Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo quản lý ở các trường thcs huyện Bố Trạch trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.63 KB, 38 trang )

Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
MỤC LỤC
Mở đầu. 1
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng nhân cách
người cán bộ lãnh đạo, quản lý. 3
I: Một số vẫn đề cơ bản về nhân cách. 3
II: Nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý. 4
III: Yêu cầu xâu dựng nhân cách của người cán bộ lãnh đạo quản lý
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 7
Chương II: Thực trạng và một số giải pháp xây dựng nhân cách
người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở bậc THCS nghành giáo dục Huyện
Bố Trạch, Tỉnh Quảng Bình.
10
I :Tình hình kinh tế - xã hội của huyện và thực trạng nhân cách của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở bậc THCS giáo dục huyện Bố Trạch:
10
II: Những yêu cầu đặc trưng về nhân cách người cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở các trường học trên địa bàn Huyện Bố Trạch. 14
III: Một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng, hoàn thiện nhân cách
người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các trường học ở huyện Bố
Trạch.
19
IV: Những kiến nghị 22
Kết luận 24
Tài liệu tham khảo 25
MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiêp hoá, hiện đại
hoá. Nhiệm vụ đó rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây
1
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
dựng một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ


chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc", "Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Muốn
quản lý được tốt, người lãnh đạo, quản lý cần phải "hiểu người, biết mình và
khéo dùng người". Vậy trước hết, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải "tự hiểu
rõ" mình.
Công tác của người cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, người cán bộ lãnh
đạo, quản lý giáo dục nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng một trong
những yếu tố có vị trí hàng đầu, giữ vai trò quyết định đó là nhân cách của họ.
Là người đứng đầu và chỉ đạo mọi hoạt động giáo dục trong trường học, nhân
cách của người lãnh đạo quản lý có tác động mạnh mẽ đến giáo viên và học
sinh, đây là những chủ thể có nhân cách rất nhạy cảm. Vì thế mà tương ứng với
vị thế và vai trò của mình, người cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục phải có một
nhân cách mẫu mực, hoàn thiện, cao hơn những người bình thường, có vai trò
định hướng, gương mẫu, có ưu thế tác động nhiều mặt, biết tổ chức, tập hợp, lôi
cuốn và thúc đẩy mọi người cùng hoàn thành nhiệm vụ.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu, nắm được những yếu tố quy định
và những yêu cầu có tính đặc trưng về nhân cách người lãnh đạo, quản lý có
một ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, vừa có tính cơ bản
lâu dài, vừa là đòi hỏi bức xúc của của các trường học hiện nay.
Với những lý do như đã trình bày trên, là một cán bộ lãnh đạo, quản lý bậc
THCS Phòng Giáo dục huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình, tôi chọn đề tài:
“Xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo quản lý ở các trường THCS Huyện
Bố Trạch trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài tốt nghiệp của mình.
Do còn hạn chế bởi khả năng và thời gian nên đề tài chắc chắn còn nhiều
khiếm khuyết. Vì vậy rất mong được sự giúp đỡ của quý thầy cô trường chính
trị Tỉnh.
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhân cách của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung trong giai đoạn Cách mạng hiện nay ở
2

Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
nước ta, nhất là trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài tập trung nghiên cứu, tìm ra những
phẩm chất nhân cách có tính đặc trưng của người lãnh đạo, quản lý ở bậc THCS
thuộc Phòng Giáo dục huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Từ đó, đề ra giải pháp
cơ bản nhằm không ngừng hoàn thiện và nâng cao phẩm chất nhân cách của họ.
Đề tài chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu những thực trạng về nhân cách người
cán bộ lãnh đạo, quản lý trong trường học thuộc bậc THCS trên địa bàn Huyện
Bố Trạch.
Bản thân sử dụng một số phương pháp chủ yếu như sau: Phân tích, tổng
hợp, khái quát hoá, lôgic lịch sử, thu thập thông tin từ các báo cáo sơ kết, tổng
kết hàng năm của ngành GD Bố Trạch; Báo cáo đánh giá về tình hình GD - ĐT
của Ban chấp hành Huyện uỷ và Hội động nhân dân Huyện Bố Trạch. Trên cơ
sở đó làm rõ đặc điểm tình hình của địa phương và cụ thể hoá nhiệm vụ, vị trí,
chức năng . từ đó, đề ra những yêu cầu về nhân cách cho phù hợp.
Kết cấu của tiểu luận: Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận được kết
cấu thành hai chương chính:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng nhân cách người
cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Chương II: Thực trạng và một số giải pháp xây dựng nhân cách người
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở bậc THCS ngành giáo dục Huyện Bố Trạch, Tỉnh
Quảng Bình.
Do khả năng nhận thức còn hạn chế, lại vừa công tác vừa hoàn thành đề
tài, do đó chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Rất mong sự góp ý của thầy cô và
đồng nghiệp.
Xin chân thành cám ơn!
3
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
NỘI DUNG

Chương I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
4
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ.
I./ MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ NHÂN CÁCH :
Nhân cách là khái niệm cơ bản của Tâm lý học cũng như một số nghành
khoa học khác: Như giáo dục học, đạo đức học, xã hội học, triết học…
Có nhiều định nghĩa về nhân cách, theo tâm lý học có các định nghĩa sau:
“Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý cá nhân, quy
định giá trị xã hội và hành vi xã hội của họ”
“Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân, biểu hiện ở
bản sắc và giá trị xã hội của người ấy” (Phạm Minh Hạc)
“Nhân cách, đó là một tổ chức động của các hệ thống tâm - sinh lý trong
cá nhân, chúng quy định sự thích ứng trọn vẹn của cá nhân đối với môi trường
xung quanh” (G.Allport)
“Nhân cách là tổng hoà các phẩm chất tâm lý, nói lên đặc điểm của từng
người riêng biệt “(R.Meili)
“Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và
phẩm chất tâm lý đang quy định hình thức hoạt động và những hành vi có ý
nghĩa xã hội” (E.V.Sôrôkhôva)
Dù khác nhau, nhưng qua các định nghĩa trên ta thấy rằng: Con người trở
thành một nhân cách khi đặt con người đó trong sự hoạt động, giao lưu với xã
hội. Khi bàn về vấn đề này, Mác cho rằng trong tính hiện thực của nó bản chất
con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, nhận định rất khái quát này đã
nói lên bản chất, cấu trúc nhân cách cũng như chỉ ra con đường hình thành nhân
cách, nhận định này đã là cơ sở lý luận cho Tâm lý học, Giáo dục học và các
ngành khoa học nghiên cứu về con người.
Từ những quan niệm về nhân cách, chúng ta thấy rằng cho đến nay vẫn

