Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

KHOA HỌC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CỦA HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.85 KB, 24 trang )

MBTH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II

BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ TẬP TRUNG
K72. A144 (2021 – 2022)
TÊN MƠN HỌC:
KHOA HỌC LÃNH ĐẠO
TÊN BÀI THU HOẠCH:
XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
CỦA HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY

ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số

Bằng chữ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NHÂN CÁCH
NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO ................................................................................. 3
1.1.

Khái niệm nhân cách ..................................................................................... 3



1.2.

Khái niệm cán bộ lãnh đạo............................................................................ 3

1.3.

Khái niệm nhân cách người cán bộ lãnh đạo ................................................ 3

1.4.

Quan điểm Hồ Chí Minh về nhân cách người lãnh đạo ............................... 4

PHẦN 2: THỰC TRẠNG VỀ XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO TẠI HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI ............................... 11
2.1.

Một số nét khái quát về huyện Định Quán ................................................. 11

2.2.

Những kết quả đạt được và hạn chế trong xây dựng nhân cách người cán bộ

lãnh đạo ở huyện Định Quán ................................................................................ 12
PHẦN 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG NHÂN CÁCH
NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO TẠI HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI. 16
3.1.

Những yêu cầu về nhân cách người lãnh đạo tại huyện Định Quán trong


giai đoạn hiện nay ................................................................................................. 16
3.2.

Một số giải pháp cơ bản xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo huyện

Định Quán ............................................................................................................. 17
PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................. 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 22


1

PHẦN MỞ ĐẦU
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; chính vì vậy, Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm đến cơng tác đào tạo,
giáo dục, hướng tới hồn thiện nhân cách để họ thực sự trở thành những người lãnh
đạo, người đầy tớ của nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn lịch
sử.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Làm lãnh đạo cũng là một nghề,
phải rèn đức luyện tài, trong đó đức phải là gốc”! Người lãnh đạo, quản lý là một
trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, xây dựng một đội ngũ
cán bộ, lãnh đạo, quản lý “vừa hồng, vừa chuyên” là một trong những nhiệm vụ then
chốt trong cơng tác xây dựng Đảng. Vì thế phẩm chất, nhân cách và năng lực của
người lãnh đạo, quản lý giữ vai trò quan trọng.
Chuẩn mực đạo đức của người lãnh đạo được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ yếu nhất. Ra
sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỉ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính
sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích
riêng của cá nhân mình. Một lịng phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì nhân dân mà đấu
tranh qn mình, gương mẫu trong mọi cơng việc. Lãnh đạo là đầy tớ trung thành của

nhân dân.
Trước xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cơng cuộc xây dựng đất nước
hiện nay, nhất là việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa không chỉ mang lại cơ hội, điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mà còn tạo
ra những thách thức vô cùng to lớn trong việc tu dưỡng, rèn luyện nhân cách cho
người Việt Nam nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói riêng. Điều đó đang đặt ra
nhiều vấn đề bức xúc cả về lý luận và thực tiễn, địi hỏi phải có các giải pháp đúng
đắn và kịp thời. Chính vì thế, việc xây dựng nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo là yêu
cầu vừa cơ bản vừa cấp bách, bởi hình mẫu nhân cách người cán bộ lãnh đạo có tác
dụng giáo dục, nêu gương cho quần chúng noi theo trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội; là mục tiêu
và động lực của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
Với ý nghĩa đó, em đã chọn đề tài “Xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh
đạo của huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai hiện nay” để làm bài thu hoạch, góp
phần xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”, thiết thực xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai trò “vừa là người lãnh đạo vừa là người


2

đầy tớ thật trung thành của nhân dân” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh; để
họ xứng đáng với lòng tin, sự ủy thác của Tổ quốc và nhân dân, góp phần vào sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước ngày càng phát triển.


3

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NHÂN CÁCH
NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO

1.1. Khái niệm nhân cách
Nhân cách hiểu một cách đơn giản nhất là khi nhấn mạnh đến con người cùng
với đặc trưng hoạt động của nó, với tư cách là chủ thể của hoạt động. Theo tâm lý
học nói chung, nhân cách là tồn bộ những gì hợp thành một con người, một cá nhân
với bản sắc và cá tính rõ nét, với các đặc điểm thể chất, tài năng, phong cách, ý chí,
đạo đức, vai trị xã hội. Nhân cách chỉ được hình thành trong một cá nhân khi cá nhân
đó đã có ý thức về bản thân, đã tự khẳng định, giữ được phần nào tính nhất quán trong
mọi hành vi. Theo cách hiểu này, có thể thấy rằng, nhân cách là biểu hiện tập trung
cho tính chủ thể của con người. Chỉ với tư cách là chủ thể của hoạt động, con người
mới có nhân cách; và chỉ khi con người có nhân cách độc lập mới có thể trở thành
chủ thể đích thực. Xét theo ý nghĩa như vậy, con người muốn có nhân cách độc lập
thực sự, cần giữ tính tự chủ, tính năng động và tính sáng tạo của mình trong các mối
quan hệ với xã hội.
Như vậy, có thể hiểu: Nhân cách là cách thức làm Người, là những phẩm chất
mà cá nhân thu nhận được và biểu hiện ra trong hoạt động và giao tiếp với người
khác, với xã hội; phản ánh những giá trị xã hội của cá nhân đó trong cộng đồng.
Nhân cách chỉ hình thành trong giao tiếp xã hội, chịu ảnh hưởng từ các mối quan hệ
xã hội, đồng thời cũng có tác động ngược lại đến xã hội.
1.2. Khái niệm cán bộ lãnh đạo
Ở nước ta hiện nay, trên cơ sở hiểu lãnh đạo là những người đề ra chủ trương,
đường lối và tổ chức thực hiện chúng; đồng thời, lãnh đạo là hoạt động đặc trưng của
một loại hình cán bộ, có thể đi đến một định nghĩa về đối tượng này như sau: Cán bộ
lãnh đạo là những cán bộ giữ cương vị chủ chốt ở các cấp bậc khác nhau trong hệ
thống các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, có chức năng nhiệm
vụ đề ra đường lối, chính sách, chủ trương và tổ chức thực hiện chúng theo phạm vi
lãnh đạo của mình; đồng thời là người chỉ đạo, quản lý toàn diện tổ chức mà họ phụ
trách, đảm bảo cho tổ chức đó hồn thành tốt chức năng, nhiệm vụ chính trị được
phân cơng.
1.3. Khái niệm nhân cách người cán bộ lãnh đạo
Như đã nói ở trên, nhân cách vừa là chủ thể của các quan hệ xã hội vừa được

hình thành và biểu hiện ra bằng hoạt động và giao tiếp mà các quan hệ xã hội đã hòa


