỏ là
xu hướng phát triển tất yếu của các nước trên thế giới trong quá trình mở rộng
và hiện đại hoá Ngân hàng. Qua đó ta thấy việc mở rộng và phát triển các loại
hình dịch vụ tại các Ngân hàng Thương mại là một tất yếu khách quan và cần
thiết bởi những tính ưu việt của nó, nó không chỉ giúp cho Ngân hàng đi theo
định hướng phát triển của các Ngân hàng phát triển trên thế giới đó là Ngân
hàng đa năng, mà còn đem lợi ích cho Ngân hàng, khách hàng của Ngân hàng
và nền kinh tế. Để chứng minh điều này, chúng ta hãy nhìn nhận một cách
khách quan của sự mở rộng các loại hình dịch vụ Ngân hàng từ những khía
cạnh sau:
1.2.1. Từ phía khách hàng.
Khi xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu của con người ngày càng
lớn, họ không chỉ dừng lại ở mong muốn "ăn no mặc ấm" mà họ còn đòi hỏi
được sử dụng các loại hình dịch vụ cao hơn ví dụ như: Phương tiện đi lại,
giao tiếp, trao đổi, buôn bán thông tin... Nhu cầu của con người chính là động

lực thúc đầy ý tưởng của các nhà kinh doanh, muốn kiếm lời phải thoả mãn
nhu cầu đó.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cũng như các
cá nhân muôn chuyên tâm vào sản xuất ra những sản phẩm mang tính cạnh
tranh cao, họ không muốn mất nhiều thời gian trong việc thanh toán với nhau
khi bán hàng vì:
Đỗ Thanh Minh 10 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
- Nếu tự các khách hàng thực hiện các dịch vụ ngoài sản xuất chính thì
sẽ có nguy cơ rủi ro cao, chi phí lớn, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh
doanh, vì vậy họ đến NH.
- Khi hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển thì mối quan hệ giữa các
doanh nghiệp thường là tin tưởng, chủ yếu các doanh nghiệp bán hàng trả
chậm. Do vậy họ cần đến NH thực hiện việc thu chi hộ cho họ.
- Các cơ quan đều có cơ quan đại diện tin tưởng trong việc là trung gian
thanh toán - đó là NH.
- Nếu họ chỉ chú tâm vào khâu thanh toán thì nguồn lực của họ sẽ bị
phân tán và mất rất nhiều thời gian, chi phí...
Do vậy nhu cầu thanh toán hộ của khách hàng là rất lớn và cần thiết.
Bên cạnh lĩnh vực thanh toán hộ thì còn có rất nhiều lĩnh vực khác mà khách
hàng có nhu cầu như: tư vấn, mong muốn có người đại diện đầu tư uỷ thác,
bảo quản, bảo lãnh, chuyển tiền... tất cả các loại hình dịch này đòi hỏi người
thực hiện chúng phải là những người được tin tưởng, những người hiểu biết
sâu rộng, thông tin cập nhật, trình độ chuyên môn cao, lành nghề... và trong
tất cả các loại hình doanh nghiệp thì chỉ có NH mới là doanh nghiệp có đủ
điều kiện thực hiện việc đó. Song trên thực tế thì NH mới chỉ dừng lại ở
những lĩnh vực cơ bản như nhận tiền gửi và thanh toán, còn các dịch vụ khác
vẫn còn "bỏ ngỏ". Trong khi đó lĩnh vực cơ bản mà NH đã thực hiện thì chưa
đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Mà một doanh nghiệp muốn
tồn tại thì phải thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Mặt khác

khách hàng nhờ NH cung cấp các dịch vụ cho họ thì bản thân khách hàng
cũng tăng được uy tín cho mình. Như vậy việc NH mở rộng các loại dịch vụ
cung cấp cho khách hàng và cần thiết và tất yếu khách quan.
1.2.2 Từ phía Ngân hàng.
Sự cần thiết của mở rộng và phát triển các loại hình dịch vụ Ngân hàng
xét từ góc độ Ngân hàng được thể hiện ở những điểm sau:
Đỗ Thanh Minh 11 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
- Trước hết : việc một Ngân hàng có thể đứng vững, tăng khả nămg
cạnh tranh của mình do việc đáp ứng tất cả các nhu cầu của khách hàng
thông qua những sản phẩm với tên gọi là " dịch vụ Ngân hàng " là một tất
yếu. Cũng như mọi qui luật của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là qui luật
hoạt động không phụ thuộc vào con người có nhận biết nó được hay không?
Có ưa thích nó hay không ? Hiện nay do sự phát triển không ngừng của Khoa
học - Công nghệ, sản xuất hàng hoá phát triển với qui mô hết sức rộng lớn,
nó không chỉ giới hạn ở đường ranh giới giữa quốc gia mà còn mở rộng ra
trên phạm vi toàn thế giới. Chính điều này làm cho cạnh tranh này ngày càng
quyết liệt và sâu rộng. cạnh tranh được coi là yếu tố nội tại của quá trình kinh
doanh và tiếp xúc với cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi.
Xét về "cảm quan" bên ngoài, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại khá bình lặng, chúng ta không thấy có sự cạnh tranh trực tiếp như
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc nghành kinh tế khác.
Nhưng trong thực tế, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng lại trong một môi
trường cạnh tranh gay gắt. Chính vì thế, việc đa dạng hoá các dịch vụ nhằm
đáp ứng nhu cầu cho tất cả khách hàng sẽ tạo cho Ngân hàng ưu thế nổi trội
để đứng vững trong cạnh tranh.
Hơn thế nữa, khách hàng luôn có xu hướng muốn duy trì quan hệ lâu
dài tin tưởng đối với một Ngân hàng. Do đó, họ muốn cho Ngân hàng nào có
khả năng cung cấp các tất cả các loại hình dịch vụ, sẵn sàng đáp ứng tất cả
nhu cầu đến với Ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện

nay, chiến lược khách hàng được đánh giá rất cao, các Ngân hàng phải tìm
cách thu hút khách hàng về phía mình. Do vậy, việc đa dạng hoá dịch vụ của
mình để đáp ứng nhu cầu cho tất cả mọi đối tượng là con đường hiệu quả nhất
để nâng cao sức mạnh cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại.
- Thứ hai là: Việc mở rộng và đa dạng hoá các dịch vụ còn mang ý
nghĩa quan trọng đó là tạo ra khả năng phân tán rủi ro của Ngân hàng trong
hoạt động của mình. Rủi ro được hiểu là những bất trắc xảy ra ngoài dự kiến
Đỗ Thanh Minh 12 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
của con người, nó mang lại những thiệt hại về kinh tế hay uy tín của doanh
nghiệp. Rủi ro là hiện tượng khó tránh khỏi trong quá trình kinh doanh, đặc
biệt trong một lĩnh vực phức tạp như hoạt động Ngân hàng. Tuy nhiên, với
các Ngân hàng khác nhau có các trạng thái rủi ro khác nhau nó phụ thuộc vào
nhận thức, dự đoán và các biện pháp phòng chống rủi ro của mỗi Ngân hàng.
Trong trường hợp này, nếu một ngân hàng tiến hành cung cấp nhiều loại hình
dịch vụ sẽ tỏ rõ ưu thế của mình trong việc khắc phục rủi ro. Vì nếu một lĩnh
vực gặp khó khăn thì Ngân hàng vẫn có thể phát triển ở các lĩnh vực khác, do
vậy rủi ro được phân tán ở mức độ thấp hơn và không gây cản trở trong quá
trình phát triển cuả Ngân hàng.
- Thứ ba là: Việc mở rộng cung cấp dịch vụ còn tạo ra một nguồn thu
nhập đáng kể cho Ngân hàng, ngoài ra nó còn tạo điều kiện để Ngân hàng
tiếp nhận ngày càng gần hơn nữa nền công nghệ hiện đại, khả năng tự động
hoá - hiện đại hoá ngày càng cao và nhanh chóng hoà nhập với xu thế chung
của nền tài chính thế giới .Thông thường khi thực hiện các dịch vụ Ngân hàng
không phải bỏ vốn nhưng lại thu được phí rất cao, vì vậy các Ngân hàng có
điều kiện nâng cao hiệu quả kinh doanh toàn diện.
- Thế mạnh cuối cùng không thể không nói đế của việc mở rộng và phát
triển các loại hình dịch vụ Ngân hàng là khả năng trực tiếp thực hiện các
nghiệp vụ của thị trường chứng khoán (TTCK). Thị trường chứng khoán là
một thị trường vốn hoạt động rất hiệu quả giúp cho quá trình sản xuất phát

