Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả dạy học quay phải, quay trái cho học sinh lớp 1 tại trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.23 MB, 16 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi:
- Ủy ban nhân dân thị xã …………..;
- Hội đồng Xét công nhận sáng kiến thị xã.
- Họ và tên: ………….

Giới tính: Nam

- Ngày, tháng, năm sinh: ……………..
- Đơn vị công tác: Trường tiểu học ………………...
- Chức vụ/ chức danh: Giáo viên thể dục.
- Trình độ chun mơn: Đại học sư phạm giáo dục thể chất
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả dạy học quay phải, quay trái cho học sinh lớp 1 tại trường tiểu
học …………………..c”.
1. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục thể chất
2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử (ghi ngày nào
sớm hơn): 08/9/2020.
3. Mô tả bản chất của sáng kiến:
3.1. Mục tiêu:
Nhằm tìm ra một số giải pháp hữu hiệu giúp các em học sinh lớp 1 thực
hiện đúng động tác quay phải, quay trái. Cũng như giúp các em mạnh dạn, tự
tin, tự giác, tích cực, luyện tập thể dục hơn trước. Làm cho em say mê, hứng thú
trong tập luyện. Lớp học trở nên sôi động, các em mong chờ để được học tiết thể
dục.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 1 trường tiểu học ……………….


- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 1 đã và đang học trong trường tiểu học
………. từ năm 2019 đến nay.
3.3. Cơ sở pháp lý:
Hoạt động giáo dục thể chất trong nhà trường có vai trị hết sức quan trọng,
giúp học sinh phát triển một cách toàn diện về đức, trí, thể, mỹ… Bên cạnh đó,
cịn trang bị cho các em một số kiến thức, kỹ năng cơ bản để tập luyện, giữ gìn
sức khỏe, nâng cao năng lực, góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong
1


nhanh nhẹn, thói quen tự giác tập luyện TDTT. Giáo dục thể chất là một hình
thức giáo dục chuyên biệt cùng với các hoạt động giáo dục khác (đạo đức, thẩm
mỹ…) góp phần giáo dục tồn diện cho thế hệ trẻ.
Mơn giáo dục thể chất cấp tiểu học có nhiệm vụ trang bị cho học sinh một
số tri thức, kỹ năng đơn giản cần thiết nhằm rèn luyện tư thế cơ bản; làm giàu
vốn kỹ năng vận động để các em học tập một cách hiệu quả nhất. Từ đó góp
phần bảo vệ, tăng cường sức khỏe và phát triển các tố chất thể lực cho học sinh.
Ngồi ra, cịn góp phần giáo dục ý thức tổ chức, kỷ luật và một số phẩm chất
đạo đức khác, tạo tiền đề cho quá trình hình thành nhân cách tốt cho học sinh. Vì
vậy, mơn giáo dục thể chất nói chung và nội dung đội hình đội ngũ nói riêng
được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức ở tất cả các cấp học, ngành
học.
Đội hình đội ngũ là một nội dung quan trọng của chương trình giáo dục thể
chất lớp 1. Rèn luyện đội hình đội ngũ trong quá trình dạy học góp phần nâng
cao hiệu quả giờ thể dục. Đặc biệt “Động tác quay phải, quay trái” là động tác
được phân bố xuyên suốt ở tất cả các khối lớp và các cấp học, làm nền tảng cơ
bản cho những nội dung học khác. Học sinh lớp 1 đây là giai đoạn đầu của lứa
tuổi cắp sách tới trường, các em còn bỡ ngỡ, bước đầu làm quen với trường mới,
bạn mới, thầy cô giáo mới. Các em rất hiếu động, ít tập trung chú ý, định hướng
khơng gian chưa rõ. Bài tập quay phải, quay trái tưởng chừng rất quen thuộc

nhưng để các em xác định và biết cách xoay người theo đúng hướng khẩu lệnh
thì khơng đơn giản, mất rất nhiều thời gian, công sức của cả thầy và trị.
3.4. Thực trạng:
3.4.1: Về chương trình sách giáo khoa: Theo chương trình giáo dục phổ
thơng mới thời lượng dạy học môn giáo dục thể chất bộ sách kết nối tri thức
với cuộc sống ở lớp 1 là 70 tiết trong cả năm học (tăng hơn 1 tiết so với
chương trình lúc trước, như vậy các em sẽ được học 2 tiết thể dục/ tuần). Nội
dung được phân bổ với tỉ lệ như sau: Đội hình đội ngũ 20% (14 tiết); Bài thể
dục 10% (7 tiết); Tư thế và kĩ năng vận động cơ bản 35% (24 tiết); Thể thao
tự chọn 25% (18 tiết); Đánh giá cuối học kì, cuối năm học 10% (7 tiết); Kiến
thức chung về giáo dục thể chất được dạy xen kẽ trong mỗi tiết học. Riêng bài
4 (trong chủ đề 1 đội hình đội ngũ) động tác quay các hướng (quay phải,
quay trái, quay sau) với thời lượng 3 tiết.
3.4.2: Một số thuận lợi và khó khăn:
* Thuận lợi:
- Bản thân tơi ln nhiệt tình, năng nổ, vui vẻ gần gũi học sinh. Không ngừng
học tập nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, tích cực đổi mới phương pháp
giảng dạy.
- Luôn được sự ủng hộ động viên, giúp đỡ của anh em đồng nghiệp, nhất là giáo
viên trong nhóm thể dục.
2


- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm và đầu tư cơ sở vật chất và đồ dùng
dạy học môn giáo dục thể chất.
- Hiện nay các nguồn thông tin như tài liệu, tranh ảnh, video… trên intetnet và
trên trang hành trang số của nhà xuất bản giáo dục rất phong phú.
- Đầu năm học tất cả các giáo viên giảng dạy môn giáo dục thể chất lớp 1 đều
được tập huấn theo chương trình sách giáo khoa lớp 1 mới.
- Các em lớp 1 được học 2 tiết giáo dục thể chất /tuần như lớp 2, 3, 4, 5 nên giáo

viên có nhiều thời gian để giáo viên hướng dẫn học sinh tập luyện hơn. Đa số
các em học sinh u thích và mong đến giờ học mơn giáo dục thể chất.
* Khó khăn:
+ Về phía học sinh:
- Đội hình đội ngũ thường được tiến hành tập luyện ngồi sân bãi, khơng gian
rộng, số lượng học sinh đơng nên các em dễ bị phân tán, dễ bị mất tập trung;
những em ở phía sau nếu khơng chú ý theo dõi giáo viên thị phạm sẽ không thực
hiện được động tác.
- Nhiều em học sinh lớp 1 chưa phân biệt được bên phải, bên trái và chưa biết
xoay người theo đúng hướng, đúng khẩu lệnh. Khi thực hiện động tác quay,
nhiều em học sinh thường sử dụng hai gót chân làm trụ nên không giữ được
thăng bằng, bị nghiêng người, lảo đảo và vung tay. Tình trạng đó lặp lại nhiều
lần trong buổi học làm đội hình lộn xộn, ồn ào khiến các em mất tự tin, không
tập trung dẫn đến chán nản trong học tập.
+ Về phía giáo viên:
- Trong thực tế khi dạy quay phải, quay trái, giáo viên chưa có biện pháp giúp
học sinh xác định hướng quay hiệu quả.
- Giáo viên chưa chủ động sáng tạo trong dạy học, chưa tạo hứng thú cho học
sinh và không kịp thời uốn nắn động tác sai.
+ Về phía phụ huynh học sinh:
- Một số phụ huynh chưa hiểu rõ vai trò của giáo dục thể chất trong Nhà trường,
cịn quan niệm giáo dục thể chất là mơn phụ khơng quan trọng.
- Phụ huynh ít quan tâm nhắc nhở con em mình học hành.
+ Về điều kiện cơ sở vật chất:
- Trường chưa có phịng tập đa năng, sân tập ít bóng mát nên việc dạy học ngồi
trời nhiều khi phụ thuộc vào điều kiện thời tiết.
- Sân tập gần với các lớp khác nên các em không được thoải mái tập luyện, hò
reo cổ vũ khi vui chơi vì sợ ảnh hưởng đến các lớp học khác nên phần nào cũng
làm giảm sự hưng phấn của các em.
Khi chưa áp dụng sáng kiến này vào trong giảng dạy. Tôi theo dõi kết quả

thực hiện động tác quay phải, quay trái năm học 2019 - 2020. Kết quả như sau:
3


Khối
lớp
1


số
135

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng


Tỉ lệ

24

17,8%

61

45,2%

50

37,0%

3.5. Về nội dung của các giải pháp
Để dạy học quay phải, quay trái đạt kết quả cao; tạo cho các em niềm say
mê, hứng thú trong tập luyện; nắm vững được nội dung bài học, khi giảng dạy
giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh thật tỉ mỉ, cụ thể, chi tiết, cũng như đưa
ra các hình thức tổ chức tập luyện phù hợp. Đồng thời người thầy phải biết vận
dụng một cách khéo léo các phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp, giúp học
sinh hình thành kỹ năng cơ bản về động tác quay phải, quay trái.
3.5.1: Giải pháp 1: Tổ chức hiệu quả việc đổi mới phương pháp giảng dạy
và tập luyện: Để dễ nắm bắt động tác, tôi cho học sinh:
- Làm quen với khẩu lệnh: Khi bắt đầu giảng dạy động tác quay phải, quay trái,
tôi cho học sinh làm quen với khẩu lệnh. Tôi giới thiệu khẩu lệnh: “Bên phải quay”, “Bên trái - quay” và hướng dẫn cho học sinh biết trong khẩu lệnh: “Bên
phải” hoặc “Bên trái” đó chính là dự lệnh, nhằm báo cho người tập biết hướng
thực hiện động tác. Còn “Quay” chính là động lệnh, dứt động lệnh người tập
mới thực hiện động tác.
- Quan sát tranh ảnh và động tác thị phạm: Tôi cho các em xem tranh và giải