4

quyện vào trong đó. Người cán bộ lãnh đạo với cương vị, chức vụ, chức năng, vị thế...
của mình, có những quyền hạn, chuẩn mực, quy cách làm việc nhất định. Các hoạt
động của cá nhân người cán bộ lãnh đạo trong mối quan hệ với tổ chức, với nhân dân
và hiệu quả công việc mà họ đạt được trong việc đóng góp cho sự phát triển xã hội là
cơ sở để đánh giá nhân cách của người cán bộ lãnh đạo. Do đó: Nhân cách người cán
bộ lãnh đạo được hiểu là khái niệm chỉ những phẩm chất của cá nhân người cán bộ
lãnh đạo trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và giao tiếp với tổ chức, với cấp dưới,
với nhân dân, phản ánh những giá trị xã hội của người cán bộ lãnh đạo đó trong
cộng đồng.
1.4. Quan điểm Hồ Chí Minh về nhân cách người lãnh đạo
Nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở nước
ta hiện nay là sự tổng hòa các yếu tố về phẩm chất và năng lực, trong đó nổi lên là
vấn đề đạo đức. Việc rèn luyện nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý là một
nhiệm vụ then chốt, thường xuyên của công tác cán bộ. Trong điều kiện hiện nay, tư
tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để xây dựng nhân cách người cán
bộ lãnh đạo, quản lý, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng. Và theo tư tưởng của Người, nhân cách người lãnh đạo bao gồm các nội dung
sau:
1.4.1. Sự thống nhất biện chứng giữa đức và tài
Theo Hồ Chí Minh, cấu trúc nhân cách gồm: Đức và Tài. Người có đức mà
khơng có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà khơng có đức sẽ gây hại nước, hại
dân.
Đức là đạo đức cách mạng. Đức là “gốc”, nếu có tài mà khơng có đức là vơ
dụng, “có tài khơng có đức, tham ơ hủ hóa có hại cho nước".
Đức và tài phải được biểu hiện trên kết quả công tác và phải luôn thống nhất,

gắn bó chặt chẽ với nhau trong nhân cách người cán bộ cách mạng.
1.4.2. Đạo đức của người lãnh đạo
Đạo đức là gốc của nhân cách, cán bộ phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì
tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân.
Hồ Chí Minh chỉ ra căn bệnh thường mắc phải của cán bộ là chủ nghĩa cá nhân:
8 biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân: tham lam; lười biếng; kiêu ngạo; hiếu danh;
thiếu kỷ luật, óc hẹp hịi, óc địa phương, óc lãnh tụ.
7 bệnh khác: hữu danh, vô thực; kéo bè kéo cánh; bệnh cận thị; bệnh cá nhân;
lười biếng; tị nạnh xu nịnh, a dua.


5

Đạo đức cách mạng của người lãnh đạo bao gồm: Suốt đời đấu tranh cho dân
tộc và Tổ quốc; Đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết và trước tiên: “Dĩ công vi
thượng”; Hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật; Nêu gương tốt cho quần chúng; Gần gũi,
học hỏi quần chúng và phải lãnh đạo quần chúng. Khơng theo đi quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trước hết
biểu hiện ở lòng "trung với nước, hiếu với dân". Người coi trung với nước, hiếu với
dân là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất của đạo đức cách mạng và là một
yếu tố cơ bản của nhân cách người cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, trung với nước là dám xả thân vì nền độc lập, tự do của Tổ
quốc, dẫu biết rằng đi làm cách mạng thì có thể bị tù đày, lên máy chém, ra pháp
trường. Ngày nay, trong hịa bình xây dựng, những điều kiện ấy khơng cịn, nhưng
những thử thách khơng kém phần nghiệt ngã vẫn cịn đó đối với người cán bộ lãnh
đạo, quản lý. Một số người khơng hy sinh bởi mũi tên, hịn đạn trong cuộc chiến đấu
khốc liệt để bảo vệ Tổ quốc, nhưng trong hịa bình xây dựng lại bị "chết" bởi những
“viên đạn bọc đường”, sa vào tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu - những căn
bệnh mà Hồ Chí Minh coi là "giặc nội xâm", thứ giặc ở trong lịng, nguy hiểm hơn
cả giặc ngoại xâm.

Trong bất cứ hồn cảnh nào, trung với nước là phải đặt quyền lợi của Tổ quốc,
của Đảng lên trên hết, trước hết. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý là người giữ trọng
trách trong bộ máy của hệ thống chính trị càng cần có đức tính hy sinh cho lợi ích của
Đảng, của Tổ quốc. Điều này càng đặc biệt quan trọng trong cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, khi các lợi ích đặt ra cho mọi người, trong đó có lợi ích cá
nhân trong mối quan hệ với lợi ích của tập thể và lợi ích của Tổ quốc. Hồ Chí Minh
cho rằng, khơng có chế độ nào tơn trọng con người, chú ý đến lợi ích cá nhân đúng
đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa; rằng những cán bộ, đảng viên cũng như bao con người khác, cũng có những
nhu cầu chính đáng về cuộc sống vật chất và tinh thần, nhưng có khác là ở chỗ khi
cần, sẵn sàng hy sinh quyền lợi của cá nhân mình, của gia đình mình cho lợi ích tối
thượng của Đảng, của Tổ quốc. Trong lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, có lợi ích của
cá nhân mình. Hồ Chí Minh cịn nói rằng, vào Đảng là tự nguyện; nếu vào Đảng mà
sợ hy sinh thì đừng vào Đảng hoặc khoan hẵng vào, để khi nào rèn được đức tính hy
sinh rồi hãy vào. Mọi người, kể cả những cán bộ lãnh đạo, quản lý được khuyến khích
làm giàu, nhưng đó là làm giàu chính đáng, chứ khơng phải làm giàu với bất cứ giá


6

nào, làm giàu bất chấp đạo lý, làm giàu bằng tham nhũng, dùng mọi biện pháp, lúc
trắng trợn, lúc tinh vi, chiếm đoạt của công làm của riêng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý càng phải
gần dân, hiểu dân, vì dân, thực hiện đúng quan điểm của Hồ Chí Minh: Đảng, Chính
phủ, cán bộ, đảng viên là công bộc của dân, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân. Sức mạnh của Đảng, của cả hệ thống chính trị; trí
tuệ và xung lực của người cán bộ lãnh đạo, quản lý là lấy từ nơi dân, cho nên dân
luôn luôn là gốc của cách mạng, đúng như Hồ Chí Minh đã nêu. Chúng ta khơng thể
chấp nhận tình trạng hiện nay ở khơng ít nơi, khơng ít người trong bộ máy của hệ
thống chính trị xa dân, không tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, mị dân, theo

