Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

QUYỀN và NGHĨA vụ của vợ CHỒNG SAU KHI CHIA tài sản CHUNG TRONG THỜI kỳ hôn NHÂN một số vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.47 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ TƯƠI

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG SAU
KHI CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ
HÔN NHÂN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà nội - 2012

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ TƯƠI

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG SAU
KHI CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ
HÔN NHÂN- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
Chuyên
ngành

: Luật dân sự
: 603830



Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan

Hà nội - 2012

ii


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ

8

CỦA VỢ CHỒNG SAU KHI CHIA TÀI SẢN CHUNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

1.1.


Một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng

8

trong thời kỳ hôn nhân
1.1.1. Khái niệm chung về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

8

1.1.2. Đặc điểm của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

10

1.2.

23

Sự cần thiết của việc quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

1.3.

Ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng

25

sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
1.3.1. Ý nghĩa về mặt pháp lý


25

1.3.2. Ý nghĩa về mặt xã hội

26

1.4.

27

Quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật một số nước
trên thế giới

1.4.1. Pháp luật dân sự Pháp

27

1.4.2. Pháp luật dân sự và thương mại Thái Lan

32

iii


Chương 2: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG SAU KHI

37

CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN


2.1.

Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau sau khi chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân

37

2.1.1. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng sau khi
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

38

2.1.2. Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ và chồng sau khi chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

41

2.2.

56

Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với gia đình sau khi chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

2.2.1. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng đối với gia
đình sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

57


2.2.2. Quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với gia đình
sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

60

2.3.

Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với người thứ ba có
quan hệ tài sản với vợ chồng

64

2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với người thứ ba có
quan hệ giao dịch dân sự, thương mại với vợ chồng

64

2.3.2. Quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng trong quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng

68

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬTVỀ

71

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG SAU KHI
CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HƠN NHÂN

3.1.


Một số vấn đề cịn tồn tại về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

71

3.1.1. Một vài nét về áp dụng pháp luật giải quyết việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân

71

3.1.2. Một số vấn đề còn tồn tại về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng

77

iv


sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
3.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân

87

3.2.1. Yêu cầu chung

87


3.2.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân

88

3.3.

96

Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử

3.3.1. Thực hiện việc xuất bản định kỳ các án điển hình để các
Thẩm phán rút kinh nghiệm tiến tới xây dựng các Tập án lệ về
hơn nhân và gia đình

96

3.3.2. Tăng cường sự phối hợp giữa Tòa án nhân dân và các cơ quan
hữu quan

97
99

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

v


101


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

HN&GĐ

: Hơn nhân và gia đình

NLHVDS

: Năng lực hành vi dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao

vi


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát

triển của xã hội. Tính chất và kết cấu của gia đình trong mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau là khác nhau. Quan điểm này đã được Ph.Ăngghen nhấn mạnh
như một nguyên lý của nội dung lý luận mácxit về hôn nhân và gia đình
(HN&GĐ) trong tác phẩm nổi tiếng "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của Nhà nước". Sự ổn định và phát triển lành mạnh của gia đình sẽ góp phần
vào sự phát triển chung của tồn bộ xã hội. Mỗi gia đình được xây dựng dựa trên
những sợi dây liên kết của hôn nhân, huyết thống và ni dưỡng trong đó quan
hệ hơn nhân có thể xem là quan hệ nền tảng của mỗi gia đình.

Đánh giá cao tầm quan trọng của gia đình trong đời sống xã hội nói
riêng cũng như trong việc xây dựng, phát triển đất nước nói chung, Đảng và
Nhà nước ta ln chú trọng quan tâm đến việc xây dựng gia đình hịa thuận,
hạnh phúc. Điều này được cụ thể hóa ở việc Nhà nước ban hành các quy
phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ HN&GĐ cho phù hợp với sự phát triển
của xã hội.
Trong q trình xã hội hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Việt
Nam đã thực sự chuyển mình và có những thay đổi tồn diện và sâu sắc về
mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt, đời sống gia đình ngày càng được nâng
cao. Dưới ảnh hưởng của nền kinh tế mở đó đã tạo cho mọi người đều có cơ
hội làm giàu cũng như tự khẳng định mình. Đời sống gia đình được cải thiện
đồng nghĩa với việc khối tài sản của vợ chồng tăng lên, nhu cầu riêng cũng
nhiều hơn, đa dạng hơn, theo đó, nhu cầu có tài sản riêng để phục vụ cho hoạt
động nghề nghiệp và giao dịch do một bên thực hiện không bị phụ thuộc hoặc
gây ảnh hưởng cho bên kia là rất cần thiết. Trước tình hình thực tế, quy định