thích động tác trên tranh. Rồi giáo viên vừa hơ khẩu lệnh vừa làm mẫu toàn bộ
động tác cho học sinh quan sát.
- Tự thực hiện động tác (tự khám phá): Sau khi hướng dẫn xong kỹ thuật động
tác, tôi tiến hành cho học sinh tự khám phá động tác để xem khả năng tiếp thu
động tác của các em. Từ đó giáo viên đưa ra các phương pháp giảng dạy phù
hợp.
Trước khi học sinh bước vào tập luyện, tôi chia động tác ra các giai đoạn
giảng dạy như sau:
 Tổ chức giảng dạy
* Hướng dẫn học sinh xác định hướng quay:
Tôi đã áp dụng các giải pháp giúp học sinh xác định cơ thể mình với
hướng quay cụ thể trên địa hình thực tế của sân tập.
- Cách 1: Để học sinh xác định hướng quay một cách dễ dàng, ngay từ tiết học
đầu tiên tôi cho các em phân biệt tay phải, tay trái, chân phải, chân trái, lặp đi
lặp lại nhiều lần để học sinh nhớ.
Cách hướng dẫn như sau: Giáo viên cho các em đeo hoa vào tay phải, để
phân biệt tay phải, tay trái. Hỏi học sinh “Tay phải đâu?” các em giơ tay đeo hoa
4


lên, “Tay trái đâu?” các em giơ tay không đeo hoa lên. Giáo viên kết hợp vừa
hỏi vừa làm mẫu theo phương pháp soi gương, giơ tay phải, tay trái thực hiện
cùng chiều với học sinh để các em cùng làm. Sau khi học sinh đã quen và xác
định được tay phải, tay trái, giáo viên chỉ hỏi học sinh và không làm mẫu, để các
em tự phân biệt tay phải, tay trái. Việc đưa các đạo cụ vào trong giờ học giúp
học sinh thích thú và phấn khởi tập luyện hơn, giờ học trở nên sinh động.
Khi học sinh phân biệt được tay phải, tay trái. Giáo viên cho học sinh tháo
hoa ra và lại hỏi: “Tay phải đâu?”, “Tay trái đâu?” để các em nhớ và phân biệt
được tốt hơn. Nếu như lúc này vẫn có em giơ sai tay, giáo viên có thể cho lớp
dừng tập và hướng dẫn lại.

Để học sinh nhận biết hướng nhanh hơn, giáo viên nâng dần độ khó, hơ
với tốc độ nhanh hơn, yêu cầu các em phải phản xạ nhanh. Quy định cho các
em, khi hô “Phải” các em giơ tay phải, khi hô “Trái” các em giơ tay trái. Giáo
viên có thể hỏi: trái, phải, trái hoặc: phải, phải, trái. Sau đó tổ chức thi đua giữa
các tổ, tổ nào ít bạn giơ sai tay nhất sẽ được tuyên dương, tổ nào nhiều bạn giơ
sai tay nhất sẽ phải múa một bài do tổ thắng hát. Thông qua biện pháp thi đua,
học sinh hào hứng và phân biệt được bên phải, bên trái rất nhanh.
Khi tập luyện lúc đầu trước khi hơ khẩu lệnh, giáo viên có thể hỏi học
sinh “Tay phải (tay trái) đâu?” rồi yêu cầu các em đưa tay đó sang ngang, để xác
định hướng quay. Rồi hạ tay đó xuống về tư thế đứng nghiêm. Giáo viên hướng
dẫn học sinh, khi nghe thấy khẩu lệnh “Bên phải (bên trái) – quay” kết thúc từ
quay thì các em quay về hướng tay vừa chỉ.
Kết hợp việc xác định hướng quay trên sân trường, giáo viên nhắc học
sinh tay cầm bút là tay phải, vì tất cả các em viết bằng tay phải, tay còn lại là tay
trái.
- Cách 2: Sử dụng các tấm biển có mũi tên chỉ dẫn
Chuẩn bị: Những tấm biển vịng trịn đường kính 50cm, cột cao 120cm (tương
tự biển báo giao thông) ở giữa có mũi tên chỉ dẫn các hướng phải (hoặc trái).
Hình ảnh minh chứng (Phụ lục 1)
Áp dụng vào thực tế:
- Tôi cho học sinh tập hợp theo một hướng nhất định. Đặt các tấm biển có mũi
tên chỉ dẫn ở phía trước, phía sau, bên phải, bên trái đội hình để giúp học sinh
nhanh chóng xác định hướng quay của cơ thể với hướng sân trường.
- Ở tiết học đầu tiên, giáo viên chỉ hướng dẫn thật kỹ một động tác quay phải.
Khi học sinh đã định hình thực hiện quay tương đối thuần thục và phân biệt
được bên phải, giáo viên giải thích và các em sẽ nhận biết bên cịn lại là bên trái
(ngược chiều mũi tên).
Hình ảnh minh chứng (Phụ lục 2)
* Hướng dẫn học sinh thực hiện động tác quay phải, quay trái theo hai cử động.
5