chưa có một trường phái nào giải quyết một cách thoả đáng toàn diện vấn đề
bản chất nhân cách.
5
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
Ở Việt Nam, tuy rằng chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách
chính thống, song cách hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các
mặt sau đây:
- Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng lực.
- Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người.
- Nhân cách được hiểu như các phẩm chất của con người mới: làm chủ, yêu
nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
- Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con người.
Như vậy, khái niệm nhân cách thường gắn liền với khái niệm con người (ít nói
đến cá nhân). Những phẩm chất nhân cách đó là những phẩm chất đòi hỏi ở
mỗi con người phải có.
Do đó, có thể hiểu: Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân
thể hiện những phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá
nhân với các cá nhân khác, với tập thể, xã hội, với thế giới xung quanh và mối
quan hệ của cá nhân với công việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
II./ NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ.
1.2. Đặc điểm của nhân cách:
Nhân cách bao gồm bốn đặc điểm cơ bản sau:
1.2.1. Tính thống nhất:
Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa
đức và tài, giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, giữa cái bên trong và cái bên
ngoài, giữa cá nhân với xã hội. Đức và tài có mối quan hệ chặt chẽ biện chứng
với nhau. Trong cái đức có cái tài, trong cái tài có cái đức, trong phẩm chất và
năng lực của một cá nhân con người phải luôn thống nhất với nhau.
1.2.2. Tính ổn định của nhân cách:
Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý tương đối ổn định, tiềm tàng

trong mỗi cá nhân. Vì thế, nhân cách là cái sinh thành và phát triển trong suốt
cuộc đời của mỗi con người, do đó nhân cách có tính ổn định tương đối của nó.
6
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
Tính ổn định của nhân cách cao hay thấp là tùy thuộc vào mức độ hoàn thiện
nhân cách của người đó. Các đặc điểm nhân cách, các phẩm chất nhân cách
tương đối khó hình thành và cũng khó mất đi. Trong thực tế từng nét nhân cách
có thể bị thay đổi do cuộc sống, nhưng nhìn một cách tổng thể thì chúng vẫn tạo
thành một cấu trúc trọn vẹn, tương đối ổn định.
1.2.3. Tính tích cực của nhân cách: Nhân cách vừa là chủ thể của hoạt
động, vừa là sản phẩm của chính hoạt động giao tiếp, nghĩa là nó có tính tích
cực của mình. Tính tích cực của nhân cách được thể hiện ở những hoạt động
muôn màu, muôn vẻ và đa dạng, song đều tác động tích cực vào sự phát triển
của xã hội. Do vậy, tính tích cực của nhân cách được quy định bởi hệ thống nhu
cầu của cá nhân.
1.2.4. Tính giao lưu của cá nhân: Nhân cách chỉ có thể được hình thành và
phát triển trên cơ sở giao lưu và hoạt động. Bởi lẽ trên cơ sở giao lưu, cá nhân
mới có điều kiện để lĩnh hội, học hỏi để tiếp nhận các giá trị của xã hội, các
chuẩn mực đạo đức, từ đó mà hoàn thiện nhân cách của mình, mới có điều kiện
đóng góp những giá trị của cá nhân trong sự phát triển của cộng đồng, của xã
hội. Từ đó mà mỗi cá nhân được đánh giá, được nhìn nhận, được thẩm định
theo quan điểm của xã hội.
1.3. Cấu trúc của nhân cách.
Nói đến cấu trúc nhân cách, chính là nói tới các thành phần của nhân cách.
Xét về mặt tâm lý, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cấu trúc tổng quát của nhân
cách có hai thành phần chính: Đức và tài, trong đó đức là nền tảng. Đức thể
hiện phẩm chất và tài thể hiện năng lực của con người. Có bốn nhóm: Xu
hướng, tính cách, khí chất, năng lực đan xen trong phẩm chất đức và tài. Chính
đức và tài cấu thành phẩm chất trên. Nhân cách của người lãnh đạo nói chung
và cán bộ quản lý trong ngành giáo dục nói riêng:

*Phẩm chất chính trị tư tưởng.
Đó là khuynh hướng hoạt động chính trị xã hội và lập trường chính trị của
người quản lý, được biểu hiện cụ thể trong ý thức chính trị trong công việc
7
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
thường ngày, người quản lý luôn ý thức được hậu quả về mặt chính trị của hoạt
động quản lý của mình. Nhạy bén trong việc vận dụng đường lối, chính sách,
nghị quyết của Đảng và Nhà nước vào công việc của mình và biết đánh giá con
người theo những tiêu chuẩn chính trị.
*Phẩm chất tâm lý đạo đức.
Đó là trình độ trưởng thành về ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và lập
trường đạo đức của người quản lý. Một số phẩm chất tâm lý cụ thể gồm lòng
say mê công việc, lòng nhân ái, sự công bằng, tính tự chủ, sự cân xứng hài hoà
giữa lý luận và thực tiễn, giữa nghị lực và trí tuệ, giữa nói và làm.
Người quản lý phải làm gì để tạo niềm tin và là chỗ dựa vững chắc cho
quần chúng. Ở người quản lý, nói ít làm nhiều cũng chưa hẳn là tốt mà lời nói
phải đi đôi với việc làm; có như vậy mới thể hiện được vai trò giải thích, tuyên
truyền, vận động, thuyết phục quần chúng của người quản lý.
*Năng lực quản lý, tổ chức chuyên môn.
Đó là khả năng tổ chức hoạt động giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu khoa học
có hiệu quả. Muốn vậy, người quản lý giáo dục - đào tạo phải có trình độ học
vấn cao, trình độ văn hoá sâu sắc, phải có kinh nghiệm phong phú trong lĩnh
vực đào tạo, trong hoạt động dạy học và có năng lực tổ chức. Phải tinh nhạy về
mặt tâm lý, tình cảm và có đầu óc tâm lý thực tế.
Đặc trưng nổi bật của người quản lý giáo dục là năng lực lan truyền nghị
lực và ý chí khơi dậy ở mọi người tính tích cực lao động. Người lãnh đạo phải
kiên quyết, phê và tự phê đúng mức, biết khai thác tài năng, trí tuệ toàn bộ đội
ngũ trí thức, những nhà giáo. Họ phải có tính năng động về trí tuệ, tốc độ suy
nghĩ nhanh, linh hoạt, nhạy bén, có tinh thần phê phán khoa học mọi hiện
tượng, mọi quá trình.