1


về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một giải pháp có nhiều ưu
điểm cho vấn đề này.
Trên cơ sở kế thừa Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986, việc chia tài sản

chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân tại Luật HN&GĐ năm 2000 đã có
những bước thay đổi tích cực, phù hợp với sự phát triển của xã hội. Các quy
định về chia tài sản chung của vợ chồng đã từng bước đi vào cuộc sống, phát
huy được hiệu quả điều chỉnh. Một vấn đề hết sức bức thiết được đặt ra là sau
khi chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân, thì quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng sẽ được xác định như thế nào? Luật HN&GĐ hiện hành đã có quy định
cụ thể hơn so với Luật HN&GĐ năm 1986 song vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề
cần được bàn luận, giải quyết cả về mặt lý luận và áp dụng trong thực tiễn. Để
đi đến thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân là cả một q
trình cân nhắc, quyết định không phải là dễ dàng nhưng việc bóc tách, xác
định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung cịn gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc gấp bội do pháp luật chưa có quy định cụ thể điều chỉnh
vấn đề này. Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay, khi Việt Nam
đang hội nhập kinh tế quốc tế, hơn lúc nào hết vợ, chồng đã và đang tham gia
ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động kinh tế với mục đích không chỉ nhằm
đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của gia đình mà cịn nhằm làm giàu cho bản
thân, gia đình và xã hội. Họ có thể dùng tài sản chung hoặc tài sản riêng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại
khác; mỗi bên vợ chồng sẽ phát sinh nhiều mối quan hệ xã hội mới và có xu
hướng duy trì, mở rộng hơn nữa. Do đó, việc xác định quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng với nhau, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với gia đình, đối với
các con và đối với người thứ ba có liên quan sau khi chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân khá phức tạp bởi vấn đề này chưa được quy định, chưa có cơ
sở pháp lý để giải quyết khi có tranh chấp phát sinh. Việc vợ chồng lạm dụng
quyền, trốn tránh trách nhiệm đối với nhau và đối với gia đình cũng địi hỏi
phải có những giải pháp phù hợp cần được pháp luật điều

2



chỉnh. Đây là những vấn đề tồn tại, phát sinh từ thực tiễn mà chưa có quy
phạm pháp luật điều chỉnh nên cần phải có sự nghiên cứu thấu đáo.
Bởi lẽ đó, việc nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đó,
tác giả quyết định chọn đề tài "Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn"
làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài
Qua tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực HN&GĐ
đã có nhiều cơng trình, bài viết về tài sản của vợ chồng nói chung và chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân nói riêng, chẳng hạn như luận
án tiến sĩ "Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt
Nam" đã được tác giả Nguyễn Văn Cừ bảo vệ thành công năm 2005; "Hậu
quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân"
của tác giả Nguyễn Phương Lan đăng trên Tạp chí Luật học số 6 năm 2002;
"Chế độ tài sản theo thoả thuận của vợ chồng trong pháp luật cộng hoà Pháp
và pháp luật Việt Nam" của tác giả Bùi Minh Hồng đăng trên Tạp chí Luật
học số 11 năm 2009… Đây thực sự là những cơng trình có giá trị lớn trong cả
khoa học lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, những cơng trình nghiên cứu này
hoặc đề cập đến những vấn đề mang tính khái quát chung về chế độ tài sản
của vợ chồng, hoặc chỉ đi sâu vào phân tích một vấn đề nhỏ có liên quan đến
việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chứ chưa nghiên cứu một cách
toàn diện, đầy đủ và chuyên sâu về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Vấn đề quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chưa được pháp luật
quy định nên việc nghiên cứu để có hướng đề xuất các quy định pháp luật
điều chỉnh vấn đề này là rất cần thiết.

3



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề về quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
đồng thời chỉ ra những vướng mắc, bất cập và đưa ra những kiến nghị về việc
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng sau
khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.


Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau:
- Những vấn đề lý luận liên quan đến việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân theo pháp luật HN&GĐ hiện hành, làm rõ khái niệm chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân; đặc điểm cơ bản của việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân.
- Xác định quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng đối với nhau, đối với gia
đình và đối với người thứ ba sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân.

- Tìm hiểu những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn về vấn đề này và
đề xuất cách thức giải quyết, góp phần hồn thiện pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu


Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và một số công trình nghiên
cứu cũng như những vụ việc cụ thể có liên quan về vấn đề này.