đuôi quần chúng. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải ln thấm nhuần quan điểm
của Hồ Chí Minh: việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố làm; việc gì có hại cho dân
dù nhỏ cũng cố tránh; phải làm cho dân giác ngộ; chớ có "vác mặt quan cách mạng"
để "đè đầu cưỡi cổ nhân dân"; đừng có tưởng cứ "dán lên trán hai chữ cộng sản" là
dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục mà phải thực sự yêu dân, kính dân. Hồ Chí Minh
cho rằng, hiếu với dân còn bao hàm cả hiếu với cha mẹ, có tình u thương trong gia
đình, nghĩa là có một “đời tư trong sáng”. Trong khái niệm "nhân cách" của một con
người, thường người ta hiểu có điểm nhấn về mặt này nhiều hơn. Đứng trước dân,
đang ở vị trí lãnh đạo, quản lý mà người cán bộ, đảng viên nêu gương xấu, gương mờ
trong đời tư thì tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng khơng lãnh đạo, quản lý được ai một
cách thực chất; nói khơng ai nghe, làm không ai theo, là đạo đức giả, gây phản cảm.
Đúng như Hồ Chí Minh quan niệm: ở phương Đơng và ở Việt Nam, một tấm gương
sáng cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Hiếu với dân không ở đâu
xa, mà trước hết chính ngay ở trong gia đình, họ tộc, xóm giềng của bản thân người
cán bộ lãnh đạo, quản lý đó.
1.4.3. Tài của người lãnh đạo
Nếu người lãnh đạo chỉ có tài mà khơng có đức cũng rất nguy hiểm. Chủ tịch
Hồ Chí Minh coi đức là gốc rễ. Sự vơ cảm của người lãnh đạo, quản lý cũng tức là
mối hiểm họa với tổ chức, với người dân. Có đức sẽ khiến người lãnh đạo, quản lý
biết hy sinh, có trách nhiệm xã hội, biết hướng tới lợi ích cộng đồng, biết sẻ chia, cảm
thơng, biết khích lệ, động viên… Khi người lãnh đạo, quản lý vì lợi ích cá nhân, lợi
ích nhóm mà bất chấp cả sự an tồn, ổn định, phát triển của tổ chức, của cộng đồng
thì đó thực sự là mối họa cho dân, cho nước.


7

Theo Hồ Chí Minh, tài của người lãnh đạo được thể hiện trên các phương diện
sau: Tầm nhìn; Năng lực tư duy; Năng lực dự báo; Năng lực ra quyết định; Năng lực
tổ chức, huấn luyện và sử dụng cán bộ; Năng lực vận động nhân dân; Năng lực diễn

đạt để quần chúng hiểu.
Những chuẩn mực về năng lực lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo với cương vị là
người đứng đầu bao gồm: Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng; Phải tổ chức thi hành
cho đúng; Phải tổ chức sự kiểm soát cho đúng.
Người lãnh đạo là người đứng đầu phải có ba năng lực cơ bản:
- Năng lực ra quyết định trên mọi vấn đề cho đúng.
- Năng lực tổ chức thực hiện quyết định thành công.
- Năng lực tổ chức kiểm soát việc thi hành các quyết định đã được đề ra.
Đó là ba chuẩn mực về năng lực của người lãnh đạo với vị trí là người đứng
đầu và những chuẩn mực năng lực này biểu thị sự vượt trội, sự khác biệt của họ so
với người không phải là người lãnh đạo.
1.4.4. Giáo dục, rèn luyện nhân cách
Muốn giữ vững nhân cách, luôn thực hành phải: cần, kiệm, liêm, chính.
Cần, theo quan điểm của Hồ Chí Minh có hai nội dung cơ bản: ngồi việc đòi
hỏi người cán bộ phải cần cù, siêng năng, chịu khó, biết vượt qua khó khăn, gian khổ
để làm việc, còn là yêu cầu tăng năng suất lao động. Đây là một quan điểm hợp với
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khi coi năng suất lao động chính là một điều
kiện cốt yếu để chủ nghĩa xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư bản. Năng suất lao động
của mỗi cá nhân là điều kiện để tạo thành năng suất lao động xã hội. Đức tính "cần"
của người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay là phải chú ý tới hiệu quả, chất lượng
cơng tác, khơng có gì là trừu tượng, mà phải đo được bằng kết quả cụ thể của từng
người, từng ngành, từng địa phương, từng đơn vị.
Kiệm, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là tiết kiệm. Đáng chú ý là tình
trạng lãng phí ở nước ta hiện nay diễn ra khá nặng và đang có chiều hướng nghiêm
trọng hơn. Có một điều nghịch lý rằng, nước ta còn nghèo nhưng còn lãng phí, do đó
khơng dành được nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển. Hồ Chí Minh chỉ rõ: cần phải
đi đơi với kiệm; cần mà khơng kiệm thì tiền như “gió vào nhà trống”. Hiện nay, lãng
phí biểu hiện ở nhiều mặt: lãng phí tiền của trong đầu tư; lãng phí trong chi tiêu (cả
ở phạm vi cá nhân, tập thể và ngân sách Nhà nước); lãng phí thì giờ, v.v. Điều đáng
chú ý nhất, đáng nhấn mạnh nhất trong quan điểm này của Hồ Chí Minh là ở chỗ,

kiệm khơng có nghĩa là bủn xỉn, mà là việc gì đáng chi thì phải chi, việc gì chưa đáng


8

chi thì khoan hẵng chi, việc gì khơng đáng chi thì dứt khốt khơng chi. Đây chính là
bài học cơ bản nhất, lâu dài nhất, cần phải học cả đời người, đối với mọi đối tượng,
từ con người bình thường và càng đặc biệt hơn đối với người cán bộ lãnh đạo, quản
lý. Đành rằng tiết kiệm ngày nay khác với sinh thời của Hồ Chí Minh; lúc đó đời sống
cịn rất nhiều khó khăn. Ngày nay, đời sống đã được cải thiện đáng kể so với trước
đây, nhưng những nội dung cơ bản mà Hồ Chí Minh nêu ra trên đây còn nguyên giá
trị, kể cả sau này khi nước ta đã trở nên giàu có, mỗi người, mỗi gia đình đều khá giả
hơn. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người nắm quyền, nắm tiền (có người
vừa nắm tiền vừa nắm quyền), nếu không chịu rèn luyện đức tính tiết kiệm theo quan
điểm và tấm gương của Hồ Chí Minh thì rất dễ bị tha hóa về nhân cách.
Liêm, Hồ Chí Minh coi đức "liêm" của con người ta là điểm để phân biệt con
người với con vật. Liêm là liêm khiết, là trong sạch, không tham ơ, tham lam. Rõ
ràng, đức tính liêm khiết là một biểu hiện rất rõ của nhân cách con người. Trong hoàn
cảnh hiện nay, người cán bộ lãnh đạo, quản lý khơng những cần rèn cho mình đức
tính khơng tham lam, khơng tham nhũng mà cịn phải đấu tranh khơng khoan nhượng
chống lại những biểu hiện tham nhũng. Hồ Chí Minh gọi tham ơ, lãng phí, quan liêu
với đúng nghĩa của nó là "giặc nội xâm". Ở đây, chúng ta cần chú ý cách gọi của
Người; nếu coi tham nhũng là "nạn" hay mạnh hơn là "quốc nạn", thì phải dùng
phương pháp chống nạn, quốc nạn; cịn đã gọi đó là giặc thì phải dùng phương pháp
chống giặc. Điều đáng chú ý nữa trong vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn
đề này là phải đề phịng và khắc phục bệnh tham danh vọng, địa vị. Trong thực tế, đã
có khơng ít người tìm mọi cách "hạ bệ" nhau, nói xấu nhau, kèn cựa, níu kéo nhau,
nịnh bợ, cơ hội,... trong công tác cán bộ, công tác nhân sự để kiếm chác chức vụ. Nếu
có chí tiến thủ, bằng tài năng và đức độ phấn đấu đạt được chức vụ cao một cách
chính đáng để phục vụ Đảng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân thì đó là điều đáng

