Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang thị trường CuBa của Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu lương thực thực phẩm Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.97 KB, 62 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Việt Nam là một đất nước có truyền thống xuất khẩu gạo với những chủng
loại sản phẩm gạo đa dạng và chất lượng gạo ổn định. Từ một nước thiếu
lương thực, Việt Nam trở thành nước có gạo xuất khẩu đứng thứ hai thế giới.
Trong những năm vừa qua, xuất khẩu gạo Việt Nam đã cung cấp cho thị
trường thế giới hàng triệu tấn gạo, góp phần khơng nhỏ trong tỷ trọng tăng
trưởng kinh tế của đất nước. Đẩy mạnh xuất khẩu gạo luôn được Nhà nước ta
quan tâm và coi trọng. Trên tinh thần đó, cơng ty cổ phần xuất nhập khẩu
lương thực thực phẩm Hà Nội (VIHAFOODCO) đã không ngừng nỗ lực trong
việc đẩy mạnh xuất khẩu gạo tới các thị trường tới các nước châu Á, châu Âu,
châu Phi và châu Mỹ Latinh. Trong đó thị trường được công ty đặc biệt chú
trọng là Cu Ba. Gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là một
bước tiến quan trọng đối với xuất khẩu lương thực của Việt Nam nói chung và
xuất khẩu gạo nói riêng. Nó mở ra những cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu gạo
vào thị trường Cu Ba, đồng thời cũng đặt ra những thách thức cần phải giải
đáp để thúc đẩy xuất khẩu vào thị trường này một cách hiệu quả.
Trên thế giới, hầu hết các sản phẩm gạo được tiêu dùng chủ yếu ở khu vực
châu Á và châu Phi, vốn là các quốc gia đơng dân và có thói quen tiêu dùng
gạo. Tuy nhiên, thị trường Cu Ba vẫn là thị trường xuất khẩu chính và đem lại
lợi nhuận lớn cho cơng ty. Thêm vào đó là xu hướng giá lương thực tăng trong
những năm tới nên đây là một cơ hội tốt cho những doanh nghiệp xuất khẩu
lương thực, khi đó khơng thể khơng nhắc tới thị trường Cu Ba, một thị trường
truyền thống và là bạn hàng lâu năm của xuất khẩu gạo Việt Nam nói chung
cũng như cơng ty nói riêng. Những kinh nghiệm q báu tích lũy trong nhiều
năm giao dịch với Cu Ba đã khiến thị trường này luôn là thị trường dẫn đầu về
Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

1



TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

kim ngạch xuất khẩu của công ty VIHAFOODCO. Tuy nhiên do nhiều yếu tố
ảnh hưởng nên Công ty không thể đáp ứng được một lượng sản phẩm lớn khi
nhu cầu thị trường địi hỏi. Chính vì những lí do trên, việc nghiên cứu đề tài
“Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang thị trường Cu Ba của công ty
cổ phần xuất nhập khẩu lương thực thực phẩm Hà Nội” sẽ phần nào giúp
cho việc thúc đẩy xuất khẩu gạo sang thị trường Cu Ba của công ty được thuận
lợi hơn trong bối cảnh hội nhập kinh tế và tồn cầu hóa đang diễn ra như hiện
nay.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
2.1.Mục đích nghiên cứu đề tài:
Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu gạo của công ty VIHAFOODCO sang thị trường Cu Ba.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài cần phải thực hiện các nhiệm vụ
sau đây:
- Hệ thống hóa những vấn đề lí luận về xuất khẩu và các quy định về nhập
khẩu gạo của thị trường Cu Ba.
- Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu gạo sang thị trường Cu Ba của
công ty VIHAFOODCO, từ đó rút ra những thành cơng và những mặt tồn tại,
hạn chế cũng như nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
- Từ định hướng của xuất khẩu gạo Việt Nam và của công ty lương thực thực
phẩm VIHAFOODCO sang thị trường Cu Ba mà dự báo những cơ hội và
thách thức của công ty VIHAFOODCO khi xuất khẩu gạo sang thị trường này.
Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo

sang thị trường Cu Ba.
Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

2

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu thị trường gạo thế giới
cùng hoạt động xuất khẩu gạo của cơng ty VIHAFOODCO từ đó đề ra các
giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của công ty VIHAFOODCO
sang thị trường Cu Ba.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Về mặt hàng: Chỉ nghiên cứu mặt hàng gạo xuất khẩu
- Về không gian: Giới hạn vào thị trường Cu Ba
- Về thời gian: Từ năm 2004 đến nay và các năm tiếp theo
5. KẾT CẤU CỦA BÀI VIẾT:
Ngoài lời mở đầu và kết luận, toàn bộ nội dung của bài viết được chia làm 3
chương:
Chương I: Đặc điểm thị trường Cu Ba và vấn đề xuất khẩu gạo của Việt Nam
sang thị trường Cu Ba.
Chương II : Thực trạng xuất khẩu gạo của công ty VIHAFOODCO sang thị
trường Cu Ba.
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của công ty
VIHAFOODCO sang thị trường Cu Ba.

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ


3

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

CHƯƠNG I
ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG CU BA VÀ VẤN ĐỀ XUẤT KHẨU
GẠO CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG CU BA
1.1. ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG CU BA
1.1.1. Vị trí địa lý
Cu Ba có diện tích 114.524 km2, nằm ở vùng biển Ca-ri-bê, giữa Bắc,
Trung và Nam Mỹ, được nhà thám hiểm Tây Ban Nha Cristobal Colon phát
hiện ra ngày 27/10/1492. Là quần đảo gồm hơn 1.600 đảo, trong đó lớn nhất là
đảo Cu Ba với diện tích 110.922 km2, 3/4 diện tích là đồng bằng; sơng ngịi ít,
nhỏ; khí hậu nhiệt đới ơn hồ. Cu Ba có trữ lượng quặng ni-ken lớn; ngồi ra
cịn có quặng đồng, sắt, măng-gan, dầu lửa; đất đai mầu mỡ, thích hợp cho
canh tác cây cơng nghiệp (mía, cà phê, thuốc lá...), cây ăn quả và chăn nuôi
đại gia súc.
1.1.2. Đặc điểm về kinh tế - chính trị
Từ khi Cách mạng Cu Ba thành công (năm 1959) đến những năm đầu
thập niên 70, Cu Ba cố gắng thoát khỏi thế độc canh mía đường, đa dạng hố
sản xuất cơng nghiệp và nông nghiệp. Năm 1972, Cu Ba tham gia khối SEV,
được Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu hỗ trợ và đạt những thành tựu nổi
bật trong xây dựng kinh tế. Các ngành kinh tế chính của Cu Ba là: cơng
nghiệp đường mía, khai thác và chế biến ni-ken, du lịch, cơng nghiệp nhẹ sản
xuất xì gà, rượu rum, hố mỹ phẩm... Từ cuối thập kỷ 80 và nhất là đầu thập
kỷ 90 của thế kỷ XX, Cu Ba rơi vào thời kỳ đặc biệt khó khăn, mất thị trường

và khơng cịn nhận được viện trợ từ Liên xơ và các nước Đông Âu.
Bắt đầu từ cuối thập niên 1980, các khoản viện trợ của Liên Xô cho nền
kinh tế quản lý nhà nước của Cu Ba bắt đầu cạn kiệt. Trước khi Liên bang Xô
Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

4

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Viết sụp đổ, Cu Ba phụ thuộc vào Moscow về thị trường xuất khẩu và những
khoản viện trợ tối cần thiết. Người Xô viết từng trả giá cao cho sản phẩm
đường của Cu Ba trong khi cung cấp dầu mỏ cho nước này với giá thấp hơn
thị trường. Sự biến mất của các khoản trợ cấp đó đã khiến nền kinh tế Cu Ba
rơi vào một giai đoạn suy thối nhanh chóng, được gọi là Giai đoạn đặc biệt
tại Cu Ba. Có thời điểm, Cu Ba nhận được các khoản viện trợ lên tới sáu tỷ
dollar Mỹ.
Năm 1992, Hoa Kỳ thắt chặt lệnh cấm vận thương mại. Một số người
tin rằng điều này có thể đã tới sự sụt giảm tiêu chuẩn sống tại Cu Ba và chạm
tới điểm khủng hoảng chỉ trong vòng một năm
Từ cuộc Cách mạng Cu Ba năm 1959, tiêu chuẩn sống người dân Cu Ba
ln trượt theo một vịng xốy đi xuống. Năm 1962, chính phủ đưa ra chính
sách phân phối lương thực, càng trở nên gắt gao sau sự sụp đổ của Liên Xơ.
Ngồi ra, Cu Ba đã trải qua tình trạng thiếu hụt nhà ở vì chính phủ không thể
đáp ứng nổi sự gia tăng nhu cầu. Tới cuối năm 2001, nghiên cứu cho thấy mức
sống trung bình tại Cu Ba thấp hơn giai đoạn Liên Xô. Những vấn đề chủ chốt
là nhà nước không thể trả lương đáp ứng nhu cầu của người lao động và hệ
thống phân phối ln bị ám ảnh thường xun với tình trạng thiếu hụt hàng