Phạm vi nghiên cứu

- Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân trong một số văn bản pháp luật như: Luật
HN&GĐ năm 1986; Luật HN&GĐ năm 2000; Bộ luật Dân sự (BLDS) năm

4


2005 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong đó, luận văn tập trung
nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân.
- Luận văn cũng nghiên cứu các quy định trong pháp luật của một số
nước điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia (tách) tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân, có sự so sánh và đối chiếu với pháp luật
HN&GĐ Việt Nam, qua đó học hỏi, tiếp thu có chọn lọc những điểm phù hợp
để bổ sung, hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau
khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong pháp luật HN&GĐ Việt
Nam.
- Đặc biệt, luận văn nghiên cứu một số trường hợp cụ thể về quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như
quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của vợ chồng đối với nhau, đối với
gia đình và quyền và nghĩa vụ về tài sản đối với người thứ ba có quan hệ tài
sản với vợ chồng.

5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học MácLênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực HN&GĐ. Ngồi ra,
để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn còn vận dụng, kết hợp các phương
pháp nghiên cứu khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.

6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn phân tích các căn cứ lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ sự cần
thiết quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân, nghiên cứu cũng bổ sung, làm phong phú thêm cho lý
thuyết về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

5


Về thực tiễn, gia đình được coi là hạt nhân của xã hội. Sự phát triển
bền vững của gia đình là nền tảng phát triển của xã hội. Do đó, trong sự phát
triển và biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường hiện nay, gia đình đóng
vai trị vô cùng quan trọng trong sự thúc đẩy và phát triển kinh tế, xã hội. Như
là một tất yếu của cuộc sống chung, vợ và chồng thực hiện những quan hệ về
tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình. Nhu
cầu chia tài sản chung của vợ chồng để nâng giá trị khối tài sản riêng của mỗi
bên vợ, chồng nhằm xác lập những giao dịch riêng cũng có chiều hướng gia
tăng. Và lẽ đương nhiên, sẽ kéo theo những vấn đề không dễ giải quyết về
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung. Nghiên cứu cũng
chỉ ra những khó khăn trong việc xác định nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia
tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân cũng như ngun nhân của tồn tại đó
đồng thời đưa ra những giải pháp, kiến nghị giúp cơ quan lập pháp, cơ quan
tư pháp… tham khảo trong việc xây dựng, bổ sung những quy định về quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân,

đặc biệt là những quy phạm điều chỉnh quan hệ nhân thân. Trên cơ sở đó, tạo
điều kiện thuận lợi và nâng cao ý thức, trách nhiệm cho các cặp vợ chồng
trong việc đưa ra thỏa thuận chia tài sản chung cũng như những vấn đề phát
sinh sau đó, góp phần giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc trong sản
xuất, kinh doanh, quản lý cũng như vấn đề chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục
các con và chăm sóc, ni dưỡng các thành viên khác trong gia đình.
Tóm lại, luận văn có những điểm mới sau đây:
- Phân tích sự cần thiết pháp luật phải quy định quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân (tính khách quan).
- Xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau, đối với gia
đình và đối với người thứ ba sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
trên cơ sở những quy định của Luật HN&GĐ hiện hành cùng với sự so sánh, đối
chiếu với những quy định tương ứng trong pháp luật một số nước, từ đó

6


phát hiện những bất cập, đưa ra kiến nghị bổ sung, sửa đổi nhằm hoàn thiện
những quy định về vấn đề này trong điều kiện hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Chương 2: Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hơn nhân.
Chương 3: Một số giải pháp hồn thiện pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

7



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG
SAU KHI CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ
CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

1.1.1. Khái niệm chung về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ của các nước nói
chung và Việt Nam nói riêng là một vấn đề phức tạp trên cả phương diện lý luận
và thực tiễn. Bởi lẽ, nó phải đảm bảo sự hài hịa giữa lợi ích của gia đình với lợi
ích của cá nhân vợ, chồng cũng như với lợi ích chung của xã hội. Mặt khác, chế
độ tài sản của vợ chồng còn phản ánh điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, truyền thống, phong tục tập quán, tâm lý, nguyện vọng của người dân. Ở
Việt Nam, qua mỗi giai đoạn phát triển, chế độ tài sản của vợ chồng đều thể hiện
những nét đặc thù riêng. Trên cơ sở nền kinh tế thị trường, sự phát triển của xã
hội và gia đình; kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật HN&GĐ ở nước ta,
Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm chế
độ tài sản chung và chế độ tài sản riêng. Như là một tất yếu của cuộc sống
chung, sau khi kết hôn, địi hỏi vợ và chồng phải cùng chung cơng sức, chung ý
chí, tình cảm để tạo lập, phát triển kinh tế, vun đắp hạnh phúc gia đình. Do đó,
tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng đều cần phải được khai thác nhằm
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của gia đình. Trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay cùng với việc mở rộng hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế, việc
duy trì và phát triển đời sống gia đình đã thúc đẩy vợ chồng tham gia rộng rãi
vào các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, đã làm phát sinh nhiều nghĩa vụ
về tài sản mà vợ, chồng phải gánh vác. Theo đó, nhu cầu có tài sản riêng để đảm