Giáo viên làm mẫu toàn bộ động tác quay, sau đó hướng dẫn chậm động tác
chân. Tiếp đó giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện động tác quay phải, quay
trái theo hai cử động.
- Đối với với động tác quay phải:
+ Cử động 1: Dùng gót chân phải làm trụ và nửa trước bàn chân trái làm điểm tì,
quay người sang bên phải (900).
+ Cử động 2: Thu chân trái về sát chân phải thành tư thế đứng nghiêm.
- Đối với động tác quay trái:
+ Cử động 1: Dùng gót chân trái làm trụ và nửa trước bàn chân phải làm điểm tì,
quay người sang bên trái (900).
+ Cử động 2: Thu chân phải về sát chân trái thành tư thế đứng nghiêm.
Sau đó giáo viên cho học sinh tập với 2 cử động này.
Đối với các em học sinh lớp 1, giáo viên giới thiệu và làm mẫu động tác
quay phải, quay trái đúng kỹ thuật. Nếu học sinh nào có năng khiếu và thực hiện
được đúng kỹ thuật động tác quay phải, quay trái thì giáo viên khen ngợi, tuyên
dương. Còn nếu các em chỉ nhận biết đúng hướng và xoay người theo đúng
hướng khẩu lệnh cũng đảm bảo yêu cầu vì theo hướng dẫn đánh giá môn giáo
dục thể chất 1 (sách giáo viên) đối với động tác quay phải, quay trái là học sinh:
“Nhận biết đúng hướng và biết xoay người theo hướng khẩu lệnh”.
* Dạy phối hợp hoàn chỉnh động tác:
Khi các em đã nhận biết đúng hướng và biết xoay người theo hướng khẩu lệnh,
tơi cho học sinh tập phối hợp hồn chỉnh động tác quay trái, quay phải.
- Động tác: Từ tư thế đứng nghiêm giáo viên hô khẩu lệnh: “Bên phải (bên trái)
+ quay”.
+ Tư thế chuẩn bị: Đứng nghiêm
+ Khẩu lệnh: “Bên phải (bên trái) – quay”
- Kỹ thuật:
+ Động tác quay phải: Học sinh đứng nghiêm, lấy gót chân phải làm trụ và nửa

trên của bàn chân trái làm điểm tì quay người sang phải (90 0), sau đó đưa bàn
chân trái về cùng với bàn chân phải thành hình chữ V ở tư thế đứng nghiêm.
Hình ảnh minh chứng (Phụ lục 3)
+ Động tác quay trái: Học sinh đứng nghiêm, dùng gót chân trái làm trụ và nửa
trên của bàn chân phải làm điểm tì quay người sang trái (900), sau đó đưa bàn
chân phải về cùng với bàn chân trái thành hình chữ V ở tư thế đứng nghiêm.
Hình ảnh minh chứng (Phụ lục 4)
- Khi quay hai tay áp nhẹ vào đùi, quay đúng hướng, không để mất thăng bằng.
6


Giáo viên làm mẫu chậm kết hợp với giải thích để học sinh quan sát. Sau
đó giáo viên hơ khẩu lệnh và tập cùng chiều với học sinh, kết hợp với các biển
chỉ dẫn xác định hướng quay trên sân. Ở tiết học đầu tiên tôi chỉ hướng dẫn các
em thực hiện một động tác quay phải, để các em thực hiện thật thành thục. Sau
đó tơi mới hướng dẫn các em động tác quay trái và phối hợp hô một lần quay
trái, một lần quay phải hoặc hai lần quay bên nọ, một lần quay bên kia để học
sinh xác định hướng quay. Khi học sinh xác định tốt hướng quay tôi bỏ biển chỉ
dẫn hướng quay để các em tự xác định hướng quay.
Chú ý: Khi hô khẩu lệnh, giữa động lệnh và dự lệnh giáo viên nên hơ
chậm để học sinh có thời gian xác định hướng quay và góc quay.
Đối với học sinh lớp 1, chủ yếu là tập theo kiểu bắt chước nên khi giảng
dạy giáo viên tránh phân tích dài dịng, chỉ nêu khẩu lệnh và giảng giải yếu lĩnh
kỹ thuật cơ bản của động tác và phải làm mẫu cùng chiều với học sinh để các em
nắm bắt động tác nhanh hơn.
 Tổ chức cho học sinh tập luyện:
Như chúng ta đã biết, đặc thù của môn học giáo dục thể chất là môn học
thực hành, phần lớn thời gian của giờ học là dành cho các em tập luyện. Vì vậy
với bất kì giờ học giáo dục thể chất nào, phần tập luyện của học sinh là phần
quan trọng nhất. Để giờ học có hiệu quả:

- Sau khi giáo viên hướng dẫn xong kỹ thuật động tác, bắt đầu tiến hành cho cả
lớp tập luyện, giáo viên quan sát, sửa sai cho học sinh.
- Để giờ học không bị nhàm chán, khơi gợi hứng thú tập luyện, phát huy tính tự
giác, tích cực cho học sinh trong luyện tập, giáo viên phải thường xuyên thay
đổi các hình thức tổ chức tập luyện như:
+ Tập luyện đồng loạt (cả lớp cùng tập) dưới sự điều khiển của giáo viên và cán
sự lớp.
+ Tập luyện theo tổ, nhóm dưới sự điều khiển của cán sự tổ: Ở hình thức này,
các em được tập luyện nhiều hơn và tự kiểm tra được động tác kỹ thuật của
nhau, giúp nhau cùng tiến bộ; phát huy được tính tự giác, tích cực của học sinh.
Giáo viên có thời gian hướng dẫn cho học sinh yếu. Tập luyện theo tổ, nhóm
giúp các em phát hiện ra cái sai của bạn và của bản thân từ đó tự sửa sai cho
mình, cho bạn.
Hình ảnh minh chứng (Phụ lục 5)
+ Tập luyện cặp đơi: Đây là hình thức hai em học sinh tạo thành một cặp đứng
quay mặt vào nhau, một bạn hơ một bạn tập sau đó đổi ngược lại. Ở hình thức
này các em khơng chỉ phát hiện ra cái sai của bạn, uốn nắn chỉnh sửa động tác
sai cho bạn mà tập luyện cặp đơi cịn giúp các em tập và biết làm chỉ huy, hướng
dẫn bạn học.
Hình ảnh minh chứng (Phụ lục 6)
7