triển. Một Ngân hàng hoạt động rất hiệu quả tất yếu sẽ không bỏ qua lĩnh vực
này. Ngân hàng sẽ trực tiếp tham gia vào thị trường chứng khoán thông qua
các dịch vụ như : Ký thác uỷ thác, tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng
khoán......Hệ thống Ngân hàng là cầu nối giữa người đầu tư với thị trường
chứng khoán. Người đầu tư có thể yêu cầu Ngân hàng mua bán hộ chứng
khoán cho mình. Bên cạnh việc thực hiện dịch vụ uỷ thác, các Ngân hàng
Thương mại với đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi về phân tích sẽ trở thành
người tư vấn cho khách hàng. Hiện nay ở Việt Nam thị trường chứng khoán là
Đỗ Thanh Minh 13 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
một trong những dịch vụ quan trọng của Ngân hàng Thương mại. Các hoạt
động này một mặt thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán, mặt khác đem
lại món lợi đáng kể cho Ngân hàng. Vậy Ngân hàng đã bổ sung thêm vào hoạt
động của mình một lĩnh vực hoạt động hiệu quả, đem lại thu nhập không nhỏ
nâng cao uy tín của mình thông qua các hình thức " tư vấn miễn phí" đây là
một biện pháp hữu hiệu để thực hiện " chiến lược khách hàng" của Ngân
hàng. Thực tế cho thấy bản thân các Ngân hàng Thương mại, thị trường
chứng khoán và các tổ chức tín dụng khác... là thành phần liên kết hữu cơ với
nhau trong một hệ thống tài chính thậm chí không tồn tại được nếu đứng tách
biệt. Việc tăng cường các dịch vụ có ý nghĩa kinh tế riêng trong hoạt động
NH nhưng nó còn có tác động đến các dịch vụ truyền thống của NH đó.
Qua phân tích trên, ta dễ thấy dịch vụ đóng vai trò rất quan trọng trong
hoạt động của một Ngân hàng Thương mại. Thực tế trên thế giới chỉ ra rằng
các Ngân hàng hiện đại, mà điển hình là hệ thống Ngân hàng Thương mại
Anh quốc, có từ 40-60% thu nhập là từ hoạt động dịch vụ Ngân hàng với các
hình thức đa dạng và chất lượng cao. Có thể nói số lượng và chất lượng dịch
vụ là tiêu chí đánh giá sự phát triển của một Ngân hàng. Do nhận thức được
các thế mạnh của các loại hình dịch vụ và tính phù hợp của nó trong điều kiện
nền kinh tế phát triển hiện nay, các Ngân hàng hiện đại đều khẳng định rằng
việc mở rộng và phát triển các hình thức dịch vụ Ngân hàng là một xu hướng

tất yếu để mở rộng và phát triển hoạt động của mình.
1.3 - CÁC HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
Nếu "Mảng" kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng Thương mại là hoạt
động mang lại thu nhập dưới hình thức các khoản "tiền lãi" thì "Mảng" dịch
vụ của Ngân hàng Thương mại lại là hoạt động mang lại thu nhập cho Ngân
hàng dưới hình thức các khoản "Phí". Trong công nghiệp Ngân hàng hiện đại,
việc tăng thu nhập bằng cách tăng các khoản thu "Phí" từ các dịch vụ cung
cấp cho khách hàng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Sở dĩ như vậy là vì ngày
nay các Ngân hàng tồn tại chủ yếu dưới hình thức Ngân hàng đa năng, ngoài
Đỗ Thanh Minh 14 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
thực hiện các nghiệp vụ chính còn mở rộng các hình thức dịch vụ khác nhau,
một mặt tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng, mặt khác nó phân tán rủi ro
trong hoạt động cả Ngân hàng nói chung.
Sau đây xin giới thiệu một số loại hình dịch vụ phổ biến của Ngân hàng
Thương mại.
1.3.1- Dịch vụ thu, chi hộ và chuyển tiền.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá đặc biệt là trong nền
kinh tế theo cơ chế thị trường, thì dịch vụ thu, chi hộ và chuyển tiền qua Ngân
hàng ngày càng mở rộng, cơ sở của nó là quan hệ giữa Ngân hàng với các tổ
chức và cá nhân ngay càng được cải thiện, tăng cường và trên nền gắn bó. Ở
các nước kinh tế phát triển mọi tổ chức và cá nhân đều có tài khoản ở các
Ngân hàng. Ngân hàng thưc sự trở thành người thủ quỹ tin cậy của toàn dân.
Tuy là các dịch vụ hết sức đơn giản và mang tính chất cổ truyền đối với
hoạt động ở bất cứ Ngân hàng nào. Nhưng càng ngày dịch vụ này càng được
thay đổi về chất, do sự áp dụng các thành tựu khoa học của các Ngân hàng
cùng với uy tín của Ngân hàng quyết định, dịch vụ này đã tạo ra cho Ngân
hàng những khoản thu không nhỏ.
a. Dịch vụ chi trả hộ
- Cơ sở hình thành dịch vụ :