Có năng lực dự báo tình huống trong lãnh đạo, quản lý ngành, trường
học… Cuối cùng, cán bộ lãnh đạo quản lý phải thường xuyên học tập, tu dưỡng
phẩm chất đạo đức để nâng cao uy tín cá nhân kết hợp với uy tín, quyền lực,
chức vụ trong xã hội, ngành giao cho để hoạt động lãnh đạo, quản lý được
8
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
thuận lợi, có hiệu quả. Người lãnh đạo, quản lý giáo dục phải thực sự là “tấm
gương sáng” cho cán bộ, giáo viên và học sinh noi theo.
Người quản lý phải biết tổ chức hoạt động, sử dụng đúng người đúng việc.
Phải có trình độ chuyên môn, trình độ văn hóa và kinh nghiệm lãnh đạo quản
lý. Người quản lý bao giờ cũng là người “biết trước, nghe hết và nói sau cùng”.
1.4/ Biểu hiện của nhân cách:
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục phải hội đủ ba năng lực đặc biệt
để có thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình, đó là:
*Năng lực tổ chức công việc:
Hoạt động của một trường học là hoạt động tập thể chứ không phải là của
cá nhân riêng lẻ. Có nhiều người khi làm việc chỉ riêng mình đạt hiệu quả rất
cao nhưng không có khả năng tổ chức cho nhiều người cùng thực hiện. Vì vậy
năng lực tổ chức công việc tập thể là yếu tố rất quan trọng của người cán bộ
quản lý trong các trường học.
*Năng lực sư phạm:
Khác với công tác giảng dạy, đây chính là khả năng lan truyền nghị lực và
ý chí của người cán bộ quản lý đối với tập thể, từ đó khơi dậy ở mọi người tính
tích cực hoạt động và lao động một cách tự giác. Mác và Lê-nin đều cho rằng
chỉ có lao động tự giác mới có khả năng sáng tạo. Rõ ràng trong điều kiện ngày
nay, trong sự yêu cầu khắt khe của xã hội, trong thời đại phát triển ứng dụng
khoa học công nghệ và ứng dụng xử lý thông tin, để lĩnh vực đào tạo thành
công thì yếu tố sáng tạo trong mọi hình thức hoạt động của trường học là vô
cùng quan trọng. Về năng lực sư phạm, đòi hỏi người quản lý phải có tính kiên
quyết, có phê bình và tự phê bình một cách đúng mức, có khả năng khai thác trí

tuệ của người khác, có tính tự chủ, có trình độ văn hoá cao và có cái tâm trong
sáng.
*Tính năng động về trí tuệ:
Thể hiện ở cấp độ suy nghĩ nhanh, linh hoạt nhạy bén với cái mới, có tinh
thần phê phán khoa học đối với mọi sự vật hiện tượng và quá trình, có năng lực
dự báo sự phát triển của các sự vật hiện tượng trong thực tế.
9
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
1.5/ Con đường hình thành và phát triển nhân cách người cán bộ lãnh
đạo quản lý:
Nhân cách không phải tự nhiên mà có mà mỗi cá nhân phải trải qua quá
trình rèn luyện lâu dài. Tâm lý học đã chỉ ra các yếu tố quy định sự hình thành
nhân cách:
*Giáo dục:
Không ai sinh ra đã là người lãnh đạo. Muốn trở thành người lãnh đạo
trước tiên phải được giáo dục, đào tạo trở thành con người với tư cách là thành
viên của xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người thực tế là quá
trình hoạt động của cá nhân để lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội. Quá
trình này được thực hiện nhờ hệ thống giáo dục và đào tạo. Giáo dục được coi
là một hoạt động chuyên môn của xã hội, nhằm tác động một cách có mục đích
đến cá nhân để hình thành ở cá nhân đó hệ thống những phẩm chất tâm lý phù
hợp với mục tiêu đào tạo của xã hội đặt ra.
Đối với người cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay cần phải được giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng nắm vững những hệ thống những tri thức khoa học, những
tri thức về đạo đức, những kỹ năng, kỹ xảo về quản lý. Điều quan trọng là phải
trang bị cho người lãnh đạo hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lê Nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh; những tri thức về tâm lý con người, về công nghệ quản
lý, lãnh đạo.
*Hoạt động:

Môi trường xã hội, giáo dục của xã hội có vai trò quan trọng đối với sự
hình thành và phát triên nhân cách. Tuy nhiên, ảnh hưởng của môi trường và
giáo dục chỉ diễn ra thông qua hoạt động của chính con người. Cuộc sống con
người là một dòng hoạt động kế tiếp nhau. Nếu không hoạt động con người
không thể tồn tại và phát triển được. Nhân cách được hình thành, phát triển và
cũng được bộc lộ trong hoạt động. Hoạt động của cá nhân có vai trò quyết định
trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
10
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
*Giao lưu:
Giao lưu là một hoạt động nhằm thiết lập và vận hành các quan hệ giữa
người với người. Nếu không có giao lưu thì cá nhân sẽ không thể trở thành một
nhân cách.
Các quan hệ trong giao lưu còn giúp cá nhân so sánh mình với những đối
tượng giao tiếp và qua đó tự nhận thức đúng về mình, tự hoàn thiện mình.
Chính quá trình “tự thân vận động” của mỗi người có nguồn gốc từ giao lưu.
Trong quá trình quản lý, lãnh đạo, giao lưu là hoạt động chủ yếu trong mối
quan hệ với tổ chức với người dưới quyền. Nếu không có hoạt động giao lưu
thường xuyên thì không thể diễn ra hoạt động của người lãnh đạo. Nhờ giao lưu
người lãnh đạo nắm được tình hình của quần chúng để có thể điều chỉnh mình,
chỉ đạo tốt việc ra quyết định, thực hiện quyết định quản lý.
*Tập thể:
Các tập thể cơ quan, đơn vị sản xuất, đoàn thể xã hội là môi trường quan
trọng để người lãnh đạo rèn luyện nhân cách của mình. Với tư cách là chủ thể
quản lý, người lãnh đạo tiến hành hoạt động quản lý thông qua các con người
trong tập thể và nhờ đó mà phát triển nhân cách. Ngược lại, trong quá trình chỉ
đạo, quản lý, chính bản thân người lãnh đạo lại được tập thể nhận xét thừa nhận
hay không thừa nhận. Phê bình và tự phê bình là phương tiện có hiệu quả nhằm
giúp người lãnh đạo phát triển nhân cách.
III./ YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH

ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN.
3.1/ Yêu cầu chung:
Hiện nay khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý ở trong ngành GD - ĐT được
hiểu rất khác nhau. Ở đây, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở được hiểu là
những người lãnh đạo, quản lý từ thấp đến cao trong các trường học đến phòng
11
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
Giáo dục. Họ lấy các hoạt động giáo dục làm tiêu chuẩn cơ bản, họ chịu sự lãnh
đạo của các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan.
Trong bối cảnh Quốc tế ngày nay, xã hội loài người đang bị chi phối bởi
nhiều xu thế của thời đại, thời đại bùng nổ khoa học kỹ thuật và công nghệ cao.
Ở Việt Nam, khi chuyển sang thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự quản lý điều hành của
nhà nước theo định hướng XHCN thì vấn đề nhân cách càng được quan tâm của
nhiều khoa học khác nhau.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi những
người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong ngành Giáo dục phải có bản lĩnh chính trị
vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Họ phải có tầm nhìn
xa, dự báo đúng tình hình, có tính can đảm, có tri thức, giỏi về quản lý hiện đại,
có tài trí, dám khám phá, giàu ý thức, thích ứng nhanh với yêu cầu của xã hội.
Người cán bộ quản lý giỏi không những cần thiết để đảm bảo nâng cao hiệu quả
hoạt động của cơ quan đơn vị mình phụ trách mà còn là vốn quý cho sự phát
triển của đất nước.
3.2 / Một số yêu cầu cơ bản đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý trường
học:
Trước hết phải nhận thức đầy đủ về bản chất và quy luật phát triển của nhà
trường XHCN, đánh giá được hiện trạng nhà trường, hoàn cảnh kinh tế, xã hội
của địa phương. Vì vậy: “Nhận thức đúng đắn về đối tượng và mục tiêu quản lý
là yêu cầu trước tiên đối với người lãnh đạo, quản lý về mặt tri thức quản lý

trường học”
Tổ chức và lãnh đạo nhà trường, người cán bộ quản lý (chủ thể quản lý)
phải hiểu những đặc trưng bản chất của nhà trường (đối tượng quản lý)
Hoạt động đặc trưng của trường học là thực hiện quá trình dạy học, quá
trình giáo dục một cách có mục đích, có phương pháp, có kế hoạch của nhà sư
phạm lên đối tượng giáo dục.
Người cán bộ quản lý phải nhận thức đầy đủ những mục tiêu lâu dài có
tính chiến lược của toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân, đồng thời phải hình
12
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
dung những mục tiêu cụ thể trong thời gian nhất định và trước mắt của bậc học
gắn với mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương.
Nhà trường luôn luôn gắn với cộng đồng xã hội, nên người cán bộ quản lý
phải biết liên hệ chặt chẽ với địa phương, đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo
dục bằng việc đảm bảo sự tác động tích cực qua lại giữa nhà trường với địa
phương; động viên và tổ chức các lực lượng xã hội trong địa phương tham gia
xây dựng sự nghiệp giáo dục, xây dựng nhà trường.
Nhà trường là một hệ tự điều khiển, do đó việc thường xuyên cải tiến tổ
chức phương pháp quản lý là một việc làm không thể thiếu được của người cán
bộ quản lý trường học.
Người cán bộ quản lý trường học phải biết phối hợp và quản lý các việc
sau: Kế hoạch hoá, hoạt động dạy học, giáo dục; Lao động, sản xuất, hướng
nghiệp dạy nghề; Công tác bồi dưỡng giáo viên; Hoạt động đoàn thể xã hội;
Công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật; xây dựng, sử dụng, bảo quản CSVC,
thiết bị, phương tiện làm đồ dùng dạy học; Công tác văn phòng, hành chính; Tổ
chức lao động của đội ngũ; kiểm tra nội bộ trường học. Công tác thông tin
trường học; Đúc rút sáng kiến kinh nghiệm; hoạt động nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần; Công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục.
Người cán bộ quản lý trường học ở nước ta hiện nay phải có giác ngộ sâu
sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: V ề đường lối giáo dục

của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Người cán bộ quản lý trường học phải hiểu rõ mục tiêu giáo dục, am hiểu
sâu sắc về mục đích, nội dung, phương pháp, các nguyên tắc tổ chức, các quy
trình giáo dục trên cơ sở vận dụng thành thạo, sáng tạo các quy luật chi phối
quá trình đó. Hiểu và nắm chắc công việc của người giáo viên mà mình quản lý;
có kỹ năng giao tiếp, làm việc với đối tượng là con người. Người quản lý phải
là nhà giáo mẫu mực, có kinh nghiệm, có năng lực, có uy tín về chuyên môn,
phải là “con chim đầu đàn” của tập thể sư phạm. Lao động quản lý của người
cán bộ quản lý phải thể hiện tính khoa học, tính nghệ thuật, tính sáng tạo và sự
thành thạo trong tác nghiệp.
13
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
Chương II:
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
QUẢN LÝ Ở BẬC THCS NGÀNH GIÁO DỤC
HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH.
I./ TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI CỦA HUYỆN VÀ THỰC TRẠNG
NHÂN CÁCH CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở BẬC THCS
GIÁO DỤC HUYỆN BỐ TRẠCH:
1.1 Vài nét khái quát chung về tình hình kinh tế xã hội của Huyện .
Huyện Bố Trạch là một trong bảy huyện, Thành phố của tỉnh Quảng Bình ,
nằm ở 17
0
12

đến 17
0
42


vĩ độ Bắc; 105
0
59

đến 106
0
37

kinh độ Đông, phía Bắc
giáp Huyện Quảng Trạch, Minh Hoá, Tuyên Hoá; phía Đông giáp biển Đông,
phía Nam giáp thành phố Đồng Hới, phía tây giáp nước Lào. Bố Trạch là
Huyện có diện tích tự nhiên lớn nhất Tỉnh : 2.123 km
2
, có 24 km đường bờ
biển, trên 40 km đường biên giới Việt-Lào; có đường sắt Bắc Nam, có đường
Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh chạy dọc suốt chiều dài của Huyện; có đường
giao thông thuỷ trên sông Son nối liền di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha -
Kẻ Bàng với sông Gianh ra biển.
Bố Trạch có dân số 171.373 người, mật độ dân số 81 người/km
2
được
phân bố ở 30 xã, thị trấn. Trong đó có hai thị trấn (Thị trấn Hoàn Lão, Thị trấn
Nông Trường Việt Trung), 9 xã miền núi , 2 xã miền núi rẻo cao, 13 xã thuộc
vùng gò đồi bán sơn địa, trung tâm huyện lỵ là Thị trấn Hoàn Lão.
Bố Trạch là cửa ngõ phía Bắc của tỉnh Quảng Bình, có khu danh thắng
Phong Nha - Kẻ Bàng là di sản thiên nhiên thế giới, khu danh thắng Đá Nhảy-
Lý Hoà, đường 20 Quyết thắng và phà Xuân Sơn huyền thoại một thời. Những
cảnh đẹp, danh lam thắng cảnh đó là một tiềm năng du lịch to lớn của Bố Trạch.
Bố Trạch cùng với Tỉnh đang có chính sách kêu gọi đầu tư để khai thác nguồn
lợi này làm điểm nhấn trong khai thác phát triển kinh tế của địa phương.