+ Tập luyện cá nhân: Các em tự hô, tự tập, tự uốn nắn và chỉnh sửa động tác cho
mình.
+ Thi đua trình diễn kết quả tập luyện: Trong những phương pháp dạy học môn
thể dục đây là một trong những phương pháp đem lại hiệu quả cao nhất. Qua
phương pháp này tạo cho các em tinh thần thi đua học tập. Quá trình tổ chức thi
đua trình diễn giáo viên có thể tổ chức trình diễn theo cá nhân hoặc tổ nhóm,
giáo viên nên khen nhiều để động viên các em.

Để nâng cao hứng thú tập luyện, giáo viên thường xuyên thay đổi các đội
hình tập luyện như đội hình hàng ngang, hàng dọc…
Khi học sinh đã định hướng tốt, tôi nâng cao phản xạ và nâng dần độ khó
của động tác quay phải, quay trái để tạo hứng thú tập luyện cho các em.
Ví dụ: Tơi cho hai hàng quay mặt vào nhau, Khi tôi hô: “Bên phải (bên trái)
- quay” thì hai hàng sẽ quay ngược chiều nhau. Nếu em nào xác định hướng
quay khơng tốt, nhìn các bạn đứng đối diện với mình thì chắc chắn sẽ quay sai.
Tôi đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán sự lớp. Vì những em này có vai trị rất
quan trọng, thay giáo viên điều hành tổ và lớp tập luyện. Chính vì vậy, ngay từ
những tiết học đầu tiên, tôi đã lựa chọn những em học sinh học tốt, hơ tốt, nhậy
bén với các tình huống để tập huấn và bồi dưỡng.
* Lưu ý khi giảng dạy giáo viên phải lưu ý: Chiếu cố đặc điểm cá nhân. Đối với
các em học sinh khuyết tật, giáo viên phải đưa ra các bài tập khác để thay thế
(chẳng hạn học sinh bị khuyết tật về chân thì cho các em tập các bài tập về tay
để thay thế).
3.5.2: Giải pháp 2: Tìm ra nguyên nhân học sinh thực hiện động tác
quay phải, quay trái chưa đúng và biện pháp khắc phục.
* Nguyên nhân học sinh thực hiện động tác quay phải, quay trái chưa đúng:
Qua quá trình giảng dạy và tổ chức cho học sinh tập luyện, tôi đã phát
hiện ra những nguyên nhân sai chủ yếu của học sinh khi thực hiện động tác quay
phải, quay trái. Cụ thể như sau:
- Sai do chưa xác định được hướng quay, sai góc quay
- Khi quay bị mất thăng bằng: Do các em sử dụng cả hai gót chân làm trụ.
- Quay bị lắc người, có nhiều động tác thừa, chưa phối hợp nhịp nhàng các bộ
phận cơ thể.
* Biện pháp khắc phục:
- Nếu học sinh sai do chưa xác định được hướng quay và góc quay: Giáo viên
đưa ra các bài tập giúp học sinh xác định hướng quay như: Phân biệt bên nào cơ
thể học sinh đang đứng là bên phải, bên nào cơ thể là bên trái. Trước khi thực
hiện động tác quay phải, giáo viên có thể hỏi học sinh: “Tay phải của các em

đâu?” Học sinh đưa tay phải sang ngang, sau đó bỏ xuống, giáo viên hô: “Bên
phải - quay”, các em quay về hướng tay vừa chỉ. Tương tự như thế với động tác
8