mừng, nó tơ đẹp thêm cho nhân cách của con người. Còn ngược lại, bằng những biện
pháp, thủ đoạn khơng chính đáng để có được chức vụ này nọ thì đó là điều đáng báo
động về nhân cách.
Chính, theo quan điểm của Hồ Chí Minh là khơng tà, là thẳng thắn; việc thiện
dù nhỏ cũng cố làm, việc ác dù nhỏ cũng cố tránh. Rèn luyện đức tính "chính" theo
quan điểm của Hồ Chí Minh cũng có nghĩa là người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có
thái độ rõ ràng, trong cuộc sống và công tác luôn yêu cái thiện, ghét cái ác; luôn hành
động, làm gương cho mọi người. Điều này đúng như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:


9

"Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình khơng chính mà
muốn người khác chính là vơ lý".
Chí cơng vơ tư là một đức tính nữa của nhân cách người cán bộ, đảng viên mà
Hồ Chí Minh đề cập. Chí cơng vơ tư là chống chủ nghĩa cá nhân - một thứ bệnh mà
Hồ Chí Minh cho đó là "bệnh mẹ" đẻ ra mn vàn "bệnh con". Người chỉ ra tác hại
của chủ nghĩa cá nhân, như: việc gì cũng nghĩ đến cá nhân trước; ngại gian khổ, khó
khăn; tham ơ, lãng phí, xa hoa; tham danh, trục lợi; thích địa vị, quyền hành; tự cao,
tự đại; coi khinh quần chúng; độc đoán, chuyên quyền, coi thường tập thể; quan liêu,
mệnh lệnh; kém tinh thần trách nhiệm; khơng chấp hành chính sách của Đảng và Nhà
nước... Rèn đức tính này theo gương Hồ Chí Minh, cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay
phải ln có ý thức và hành động chăm lo đến lợi ích của Đảng, của Tổ quốc; phải
"dĩ công vi thượng"; phải coi chức vụ, quyền hạn của mình trong bộ máy của hệ thống
chính trị là do dân trao cho và phải ln ln phục vụ nhân dân... Bản thân Hồ Chí
Minh coi chức Chủ tịch nước của mình là do dân uỷ thác và mình phải có bổn phận
làm trịn cái sự uỷ thác đó. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân. Và, trong điều kiện hiện
nay, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải vừa tôn trọng tập thể, bảo đảm dân chủ trong
công việc, vừa dám làm, dám chịu trách nhiệm, có tính quyết đốn vì cơng việc hơn

lúc nào hết.
Như vậy bản thân mỗi người lãnh đạo cần tích cực rèn luyện bản thân, rèn
luyện ý chí, tích cực học để làm việc, làm người, làm cán bộ.
Rèn luyện nhân cách phải gắn với mục đích, biện pháp và hành động thiết thực
“Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành.
Học với hành phải kết hợp với nhau”,…
Rèn luyện nhân cách phải gắn chặt giữa rèn luyện đạo đức cách mạng với rèn
luyện tri thức.
Bên cạnh đó, nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý địi hỏi phải thường
xun nói đi đơi với làm, trở thành tấm gương sáng cho những người xung quanh noi
theo. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng khơng phải cứ tự nhiên có được, mà
phải là kết quả của sự rèn luyện tự giác, thường xuyên, suốt đời, như “ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Tự giác, tự nguyện, tự tu dưỡng, bồi dưỡng
nhân cách phải trở thành nếp sống hằng ngày của người cán bộ. Đã đành, người cán
bộ sống trong môi trường giáo dục của tập thể, nhưng cái chính vẫn là tự mình, như
Hồ Chí Minh thường hay đề cập, người cán bộ phải thường xuyên xử lý ba mối quan


10

hệ: đối với người, đối với việc và đối với bản thân mình, trong đó tự mình xử lý với
chính mình là điều quan trọng nhất và khó nhất. Hồ Chí Minh quan niệm: một con
người hơm qua là vĩ đại, được mọi người u mến thì hơm nay khơng cịn là vĩ đại
nữa, nếu lịng mình khơng trong sáng. Trong Phật giáo, người ta gọi những người đi
tu thành cơng là người đắc đạo, tu đã thành chính quả, chứ không phải "giữa chừng
đứt gánh", phá giới. Mọi sự so sánh đều khập khiễng. Nhưng, cái giá trị bền lâu cho
quốc thái dân an chính là trơng chờ vào nhân cách nhất quán, xuyên suốt cả cuộc đời
của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị nước ta.
Nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý còn biểu hiện ở mối quan hệ
thống nhất giữa nói và làm. Hiện nay, có khơng ít người chỉ nói mà khơng làm, nói

nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo. Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về nói
và làm đi đơi với nhau; có khi Người cịn làm nhiều hơn nói. Người cán bộ lãnh đạo,
quản lý mà nói khơng đi đơi với làm thì sẽ bị sa vào lối đạo đức giả, tạo ra sự phản
cảm cản trở việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị...


11

PHẦN 2: THỰC TRẠNG VỀ XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO TẠI HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Một số nét khái quát về huyện Định Quán
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và đơn vị hành chính
Định Quán là một huyện miền núi nằm ở phía Đơng Bắc của tỉnh Đồng Nai;
cách thành phố Biên Hòa 85 km và thành phố Hồ Chí Minh 115 km về hướng Tây
Nam và cách thành phố Đà Lạt 185 km về phía Đơng Bắc; Huyện có vị trí địa lý: phía
Bắc giáp huyện Tân Phú, phía Nam giáp huyện Thống Nhất và Xn Lộc, phía Tây
giáp huyện Vĩnh Cữu, phía Đơng giáp huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Hiện nay
huyện có 14 đơn vị hành chính gồm có 13 xã và 01 thị trấn, dân số 187.306 người
(năm 2020). Tồn huyện có 97.288,4 ha đất tự nhiên, trong đó có 41.137,5 ha đất
nông nghiệp, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nơng nghiệp. Huyện có 17.647,32 ha
mặt nước thuộc lịng hồ Trị An nằm trong lưu vực hai con sông La Ngà và sông Đồng
Nai là nguồn cung cấp nước mặt quan trọng cho thủy điện Trị an và cho các hoạt
đông sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt cho huyện và các địa bàn lân cận.
Tồn Đảng bộ có 42 tổ chức cơ sở, gồm 17 chi bộ cơ sở, 25 đảng bộ cơ sở, 01 đảng
bộ bộ phận, 288 chi bộ trực thuộc, 4.238 đảng viên.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Trong những năm qua, tình hình kinh tế xã hội của huyện có bước ổn định và
phát triển, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân khơng ngừng được cải
thiện, các chính sách xã hội ngày càng được quan tâm, các chương trình giảm nghèo,
xã hội hóa giáo dục, đường giao thơng nơng thơn và các phong trào tồn dân đồn