+ Từ phía khách hàng : Khách hàng muốn sử dụng dịch vụ chi trả của
Ngân hàng, qua đó sẽ giảm được chi phí quản lý quỹ tiền mặt hình thành
trong quá trình kinh doanh. Nếu như các đơn vị kinh tế sau khi chuyển hàng
hoá cho nhau để thanh toán đòi hỏi có lượng tiền vốn. Để điều chuyển lượng
tiền lớn, doanh nghiệp phải bỏ ra rất nhiều chi phí như bảo quản, kiểm tra,
vận chuyển....Khi các doanh nghiệp thực hiện thanh toán qua Ngân hàng thì
những chi phí này sẽ giảm đi rất nhiều, mặt khác trong môi trường trao đổi
ngày nay khi mà các doanh nghiệp đều mở tài khoản tại Ngân hàng thì việc sử
dụng dịch vụ thanh toán hộ góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ
chu chuyển vốn và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, đồng thời tránh được
Đỗ Thanh Minh 15 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
những phiền toái trong thanh toán cũng như rủi ro chiếm dụng vốn, nợ dây
dưa, nhầm lẫn khi đếm tiền. Ngoài ra, việc chấp nhận sử dụng dịch vụ chi trả
hộ của Ngân hàng còn đem lại cho doanh nghiệp một khoản thu nhập từ số dư
trên tài khoản của mình và đảm bảo an toàn.
+ Từ phía Ngân hàng : Khi Ngân hàng sẵn sàng chấp nhận việc chi trả
hộ cho khách hàng, đó là điều kiện tiên quyết để cho Ngân hàng có được
nguồn tiền lớn. thực hiện cho vay và kiếm lời thông qua hoạt động cho vay.
Để có thể nhờ Ngân hàng chi trả hộ, khách hàng phải gửi một số tiền cho
Ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng một phần trong số này để cho vay
trong khi vẫn giữ lại một tỷ lệ hợp lý, đảm bảo cho thanh toán. Có thể nói,
đây là nguồn vốn rẻ nhất mà Ngân hàng có thể huy động. Ngoài ra, thông qua
việc thực hiện các dịch vụ thanh toán nhận theo dõi các tài khoản của khách
hàng, Ngân hàng biết được rõ hơn, kỹ càng hơn về tình hình hoạt động kinh
doanh, đánh giá chính xác khả năng tài chính của khách hàng, từ đó sẽ quyết
định chấp nhận hay không chấp nhận một khoản vay. Đồng thời Ngân hàng
có thể theo dõi sát sao quá trình giải ngân vốn vay, hay có kế hoạch đòi nợ
hợp lý, vừa đảm bảo thu hồi vốn và lãi cho Ngân hàng, vừa đảm bảo không
gây khó dễ cho khách hàng. Ngoài việc tạo vốn trong thanh toán, các Ngân

hàng có thể thu được phí từ dịch vụ này.
+ Từ nền kinh tế : Khi Ngân hàng thực hiện chi trả hộ thì việc chi trả
đó diễn ta trên sổ sách chứng từ hầu như không dùng đến tiền mặt. Vì vậy,
hầu hết lượng tiền đều nằm trong hệ thống Ngân hàng, chỉ còn một lượng rất
nhỏ trong lưu thông. Nó sẽ giúp cho chính phủ có thể quản lý được lượng tiền
trong lưu thông, có những chính sách tiền tệ thích hợp, linh hoạt trước sự biến
động của thị trường, cũng như góp phần vào thực thi triệt để những chính
sách này, giảm lạm phát, tạo môi trường kinh doanh ổn định cho các doanh
nghiệp trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời nó góp phần tiết
kiệm chi phí lưu thông, chi phí in ấn, phát hành, kiểm đếm, bảo quản tiền.
Chính phủ có thể kiểm soát được hoạt động sử dụng tiền (hoạt động chi tiêu)
Đỗ Thanh Minh 16 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
của các đơn vị kinh tế, từ đó phát hiện ra những điều bất hợp lý trong quá
trình chi tiêu, phát hiện được những khoản thu chi bất hợp pháp để có những
sửa đổi thích hợp. Thanh toán qua Ngân hàng làm tăng tốc độ luân chuyển
trong nền kinh tế và làm tăng hiệu quả sử dụng vốn
Như vậy, việc cung cấp dịch vụ chi trả hộ của Ngân hàng làm cho hoạt
động của Ngân hàng nói riêng và hoạt động kinh tế - xã hội nói chung diễn ra
nhanh chóng hơn, an toàn hơn, đảm bảo ổn định kinh tế xã hội.
+ Điều kiện để Ngân hàng có thể thực hiện dịch vụ.
Như chúng ta đã biết thanh toán tiền tệ (chi trả tiền tệ) là nghĩa vụ của
các đơn vị kinh tế trong mối quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá với nhau.
Việc chi trả tiền tệ trực tiếp đối với các đơn vị kinh tế có rất nhiều khó khăn.
Do đó, thay thế chi trả trực tiếp bằng chi trả gián tiếp thông qua Ngân hàng là
một thuận lợi rất lớn đối với doanh nghiệp cũng như Ngân hàng. Vậy để thực
hiện dịch vụ chi trả thì điều kiện đặt ra như thế nào đối với doanh nghiệp và
Ngân hàng.
+ Điều kiện đối với các đơn vị kinh tế:
Các đơn vị kinh tế muốn nhờ Ngân hàng chi trả hộ tiền thì điều kiện