hố. Khi số lượng hàng hóa phân phối giảm sút, người Cu Ba dần phải quay
sang chợ đen để có được những sản phẩm cơ bản: quần áo, thực phẩm, đồ
dùng gia đình, vật dụng chăm sóc sức khoẻ. Ngồi ra, tình trạng tham nhũng
nhỏ trong các ngành công nghiệp nhà nước, như ăn cắp tài sản nhà nước để
bán ra chợ đen, cũng thường xảy ra. Trong những năm gần đây, sự nổi lên của
Venezuela với vị Tổng thống Dân chủ Xã hội Hugo Chavez khiến Cu Ba có
được nhiều khoản viện trợ từ nước này giúp cải thiện nền kinh tế. Viện trợ của
Venezuela cho Cu Ba chủ yếu thông qua khoản cung cấp lên tới 80.000 barrel
dầu mỏ mỗi ngày đổi lấy lao động chuyên gia và các mặt hàng nông nghiệp.
Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

5

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trong nhiều năm qua, Cu Ba đã thu hồi lại một số biện pháp định hướng kinh
tế thị trường đã được đưa ra trong thập kỷ 1990.
Từ năm 1993, Cu Ba đã từng bước điều chỉnh chính sách, thi hành một
số biện pháp cải cách kinh tế, đưa đất nước từng bước vượt qua thời kỳ khó
khăn, thúc đẩy kinh tế phát triển. Quốc hội khóa V của Cu Ba đã thơng qua
luật mới về hợp tác, trong đó có các hợp tác xã tín dụng và dịch vụ, hợp tác xã
nông nghiệp. Theo luật mới, các hợp tác xã được quyền tự vạch kế hoạch sản
xuất của mình mà khơng phụ thuộc vào Bộ, ngành của Chính phủ. Đối với vấn
đề sở hữu tư liệu sản xuất, Cu Ba duy trì chế độ sở hữu xã hội, khơng tư nhân
hóa, nhưng có giao quyền sử dụng các tư liệu sản xuất cho nông dân, đa dạng
hóa kết cấu sở hữu và kinh tế hợp tác xã, thành lập các doanh nghiệp hỗn hợp
và áp dụng một số hình thức liên doanh kinh tế quốc tế. Do tác động của nhiều

loại nhân tố, từ năm 2002, Chính phủ Cu Ba đã tiến hành tái cấu trúc, điều
chỉnh quy mơ sản xuất, duy trì ngành cơng nghiệp mía đường, một ngành cơng
nghiệp mũi nhọn truyền thống của kinh tế Cu Ba, đủ đáp ứng nhu cầu trong
nước (khoảng 6-7 triệu tấn đường/năm); đã ngừng hoạt động 70 nơng trường
trồng mía, 20 nhà máy sản xuất đường và một số cơ sở sản xuất phụ trợ, tiết
kiệm 300 triệu USD/năm cho ngân sách nhà nước.
Năm 2004, các quan chức Cu Ba đã công khai ủng hộ đồng Euro trở
thành "đối trọng toàn cầu với đồng dollar Mỹ", và hạn chế đồng dollar trong
dự trữ cũng như trong thanh toán thương mại. Những hạn chế ngày càng tăng
của chính phủ Hoa Kỳ về đi lại của những người Mỹ gốc Cu Ba cũng như
khoản tiền họ được phép mang về Cuba càng khiến chính phủ Cuba tăng kiểm
sốt sự lưu chuyển đồng dollar trong nền kinh tế. Trong thập kỷ qua, người Cu
Ba nhận được khoảng 600 triệu tới 1 tỷ dollar hàng năm, chủ yếu từ các thành
viên gia đình đang sống tại Mỹ. Con số này bị ảnh hưởng bởi thực tế chính
phủ Mỹ cấm các cơng dân của mình gửi q 1.200 USD về Cu Ba.
Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