kết xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình
thương, quỹ vì người nghèo được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Khối đại đoàn kết
toàn dân ngày càng được củng cố.
Từ một huyện miền núi nghèo, kinh tế thuần nông kém phát triển, cơ sở vật
chất phục vụ cho phát triển kinh tế – văn hóa nghèo nàn lạc hậu; gần một nửa dân số
đói nghèo và mù chữ. Thì đến nay, diện mạo nơng thơn miền núi của huyện đã có
chuyển biến đáng tự hào. Kinh tế duy trì mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch đúng hướng; tiềm năng lợi thế của huyện từng bước khai thác có hiệu quả. Hệ
thống kết cấu hạ tầng từng bước được đầu tư tương đối đồng bộ. Đến nay, có 01 khu
cơng nghiệp trên địa bàn có 14 nhà đầu tư với diện tích 56,76 ha tại xã La Ngà; 01
cụm cơng nghiệp với diện tích gần 50 ha tại xã Phú Cường, 01 điểm công nghiệp và
01 cơ sở may công nghiệp hoạt động hiệu quả. Xây dựng nông thôn mới đã có nhiều


12

chuyển biến tích cực; năm 2019 huyện có 13/13 xã đạt chuẩn nơng thơn mới, năm
2020 có 04/13 xã đạt chuẩn nơng thơn mới nâng cao. Văn hố - xã hội tiếp tục phát
triển và đạt được nhiều kết quả tích cực.
Đến nay, Định Qn có 07 trường trung học phổ thông và 01 Trung tâm giáo
dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên, 67 trường Trung học cơ sở, tiểu học và
mầm non. Tổng số học sinh các cấp gần 60.000 học sinh, 14/14 xã, thị trấn hoàn thành
phổ cập giáo dục bậc trung học. Về Y tế có 01 Bệnh viện đa khoa khu vực; 14/14 xã,
thị trấn được cơng nhận đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế; về văn hố Ấp văn hóa đạt
91,02%, gia đình văn hóa đạt 96,3%; cơ quan có đời sống văn hóa 100%.
2.2. Những kết quả đạt được và hạn chế trong xây dựng nhân cách người cán
bộ lãnh đạo ở huyện Định Quán
2.2.1. Những kết quả đạt được
Công tác cán bộ đã đạt được một số kết quả nhất định, đội ngũ cán bộ công
chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo được đào tạo, bồi dưỡng về đường lối, chính sách,

về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Việc kiểm tra, đánh giá chất
lượng cán bộ được tiến hành thường xuyên; kịp thời thay thế những cán bộ, cơng
chức yếu kém và thối hóa; có sự sắp xếp lại đội ngũ cán bộ theo đúng chức danh,
tiêu chuẩn. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo được đổi mới, trẻ hóa, có sự kết hợp giữa các độ
tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển.
Cơng tác cán bộ và q trình xây dựng đội ngũ cán bộ đã từng bước khắc phục
được một số hạn chế, bất cập và dần đi vào nền nếp, bảo đảm tính dân chủ, khách
quan, cơng khai, chặt chẽ. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ
thống chính trị được nâng lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện đất nước đang đổi mới và hội nhập
quốc tế.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được tăng cường với nhiều hình thức đa
dạng hơn; nội dung, phương pháp đào tạo từng bước được đổi mới, kết hợp giữa việc
học tập lý luận với nâng cao kỹ năng thực hành. Hoạt động quản lý, bố trí, sử dụng
cán bộ được thực hiện nghiêm túc, theo hướng minh bạch, công khai, từng bước khắc
phục tình trạng thiếu khách quan, nể nang, né tránh khi xem xét, quyết định về công
tác cán bộ. Việc quy định cán bộ, đảng viên đang công tác ở các cơ quan, đơn vị phải
thường xuyên giữ mối liên hệ với cấp ủy nơi cư trú; thực hiện bầu cử có số dư; lấy
phiếu tín nhiệm của Mặt trận Tổ quốc các cấp trong việc giới thiệu bầu cử đại biểu
hội đồng nhân dân các cấp... là những cách làm mới thể hiện tính dân chủ, cơng khai


13

trong công tác cán bộ. Việc phân cấp quản lý cán bộ được thực hiện hợp lý, hiệu quả
hơn; công tác kiểm tra, giám sát trong các khâu công tác cán bộ được tăng cường.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhiều cán bộ lãnh đạo ln thể hiện tính
gương mẫu, thường xuyên tu dưỡng đạo đức và phẩm chất cách mạng, thực hiện theo
lời dạy của Hồ Chí Minh về “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”. Đội ngũ cán bộ
lãnh đạo đã thực hiện tốt mọi chức trách, nhiệm vụ cấp trên giao phó; ln ý thức

được việc tự tu dưỡng, tự rèn luyện và nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình gắn
liền với cơng cuộc chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo đã nêu gương về đạo đức, quyết tâm chống lãng phí,
quan liêu, chống lại các biểu hiện tham nhũng, tiêu cực.
Bên cạnh đó, mỗi người cũng tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh, ln đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân; phát huy
truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn, tự cường dân tộc, thể hiện ý chí phấn đấu
vượt qua khó khăn, thách thức để hồn thành nhiệm vụ được giao.
Với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của
Đảng; với sự nhạy bén, sắc sảo về chính trị cùng với tinh thần tích cực đấu tranh để
bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, phê phán những biểu hiện của chủ nghĩa cơ
hội, hữu khuynh; thái độ cảnh giác cao trước những luận điệu tuyên truyền của các
thế lực phản động, thù địch; với sự đoàn kết, yêu nước... đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã
không chỉ chủ động, linh hoạt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát thực tiễn, thống
nhất giữa lời nói và hành động mà họ còn quy tụ được quần chúng, cùng với quần
chúng vượt qua mọi khó khăn thử thách của thời kỳ đổi mới, góp phần ổn định chính
trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Trong mọi mặt cơng tác, nhất là trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm
vụ chính trị ở các địa phưong, các cơ quan, đơn vị, đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã có tinh
thần rèn luyện phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, cụ thể và sâu sát. Trong mọi
lĩnh vực công tác và cuộc sống thường ngày, họ đã kết hợp chặt chẽ giữa lời nói và
việc làm, giữa đấu tranh tự phê bình và phê bình trên cơ sở ý thức trách nhiệm và tinh
thần xây dựng tổ chức; có lối sống lành mạnh và ln chấp hành pháp luật; có tính
ngun tắc và lý trí nhưng cũng độ lượng khoan dung, biết điều chỉnh và kiềm chế
cho phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Họ luôn trung thực, thẳng thắn trong công tác
cũng như trong sinh hoạt, tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn bó với
nhân dân và được nhân dân tín nhiệm.