bảo cho việc thực hiện những nghĩa

8


vụ riêng về tài sản một cách độc lập, tạo khả năng chủ động khi tham gia vào các
hoạt động sản xuất kinh doanh, tái đầu tư do một bên thực hiện không bị phụ
thuộc hoặc gây ảnh hưởng đến lợi ích chung của gia đình là rất cần thiết. Quy
định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một giải pháp phát huy được
hiệu quả cho vấn đề này. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân lần đầu
tiên được ghi nhận trong Luật HN&GĐ năm 1986. Trước đó, do phong tục, tập
quán cũng như tư duy của gia đình Việt "của chồng cơng vợ", sự phân chia rạch
ròi tài sản trong thời kỳ hơn nhân là khơng hề có. Trong Luật HN&GĐ năm
1959, vấn đề này cũng không được đề cập tới bởi Nhà nước ta quy định chế độ
tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản, toàn bộ tài sản do vợ chồng
có trước khi kết hơn hoặc được tạo ra, có được trong thời kỳ hơn nhân khơng
phân biệt nguồn gốc tài sản, cơng sức đóng góp, đều thuộc tài sản chung của vợ
chồng. Trên cơ sở đó, Luật HN&GĐ năm 1959 chỉ dự liệu hai trường hợp chia
tài sản chung của vợ chồng là khi vợ hoặc chồng chết trước hoặc khi vợ chồng ly
hôn. Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời vào thời kỳ đầu của sự nghiệp đổi mới với
nhiều quy định khác về căn bản so với Luật HN&GĐ năm 1959 để phù hợp với
tình hình kinh tế - xã hội. Theo đó, chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng
đồng tạo sản, vợ chồng có tài sản chung và có quyền có tài sản riêng và đặc biệt
cịn ghi nhận việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại nếu
có lý do chính đáng. Xuất phát từ thực tiễn đời sống xã hội, trên cơ sở kế thừa
Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 tiếp tục quy định việc chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tại Điều 29 và Điều 30. Như đã
phân tích, nhu cầu của vợ, chồng có tài sản để đầu tư kinh doanh riêng hoặc để
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng là rất cần thiết. Tuy nhiên, trong cuộc sống
chung, không phải lúc nào vợ chồng cũng đạt được sự đồng thuận về vấn đề sử

dụng, định đoạt tài sản chung thậm chí gây ra những mâu thuẫn, căng thẳng.
Trong khi đó, việc định đoạt tài sản riêng về ngun tắc khơng cần có sự nhất trí
của bên kia. Chính vì lẽ đó mà việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là

9


giải pháp tối ưu để loại bỏ những mâu thuẫn trong quản lý, sử dụng, định đoạt
tài sản. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân làm thay đổi các khối
tài sản của vợ chồng, làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
song điểm đặc biệt là không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật.
Mặc dù đã có những quy định cụ thể hơn song những quy định về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân cịn thiếu và có nhiều điểm bất
cập. Khái niệm chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chưa được ghi nhận
trong bất kỳ văn bản pháp luật nào nhưng có thể hiểu là:
Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là việc chuyển một phần
hoặc toàn bộ tài sản vốn là tài sản chung của vợ chồng thành tài sản riêng
của mỗi bên vợ, chồng theo sự thỏa thuận của vợ chồng hoặc do Tòa án quyết
định theo yêu cầu của vợ, chồng khi có những lý do nhất định nhằm đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng và người thứ ba có liên
quan mà không làm chấm dứt quan hệ giữa vợ và chồng trước pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân có một
số đặc điểm cơ bản sau:
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không
làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật
Sau khi tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, giữa hai
bên vợ, chồng vẫn tồn tại mọi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng như nghĩa vụ
chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, nghĩa vụ
chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con; quyền được lựa chọn nơi cư trú, quyền

thừa kế tài sản của nhau khi một bên chết trước… Đây là một trong những đặc
điểm nổi bật, quan trọng nhất của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân để phân biệt với những trường hợp chia tài sản chung khác
của vợ chồng như chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn hay chia tài sản
chung của vợ chồng khi một bên vợ hoặc chồng chết trước. Nếu như