6

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

1.1.3. Đặc điểm của thị trường Cu Ba về nhập khẩu gạo
Món ăn chính của Cu Ba gọi là Congrí, gồm cơm trộn đậu đen, chuối
khô và salad. Gạo trở thành một sản phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng
ngày của người dân Cu Ba. Mỗi năm Cu Ba phải chi hàng tỉ dollar, là một
nước nhập khẩu gạo hàng đầu thế giới. Ngay như La Habana, thủ đô của Cu
Ba, mỗi người dân chỉ được cung cấp 9 liu, khoảng 4 ký rưỡi gạo một tháng.

Mỗi năm Cuba phải có tối thiểu 600 ngàn tấn gạo, nhưng hiện nay mới chỉ sản
xuất được khoảng 100 ngàn tấn, chỉ riêng tỉnh Holguin, theo sổ phân phối
hàng năm cũng phải có 5 vạn tấn gạo.
Ở Cu ba gạo, dầu ăn, đường, sữa, bánh mỳ, thịt, xăng dầu... trừ vải vóc,
tất cả đều phải có tem phiếu. Hình thức phân phối sản phẩm khá giống với
thời kì bao cấp trước đây tại Việt Nam. Do đó, lương thực, thực phẩm cũng
như các nhu yếu phẩm khác trở thành vấn đề cấp thiết đối với cả chính phủ
cũng như người dân Cu Ba.
Liên hiệp Lúa gạo Cu Ba nhận thấy rất nhiều nhân tố khác nhau tác
động tới việc kìm hãm sản xuất gạo trong nước. Trước hết, phải kể tới thu
nhập của người nông dân cũng như cơng nhân nơng nghiệp của Cu ba cịn q
thấp. Nhiều cơng trường cả gia đình cịn ăn bếp tập thể. Điều này dẫn đến việc
không thể trang trải các chi phí đầu vào như giống và nguyên liệu.
Thứ hai là chính sách giá cả trong việc thu mua lúa gạo, yếu tố thị
trường chưa có, gần như rất hiếm mơ hình chợ mua bán. Trong khi cả nước
cịn thiếu lúa gạo, thì có những huyện sản xuất ra khơng bán được vì thiếu
phương tiện vận chuyển. Bởi vậy, có vùng nông dân phải bán cho tư thương
chỉ bằng một nửa giá nhà nước thu mua ở huyện vì khơng có phương tiện vận
chuyển. Ở Cu Ba cơng đoạn sau thu hoạch cịn kém. Do đó, hạt lúa phải đi qua
nhiều nơi mới trở lại chính nơi làm ra nó. Cu Ba cần đổi mới chính sách về sử

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

7

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


dụng đất, chính sách đầu tư và chính sách cân đối lương thực tại chỗ mới có
thể khắc phục một phần tình trạng này.
Với các yếu tố kể trên, nhu cầu gạo của Cu Ba luôn luôn ở mức cao.
Mỗi năm nhu cầu nhập khẩu gạo của nước này là 500.000 – 600.000 tấn gạo.
Chủng loại gạo xuất khẩu sang thị trường Cu ba chủ yếu là gạo 5% tấm
và gạo 15% tấm với mức giá giao động trong khoảng từ 400-410 USD/tấn.
1.2. KHẢ NĂNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ
TRƯỜNG CU BA
1.2.1. Khái quát tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tháng cuối cùng của năm
2007 diễn ra tương đối chậm chạp do chỉ giới hạn ở việc hoàn thành những
hợp đồng cũ. Những doanh nghiệp xuất khẩu đã thực hiện xong các hợp đồng
bắt đầu bán gạo cho những đơn vị xuất khẩu cịn hợp đồng phải hồn tất. Giới
kinh doanh gạo cho rằng, hoạt động xuất khẩu gạo chỉ có thể nối lại từ tháng
3/08, khi nguồn cung gạo mới từ vụ thu hoạch lúa đơng xn có mặt đầy đủ
trên thị trường.
Giá gạo xuất khẩu liên tục tăng do nguồn cung khan hiếm trong khi nhu
cầu thế giới lại rất lớn. Gạo 5% tấm Việt Nam chào bán 376 USD/tấn (tăng
5,9%) kém gạo 5% tấm Thái Lan 14 USD/tấn. Gạo 25% tấm là 360 USD/tấn
(tăng 5,88%) so với tháng trước. Theo kế hoạch năm 2008 cả nước sẽ xuất
khẩu 4,5 triệu tấn gạo các loại với kim ngạch 1,7 tỷ USD, giữ nguyên lượng
nhưng tăng 21,43% về trị giá so với năm 2007.