14

2.2.2. Những hạn chế
Trong công tác quản lý cán bộ, có nơi, có lúc cịn bị bng lỏng, chưa có cơ
chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người yếu kém, uy tín thấp, khơng đủ sức khoẻ...
Việc đánh giá cán bộ, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo hiện nay vẫn yếu, chưa phản
ánh đúng thực chất, chưa dựa trên kết quả cụ thể; nhiều trường hợp còn thiên về cảm
tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến.
Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhất là cán bộ lãnh đạo chậm đổi mới,
chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và
theo chức danh.
Ở các cấp, tình trạng bổ nhiệm các cán bộ không đủ điều kiện, tiêu chuẩn; đặc
biệt, việc bổ nhiệm người nhà, người thân, họ hàng, tình trạng kéo phe kéo cánh cịn
xảy ra. Chủ trương thu hút nhân tài đã được đề cập và bước đầu triển khai nhưng
chậm được cụ thể hoá bằng các cơ chế, chính sách phù hợp.
Vai trị giám sát của các cơ quan dân cử; sự giám sát, phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc, của các tổ chức chính trị - xã hội cũng chưa được phát huy. Hiện nay
vẫn chưa có cơ chế phù hợp để tăng cường và phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân
trong giám sát cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo; chưa phát huy được một
cách hiệu quả vai trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thơng, báo chí trên tinh
thần: dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, dựa vào nhân dân để rèn luyện, giáo dục
cán bộ, đảng viên.
Bên cạnh số đông cán bộ lãnh đạo giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng,
vẫn cịn bộ phận khơng nhỏ cán bộ lãnh đạo có biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo
đức, lối sống. Nhiều cán bộ lãnh đạo không nghiêm túc trong việc tự phê bình và phê
bình, khơng lắng nghe, tiếp thu ý kiến phê bình; cịn tình trạng nể nang, né tránh,
khơng nói thẳng, nói thật, bằng mặt nhưng khơng bằng lịng, gây mất đồn kết nội bộ
nghiêm trọng.
Khơng ít người trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo có thái độ làm việc ỷ lại, có tâm
lý an phận, bằng lịng với trình độ, năng lực, kiến thức đã có, khơng có tinh thần học

tập, trau dồi, bổ sung thêm kiến thức mới nên không đủ khả năng nắm bắt và tiếp cận,
cập nhật với những tri thức tiên tiến trong nước cũng như trên thế giới. Việc lãnh đạo,
quản lý bằng kinh nghiệm, bằng cảm tính cịn diễn ra ở nhiều nơi, nhiều cấp... dẫn tới
tình trạng ban hành nhiều chủ trương, chính sách xa rời thực tiễn, khơng có tính khả
thi, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
2.2.3. Nguyên nhân của hạn chế


15

Một là, nhận thức của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành chức năng và của
tự bản thân mỗi cán bộ đảng viên về việc phải thường xuyên giáo dục và xây dựng
đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chưa được coi trọng; trong đó, phải
kể đến việc buông lỏng công tác giáo dục đạo đức truyền thống, đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên nói chung, cho cán bộ lãnh đạo quản lý nói riêng.
Hai là, việc buông lỏng kiểm tra, giám sát, quản lý của các cấp, các ngành đối
với cán bộ và công tác cán bộ, cũng như việc xử lý những hiện tượng cán bộ thối
hóa biến chất chưa kịp thời và nghiêm minh; nhất là, chưa hoàn toàn triệt tiêu được
“vùng cấm” trong công tác giám sát, xử lý, kỷ luật cán bộ; vẫn còn tư tưởng bao che
cho các cán bộ lãnh đạo mắc sai lầm, khuyết điểm do sợ ảnh hưởng đến uy tín của
Đảng, của người đứng đầu các cấp.
Ba là, hệ thống pháp luật nước ta còn nhiều bất cập. Việc triển khai thực hiện
còn thiếu triệt để, nghiêm túc nên tình trạng suy thối về nhân cách, đặc biệt tệ quan
liêu, tham ô, tham nhũng của các cán bộ lãnh đạo vẫn có chiều hướng gia tăng. Việc
giải quyết, thi hành pháp luật đối với một số vụ án liên quan đến cán bộ lãnh đạo vẫn
mang nặng tính hình thức nên khơng có tác dụng răn đe.
Bốn là, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về tổ chức và công
tác cán bộ còn chồng chéo, chậm được đổi mới. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm
công tác cán bộ chưa đạt được yêu cầu; trong đó, năng lực, phẩm chất, uy tín của một
số cán bộ đảm nhận cơng tác này còn chưa đáp ứng được nhiệm vụ.

Năm là, sự thiếu ý thức tự tu dưỡng phẩm chất đạo đức, tư cách người cán bộ
cách mạng của chính các cán bộ lãnh đạo. Muốn có đạo đức cách mạng, trước hết và
quyết định nhất là bản thân mỗi người phải chiến thắng "kẻ thù bên trong" - đó chính
là chủ nghĩa cá nhân. Do đó, điều quan trọng nhất là mỗi cán bộ phải tự giác nỗ lực
rèn luyện, khắc phục chủ nghĩa cá nhân trong chính bản thân mình. Trong công cuộc
xây dựng, phát triển và hội nhập ngày nay, những nguy cơ, thách thức ngày càng
nhiều, đòi hỏi việc tự rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ lãnh đạo càng phải cao hơn nữa,
tích cực hơn nữa mới có thể khơng sa vào chủ nghĩa cá nhân.


16

PHẦN 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG NHÂN CÁCH
NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO TẠI HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI
3.1. Những yêu cầu về nhân cách người lãnh đạo tại huyện Định Quán trong
giai đoạn hiện nay
Nhân cách của người cán bộ, lãnh đạo, quản lý là sự tổng hòa giữa tài và đức,
giữa phẩm chất và năng lực. Trong đó, đạo đức được coi là gốc của nhân cách và tài
giữ vai trò quan trọng. Vì vậy, đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý khi rèn luyện
phát triển nhân cách phải phát triển cả tài và đức, phẩm chất và năng lực.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải mang những phẩm chất của
người cán bộ cách mạng: Bản lĩnh chính trị vững vàng, giữ lập trường giai cấp công
nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Gương mẫu trong thực hiện đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Gần gũi, tận tụy, chăm lo đời sống của nhân dân, biết phát
huy sức dân thực hiện đúng quan điểm: Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là công
bộc của dân, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Đó là những người tự tin, nhất quán, dám nghĩ, dám làm, dám dân thân vào việc khó,
quyết tâm vượt qua thử thách, thực hiện mục tiêu đã đặt ra, không dao động trước
những khó khăn, tác động bên ngồi, lời nói và hành động đi đơi với nhau, từ đó tạo