10


kết hôn là thời điểm đầu tiên của hôn nhân, là sự kiện gắn kết giữa hai bên
nam nữ làm phát sinh một thực thể là gia đình thì khi vợ hoặc chồng chết
trước là thời điểm cuối cùng của hôn nhân. Việc một bên vợ hoặc chồng chết
trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết sẽ làm chấm dứt quan hệ hôn nhân,
tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia theo yêu cầu của người chồng hoặc
người vợ còn sống hoặc của những người thừa kế của vợ, chồng đã chết.
Tương tự, trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn làm chấm
dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng
cũng không thể phủ nhận mặt tích cực mà nó mang lại khi mục đích của hôn
nhân không đạt được. Theo nguyên tắc chung, khi bản án, quyết định cho ly
hơn của Tịa án có hiệu lực pháp luật, quan hệ vợ chồng sẽ chấm dứt. Khi ly
hôn, tài sản chung của vợ chồng được chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết
định của Tòa án. Như vậy, hai trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn hoặc khi một bên vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã
chết làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật thì trái lại, việc chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ
vợ chồng trước pháp luật.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không
làm chấm dứt chế độ tài sản chung của vợ chồng
Điều này được thể hiện rõ nhất trong trường hợp vợ chồng chỉ chia
một phần tài sản chung bởi phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu

chung hợp nhất của vợ chồng. Ngay cả trường hợp chia toàn bộ tài sản chung
thì khối tài sản chung vẫn có thể phát sinh chẳng hạn như sau khi chia tài sản
chung vợ chồng lại được thừa kế chung, tặng cho chung. Như vậy, việc chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản
chung của vợ chồng. Trong khi đó, trường hợp ly hơn hoặc trường hợp một
bên vợ hoặc chồng chết trước, do quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng đã chấm
dứt nên việc chia tài sản chung trong những trường hợp này luôn dẫn đến
chấm dứt chế độ tài sản chung.

11


Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân chỉ phát
sinh khi có những lý do nhất định
Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 đã đưa ra những lý do để vợ,
chồng có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân. Lý do thứ nhất là vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng. Quy định này
xuất phát trên cơ sở tôn trọng quyền tự do kinh doanh của công dân đã được ghi
nhận tại Điều 57 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001: "Cơng
dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật" [38]. Nếu một bên
vợ, chồng hoặc cả hai bên muốn đầu tư kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản
chung. Quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân giúp
cho vợ, chồng thực hiện được ý định kinh doanh của mình đồng thời góp phần
bảo vệ lợi ích chung của gia đình. Trong nền kinh tế thị trường, vợ, chồng ngày
càng tham gia nhiều hơn vào các giao dịch dân sự, thương mại và sử dụng nguồn
vốn và tư liệu sản xuất để mang lại lợi nhuận cao nhất. Tuy nhiên, việc kinh
doanh, buôn bán không phải lúc nào cũng thuận lợi. Thơng thường, lĩnh vực kinh
doanh có lợi nhuận càng cao thì nguy cơ rủi ro càng lớn. Chính vì vậy, việc chia
tài sản chung của vợ chồng để một bên đầu tư kinh doanh riêng sẽ giúp giảm
thiểu ảnh hưởng đến lợi ích chung của gia đình bởi trong trường hợp việc kinh

doanh gặp rủi ro thì bên kinh doanh chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài
sản của mình. Lý do thứ hai là vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng.
Theo Điều 280 BLDS năm 2005 thì nghĩa vụ dân sự được hiểu là việc mà theo
đó, một hoặc nhiều chủ thể phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền
hoặc giấy tờ có giá, thực hiện cơng việc khác hoặc khơng được thực hiện cơng
việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác. Việc thực hiện nghĩa
vụ dân sự riêng của vợ, chồng là việc thực hiện nghĩa vụ mà chỉ người vợ hoặc
người chồng phải thực hiện cịn người kia khơng phải liên đới thực hiện. Ví dụ
nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện trước thời
kỳ hôn nhân hoặc trong thời kỳ hôn nhân nhưng không nhằm đáp ứng nhu cầu
thiết yếu