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

8

TMQT 46



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Biểu đồ 1: Diễn biến giá gạo xuất khẩu 5% tấm 2007-2008 (USD/tấn, FOB)

Nguồn : Thông tin thương mại Việt Nam.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng 12 năm 2007,
cả nước đã xuất khẩu được 101 nghìn tấn, trị giá 42,2 triệu USD, tăng 45% về
lượng và 82% về trị giá so với tháng 11/07, tăng 512% về lượng và 655% về
trị giá so với tháng 12/06. Như vậy, kết thúc năm 2007, các doanh nghiệp đã
hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo với tổng kim ngạch
xuất khẩu đạt 1,48 tỷ USD, giảm nhẹ 3% về lượng nhưng vẫn tăng tới 16% về
trị giá so với năm 2006.
Lượng gạo của Việt Nam xuất khẩu qua các tháng từ năm 2005- 2007
dao động theo từng tháng và tuân theo chính sách xuất khẩu lương thực của
Chính phủ . Có hiện tượng lượng gạo xuất khẩu năm sau thấp hơn so với năm
trước nhưng giá trị xuất khẩu vẫn tăng do giá gạo tăng liên tục trong khoảng
thời gian từ cuối năm 2007 đến đầu năm 2008.

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

9

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Biểu đồ 2: Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam qua các tháng
(ĐVT: Nghìn tấn)


Nguồn: Thông tin thương mại Việt Nam.
Trong tháng 12/2007, các doanh nghiệp trong nước tập trung xuất khẩu
những loại gạo cao cấp như gạo nếp, gạo thơm và gạo giống Nhật các loại nên
giá xuất khẩu trung bình tăng vọt so với những tháng trước đó, ở mức 416
USD/tấn, cao hơn 86 USD/tấn so với tháng 11/07 và cao hơn 106 USD/tấn so
với cùng kỳ năm 2006. Như vậy, qua theo dõi diễn biến giá gạo từ đầu năm
đến nay, nhận thấy khoảng cách giá gạo xuất khẩu của Việt Nam với Thái Lan
đã bị thu hẹp, thậm chí có thời điểm đạt mức ngang giá. Tính chung cả năm
2007, giá gạo xuất khẩu trung bình đạt mức 329 USD/tấn, tăng 54 USD/tấn so
với mức giá bình quân của năm 2006. Dự báo trong năm 2008, giá gạo xuất
khẩu của Việt Nam tiếp tục tăng ở mức rất cao do tình trạng thiếu hụt các loại
nông sản trên thế giới vẫn đang tiếp diễn, đặc biệt là trước thực trạng lúa mì
đang bị mất mùa nên nhiều nước đã chuyển sang tiêu thụ gạo. Trong đó, gạo

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

10

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

25% tấm giá sẽ trong khoảng từ 320 USD trở lên, gạo 5% tấm cũng sẽ giữ ở
mức 340 USD trở lên.
Số liệu Hải quan về thị trường xuất khẩu gạo trong năm 2007 cho thấy,
so với năm 2006, cơ cấu thị trường xuất khẩu đã có sự thay đổi theo hướng
tích cực, bên cạnh việc mở rộng thêm một số thị trường mới thì khá nhiều thị
trường khác đã đạt tốc độ tăng trưởng về kim ngạch khá cao so với các năm
trước, đặc biệt là xuất sang những thị trường quen thuộc như Philippin, CuBa,