đầu tiên là phải gửi tiền vào Ngân hàng, luôn có đủ tiền để thực hiện các lệnh
chi trả. Các đơn vị kinh tế có thể lựa chọn các hình thức thanh toán cho phù
hợp với nhu cầu chi trả của mình.
+ Điều kiện đối với Ngân hàng.
Do nhu cầu chi trả của khách hàng rất đa dạng, vì vậy, Ngân hàng
muốn thực hiện tốt vai trò trung gian trong thanh toán thì điều kiện đầu tiên là
phải thiết lập nên nhiều hình thức thanh toán, đáp ứng yêu cầu thanh toán đa
dạng của khách hàng.
Điều kiện thanh toán chính xác kịp thời, mọi sai lầm do Ngân hàng gây
ra ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế, Ngân hàng
phải có trách nhiệm bồi thường.
- Các loại hình dịch vụ chi trả hộ.
Đỗ Thanh Minh 17 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
+ Thanh toán bằng séc.
Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu do Ngân hàng
Nhà nước quy định, yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản
tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên séc hay người cầm
tờ séc đó. Về nguyên tắc, người phát hành chỉ được phát hành séc trong phạm
vi số dư tài khoản của mình hoặc số dư của sổ séc định mức đã lưu ký tại
Ngân hàng, kho bạc Nhà nước.
Có các loại séc sau:
- Séc chuyển khoản
- Séc bảo chi
- Séc định mức
- Séc cá nhân
* Séc chuyển khoản
Séc chuyển khoản là loại séc được sử dụng rộng rãi, nó có giá trị thanh
toán trực tiếp như tiền mặt, do đó, trên tờ séc phải có đầy đủ các yếu tố bắt
buộc theo luật định. Thông thường, séc được in sẵn, người phát hành séc chỉ

phải điền vào những chỗ quy định bằng mực không phai.
Việc ghi trên tờ séc phải đảm bảo tính hợp lệ và hợp pháp đối với việc
sử dụng séc. Hơn nữa, SCK cũng như tất cả các loại séc khác, chỉ có hiệu lực
trong phạm vi thời gian nhất định.
Phạm vi áp dụng của séc chuyển khoản là giữa các khách hàng có tài
khoản tại cùng một chi nhánh Ngân hàng, kho bạc Nhà nước hoặc khác chi
nhánh Ngân hàng, kho bạc nhà nước nhưng các chi nhánh này có tham gia
thanh toán bù trừ trên dịa bàn tỉnh, thành phố.
Ưu điểm của hình thức này là thủ tục, giấy tờ đơn giản vì chủ tài khoản
phát hành séc theo số dư của mình không phải qua Ngân hàng, kho bạc làm
thủ tục khác trước khi phát hành.
Nhược điểm:
Đỗ Thanh Minh 18 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
+ SCK có phạm vi thanh toán hẹp, chỉ thanh toán trên cùng một địa bàn
cùng một Ngân hàng, kho bạc.
+ Dễ xảy ra tình trạng phát hành séc qua số dư dẫn đến tình trạng
chiếm dụng vốn lẫn nhau gây ách tắc quá trình than toán
* Séc bảo chi
Séc bảo chi (SBC) là một loại séc thanh toán được Ngân hàng đảm bảo
khả năng chi trả bằng cách trích trước số tiền trên séc từ tài khoản tiền gửi của
người trả tiền sang tài khoản riêng nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho tờ
séc đó.
Séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn SCK. Ngoài việc được sử
dụng để thanh toán giữa các chủ thể mở tài khoản tại cùng một chi nhánh
Ngân hàng, tại hai chi nhánh Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trù trên địa
bàn tỉnh, thành phố thì séc bảo chi còn được sử dụng để thanh toán giữa các
khách hàng mở tài khoản trong cùng hệ thống trong cả nước.
Hình thức này có lợi cho người bán vì séc bảo chi do đã được ký quỹ
đảm bảo thanh toán nên đơn vị bán thu hồi được tiền khi giao hàng. Nhưng nó

lại có nhiều nhược điểm với người mua, vì người mua phải lưu ký tiền vào tờ
séc trong một thời gian nên bị ứ đọng vốn, vả lại thủ tục bảo chi phức tạp hơn
nhiều so với séc chuyển khoản
* Sổ séc định mức
Sổ séc định mức (SSĐM) là một quyển sổ bao gồm nhiều tờ séc chuyển
khoản, đựơc Ngân hàng đảm bảo chi trả không phải cho từng tờ séc như séc
bảo chi mà cho cả quyển séc trong phạm vi số tiền xác định trước.
SSĐM khắc phục nhược điểm của SCK, SBC là mỗi lần chỉ được phát
hành một tờ,vì vậy nếu trong cùng một thời gian ngắn có nhiều lần phát hành
sẽ phức tạp ngay lúc phát hành đơn vị mua đã kiểm tra được tính hợp pháp
của tờ séc, không chấp nhận những tờ séc phát hành quá số dư hiện có của
quyển séc. Khác với séc bảo chi, việc trả tiền của SSĐM hiện nay khi người
bán nộp tờ séc vào Ngân hàng, kho bạc phục vụ mình. Tuy nhiên nó có nhược
Đỗ Thanh Minh 19 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
điểm là ứ đọng vốn lâu ngày, làm chậm tốc độ luân chuyển vốn của đơn vị
mua. Pham vi áp dụng của nó chỉ được áp dụng thanh toán trong tỉnh thành
phố. Nếu ngoài thì phải cùng hệ thống. Mỗi sổ séc chỉ thanh toán cho một
hoặc nhiều người bán nhưng cùng một bộ chủ quản.
* Séc cá nhân
Séc cá nhân ( SCN) được áp dụng đối với khách hàng có tài khoản tiền
gửi đứng tên cá nhân tại Ngân hàng để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ và
các khoản thanh toán khác.
Séc cá nhân có phạm vi thanh toán giữa các chi nhánh Ngân hàng trong
cùng hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn tỉnh, thành
phố. Trường hợp séc cá nhân có số tiền trên 5 triệu động thì người phát hành
phải đến Ngân hàng (nơi mở tài khoản) để làm thủ tục bảo chi tờ séc.
Đây là hình thức thanh toán rất mới ở nước ta. Và chủ chương của
Ngân hàng Nhà nước VN là mở rộng và khuyến khích mọi cá nhân có tiền mở
tài khoản tiền gửi tại các Ngân hàng, trên cơ sở đó sử dụng séc cá nhân một