14
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
Với địa thế về vị trí địa lý, Bố Trạch mang nhiều tiềm năng bởi các thung
lũng, vùng gò đồi, núi đá vôi, rừng, biển đã tạo cho huyện nhiều thuận lợi để
phát triển sản xuất hàng hoá, thực hiện đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế từ Nông - Công nghiệp - Dịch vụ sang Dịch vụ - Nông - Công nghiệp, có
điều kiện để tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật để đưa nền kinh tế của
huyện phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn. Rừng gò đồi tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển cây cao su, thông nhựa,
phát triển chăn nuôi gia súc, phát triển trang trại Biển có nhiều hải sản, có
nhiều vùng nước lợ thuận lợi cho việc phát triển nuôi tôm. Tất cả những sản
phẩm nông, lâm, thuỷ hải sản có điều kiện tạo nên một môi trường để tăng thêm
giá trị sản xuất hàng hoá.
Bố Trạch có nguồn lao động 82.697 người , trong đó lao động nông
nghiệp 54.784 người . Hàng năm có hàng nghìn người đến tuổi bổ sung vào lực
lượng lao động càng ngày càng dồi dào cho huyện . Giá trị sản phẩm hàng năm:
Thời kỳ 1991-1995 là 4,3%; 1996-2000 là 6,76%; 2002 là 8,5%; 2003 là
10,18%. Bình quân thu nhập đầu người năm 1995 là 1,446 triệu đồng; năm
2000 là 2,85 triệu đồng ; năm 2003 là 3,84 triệu đồng . Tỷ lệ đói nghèo giảm từ
24,2% năm 1996 xuống 14% năm 2000 và hiện nay là : 11,1%.
Có 63 tổ chức cơ sở Đảng với số Đảng viên gần 7500 đ/c, các xã thị trấn
đều có tổ chức của Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ …
Cùng với sự phát triển Kinh tế - xã hội của Huyện nhà, GD- ĐT tiếp tục
đạt nhiều tiến bộ cả về quy mô, chất lượng và đa dạng về hình thức đào tạo, cơ
sở vật chất được quan tâm đầu tư đúng mức, hiện có 75% số trường cao tầng.
Toàn huyện có: 35 trường mầm non, 50 trường tiểu học, 30 trường THCS
-PTCS; 03 trường THPT, 02 trường phổ thông cấp 2-3; 01 trường THPT Bán
công; 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên; 01 Trung tâm kỹ thuật Tổng hợp -
Hướng nghiệp - Dạy nghề. Với một đội ngũ làm công tác quản lý trường học
khá đông. Chất lượng dạy - học không ngừng được nâng lên. Số học sinh đạt

giải học sinh giỏi cấp Tỉnh, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp, học sinh đỗ Đại học năm
15
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
sau cao hơn năm trước. Giáo dục Bố Trạch đang phấn đấu để hoàn thành mục
tiêu phổ cập THCS vào năm 2005.
1.2 Thực trạng nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các trường
THCS trên địa bàn Huyện.
Người lãnh đạo, quản lý trong trường học là người đứng đầu nhà trường
hay một tổ chức. Lao động của người lãnh đạo, quản lý không trực tiếp tạo ra
sản phẩm, nhưng nếu không có họ thì lao động của những người dưới quyền
không đem lại kết quả mong muốn.
Lao động của người lãnh đạo, quản lý mang tính chủ động, tính sáng tạo
cao. Những quyết định của họ cùng với đạo đức, lối sống, năng lực, uy tín của
người lãnh đạo, quản lý có ý nghĩa giáo dục cao đối với cán bộ giáo viên và học
sinh trong trường học cũng như đối với nhân dân, phụ huynh học sinh. Mặt
khác, thông qua việc đánh giá, nhận xét công việc của nhân viên, giáo viên, học
sinh, người lãnh đạo quản lý có thể tác động đến phẩm chất của họ. Từ đó khơi
dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, sự say mê của nghề nghiệp, tính tự giác
học tập.
Huyện Bố Trạch hiện có 30 trường THCS và PTCS. Phân đều trên địa bàn
30 xã, thị trấn của huyện. Mỗi xã, thị trấn có một trường THCS.
Tổng số cán bộ chủ chốt là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng THCS được
thống kê như sau:
- Về số lượng: Hiệu trưởng: 30 đ/c; P.Hiệu trưởng: 33 đ/c
- Đảng viên: 63 đ/c chiếm 100%.
- Trình độ: Đại học: 15 đ/c chiếm: 23,8%; CĐSP: 48 đ/c chiếm: 76,2%.
- Trình độ lý luận chính trị: Trung cấp: 41đ/c; Sơ cấp: 22 đ/c.
- Đã qua lớp bồi dưỡng CBQL Giáo dục: 57 đ/c, chiếm: 90,5%
- Độ tuổi bình quân 42,5 người cao tuổi nhất là 57 tuổi, người thấp tuổi
nhất là 34.

* Những ưu, khuyết điểm :
16
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
Từ vai trò, vị trí của người lãnh đạo, quản lý nhìn vào thực tiễn của các
trường học trên địa bàn huyện Bố Trạch hiện nay, có thể thấy đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong các trường THCS có các ưu, khuyết điểm sau:
* Về ưu điểm: Hầu hết cán bộ lãnh đạo, quản lý các trường THCS có trình
độ chuyên môn nghiệp vụ đạt chuẩn và trên chuẩn theo quy dịnh của Bộ Giáo
dục- Đào tạo ban hành.
Phần đông cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các trường THCS đã tham gia lớp
bồi dưỡng Đào tạo cán bộ quản lý Giáo dục do Bộ Giáo dục - Đào tạo và Sở
Giáo dục - Đào tạo Quảng Bình tổ chức với nhiều hình thức khác nhau (THCS:
57đ/c (90,5%)). Nhiều đồng chí đã học xong các lớp quản lý nhà nước, chương
trình Cao - Trung cấp lý luận chính trị (41 người chiếm tỉ lệ 61,5%).
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn trung thành với lý tưởng XHCN,
với đường lối của Đảng; có lập trường, quan điểm chính trị vững vàng, đạo đức
tốt; có lối sống lành mạnh, trong sạch. Trong hành động và cư xử của mình thể
hiện được phong cách chín chắn, mực thước, năng động và đúng pháp luật. Họ
biết đặt lợi ích của nhà trường lên trên lợi ích cá nhân, biết sống ân tình, nhân
nghĩa, kiên định, khiêm nhường, vị tha và bao dung.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các trường THCS có trình độ
chuyên môn đa phần là khá giỏi, vững vàng. Họ chủ yếu trưởng thành từ lực
lượng giáo viên giỏi của cấp học cho nên có khả năng đi sâu vào chỉ đạo, quán
xuyến, tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động trung tâm của trường học một
cách có hiệu quả. Đặc biệt, họ khá tích cực trong việc triển khai nội dung
chương trình giáo dục phổ thông mới và thực hiện cải tiến phương pháp giảng
dạy theo hướng phát huy tích cực, chủ động sáng tạo học tập của học sinh.
Họ là những người quản lý am hiểu tường tận công tác Giáo dục - Đào tạo,
có ý thức rèn luyện, phấn đấu thường xuyên để vươn lên nắm bắt kịp thời
những nội dung, yêu cầu mới về chuyên môn cũng như trong công tác quản lý