12


của gia đình... Nếu vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng nhưng
họ khơng có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ
thì vợ chồng có thể chia tài sản chung để tạo điều kiện cho người có nghĩa vụ
thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ngồi hai lý do cụ thể trên, Luật HN&GĐ hiện hành cịn ghi nhận vợ
chồng có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung
trong thời kỳ hơn nhân khi có lý do chính đáng khác. Đây là quy định mang
tính mở. Luật HN&GĐ năm 2000 cũng như các văn bản hướng dẫn khơng có
quy định nào để xác định trường hợp nào được coi là có "lý do chính đáng
khác". Trước đây, tại đoạn 3 Điểm b Mục 3 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày
20 tháng 1 năm 1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 lại có quy định về
vấn đề này và lý do được coi là chính đáng là "vợ chồng tính tình không hợp
nhưng con cái đã lớn nên không muốn ly hơn mà chỉ muốn ở riêng, do đó,
một bên hoặc cả hai bên xin chia tài sản" [41]. Quy định này khá phù hợp với

thực tiễn đời sống. Ngoài ra, nếu có lý do khác khơng thuộc những lý do trên
nhưng xét thấy là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, của mỗi bên vợ,
chồng hoặc của người thứ ba thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân, chẳng hạn như trường hợp một bên vợ, chồng có hành vi
phá tán, hủy hoại tài sản chung làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của
gia đình.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là nhằm
giải quyết những vấn đề về kinh tế - tài sản chung của vợ chồng chứ khơng
nhằm giải quyết vấn đề tình cảm
Mục đích của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm đáp
ứng nhu cầu về vốn tạo điều kiện cho vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng để
tìm kiếm lợi nhuận đồng thời tránh những rủi ro có thể phát sinh làm ảnh
hưởng đến đời sống chung của gia đình. Vợ, chồng thỏa thuận hoặc yêu cầu

13


Tịa án chia tài sản chung cịn nhằm mục đích có tài sản riêng để thực hiện
nghĩa vụ dân sự riêng của mỗi bên. Như vậy, việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân là nhằm giải quyết vấn đề tài sản chứ khơng nhằm giải quyết
vấn đề tình cảm của vợ chồng.
Chủ thể có quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân chỉ có thể là vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng
Theo khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ hiện hành thì trong trường hợp
vợ chồng không thỏa thuận được về việc chia tài sản chung thì có quyền u
cầu Tịa án giải quyết. Điều này đồng nghĩa với việc chỉ có vợ, chồng hoặc cả
hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu chia. Lý do được đưa ra ở đây là bởi yêu
cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một quyền gắn liền với nhân
thân của vợ chồng, xuất phát trên cơ sở quan hệ hôn nhân hợp pháp nên quyền
yêu cầu, khởi kiện của người thứ ba trong trường hợp này không được pháp

luật HN&GĐ thừa nhận. Quy định như vậy cịn thể hiện quyền bình đẳng
giữa vợ chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung.
Hình thức của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là bằng
văn bản và khơng buộc phải được cơ quan có thẩm quyền chứng nhận
Theo quy định của Luật HN&GĐ hiện hành, việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hơn nhân có thể được thực hiện theo thỏa thuận bằng văn bản của
vợ chồng hoặc theo quyết định của Tòa án trong trường hợp vợ chồng khơng
thỏa thuận được và có u cầu Tòa án giải quyết. Theo khoản 1 Điều 29 Luật
HN&GĐ năm 2000 thì thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải được lập
thành văn bản. Khoản 1 và khoản 2 Điều 6 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày
03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000
(sau đây viết tắt là Nghị định số 70/2001/NĐ-CP) quy định cụ thể văn bản này
phải ghi rõ những nội dung: Lý do chia tài sản; phần tài sản chia (bao gồm bất
động sản, động sản, các quyền tài sản), trong đó cần mơ tả rõ những tài sản được
chia hoặc giá trị phần tài sản được chia; phần tài sản còn lại

14


khơng chia, nếu có; thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung; phải ghi
rõ ngày tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả vợ chồng; văn bản
thỏa thuận có thể có người làm chứng hoặc được công chứng, theo yêu cầu
của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Với lợi thế tiết kiệm thời gian, chi phí đồng thời cũng thể hiện sự đồng
thuận của vợ chồng trong việc chung sức xây dựng tổ ấm gia đình, hình thức
thỏa thuận bằng văn bản được nhiều cặp vợ chồng lựa chọn khi tiến hành chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, việc quy định chia tài sản chung
theo thỏa thuận của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải được thể hiện bằng
văn bản nhưng khơng bắt buộc phải có người làm chứng hay phải được công
chứng bởi cơ quan có thẩm quyền là chưa chặt chẽ, cịn nhiều hạn chế, dễ dẫn