cách rộng rãi cho việc thanh toán trực tiếp các khoản mua hàng hoá, điện
nước, nhà, dịch vụ... mà không cần tiền mặt để thanh toán.
+ Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi (UNC)
* Uỷ nhiệm chi
Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản được lập theo mẫu in
sẵn của Ngân hàng, yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình ( nơi mở tài khoản tiền
gửi) trích tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng.
Uỷ nhiệm chi được sử dụng để thanh toán các khoản hàng hoá, dịch vụ
hoặc chuyển tiền giữa hai đơn vị tín nhiệm lẫn nhau. Phạm vi áp dụng của
hình thức này là giữa các đơn vị có tài khoản ở Ngân hàng trong cùng hệ
thống hoặc khác hệ thống Ngân hàng.
* Séc chuyển tiền (SCT)
Ngoài ra, đối với việc chuyển tiền khác địa phương có thể được thực
hiện thông qua việc lập uỷ nhiệm chi xin phát hành séc chuyển tiền (được
Đỗ Thanh Minh 20 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
giao cầm tay) . Khi có nhu cầu chuyển tiền bằng séc chuyển tiền, khách hàng
nộp vào Ngân hàng 3 liên uỷ nhiệm chi để trích tài khoản tiền gửi của mình
hoặc 2 liên giấy nộp tiền, giấy nộp ngân phiếu thanh toán.
Phạm vi áp dụng của séc chuyển tiền giữa hai Ngân hàng cùng hệ
thống hoặc khác hệ thống. Nếu khác hệ thống, phải làm thủ tục chuyển sang
Ngân hàng Nhà nước để Ngân hàng Nhà nước phát hành séc chuyển tiền. Khi
nhận được 3 liên uỷ nhiệm chi Ngân hàng trích tài khoản của đơn vị có nhu
cầu chuyển tiền đồng thời phát hành và giao cho khách hàng tờ séc sau khi đã
ghi nợ vào tài khoản đơn vị xin chuyển tiền. Hình thức chuyển tiền này khá
thuận tiện và an toàn ( trên séc chuyển tiền có ký hiệu mật). Hiện nay, hình
thức này được sử dụng khá rộng rãi tại các Ngân hàng. Chẳng hạn ở Đức, uỷ
nhiệm chi chiếm 60% tổng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt.
Ngoài ra còn có các hình thức khác như L/C, thẻ thanh toán.
b - Dịch vụ thu hộ

- Cơ sở hình thành dịch vụ thu hộ
+ Từ phía khách hàng
Trong quan hệ trao đổi mua bán không phải lúc nào người mua cũng trả
tiền trực tiếp hoặc viết thương phiếu cho người bán. Nhiều trường hợp, đối
với quan hệ quen biết thì người viết thương phiếu lại là người bán, hoặc trong
trường hợp người bán cần tiền nhưng người mua chưa trả thì người bán sẽ
nhờ Ngân hàng thu hộ tiền giúp cho người bán thuận tiện hơn trong việc tự
mình đi đòi và giúp cho nguồn vốn cuả doanh nghiệp quay vòng nhanh hơn.
+ Từ phía Ngân hàng
Một Ngân hàng thường có nhiều mối quan hệ giao dịch nối mạng với
nhiều Ngân hàng trong và ngoài khu vực. Do vậy việc Ngân hàng thu hộ tiền
cho khách hàng là dễ thực hiện và là một trong những nghiệp vụ trung gian
thanh toán. Một mặt Ngân hàng còn thu được khoản lệ phí, mặt khác Ngân
hàng có thể tận dụng được khoản vốn thông qua việc bù trừ phần chênh lệch
trong quá trình thanh toán giữa các Ngân hàng.
Đỗ Thanh Minh 21 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
Hầu hết tại các Ngân hàng, dịch vụ thu hộ được thực hiện thông qua
chứng từ uỷ nhiệm thu.
Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu (UNT)
UNT là hình thức bên bán lập chứng từ để đòi nợ bên mua những
khoản tiền hàng hoá đã giao hoặc dịch vụ đã cung cấp trên cơ sở hợp đồng
kinh tế hay đơn đặt hàng.
Phạm vi áp dụng của hình thức này là giữa các đơn vị mở tài khoản
trong một chi nhánh Ngân hàng hoặc các chi nhánh Ngân hàng trong cùng hệ
thống hoặc khác hệ thống. Bên mua và bên bán phải thống nhất thoả thuận
dùng hình thức thanh toán uỷ nhiệm thu, đồng thời phải thông báo bằng văn
bản cho Ngân hàng bên thụ hưởng để có căn cứ thực hiện uỷ nhiệm thu. Bên
bán lập giấy uỷ nhiệm thu theo mẫu của Ngân hàng, kèm theo hoá đơn, vận
đơn gửi tới Ngân hàng. Khi nhận được giấy uỷ nhiệm thu, Ngân hàng bên