trường học. Số đông cán bộ lãnh đạo, quản lý có khả năng nhận xét, đánh giá về
đội ngũ do mình quản lý, hiểu được tâm tư tình cảm của giáo viên, học sinh;
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, giáo viên và học sinh; biết sử
17
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
dụng người theo khả năng, bố trí phân công công việc theo năng lực, sở trường
của mỗi người, do đó đã phát huy tốt khả năng cống hiến của họ; biết lắng
nghe, tranh thủ ý kiến đóng góp xây dựng của tập thể thông qua các tổ chức
trường học như : chi bộ Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên, Hội
đồng giáo dục
Một ưu điểm nổi trội của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các trường
THCS ở Bố Trạch thời gian qua là đã thể hiện rõ khả năng và chú trọng đúng
mức công tác xây dựng kế hoạch hoạt động của trường, xem đây là một nội
dung vô cùng quan trọng của công tác quản lý. Công tác xây dựng kế hoạch
hoạt động được tiến hành một cách chi tiết, cụ thể vừa đảm bảo đúng trọng tâm
nhiệm vụ và yêu cầu của Ngành (Bộ - Sở - Phòng), vừa phù hợp với tình hình,
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương của mỗi nhà trường.
Thực hiện dân chủ hoá trong trường học, tạo điều kiện để cán bộ giáo viên
tham gia vào quá trình quản lý trường học. Biết lắng nghe và trân trọng ý kiến
của mỗi người trong tham gia xây dựng đơn vị đồng thời có bản lĩnh quản lý
“Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”.
Trong quá trình chỉ đạo các mặt công tác của trường học người lãnh đạo,
quản lý đã làm tốt công tác tham mưu, tuân thủ một cách đúng đắn sự lãnh đạo
của Ngành chuyên môn và của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương. Nắm
vững và biết cách tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trọng tâm của nhà
trường là dạy học - Giáo dục, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trường
học ngày càng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phát triển Giáo dục.
Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể, lực lượng xã hội - biết cách huy
động sức mạnh tổng hợp của phụ huynh học sinh, nhân dân và các đoàn thể
trong công tác xã hội hoá giáo dục.

* Những khuyết điểm tồn tại: Mặc dầu đã có những cố gắng lớn, song
ngành giáo dục nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý các trường còn bộc lộ
nhiều thiếu sót trong quản lý chương trình, nội dung và chất lượng. Công tác
thanh tra và kiểm tra giáo dục còn hạn chế, thiếu những biện pháp hữu hiệu để
kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo một cách đúng đắn. Năng lực, phẩm chất,
18
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
nhận thức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý trường học còn thấp so với
yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ đổi mới.
Những thiếu sót và bất cập ấy được biểu hiện chủ yếu ở những điểm sau:
- Trình độ chuyên môn được đào tạo của đội ngũ cán bộ giáo viên nói
chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng mới được nâng lên về mặt hình
thức là chủ yếu, chất lượng hiệu quả đào tạo đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Trong thời gian qua, hệ thống GD - ĐT của nước ta chậm đổi mới; cơ chế quản
lý, phương pháp tổ chức dạy học còn mang nặng tính truyền thống, kinh
nghiệm, chịu ảnh hưởng của cơ chế tập tung quan liêu bao cấp. Nay chuyển
sang cơ chế mới, điều kiện mới, cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nắm bắt kịp thời
và đầy đủ những tri thức về kinh tế thị trường, về đào tạo, về giáo dục hiện
đại
- Công tác đào tạo, đào tạo lại còn nhiều bất cập, có trường hợp chạy theo
bằng cấp dẫn đến hạn chế về chất lượng đào tạo, không đáp ứng được yêu cầu
của công tác.
- Hiện tại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các trường học trình độ
chuyên môn đào tạo chắp nối , một số lại chưa được học qua lớp bồi dưỡng nào
về quản lý nhà nước, quản lý giáo dục hoặc trình độ lý luận chính trị.
- Năng lực và trình độ tổ chức, quản lý còn yếu, không có khả năng tổ chức
bộ máy gọn nhẹ, có hiệu quả. Thậm chí có trường hợp nhất là đối với Hiệu
trưởng lại uỷ quyền công tác chuyên môn cho phó Hiệu trưởng. Mà như chúng
ta biết trọng tâm nhiệm vụ của nhà trường là dạy và học, nếu Hiệu trưởng thoát
ly hoạt động này thì không còn là quản lý trường học nữa.

- Tính năng động, sáng tạo, chủ động không cao, phong cách làm việc
theo kiểu hành chính, mệnh lệnh còn chậm khắc phục.
* Những nguyên nhân cơ bản.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những khuyết điểm, tồn tại của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý trong trường học nhưng chung quy lại có thể nêu lên
nguyên nhân cơ bản sau :
19
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
* Vấn đề đạo tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý: Tuy Sở GD - ĐT
và phòng GD - ĐT những năm qua đã cố nhiều có gắng trong việc phối hợp với
trường Cao đẳng sư phạm, Trung tâm bồi dưỡng chính trị, trung tâm Giáo dục
thường xuyên của tỉnh để mở các lớp đào tạo bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý
nhà nước, quản lý Giáo dục và nâng cao nhận thức về lý luận chính trị cho đội
ngũ này. Song còn hạn chế về thời gian, nội dung bồi dưỡng, chưa đủ điều kiện
để hướng dẫn kiểm nghiệm giữa tiếp nhận lý luận với thực tiễn công tác. Một
bộ phận không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý trưởng thành từ thực tiễn nhưng lại
thiếu kiến thức cơ bản về nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý.
* Vấn đề bổ nhiệm cán bộ: Mặc dầu những năm gần đây đã có sự tiến bộ
hơn, song chưa thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ
theo quy trình phát hiện, lựa chọn, bồi dưỡng và đào tạo nhân tài mang tính lâu
dài. Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý trường học chưa thật sự căn cứ vào
trình độ, khả năng thực tế, tín nhiệm của quần chúng, mà còn nặng về căn cứ
vào phẩm chất chính trị, đạo đức, quan hệ
*Môi trường đào tạo: Ngành GD - ĐT ở nước ta hiện nay chưa thực sự ổn
định, còn thiếu đồng bộ, tốc độ đổi mới chậm, cơ chế quản lý ngành và thực
hiện chế độ thanh tra, kiểm tra còn kém hiệu quả gây khó khăn cho khả năng tổ
chức dạy học của các trường.
Các chủ trương chính sách của ngành chủ quản, của Nhà nước về GD - ĐT
thường hay thay đổi nên việc tổ chức quản lý dạy học, cũng như chiến lược Đào
tạo của các trường không ổn định và định hướng lâu dài được. Việc “nhập” rồi