quay trái. Một vài lần các em sẽ xác định được hướng quay và góc quay, khơng
cần đưa tay.
- Sai do bị mất thăng bằng. Cách sửa: Nếu trong lớp nhiều em sai, giáo viên cho
lớp dừng tập. Giáo viên làm mẫu lại thật chậm động tác cho học sinh xem và
cho học sinh tập chậm hai cử động nêu trên cho tới khi thực hiện động tác thuần
thục theo nhịp hơ bình thường.
- Quay bị lắc người, có nhiều động tác thừa, chưa phối hợp nhịp nhàng các bộ
phận cơ thể: Khi quay các em thường bị vung vẩy tay, thân người bị lắc. Chính
vì thế, giáo viên u cầu học sinh khi quay hai bàn tay áp nhẹ vào đùi. Lấy gót
bàn chân nọ làm trụ và nửa trên của bàn chân kia làm điểm tì, quay từ từ phối
hợp nhịp nhàng các bộ phận cơ thể.
3.5.3: Giải pháp 3: Sử dụng sáng tạo các trò chơi vận động đơn giản để
rèn luyện kỹ năng thực hiện.
Một trong những hoạt động gây sự chú ý, kích thích học sinh tham gia
đơng đảo nhất là hoạt động trị chơi. Thơng qua các trị chơi sẽ giúp giáo viên
thân thiện, gần gũi với các em hơn. Trị chơi khơng chỉ là phương tiện giáo dục
mà còn được nâng lên vị trí một phương pháp giáo dục đó là: “Phương pháp vui
mà học, học mà vui”. Như Bác Hồ đã từng nói: “Trong lúc học, cũng cần cho
chúng vui, trong lúc vui cũng làm cho chúng học”. Vì vậy trị chơi luôn cuốn hút
các em ở tất cả các bậc học.
Nếu việc giảng dạy và luyện tập các kiến thức của mơn thể dục theo u
cầu của chương trình mà khơ khan cứng nhắc sẽ làm ức chế tâm lý, nhận thức
của học sinh, từ đó sẽ hình thành trong các em những thói quen tập luyện gượng
ép, bắt buộc, làm hạn chế kết quả. Nếu giáo viên chọn và tổ chức trò chơi hợp lý
với tiết học sẽ giúp cho học sinh có tinh thần thoải mái, tiếp thu bài học… luyện

tập các kiến thức một cách tự giác, tiết dạy sẽ đạt hiệu quả cao.
Chính vì vậy, mà tơi đã lồng ghép sử dụng các trò chơi vận động đơn giản
trong khi dạy động tác quay phải, quay trái để giúp các em xác định hướng phải,
trái đồng thời tạo tinh thần thoải mái vui vẻ cho học sinh chẳng hạn như:
* Trò chơi 1: Bịt mắt bắt dê.
+ Chuẩn bị:
- Tập hợp lớp thành vòng tròn, em nọ cách em kia khoảng một sải tay, mặt
hướng vào trong.
- Chọn ba em vào trong vịng trịn, trong đó có hai em đóng vai “dê” bị lạc và
một em người đi bắt dê. Bịt mắt em đóng vai người đi bắt dê.
+ Cách chơi:
- Khi có lệnh, cả ba cùng di chuyển trong vịng trịn, các em đóng vai “dê” thỉnh
thoảng kêu be, be… em đi bắt chạy đến chỗ có tiếng kêu để bắt. Các em đúng
xung quanh hị reo cổ vũ.
9


- Sau khoảng 1-2 phút chơi, nếu bắt được “dê” thì người đi bắt dê sẽ thắng và
ngược lại.
- Tiếp theo, giáo viên đổi vai chơi hoặc cho đôi bạn khác vào thay.
Hình ảnh minh chứng (Phụ lục 7)
* Trị chơi 2: Đi chuyển hướng phải, trái tiếp sức
+ Chuẩn bị:
- Một số cờ nhỏ, kẻ sân.
- Kẻ vạch chuẩn bị và vạch xuất phát cách nhau 1m. Trước vạch xuất phát 20 –
25m kẻ 1 vạch đích. Trên đoạn đường đó chuẩn bị cho mỗi đội chơi một số điểm
mốc có cắm lá cờ nhỏ theo đường dích dắc cách nhau 3 – 5m.
+ Cách chơi: Tập hợp các đội chơi sau vạch chuẩn bị theo các đường dích dắc
mà giáo viên đã quy định vị trí. Khi có lệnh bắt đầu chơi, bạn số 1 của mỗi đội
chơi đi thường hoặc đi nhanh theo đường quy định. Khi đến các mốc quy định

sẽ chuyển hướng đi sang trái, hoặc sang phải. Khi chuyển hướng, bàn chân xoay
về hướng đó. Sau khi đi xong, chạy nhanh trở lại vạch xuất phát chạm vào tay
bạn tiếp theo và về đứng tập hợp ở cuối hàng. Trò chơi cứ tiếp tục như vậy cho
đến khi bạn cuối cùng của đội nào về đích đầu tiên và đội đó ít bạn phạm luật
nhất là giành chiến thắng.
Hình ảnh minh chứng (Phụ lục 8)
* Trị chơi 3: “Khi hồng đế cần”
+ Chuẩn bị: Tập hợp lớp thành vòng tròn, mặt hướng vào trong.
+ Cách chơi: Người quản trị nói: “Khi hồng đế cần” Các em đáp: “Cần gì? cần
gì?” Người quản trị nói tiếp: “Cần các bạn đứng nghiêm”. Học sinh sẽ đứng
nghiêm, khơng động đậy. Quản trị lại tiếp tục nói: “Khi hồng đế cần” Các em
lại đáp: “Cần gì? cần gì?” Người quản trị nói: “Cần các bạn quay phải (quay
trái)”. Các em đồng loạt làm theo. Trò chơi tiếp tục như vậy, cho đến khi quản
trị tìm ra được một số bạn vi phạm luật chơi. Bạn nào làm sai u cầu của quản
trị, thì phải trải qua một thử thách mới, do người quản trò quy định.
3.5.4: Giải pháp 4: Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài
nhà trường.
Để giúp học sinh thực hiện tốt động tác quay phải, quay trái, tôi đã phối
hợp với giáo viên chủ nhiệm, tổng phụ trách đội và phụ huynh học sinh cùng
tham gia hướng dẫn các em.
* Phối hợp với tổng phụ trách đội:
Tôi phối hợp với tổng phụ trách đội lên kế hoạch, xây dựng nội dung sinh
hoạt Sao nhi đồng có nội dung quay phải, quay trái lồng ghép. Các anh chị phụ
trách sao lớp 4, lớp 5 sẽ hướng dẫn các em xác định hướng phải, trái, thông qua
các bài thơ, bài hát như: Khi sinh hoạt Sao các anh chị phụ trách sao dạy cho các
em bài hát “Đường em đi” vừa cho các em hát và kết hợp hỏi.
10