lịng tin cho cấp dưới. Phải có khả năng vượt qua những cám dỗ, tiêu cực của chức
quyền và lợi lộc, giữ vững phẩm chất trong sáng của người cán bộ. Phải gương mẫu
về đạo đức, lối sống, thực hiện lời Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy “cần kiệm, liêm chính,
chí cơng vơ tư”, tích cực đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội
khác; đấu tranh với lối sống thực dụng, lối sống trái với đạo đức truyền thống của dân
tộc, giữ gìn đồn kết, thống nhất trong Đảng, gắn bó với nhân dân. Đồng thời có trái
tim nhân hậu, có khát vọng cống hiến. Những phẩm chất này sẽ góp phần tạo nên uy
quyền của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với thuộc cấp và hình ảnh đẹp trong
mắt quần chúng nhân dân.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là người có năng lực: Phải giàu trí tuệ,
năng lực nhận thức cần phải đạt đến trình độ tư duy lý luận. Năng lực tư duy lý luận
góp phần tích cực vào việc xây dựng, ban hành, sửa đổi, bổ sung triển khai thực hiện
các chủ trương, đường lối, chính sách cảu Đảng, Nhà nước một cách có hiệu quả. Tư
duy lý luận cịn giúp người cán bộ lãnh đạo, phân tích, đánh giá mức độ thực hiện
nhiệm vụ và chỉ ra khó khăn, thuận lợi, những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, những hệ
quả trước mắt và lâu dài, những điều kiện, nguồn lực cần thiết để thực hiện nhiệm vụ;


17

phân tích, đánh giá được các vấn đề đưa ra có phù hợp với điều kiện trong nước và
quốc tế hiện nay không. Năng lực nhận thức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý thể
hiện ở khả năng nhìn xa, trơng rộng, khả năng tiên đốn và phân tích các yếu tố để
hoạch định bước đi cho tương lai.
Có năng lực chuyên môn là năng lực vận dụng kiến thức chuyên môn để phục
vụ công tác lãnh đạo. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở lãnh đạo, quản lý mọi mặt kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn. Để chỉ huy, điều khiển,
phát huy khả năng của cấp dưới trong thực thi nhiệm vụ, đòi hỏi người lãnh đạo phải
am hiểu cơng việc mình đảm trách để khi cần thiết, biết dồn tiềm lực vào những khâu
trọng yếu nhất. Trình độ chuyên môn giỏi sẽ giúp người lãnh đạo biết đánh giá và

giúp đỡ công việc của cấp dưới. Kiến thức chuyên môn càng uyên bác, chuyên sâu
sẽ phục vụ tốt công việc, đồng thời sử dụng hiệu quả đội ngũ chuyên gia. Có năng
lực lãnh đạo, quản lý bao gồm một hệ thống như: Năng lực thực tiễn, năng lực quản
lý, năng lực dự báo, định hướng phát triển, năng lực tổng kết thực tiễn, tham gia xây
dựng đường lối, chính sách, pháp luật, năng lực thuyết phục và tổ chức nhân dân thực
hiện, đặc biệt đối với một người lãnh đạo, quản lý giỏi cần phải có năng lực phát hiện
và bố trí, sử dụng cán bộ: phải phát hiện những người giỏi có phẩm chất tốt để bố trí
vào những vị trí quan trọng; theo dõi, bồi dưỡng để đề bạt, tạo nguồn cán bộ thay
thế… Bên cạnh đó, người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở cịn phải biết sử dụng
cơng nghệ thơng tin, có kiến thức xã hội. Những kiến thức này ngày càng quan trọng.
3.2. Một số giải pháp cơ bản xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo huyện
Định Quán
Một là, giáo dục cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo thấm nhuần sâu sắc hơn nữa các
phẩm chất đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Việc này, từ
trước tới nay đã thực hiện, song trong chừng mực nào đó, cơng tác tun truyền, giáo
dục ở các cấp, các ngành, và địa phương còn bộc lộ những bất cập so với sự phát triển
của thực tiễn. Hiện nay, vẫn cịn khơng ít cán bộ, đảng viên học tập và vận dụng các
nội dung đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh một cách giáo điều, sách
vở, nặng về lý thuyết. Vì vậy, việc bổ sung vào đó những nội dung, yêu cầu mới, gắn
liền với thực tiễn phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, hội nhập quốc tế là việc làm cần thiết. Có như vậy mỗi người cán bộ
lãnh đạo mới có thể vận dụng thiết thực nhất vào việc xây dựng cho mình một nhân
cách phát triển tồn diện, giúp cho q trình lãnh đạo đúng, sát với yêu cầu của thời
kỳ đổi mới.


18

Hai là, cấp uỷ các cấp cần phải tiếp tục đổi mới cách ra nghị quyết, nâng cao
chất lượng các nghị quyết và coi đó là một trong những thước đo năng lực lãnh đạo

của cấp uỷ, người đứng đầu cấp uỷ. Việc nâng cao năng lực lãnh đạo được thể hiện
trong việc cụ thể hoá, thể chế hoá các nghị quyết của Đảng trong bộ máy Nhà nước
và các đồn thể một cách kịp thời, nhằm mục đích tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện quy chế làm việc của cấp uỷ Đảng; xây dựng và hoàn
thiện quy chế phối hợp giữa Đảng với cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể;
giữa các ban tham mưu của Đảng với cơ quan tham mưu của Nhà nước, Mặt trận, các
đoàn thể; giữa kiểm tra Đảng với thanh tra Nhà nước và thanh tra nhân dân. Sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cấp, các tổ chức này tạo nên cơ chế giám sát hiệu quả với người
cán bộ lãnh đạo, là cơ sở để kiểm soát quyền lực của người cán bộ lãnh đạo một cách
hiệu quả, thiết thực.
Bốn là, tăng cường việc kiểm tra, giám sát của các cấp có thẩm quyền đối với
cán bộ lãnh đạo để họ luôn ý thức được vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình ở
mọi nơi, mọi lúc, trong từng hồn cảnh cụ thể. Việc buông lỏng quản lý của tổ chức
đồng nghĩa với việc để cho cán bộ, kể cả cán bộ lãnh đạo được tự do, buông thả trong
công việc cũng như trong sinh hoạt và lối sống. Thực tế đã chứng minh rằng, những
cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo thối hóa biến chất về đạo đức, lối sống, để cho chủ
nghĩa cá nhân chi phối có một phần nguyên nhân từ sự buông lỏng quản lý trong công
tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy Đảng và chính quyền.
Năm là, nâng cao chất lượng cơng tác cán bộ: Cấp ủy cơ sở dựa trên cơ sở về
năng lực, hiệu quả công việc của cán bộ để đánh giá, đưa vào quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, đề bạt cán bộ. Tránh việc đánh giá cán bộ một cách chủ quan “theo dịng họ”,
“bè phái” hoặc cảm tính, “u nên tốt, ghét nên xấu”. Đồng thời, căn cứ vào vị trí
việc làm, yêu cầu thực tiễn để bố trí, phân công cán bộ theo nguyên tắc “đúng người,
đúng việc” nhằm phát huy năng lực, sở trường của mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cấp
ủy Đảng cần tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá cán bộ hàng năm. Trong sinh
hoạt đảng cần làm tốt cơng tác “phê bình, tự phê bình”. Qua đó cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp cơ sở nhận thức, đấu tranh loại bỏ những tồn tại, hạn chế của bản thân để rèn
luyện, phát triển nhân cách ngày càng hoàn thiện hơn.
Sáu là, phát huy tính tích cực, tự giác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong quá

trình tự rèn luyện phát triển nhân cách của bản thân: Bản thân người cán bộ lãnh đạo
phải khơng ngừng học tập, nâng cao trình độ, tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng,