lại “tách” trường, cấp học thời gian qua diễn ra không phải là ít, điều này đã
làm mai một hoặc mất đi tính truyền thống vốn có của các nhà trường.
*Tính quyền hạn và trách nhiệm: Quyền lợi vật chất và tinh thần của cán
bộ lãnh đạo, quản lý là yếu tố có ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến chất
lượng công tác của cán bộ nói chung, không riêng gì ở các trường học. Trong
điều kiện đời sống của cán bộ ngành GD - ĐT còn khó khăn, lao động của
người lãnh đạo, quản lý chưa được trả bằng chế độ từ chính công sức, trí tuệ,
trách nhiệm của họ cống hiến một cách hợp lý. Nên một bộ phận cán bộ lãnh
20
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
đạo, quản lý đã lạm dụng cương vị công tác để giải quyết công việc nhà trường
theo hướng vì lợi ích cá nhân, gây hậu quả xấu đối với tập thể và nhân cách
người lãnh đạo, quản lý.
Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý không chịu khó rèn luyện, nhiễm phải
những tật xấu của cuộc sống xô bồ vật chất, tiêu “xài” tiền công, tìm cách quan
hệ hoặc mắc bệnh chuộng thành tích, không quan tâm thực sự đến chất lượng
và đổi mới sự nghiệp giáo dục, vì vậy làm cho tụt dốc, uy tín lãnh đạo giảm sút,
nhân cách bị phai mờ.
II./ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶC TRƯNG VỀ NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CÁC TRƯỜNG THCS TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BỐ
TRẠCH.
Trước hết người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong trường học phải đạt chuẩn
về yêu cầu theo quy chế chung của nhà nước quy định. Có trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ về lý luận chính trị, trình độ quản lý
ngành, đảm bảo được những tiêu chuẩn ấy thì người lãnh đạo quản lý mới có
khả năng hoàn thành chức năng nhiệm vụ của mình. Đồng thời người lãnh đạo
quản lý phải đạt được những yêu cầu đặc trưng về nhân cách của người lãnh
đạo, quản lý ở phạm vi chung nhất như đã trình bày ở phần trên, đó là: Phải có
phẩm chất chính trị tư tưởng vững vàng, kiên định, biết phát hiện những khía
cạnh chính trị ẩn náu đằng sau mỗi việc làm, sự kiện hiện tượng xảy ra trong

đời sống hàng ngày của đơn vị. Người lãnh đạo, quản lý phải có đạo đức trong
sáng, độ trưởng thành về phẩm chất đạo đức, hành vi bề nổi về đạo đức để làm
gương cho tập thể, tạo niềm tin chỗ dựa cho quần chúng, biết đối nhân xử thế.
Làm người lãnh đạo phải có hai mặt đức và tài, trong đó đức là gốc. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người Cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân.” Và làm người lãnh đạo quản lý phải biết trọng
nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một con người làm việc có ích cho xã hội cho
21
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
đất nước, cho việc chung của tập thể. Làm người lãnh đạo phải có năng lực tổ
chức hoạt động chuyên môn, khả năng sư phạm, năng động sáng tạo nhạy bén,
năng lực dự báo, năng lực đối thoại.…
Bên cạnh những yêu cầu chung, cơ bản của người cán bộ lãnh đạo quản lý
nói chung, đối với người lãnh đạo, quản lý trong trường học ở Bố Trạch đòi hỏi
phải có những yêu cầu nhân cách cụ thể sau đây:
2.1 Có đạo đức và bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng.
Là người trực tiếp thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trên địa bàn
huyện, người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các trường học ở Bố Trạch trước
hết là người: “Có đạo đức và bản lĩnh chính trị tư tưởng vững vàng, trên cơ sở
lập trường của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách
mạng, với chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đây là yêu cầu
vô cùng quan trọng vì người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các trường học họ
không chỉ đại diện cho chính mình mà đại diện cho một tập thể, một nhóm xã
hội. Hơn nữa, đó lại là tập thể của những người làm công tác giáo dục, những
người trực tiếp giáo dục, đào tạo thế hệ tương lai, thực hiện chiến lược con
người của Đảng trong thời đại hiện nay.
Phẩm chất chính trị, đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở đây
được thể hiện ở tính kiên trì thực hiện Nghị quyết, chỉ thị, đường lối giáo dục

của Đảng, ở khả năng tư duy chính trị sắc sảo và những lập luận xác đáng bảo
vệ cái đúng, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ Đảng
Phẩm chất chính trị, đạo đức còn được thể hiện ở thái độ luôn luôn nhìn
nhận tập thể sư phạm của mình bằng con mắt chính trị, ở năng lực biết điều
khiển sự lệch lạc về tư tưởng chính trị của tập thể mình quản lý.
Các trường học ở nước ta nói chung, ở Bố Trạch nói riêng không chỉ dạy
chữ, dạy nghề, dạy người mà phải đối đầu với không ít những khắc nghiệt của
xã hội thời cơ chế thị trường “bạo lực, ma tuý, lừa đảo, thi hộ, mua bán bằng
cấp ”. Với trọng trách là những người lãnh đạo, quản lý nhà trường, hơn ai hết
họ phải là những người vững vàng, đứng mũi chịu sào trước những "phong ba
bão táp".
22
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
2.2 Có năng lực lãnh đạo công tác chuyên môn.
Năng lực lãnh đạo công tác chuyên môn là yêu cầu không thể thiếu ở
người cán bộ quản lý trong các trường học; nó vừa là điều kiện vừa là phương
tiện để tỏ rõ bản lĩnh chính trị - đạo đức và tài năng của người quản lý. Yêu cầu
này được thể hiện ở những năng lực cụ thể như sau:
- Say mê làm công tác quản lý giáo dục: Niềm say mê làm nảy sinh khát
vọng hành động, khát vọng vươn lên. Say mê tạo tạo ra sự quên mình vì công
việc và từ đó mà nảy sinh những sáng kiến, làm tăng hiệu quả công việc. Nó
cũng là cơ sở của lòng yêu nghề, yêu người, yêu trẻ của các nhà sư phạm.
- Nắm vững khoa học quản lý giáo dục: Xét về năng lực, trước hết phải
hiểu biết các bộ môn trong chương trình cấp mình quản lý. Về điều này
V.A.XuKhômlinxki cho rằng: “Hiệu trưởng nhất thiết phải thấy tiền tiêu của
khoa học, cơ sở khoa học được giảng dạy trong nhà trường, hiểu biết tất cả các
bộ môn trong kế hoạch dạy học ở trường”. Còn M.I.Kôđakov nhấn mạnh:
“Hiệu trưởng nhà trường không phải là nhà hành chính đơn thuần. Đó là nhà chỉ
đạo về chuyên môn trước hết là nhà giáo dục, nhà tổ chức, người cán bộ giảng
dạy xuất sắc”. Và Lê-nin nói: “Muốn quản lý được cần am hiểu công việc và