Ghana và Trung Quốc.
1.2.2. Cu Ba – Một trong những thị trường trọng điểm về xuất khẩu
gạo của Việt Nam
Từ đầu năm đến nay, gạo Việt Nam đã được xuất khẩu sang khoảng 90
thị trường và vùng lãnh thổ, kể cả các thị trường EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ vốn
rất khắt khe. Rất nhiều thị trường trong số đó có lượng nhập khẩu giảm nhưng
kim ngạch lại tăng khá so với cùng kỳ năm trước, điều này cho thấy sự cải
thiện rõ rệt về giá xuất khẩu cũng như chất lượng gạo Việt Nam ngày càng
được đánh giá cao trên thị trường thế giới.
Trong nhóm 20 thị trường dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu gạo trong
năm 2007, có 11 thị trường đạt mức tăng trưởng dương. Đáng chú ý nhất trong
số đó là thị trường Inđơnêxia với mức tăng trưởng lên tới 237% về lượng và
255% về trị giá so với năm 2006, đạt 1,17 triệu tấn, trị giá 379 triệu USD,
vươn lên đứng vị trí thứ nhì trong tốp 10 thị trường dẫn đầu. Tuy nhiên, vẫn
xuất hiện một số thị trường lớn có mức tăng trưởng âm, nổi bật nhất là thị
trường Nhật Bản với kim ngạch xuất khẩu đạt 18,7 triệu USD, tổng lượng xuất
đạt 64,6 nghìn tấn, giảm 56% về kim ngạch và 61% về lượng so với năm
2006.

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

11

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Bảng 1: 30 thị trường đạt kim ngạch xuất khẩu gạo lớn nhất trong năm 2007


Thị trường
Philippin
Inđônêxia
Cu Ba
Malaixia
Bờ Biển Ngà
Gana
Ăngôla
Singapore
Nhật Bản
Côngô
Trung Quốc
Tanzania
ĐôngTimo
Nga
Nam Phi
Papua New Guinea
Môdămbic
Iran
Đài Loan
Camêrun
Benin
Kenya
Ukraina
Gabông
Afgakistan
Angiêri
Brunei
Hà Lan
UAE

Hungary

Năm 2007
So sánh năm 2006
Lượng (Tấn) Trị giá (USD) Lượng (%) Trị giá (%)
1,458,136
466,070,763
-0.52
12.03
1,169,429
378,979,955
237.64
255.61
431,370
167,260,760
-4.80
27.45
376,929
115,867,041
-25.37
-17.14
148,010
45,888,349
-30.69
-13.61
130,921
39,712,399
13.14
39.15
115,472

36,202,615
-36.45
-23.86
82,390
25,911,742
-16.14
1.63
64,640
18,718,676
-60.88
-56.56
54,546
16,069,099
-25.14
-13.13
42,630
15,903,299
3.12
15.30
50,078
15,564,993
-42.24
-29.20
50,302
15,234,648
1.91
27.61
38,594
13,209,642
-37.52

-24.05
36,980
10,908,910
-64.66
-56.20
32,450
9,468,475
26.76
53.89
31,250
9,372,850
-13.55
6.86
31,500
9,315,390
12,500
11,931
19,521
7,855,140
118.60
237.59
25,942
7,750,236
-41.24
-29.67
14,770
4,549,160
196.88
267.96
13,062

3,954,350
-79.23
-74.35
9,835
3,159,567
-2.42
15.69
9,985
3,042,493
-7.57
6.69
9,250
2,835,125
15.63
30.23
8,456
2,682,655
-82.67
-78.84
8,297
2,592,010
-28.07
-13.54
4,027
1,464,420
812.74
923.22
3,757
1,219,908
64.08

83.11
2,388
1,107,752
*
*

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

12

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Nguồn: Thông tin thương mại Việt Nam
Riêng trong tháng 12/2007, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ xuất khẩu
gạo sang 24 thị trường. Lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu sang các thị
trường đều ở mức khá thấp, chỉ có 2 thị trường đạt mức xuất khẩu trên 10
nghìn tấn. Trong đó Cu Ba, Inđơnêxia, Bờ Biển Ngà, Malaixia và Singapore là
những thị trường xuất khẩu nhiều nhất. Dẫn đầu là CuBa với lượng xuất đạt
42,75 nghìn tấn, trị giá 21,7 triệu USD, tăng mạnh tới 8.450% về lượng và
tăng 13.585% về trị giá so với tháng 11/2007. Trong khi đó, xuất khẩu sang
Phillippin – thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của nước ta chỉ đạt vỏn vẹn 3
nghìn tấn, trị giá xấp xỉ 1,1 triệu USD, giảm 25% về lượng và 24,4% về trị giá
so với tháng 11/07, nhưng vẫn cao hơn cùng kỳ năm trước 142% về lượng và
148% về trị giá.
Bảng 2: Các thị trường xuất khẩu gạo trong tháng 12/2007
Thị trường
Cuba