đến sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật. Đây cũng là kẽ hở dẫn đến tình
trạng vợ chồng có thể lợi dụng một cách dễ dàng việc chia tài sản chung để trốn
tránh nghĩa vụ tài sản và nếu có tranh chấp xảy ra, Tịa án sẽ khó đánh giá chứng
cứ, khơng xác định được trách nhiệm cũng như không đảm bảo được quyền lợi
hợp pháp của các bên. Trong trường hợp thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng được cơng chứng thì việc kiểm tra, xác minh lý do chia tài sản chung cũng
rất khó khăn, từ đó dẫn đến nhiều trường hợp tài sản chung đã được chia sau đó
mới phát hiện ra có sự vi phạm về lý do chia. Trong tình huống này mặc dù việc
chia tài sản chung của vợ chồng bị tuyên vô hiệu, tuy nhiên vẫn làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của những người có liên quan bởi khi tài sản
đã bị tẩu tán thì việc khơi phục lại tình trạng ban đầu khơng phải lúc nào cũng
thực hiện được. Với những nhược điểm đó, pháp luật cần quy định bắt buộc
trong mọi trường hợp thỏa thuận bằng văn bản khi chia tài tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân đều phải được công chứng của cơ quan có thẩm quyền. Ngồi
ra, việc thỏa thuận bằng văn bản có cơng chứng cũng cần phải có những ràng
buộc khắc phục những hạn chế, phát huy được hiệu quả áp dụng. Chẳng hạn như
buộc vợ chồng phải công bố công khai về việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân, trên cơ

15


sở đó, những người có quyền và nghĩa vụ liên quan mới có thể phát hiện và
có những yêu cầu kịp thời ngăn chặn việc lợi dụng chia tài sản chung để trốn
tránh nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng.
Tài sản chung có thể chia tồn bộ hoặc một phần
Theo Luật HN&GĐ năm 2000, tài sản chung của vợ chồng có thể được
chia tồn bộ hoặc chỉ chia một phần tùy theo sự thỏa thuận hoặc theo yêu cầu
của các bên trên cơ sở các căn cứ chia theo luật định. Quy định này rất hợp lý, có
ý nghĩa thiết thực, phù hợp với thực tiễn đời sống chung đồng thời trong một số

trường hợp còn là cơ sở để bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ riêng về tài sản
của vợ, chồng. Theo Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986 thì: "Khi hơn nhân tồn
tại, nếu một bên có u cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung
của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật này" [35]. Quy định tại Điều 42
Luật HN&GĐ năm 1986 là quy định về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn: tài sản chung được chia theo thỏa thuận của vợ chồng, nếu
khơng thỏa thuận được thì chia đơi. Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định về
nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân. Đây có lẽ là một "khiếm
khuyết" cần được khắc phục. Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với
tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất nên cần thiết phải quy định nguyên tắc chia
đôi tài sản chung của vợ chồng ngay cả khi việc chia này diễn ra khi hôn nhân
vẫn tồn tại. Có như vậy mới đảm bảo được quyền bình đẳng giữa vợ và chồng
cũng như tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết
nhanh chóng các yêu cầu của đương sự.

Hậu quả pháp lý về tài sản khi chia tài sản chung trong thời kỳ hơn
nhân chính là sự thay đổi của các khối tài sản hay nói cách khác, làm thay
đổi việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; từ đó quyền và
nghĩa vụ của vợ, chồng cũng bị chi phối, thay đổi
Trong Luật HN&GĐ năm 1986, hậu quả pháp lý của việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân không được quy định cụ thể, mọi tài sản phát

16


sinh sau khi chia tài sản chung, kể cả hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được
chia đều mặc nhiên được coi là thu nhập hợp pháp khác và trở thành tài sản
chung vì nó phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Điều này không phù hợp với mục
đích của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đặc biệt là trong trường
hợp chia để một bên đầu tư kinh doanh riêng. Bởi khi vợ, chồng có yêu cầu chia

tài sản chung để đầu tư kinh doanh riêng, một mặt xuất phát từ nhu cầu về vốn
để phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, mặt khác hướng tới lợi ích
chung của gia đình, các bên mong muốn tránh những rủi ro có thể xảy ra trong
hoạt động sản xuất kinh doanh làm ảnh hưởng khơng tốt đến đời sống gia đình.
Nếu coi hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia là tài sản chung sẽ dẫn
đến tình trạng bên đang trực tiếp kinh doanh cần nguồn vốn để tái tạo, mở rộng
quy mơ thì lại phải đưa ra yêu cầu chia tài sản chung một lần nữa. Vấn đề này
gây cản trở rất lớn cho việc chớp thời cơ trong kinh doanh - yếu tố quan trọng
tạo nên những thành cơng. Bên cạnh đó, nếu việc kinh doanh "thuận buồm xi
gió" thì bên khơng tham gia vào việc đầu tư kinh doanh vẫn được hưởng lợi,
trong khi đó, nếu công việc kinh doanh không được như mong muốn, làm ăn
thua lỗ thì chỉ một bên đầu tư kinh doanh phải gánh chịu hậu quả. Điều này tạo
ra sự bất bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung
đồng thời cũng làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của những người liên quan.
Khắc phục những hạn chế này, Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định:
"Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh
từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản cịn lại
khơng chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng" [37]. Điều 8 Nghị định số
70/2001/NĐ-CP cũng cụ thể hóa quy định này như sau: "Hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường
hợp vợ chồng có thỏa thuận khác" [5]. Đây là quy định mới của pháp luật
HN&GĐ hiện hành và cũng là một trong những căn cứ xác định tài sản riêng của
vợ, chồng. Như vậy, vợ, chồng có quyền sở hữu riêng đối với phần tài sản