19

tập huấn thơng qua các mơ hình điển hình, các phong trào thi đua, từ đó phát triển
chun mơn, nghiệp vụ cơng tác, trình độ lý luận chính trị, trau dồi đạo đức, lối sống.
Xây dựng kế hoạch tự học tập, tự bồi dưỡng của bản thân, thực hiện phương châm
suốt đời học tập: Xây dựngchương trình hành động, kế hoạch cụ thể rèn luyện, học
tập tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW của
Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh. Nỗ lực rèn luyện và phát triển nhân cách trong thực tiễn. Chính thực tiễn
sơi động sẽ giúp cho người cán bộ ý thức được sự hạn chế, thiếu hụt của bản thân để
có kế hoạch học tập và rèn luyện. Đồng thời giúp cán bộ bổ sung, bồi đắp thêm những
thiếu hụt về kiến thức, năng lực, kinh nghiệm và kỹ năng công tác đáp ứng với sự vận
động, phát triển cách mạng trong giai đoạn mới. Theo đó, người cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp cơ sở phải học tập ngay từ thực tiễn công tác lãnh đạo, quản lý hàng ngày,
học từ người dân, học từ đồng chí, đồng nghiệp, học từ việc tổng kết thực tiễn, tổng
kết những mơ hình mới, những cách làm hay…
Thường xuyển kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện công việc của bản thân;
thực hiện tốt việc “tự phê bình”, qua đó khắc phục những sai lầm, hạn chế của bản
thân và nâng cao bản lĩnh trước những cám dỗ, tiêu cực mặt trái của kinh tế thị trường.
Như vậy, việc rèn luyện, phát triển nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện
nay là nhiệm vụ cấp thiết để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo có bản lĩnh chính trị
vững vàng, tài năng, tâm huyết, trách nhiệm, nói đi đơi với làm, mạnh dạn dám nghĩ,
dám làm và dám chịu trách nhiệm, khơng ngại khó, ngại khổ, có “Tâm – Tầm –Tài”,
là những cán bộ của nhân dân, được nhân dân tin u, kính trọng và góp phần hồn
thành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.



20

PHẦN KẾT LUẬN
Ngày nay, trong bối cảnh sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước đang đi
vào chiều sâu; trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ, đã và đang
đặt ra cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nhiệm vụ trực tiếp về xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn bao giờ hết, Việt Nam đang đứng trước thời cơ, vận hội
mới cũng như thách thức để vươn lên trở thành một quốc gia cơng nghiệp hóa và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Điều đó cũng địi hỏi Đảng phải khơng ngừng nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm với nhiệm vụ mới và quản lý nhà
nước hiệu lực, hiệu quả; trong đó, năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cũng cần phải được nâng cao về mọi mặt.
Sự nghiệp đổi mới nói chung và cơng cuộc phát triển, hội nhập của Việt Nam
thu được kết quả như thế nào một phần phụ thuộc vào phẩm chất đạo đức, năng lực
trí tuệ, bản lĩnh, phong cách lãnh đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Người cán bộ lãnh
đạo trong sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phải vừa là chủ thể có
những phẩm chất phù hợp với xã hội hiện đại, vừa có đủ năng lực để lãnh đạo thực
hiện các nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Đó phải là những người khơng chỉ làm chủ
được các phương tiện khoa học, công nghệ hiện đại, nắm chắc cơ cấu và phương thức
vận hành của nền sản xuất công nghiệp, của cơ cấu, tổ chức, vận hành của xã hội hiện
đại mà còn phải nâng cao tính độc lập, đặt mình trong tổng thể cơ cấu thống nhất của
một xã hội phát triển cao để hoàn thành trọng trách kép “phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” như Hồ Chí Minh căn dặn
trong di chúc.
Việc rèn luyện hồn thiện nhân cách cho cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ
lãnh đạo nói riêng là một nội dung đặc biệt quan trọng trong xây dựng con người mới
nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước ta hướng đến trong giai đoạn
hiện nay. Rèn luyện hoàn thiện nhân cách cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo là vấn đề cấp

bách cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong rèn luyện hoàn thiện nhân cách cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thì giáo dục bản lĩnh chính trị, mục tiêu lý tưởng, đạo
đức cách mạng là vấn đề cốt lõi, xuyên suốt.
Trong q trình rèn luyện hồn thiện nhân cách cho đội ngũ cán bộ lãnh cần
áp dụng kết hợp nhiều biện pháp. Trong đó, giáo dục đào tạo giữ vai trị chủ đạo trong
việc định hướng hình thành và phát triển nhân cách còn tự tu dưỡng và rèn luyện của
bản thân mỗi người giữ vai trò quyết định việc hình thành và phát triển nhân cách.


21

Cuộc đấu tranh khắc phục sự suy thoái nhân cách người lãnh đạo quản lý không tách
rời việc giáo dục nhân cách và sự tự tu dưỡng, tự rèn luyện nhân cách.
Trong thời đại ngày nay, dù ở trong cương vị nào, tài năng và đức độ vẫn là
những phẩm chất cần thiết cho kết quả của công tác quản lý. Vì vậy mỗi cán bộ lãnh
đạo cần ln ln tự hoàn thiện bản thân, tự học tập, trau dồi kiến thức thông qua
sách vở và thực tiễn để tự nâng cao trình độ, năng lực quản lý của bản thân, đáp ứng
nhu cầu công tác lãnh đạo và quản lý.


22

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Đình Phong (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán
bộ, Nxb Lao động, Hà Nội.
2. C.Mac và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
3. Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần
thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

5. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Khoa học lãnh
đạo, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
6. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình tâm lý học
lãnh đạo, quản lý, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
7. Huyện ủy Định Quán (2020), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện
lần thứ XIII.
8. Nguyễn Bá Dương (2015), Khoa học lãnh đạo – Lý thuyết và kỹ năng, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội.
9. Nguyễn Thế Kiệt (2005), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện
nay: thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Hữu Lam (1997), Nghệ thuật lãnh đạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội.



×