phải là một cán bộ quản lý giỏi. Nắm vững khoa học quản lý giáo dục là nắm
vững các nguyên tắc, các phương pháp quản lý giáo dục và nghiệp vụ quản lý
trường học”. Ngoài ra, những tri thức về tâm lý học, giáo dục học, đạo đức học,
xã hội học cũng rất cần cho công tác của các nhà quản lý giáo dục.
- Khả năng đi sâu vào bản chất của các hiện tượng giáo dục: Để thực hiện
tốt nhiệm vụ quản lý người cán bộ quản lý giáo dục phải có khả năng quan sát,
suy xét, nhìn nhận bản chất các hiện tượng giáo dục, tìm ra nguyên nhân và hậu
quả của các hiện tượng xảy ra trong giáo dục. Khả năng này giúp họ lập kế
hoạch và ra quyết định quản lý một cách kịp thời, chính xác.
- Có tinh thần trách nhiện cao với công việc: Hơn bất cứ ngành nghề nào,
nghề sư phạm không cho phép người thầy giáo sai sót, thiếu tinh thần trách
nhiệm vì, hậu quả của nó rất nặng nề, khó khắc phục. - Người cán bộ lãnh đạo,
23
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
quản lý các trường học phải am hiểu chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu tình hình
phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá và nhu cầu của địa phương
2.3. Phải biết sử dụng kiến thức về tâm lý học trong quản lý.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi cần phải có một giác quan tinh tế.
Phải có “con mắt tinh” để quan sát con người và sự vật, để dùng người đúng
việc, dùng vật đúng chỗ, tạo ra hiệu quả trong quản lý cao. Phải có “tai thính”
để nghe đúng tâm tư, nguyện vọng của giáo viên và học sinh, phát hiện dư luận
chung để điều chỉnh hoạt động quản lý của mình.
Tâm lý học tìm ra cơ chế tâm lý của quá trình các đối tượng học sinh lĩnh
hội nền văn hóa của xã hội, của nhân loại và biến nó thành vốn riêng của mình,
trên mối quan hệ giữa tri thức tiếp thu được với phát triển các chức năng tâm lý
cao cấp của học sinh, sinh viên, học viên; tìm cơ chế lĩnh hội của từng lứa tuổi
cũng như tác động, ảnh hưởng của nhóm, xã hội đến sự hình thành nhân cách
của mỗi con người. Việc hình thành những vấn đề này thể hiện mối liên hệ chặt
chẽ của ngành tâm lý học lứa tuổi với ngành tâm lý học sư phạm.
Nhà Giáo dục học nổi tiếng người Nga: K.D.U.Linxki trong tác phẩm

“Con người là đối tượng của Giáo dục” đã có cống hiến lớn cho sự phát triển tư
tưởng tâm lý sư phạm. Ông cho rằng: “Muốn giáo dục con người thì cần phải
hiểu biết con người về mọi mặt". Rõ ràng, những hiện tượng tâm lý của học
sinh các cấp diễn ra trong quá trình dạy học cần phải được nghiên cứu riêng, nó
là đối tượng của tâm lý học sư phạm.
Người làm công tác lãnh đạo, quản lý trong các trường học phải nắm bắt
được những quy luật tâm lý của dạy học và giáo dục phù hợp với từng lứa tuổi.
Phải nắm được vai trò, vị trí của các biểu hiện, sự phát triển và quy luật vận
hành của các hiện tượng tâm lý cá nhân và xã hội đang diễn ra trong hoạt động
của học sinh và hoạt động của người thầy giáo.
Phải nắm bắt được các biện pháp tâm lý tác động đến học sinh và giáo
viên nhằm giải quyết những nhiệm vụ của giáo dục ở các cấp học đạt kết quả
cao. Hơn thế nữa, người lãnh đạo quản lý GD - ĐT phải nắm bắt được phương
pháp tâm lý học sư phạm là phương pháp nhận thức khoa học và cải tạo thế
24
Tiểu luận cuối khoá Trường chính trị Quảng Bình
giới, là những quan điểm duy vật biện chứng về bản chất tâm lý, về sự thống
nhất ý thức, nhân cách và hoạt động. Chẳng hạn, tâm lý con người là sản phẩm
cao nhất của sự phát triển vật chất là chức năng của não, là sự phản ánh hiện
thực khách quan, là các quá trình tâm lý, là sự thống nhất giữa ý thức, nhân
cách hoạt động của con người
Để đạt được mục tiêu của GD - ĐT, cán bộ lãnh đạo các trường, các nhà
giáo phải nắm bắt được tâm lý học sinh ở từng độ tuổi. ở mỗi độ tuổi, tâm lý
con người, đặc điểm nhận thức, tình cảm, ý chí có những nét riêng và được hình
thành, phát triển cùng với sự phát triển của những đặc điểm sinh lý, thể chất lứa
tuổi đó.
- Ở độ tuổi học sinh THCS, đây là tuổi dậy thì, quá trình hưng phấn mạnh
hơn quá trình ức chế, khả năng cảm giác, tri giác phát triển gần như đến mức
hoàn thiện. Về tình cảm ở lứa tuổi này các em dễ xúc động, ý thức rõ về giới
tính, thích thể hiện “Tính người lớn” của mình. ý chí chuyển sang một mức độ

mới, động cơ hoạt động mang tính xã hội. Giai đoạn này, tác động của xã hội,
nhà trường ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành nhân cách, xu hướng phát triển.
Vì vậy, cần có thái độ ứng xử đúng mức tạo điều kiện để các em vượt qua những
khó khăn của giai đoạn này. Một trong những thái độ đúng đắn trong giáo dục là
tôn trọng và yêu cầu cao đối với các em, có thái độ bao dung, giúp đỡ và hổ trợ
các em một cách kín đáo, tế nhị.
Đối với giáo viên và các thành viên trong trường, người lãnh đạo, quản lý
phải biết và am hiểu cơ sở tâm lý học của hoạt động giảng dạy, phải nắm được
những phẩm chất nhân cách của đội ngũ cán bộ giáo viên. trên cơ sở gần gũi,
xây dựng tình đồng chí, đồng đội chân thành, thu phục phát huy khả năng của
từng giáo viên và xây dựng đội ngũ thầy cô giáo có khả năng kết hợp tốt các
hoạt động của nhà trường.
Như vậy cũng chưa đủ, người lãnh đạo, quản lý trường học còn phải nắm
được những vấn đề trong giao tiếp sư phạm như: Thông tin, tình cảm, vui chơi,
giải trí Chính vì vậy, xây dựng môi trường giáo dục, môi trường sư phạm là
vô cùng quan trọng trong các nhà trường, là cơ sở quan trọng để người lãnh
25

×