Inđônêxia
Bờ biển Ngà
Malaysia
Singapore
Đông Timo
Philipine
Trung Quốc
Xênêgan
Nga
Đài Loan
Tanzania
Brunei
Ả rập xê út
Nam Phi
Đức

Tháng 12/07
So sánh T11/07
So sánh T12/06
Lượng (Tấn) Trị giá (USD) Lượng (%) Trị giá (%) Lượng (%) Trị giá (%)
42,750
21,739,470
8,450
13,585
*
*
23,900
7,348,400
-13.09
-14.42

338.93
204.70
5,867
2,523,030
761.53
756.62
*
*
5,821
1,886,230
-80.36
-79.75
3,859.86
2,179.71
3,919
1,238,992
116.76
79.84
88.32
117.06
3,260
1,189,328
38.72
50.62
*
*
3,025
1,092,513
-25.31
-24.43

142.00
148.72
2,540
912,467
39.71
41.71
*
*
2,370
865,275
*
*
*
*
1,683
757,605
1,672
1,598
*
*
1,689
743,898
-32.79
-33.64
*
*
1,171
473,793
*
*

*
*
827
313,654
*
*
*
*
804
305,941
168.00
199.92
221.60
282.81
460
193,660
*
*
*
*
260
147,207
441.67
581.51
*
*

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

13


TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Australia
Phigi
Ixraen
Gana
Hồng Kông
Na Uy
Pháp
Mỹ
Nhật Bản

183
125
95
75
44
42
22
20
3

85,975
46,204
41,470
40,875

18,399
17,555
10,035
8,970
2,160

3.98
*
-58.70
-16.67
*
*
-80.70
-54.55
*

5.41
*
-59.02
-20.60
*
*
-76.92
-55.17
*

*
*
*
*

-63.23
*
-21.43
-72.22
*

*
*
*
*
-31.70
*
-36.85
-68.85
*

Nguồn: Thông tin thương mại Việt Nam
Trong tháng 12/07, các doanh nghiệp đã xuất khẩu nốt 146 lô hàng cuối
cùng của năm. Hầu hết các chủng loại gạo được tiêu thụ mạnh nhất như gạo
5% tấm, 25% tấm … coi như đã hồn thành hợp đồng trong những tháng trước
đó. Trong tháng này, các doanh nghiệp chỉ tập trung xuất khẩu nốt một số lô
hàng gạo 15% tấm sang các thị trường Cu Ba, Đông Timo, Malaixia và
Inđônêxia. Kim ngạch xuất khẩu gạo 15% tấm trong tháng cuối đạt 30 triệu
USD với sản lượng 71 nghìn tấn. Ngồi ra, những mặt hàng gạo xuất khẩu còn
lại trong thời gian này đều là những lô hàng gạo cao cấp, lượng xuất không
nhiều nhưng có đơn giá rất cao. Trong đó, loại gạo giống Nhật 5% tấm có giá
xuất khẩu cao nhất với 613 USD/tấn, được xuất sang 3 thị trường Nhật Bản,
Malaixia và Singapore
Bảng 3: Một số lô hàng xuất khẩu trong tháng 12/07
Thị trường

Bờ Biển Ngà
Brunei
Cuba
Đài Loan
Đông Timo

Mặt hàng
Gạo thơm 5% tấm
Gạo thơm 5% tấm
Gạo thơm 5% tấm
Gạo thơm 5% tấm
Gạo nếp 10% tấm
Gạo 15% tấm
Gạo 15% tấm
Gạo nếp 5% tấm
Gạo nếp 5% tấm
Gạo 15% tấm