17


đã được chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản đã được chia và
quyền sở hữu chung đối với phần tài sản chung chưa chia. Chúng ta cũng có
thể nhận thấy, sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân có đến hai

khối tài sản riêng: Thứ nhất, khối tài sản riêng vốn có của vợ, chồng trước khi
có sự kiện chia tài sản chung; hoa lợi, lợi tức phát sinh trên khối tài sản này
chưa được quy định rõ ràng, có thể là tài sản riêng hoặc tài sản chung. Thứ
hai, khối tài sản riêng có được do sự kiện phân chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân và hoa lợi, lợi tức phát sinh trên khối tài sản này là tài sản riêng
của mỗi bên. Việc phân biệt hoa lợi, lợi tức từ các khối tài sản riêng này là
không hề đơn giản.
Khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng làm chấm dứt hậu quả
pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định về việc khôi phục chế độ tài
sản chung sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng vấn đề này
lại được quy định tại Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP. Tuy
nhiên, quy định về việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng trong
Nghị định chưa rõ ràng và còn thể hiện nhiều điểm bất hợp lý. Khoản 1 Điều
9 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định như sau:
Trong trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung và sau đó
muốn khơi phục chế độ tài sản chung, thì vợ chồng phải thoả thuận
bằng văn bản có ghi rõ các nội dung sau đây:
a) Lý do khôi phục chế độ tài sản chung;
b) Phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên;
c) Phần tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, nếu có;
d) Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản
chung;
đ) Các nội dung khác, nếu có [5].

18


"Khơi phục" có nghĩa là "làm cho có lại được hay trở lại được như
trước" [47, tr. 430]. Như vậy, với việc sử dụng cụm từ "khôi phục chế độ tài

sản chung" sẽ dẫn đến cách hiểu sau khi chia tài sản chung thì chế độ tài sản
chung của vợ chồng sẽ chấm dứt nên nếu vợ chồng muốn trở lại chế độ tài sản
chung thì phải lập thỏa thuận để khơi phục. Trong khi đó việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài
sản chung của vợ chồng. Điều này có nghĩa là chế độ tài sản chung của vợ
chồng vẫn đương nhiên tồn tại mà không phụ thuộc vào thỏa thuận khôi phục
chế độ tài sản chung của vợ chồng.
Khoản 2 Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: "Vợ, chồng có
quyền nhập hoặc khơng nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung" [37]. "Nhập"
có nghĩa là "đưa vào một nơi để quản lý, gộp lại, hợp nhất lại thành một khối"
[47, tr. 576]. Theo đó, nhập tài sản riêng vào tài sản chung là việc vợ, chồng đưa
phần tài sản riêng của mình góp vào khối tài sản chung và khối tài sản chung này
vẫn là tài sản chung hợp nhất. Như vậy, việc nhập tài sản riêng của mỗi bên vợ,
chồng vào khối tài sản chung khác với việc khôi phục chế độ tài sản chung của
vợ chồng. Thứ nhất, chế độ tài sản chung của vợ chồng ln tồn tại dù có sự kiện
nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung hay không, trong khi đó khơi phục chế
độ tài sản chung được hiểu là chế độ tài sản chung đã chấm dứt nên cần thỏa
thuận để khôi phục lại. Thứ hai, sau khi nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung
thì sự thay đổi duy nhất là tài sản riêng đó sẽ trở thành tài sản chung hợp nhất
của vợ chồng cịn việc khơi phục chế độ tài sản chung làm chấm dứt hậu quả
pháp lý của việc chia tài sản chung nghĩa là việc xác định tài sản chung, tài sản
riêng của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng giống như trước khi chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Nếu sau khi chia tài sản chung mà vợ chồng
nhập một phần hoặc toàn bộ tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung thì chỉ
tài sản được nhập này trở thành tài sản chung hợp nhất của vợ chồng còn hậu quả
pháp lý của việc chia tài sản chung vẫn được áp dụng bình thường. Do đó quy
định về

19



×