+ Đường em đi bên nào? Bên phải. Vậy bên phải các em là bên nào?

+ Đường em không đi là đường bên nào? Bên trái. Vậy bên trái các em là bên
nào?
Qua đó trẻ sẽ định hướng được bên phải, bên trái bản thân mình.
Trong các tiết hoạt động ngoài giờ: Các anh chị phụ trách sao nhi đồng, tổ
chức cho các em chơi trò chơi: Bịt mắt bắt dê, khi hoàng đế cần, Hãy làm nhanh
theo yêu cầu…
Sau đó các anh chị phụ trách sao sẽ hướng dẫn các em thực hiện động tác
quay phải, quay trái.
* Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm:
Tơi cịn phối hợp với giáo viên chủ nhiệm các lớp, hướng dẫn học sinh
thực hiện động tác quay phải, quay trái, trong khi các em xếp hàng ra vào lớp,
tập thể dục giữa giờ, múa hát tập thể. Vào các giờ sinh hoạt tập thể, tôi kết hợp
với giáo viên chủ nhiệm tổ chức cho các em chơi các trò chơi vận động, chuyển
đổi đội hình khi đồng diễn các bài thể dục, dân vũ, từ hàng ngang sang hàng dọc
và ngược lại, giúp các em xác định hướng quay.
* Phối kết hợp với PHHS:
Tôi nghĩ việc nâng cao chất lượng dạy và học nói chung, bài tập quay
phải, quay trái nói riêng sẽ không đem lại kết quả cao nếu không kết hợp chặt
chẽ với phụ huynh học sinh.
Sau những buổi học, tôi trao đổi với phụ huynh về việc học của các em ở
lớp, nhờ phụ huynh hỗ trợ cho trẻ luyện tập thêm ở gia đình. Từ đó các em được
tập luyện nhiều hơn, sẽ hình thành kỹ năng trong các em và chẳng mấy chốc kỹ
năng đó sẽ trở thành kỹ xảo, các em phân biệt được hướng phải, trái dễ dàng và
khơng cịn lúng túng nữa.
3.5.5: Giải pháp 5: Tăng cường các hoạt động ứng dụng, trải nghiệm,
sáng tạo
Những năm học gần đây Bộ giáo dục và đào tạo rất chú trọng đến việc
dạy học gắn với hoạt động “Ứng dụng, trải nghiệm, sáng tạo”. Đặc biệt năm học
2020 – 2021 là năm học đầu tiên lớp 1 áp dụng chương trình giáo dục phổ thơng
mới. Chính vì vậy tôi rất chú trọng áp dụng những kiến thức mà học sinh đã

được học vào trong thực tế: Trước và sau mỗi tiết học tiết học tôi cho học sinh
xem trước sách giáo dục thể chất 1 (sách học sinh) ở nhà khi lên lớp cuối tiết
học tôi hướng dẫn học sinh làm bài tập vận dụng. Hay giáo viên có thể giao việc
cho học sinh về nhà khi ngồi vào bàn học em quan sát và kể tên những đồ vật
được đặt bên trái bàn học và những đồ vật được đặt ở bên phải bàn học. Giờ học
sau các em cùng kể cho nhau nghe.
4. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Khơng.
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
11


- Giáo viên phải nghiên cứu thật kĩ và nắm thật vững kĩ thuật
động tác quay phải, quay trái cũng như nội dung, chương trình trong
từng giai đoạn, từng đối tượng học sinh cụ thể. khi giảng dạy giáo viên
phải hướng dẫn cho học sinh thật tỉ mỉ, cụ thể, chi tiết nhằm đưa ra các hình
thức tổ chức tập luyện phù hợp, đi từ dễ đến khó, tạo khơng khí buổi tập được
sơi nổi, hưng phấn, động viên kịp thời nhằm phát huy tối đa năng khiếu của học
sinh từ đó giúp các em say mê, hứng thú trong tập luyện. Luôn theo dõi, ghi
chép những kết quả sau mỗi buổi tập để tổng kết rút kinh nghiệm cho buổi tập
sau.
- Việc áp dụng các biện pháp hướng dẫn học sinh tập luyện các bài tập kĩ
thuật nêu trên cần phải thực hiện một cách nghiêm túc, thường xuyên. Học sinh
cần được trang bị đầy đủ trang phục thể dục, giày bata, sân bãi sạch sẽ, an tồn
thì kết quả sẽ đạt được tốt hơn.
- Sử dụng đồ dùng dạy học một cách hợp lí, có tính khoa học. Ngoài ra giáo
viên cần tự làm đồ dùng phù hợp với các nội dung giảng dạy giúp học sinh nắm
bắt nội dung kiến thức chắc chắn và chủ động.
6. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Sau một thời gian áp dụng những giải pháp trên vào thực tế giảng dạy,
tôi thấy các em học sinh lớp 1 có rất nhiều tiến bộ.