mua phải trích tài khoản của bên mua để thanh toán trong một ngày làm việc.
Nếu bên mua không đủ tiền trả thì bên mua sẽ phải chịu một khoản tiền phạt.
c. Dịch vụ chuyển tiền.
Chuyển tiền là hình thức Ngân hàng đứng ra nhận chuyển tiền từ người
này, tổ chức này cho người khác, tổ chức khác hoặc chuyển từ vùng này đến
vùng khác. Khi thực hiện dịch vụ chuyển tiền này, NH thường trích nợ tài
khoản của khách hàng và sẽ ghi có vào tài khoản liên hàng đi. Việc chuyển
tiền có thể được thực hiện với một khách hàng cá nhân hay doanh nghiệp,
chuyển tiền trong nước hay trong phạm vị quốc tế. Việc chuyển tiền diễn ra
hết sức nhanh chóng, nó không phải là vận chuyển trực tiếp tiền mặt mà dưới
dạng các chứng từ. Dịch vụ chuyển tiền tạo điều kiện cho khách hàng thực
hiện các khoản thanh toán mà không cần mang đi mang lại một lượng lớn tiền
mặt. Thực hiện dịch vụ chuyển tiền NH sẽ thu được một khoản phí. Ngoài ra
NH còn có thể tận dụng được nguồn vốn trong quá trình chờ chi trả.
Ngoài chuyển tiền thanh toán giữa các tổ chức kinh tế trong quan hệ
giao dịch với nhau, những khách hàng sử dụng dịch vụ chuyển tiền khi họ cần
Đỗ Thanh Minh 22 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
chuyển một khối lượng tiền cho người bán hay cho nhân viên của họ đang đi
công tác để thuận tiện trong việc không phải mang theo một lượng tiền bên
mình. Việc chuyển tiền trong nước thường là đơn giản và dễ thực hiện, chỉ
cần việc chuyển tiền làm đơn yêu cầu NH thực hiện theo mẫu in sẵn và giao
phiếu chuyển tiền cho người được hưởng. Còn trong phạm vi quốc tế, việc
chuyển tiền thực sự được thực hiện bằng cách liên hệ với một NH đại lý ở
nước ngoài và NH này sẽ tiến hành trả tiền cho người được hưởng. Tiền được
chuyển đi có thể là đồng bản tệ hay ngoại tệ tuỳ theo yêu cầu của khách hàng.
Chi trả kiều hối thực chất là hình thức chuyển tiền cá nhân nhưng mang
tính chất quốc tế, là một mảng quan trọng trong lĩnh vực dịch vụ của NH. Về
cơ bản dịch vụ này được thực hiện trên cơ sở một cá nhân ở nước ngoài có
nhu cầu chuyển tiền cho thân nhân ở trong nước qua NH đại lý ở nước ngoài

về đến NH ở VN. Sở dĩ các NH làm được như vậy là vì hầu hết các NH trong
nước đều tham gia nối mạng với các NH đại lý ở nước ngoài. Đây là dịch vụ
khá phổ biến hiện nay, không chỉ có các NH thực hiện dich vụ này mà còn có
rất nhiều công ty cung cấp khác. Ở VN, chính phủ khuyến khích nguồn tiền
này nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ thu hút vốn kiều bào ở nước ngoài.
Dịch vụ chuyển tiền được thực hiện ở hầu hết các NH vì tính đơn giản,
nhanh chóng. Song mỗi NH lại quy định cho mỗi hình thức chuyển tiền lại
khác nhau.
1.3.2- Dịch vụ uỷ thác
a - Sự cần thiết để phát triển dịch vụ uỷ thác
- Từ phía nền kinh tế.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của xã hội và nền kinh tế về dịch
vụ uỷ thác ngày càng tăng. Sở dĩ như vậy là vì nền kinh tế phát triển thì có
nhiều việc mà một người, một nền kinh tế không thể tự làm lấy được mà cần
có sự hỗ trợ của nhiều người. Ví dụ như mộ cá nhân khi chết đi muốn thực
hiện di chúc chia tài sản cho người khác hay một cá nhân muốn nhờ Ngân
hàng đầu tư cho họ chứng khoán của công ty... Như vậy, nếu để một mình họ
Đỗ Thanh Minh 23 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
thì sẽ rất khó khăn và khả năng rất hạn chế. Do đó, họ muốn nhờ một tổ chức
có uy tín, kinh nghiệm, năng lực để thực hiện ý muốn của mình. Mặt khác bản
thân mối cá nhân thường gặp một "rào chắn" khi thực hiện dịch vụ nào đó là
thiếu thông tin vì vậy họ uỷ thác cho NH thực hiện.
- Từ phía Ngân hàng
Ngân hàng là một tổ chức có uy tín, với đội ngũ các bộ được chuyên
môn hoá cao và có kinh nghiệm, năng động, sáng tạo và trung thành thì việc
cung cấp dịch vụ uỷ thác hay đứng ra thực hiện những mong muốn của người
uỷ thác là việc hợp lý và có khả năng. Hơn nữa, khi Ngân hàng đứng ra cung
cấp dịch vụ uỷ thác, thì đây là một hướng để mở rộng hoạt động kinh doanh
cảu Ngân hàng. Mặt khác, khi thực hiện dịch vụ uỷ thác Ngân hàng nằm trong