* Về mặt giáo dục:
- Học sinh mạnh dạn, tự tin, tự giác, tích cực, hoạt động giáo dục thể chất hơn
trước. Các em say mê, hứng thú trong tập luyện. Lớp học trở nên sôi động, giờ
học giáo dục thể chất luôn được các em mong chờ.
- Thông qua các hoạt động tập luyện và vui chơi không những phát triển khả
năng của từng cá nhân mà còn giúp các em hòa nhập với cộng đồng, giáo dục
tinh thần hợp tác, đoàn kết, kỷ luật, trung thực và rèn luyện tinh thần đồng đội
khi làm việc trong môi trường tập thể.
* Về mặt kiến thức:
- Từ việc các em chưa biết phân biệt bên phải, bên trái, chưa biết định hướng
trong không gian. Giờ đây các em thực hiện động tác quay phải, quay trái một
cách thuần thục, các em không chỉ biết xoay người theo hướng khẩu lệnh, mà
nhiều em còn thực hiện đúng kỹ thuật động tác quay phải, quay trái.
- Khi áp dụng sáng kiến tôi theo dõi và nhận thấy chất lượng thực hiện động tác
quay phải, quay trái của học sinh thay đổi theo từng tiết dạy, hiệu quả được nâng
cao. Cụ thể kết quả quay phải, quay trái năm học 2020-2021 như sau.
Khối
lớp


số

Hoàn thành tốt
Số
lượng

Tỉ lệ

Hoàn thành
Số

lượng
12

Tỉ lệ

Chưa hoàn thành
Số
lượng

Tỉ lệ


1

113

39

34,5%

74

65,5%

0

0%

- Các em học sinh không chỉ biết xoay người theo đúng hướng khẩu lệnh mà
nhiều em còn đạt được kết quả tập luyện cao hơn so với chuẩn kiến thức, kỹ

năng, thực hiện đúng kỹ thuật động tác quay phải, quay trái giống học sinh lớp
4, lớp 5. Từ đó phát hiện ra những em học sinh có năng khiếu TDTT.
- Trước đây sau khi học xong nội dung bài tập quay phải, quay trái, khi được
phỏng vấn, các em đều cho rằng, động tác quay phải, quay trái rất khó. Từ khi
áp dụng sáng kiến đa số học sinh thực hiện rất tự tin, không chán nản mệt mỏi,
giờ học trở lên hấp dẫn và sinh động. Các em hứng thú hơn với giờ học giáo dục
thể chất nói chung và nội dung học đội hình đội ngũ nói riêng.
* Về mặt kỹ năng:
- Học sinh tập luyện theo tổ, nhóm dưới sự điều khiển của cán sự tổ và tự uốn
nắn chỉnh sửa, kiểm tra động tác cho nhau, giúp nhau cùng tiến bộ. Giúp các em
mạnh dạn, tự tin.
- Phát triển năng lực: Tự quản, hợp tác, tự học và giải quyết vấn đề.
Đề tài này tôi nghiên cứu trong phạm vi học sinh 1 trường tiểu học ........
Ngồi ra theo tơi đây là đề tài này rất dễ thực hiện, có thể áp dụng cho khối lớp
2, 3 hay có thể phổ biến, nhân rộng ra các trường khác nói riêng hay tồn thị xã
nói chung.
7. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức,
cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử:
Sáng kiến “Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả dạy học quay
phải, quay trái cho học sinh lớp 1” Qua quá trình áp dụng sáng kiến học sinh
nắm được cách quay phải, quay trái, tự tin hơn và thực hiện chính xác hơn khi
thực hiện nội dung quay phải, quay trái. Đa số học sinh có thái độ học tập tích
cực, hứng thú hơn trong tiết học với nội dung quay phải, quay trái. Kết quả kiểm
tra nội dung quay phải, quay trái học sinh khối lớp 1 đạt kết quả cao. Là sáng
kiến thiết thực, dễ thực hiện.
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn
chịu trách nhiệm trước pháp luật./.

….., ngày 25 tháng 5 năm 2021
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ


NGƯỜI NỘP ĐƠN

13


PHỤ LỤC
phụ lục 1:

(Biển chỉ dẫn hướng quay)
phụ lục 2:

(Sử dụng biển hướng dẫn khi tập luyện)
phụ lục 3:

14


(Động tác quay phải)
phụ lục 4:

(Động tác quay trái)
phụ lục 5:

phụ lục 6:

phụ lục 7:

15



(Trò chơi bịt mắt bắt dê)
phụ lục 8:

(Trò chơi đi chuyển hướng phải trái tiếp sức)

16



×