tay tài sản của người uỷ thác, tạo ra một nguồn tiền gửi của Ngân hàng và
Ngân hàng có thể tiến hành cho vay từ nguồn tiền đó. Và điều quan trọng là
việc cung cấp dịch vụ uỷ thác làm cho uy tín, sự cạnh tranh của Ngân hàng
ngày càng tăng lên so với các Ngân hàng khác.
Trên thực tế, những người sử dụng dịch vụ này bao gồm các cá nhân,
các doanh nghiệp, các tổ chức từ thiện và các đơn vị chính quyền. Các tài sản
do phòng uỷ thác quản lý được tách riêng khỏi các tài sản và như vậy, các tài
sản uỷ thác không thể hiện trên bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng. Các dịch
vụ uỷ thác phức tạp mang tính kỹ thuật và tính pháp lý cao. Ở đây, chúng ta
chỉ nghiên cứu một số nét khái quát dưới góc độ các loại hình uỷ thác được
thực hiện với từng loại đối tượng khách hàng. Các NH làm tốt dịch vụ này vì
họ có trong tay một lượng thông tin lớn, điều này góp phần làm giảm phí khi
thực hiện cho khách hàng.
b. Các loại hình dịch vụ uỷ thác.
Từ nhiều năm nay, các Ngân hàng đã thực hiện việc quản lý tài sản và
quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Theo
đó, Ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô vốn họ
quản lý. Chức năng quản lý tài sản này được gọi là "dịch vụ uỷ thác". Hầu hết
Đỗ Thanh Minh 24 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B
Luận văn tốt nghiệp Ngân hàng – Tài chính
các Ngân hàng đều cung cấp cả hai loại dịch vụ đó là: uỷ thác cá nhân, hộ gia
đình và uỷ thác thương mại cho các doanh nghiệp.
- Các dịch vụ uỷ thác thực hiện đối với cá nhân
Đối với các cá nhân nội dung nghiệp vụ uỷ thác thường bao gồm việc
thanh lý tài sản, điều hành các tài sản được quản lý uỷ thác và dịch vụ đại
diện.
+ Thanh lý các tài sản.
Tài sản của người đã mất phải được chia theo pháp luật. Một số người
khi chết có thể để lại di chúc nói lên ý muốn của họ liên quan đến việc phân
chia tài sản. Trừ khi quy mô không đáng kể, các tài sản phải do người thực

hiện di chúc tiến hành hoặc người quản lý tài sản dưới sự hướng dẫn của toà
án. Trong di chúc của mình, người chết chỉ định người thực hiện các ý muốn
của họ thường là phòng uỷ thác của Ngân hàng Thương mại. Người phân chia
tài sản không có di chúc để lại được gọi là người quản lý tài sản và được toà
án chỉ định. Trách nhiệm này cũng có thể giao cho phòng uỷ thác của Ngân
hàng Thương mại. Nghĩa vụ cơ bản của một người quản lý tài sản hay thực
hiện di chúc là xin phép toà án để hành động, thu thập và bảo vệ các tích sản,
chi trả các chi phí điều hành và các khoản nợ, trả thuế phân phát tài sản ròng
và cung cấp các dịch vụ cá nhân cho các thành viên trong gia đình.
Mặt khác của dịch vụ thanh lý tài sản là các cá nhân có thể nhờ Ngân
hàng đứng ra thanh lý tài sản để thu tiền về. Trong hầu hết các trường hợp
thanh lý tài sản thì Ngân hàng và những bên liên quan đều phải đảm bảo chắc
chẵn là mình thực hiện đúng những quy định pháp lý về thanh lý tài sản.
+ Điều hành các tài sản được uỷ thác quản lý.
Một trong những chức năng quan trọng nhất được các phòng uỷ thác
của Ngân hàng Thương mại thực hiện là điều hành các tài sản được uỷ thác.
Uỷ thác nảy sinh từ một thoả thuận giữa người uỷ thác với người thụ thác và
bao gồm việc chuyển nhượng tài sản từ người khởi xướng hay người uỷ thác
sang cho người thụ thác để người này nắm giữ và điều hành tài sản vì lợi ích
Đỗ Thanh Minh 25 Tài Chính Doanh Nghiệp 44B

×