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

Lượng (Tấn)
1.180
1.634
681
480
400
26.250
16.500
555
342

1.182

14

Giá (USD)
432,65
432,61
432,50
416,00
388,00
510,66
505,13
474,63
440,00
396,09

Cửa khẩu ĐKGH
Tân cảng FOB
Tân cảng FOB
Tân cảng FOB
Tân cảng FOB
Mỹ Thời FOB
Bến Nghé CIF
Bến Nghé CIF
Tân cảng FOB
Tân cảng FOB
Khánh Hội FOB

TMQT 46



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Inđônêxia

Malaysia

Gạo 15% tấm

2.078

347,04

Gạo nếp 10% tấm

500

414,00

Gạo nếp 10% tấm
Gạo nếp 10% tấm
Gạo 15% tấm
Gạo thơm 5% tấm
Gạo 15% tấm

500
500
7.400
400
2.300


393,00
350,00
298,00
385,00
350,00

Khánh Hội FOB
ICD III CFR
Transimex
Tân cảng CIF
Tân cảng CIF
Bến Nghé FOB
Mỹ Thời FOB
Cần Thơ

Nguồn: Thông tin thương mại Việt Nam
11 tháng đầu năm 2007, cơ cấu 5 thị trường dẫn đầu về kim ngạch xuất
khẩu gạo tiếp tục là Phillippin, Inđônêxia, CuBa, Malaixia và Bờ Biển Ngà.
Tuy nhiên, vị trí thứ tự của nhóm 5 thị trường này đã xuất hiện những sự thay
đổi nhất định. Dẫn đầu vẫn là thị trường Phillippin với tổng lượng xuất khẩu
gạo trong 11 tháng đầu năm 2007 đạt 1,45 triệu tấn, trị giá 465 triệu USD,
giảm nhẹ 0,64% về lượng so với năm 2006 nhưng xét về kim ngạch vẫn tăng
gần 12%. Với mức tăng 236% về lượng và 257% về kim ngạch so với cùng kỳ
năm ngối, Inđơnêxia đã vươn lên 2 bậc đứng vị trí thứ nhì trong tốp 10 thị
trường xuất khẩu gạo nhiều nhất của Việt nam, đạt 1,14 triệu tấn với tổng trị
giá đạt 371 triệu USD. Đứng vị trí thứ 3 là thị trường CuBa với mức giảm
14% về lượng và 11% về kim ngạch xuất khẩu so với cùng kỳ năm trước.
Trong khi đó, 2 thị trường Malaixia và Bờ Biển Ngà đều có mức giảm khá cao
về lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu, lần lượt tụt xuống vị trí thứ 4 và thứ

5 trong tốp 5 thị trường dẫn đầu.
Bảng 4: Các thị trường xuất khẩu gạo lớn của Việt Nam 11 tháng đầu năm 2007
Thị trường
Philippin
Inđônêxia
Cu Ba
Malaixia
Bờ biển ngà
Gana

11 tháng/07
Lượng
Trị giá
(Tấn)
(USD)
1,455,111 464,978,250
1,145,529 371,631,555
388,620 145,521,290
371,108 113,980,811
142,143 43,365,319
130,846 39,671,524

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

11 tháng/06
So sánh 07/06
Lượng
Trị giá
Trị giá
Lượng (%)

(Tấn)
(USD)
(%)
1,464,450 415,571,961
-0.64
11.89
340,913 104,159,556
236.02
256.79
453,100 131,240,402
-14.23
10.88
504,910 139,746,206
-26.50
-18.44
213,550 53,114,867
-33.44
-18.36
115,718 28,538,890
13.07
39.01

15

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Singapore

Nhật Bản
Trung Quốc
Nga
Nam Phi
Đài Loan
Ukraina
Hà Lan
UAE
Hungary
Canada
Úc
Anh
Tây Ban Nha
Hồng Kông

78,471
64,637
40,090
36,911
36,520
17,832
9,835
3,674
3,757
2,388
2,158
2,167
1,084
1,563
2,033


24,672,750
18,716,516
14,990,832
12,452,037
10,715,250
7,111,242
3,159,567
1,329,745
1,219,908
1,107,752
976,722
838,332
710,112
658,100
602,610

96,169
158,218
41,338
61,775
104,653
8,930
10,079
441
2,290
*
233
1,158
677

516
2,715

24,925,345
41,259,554
13,792,772
17,392,177
24,907,945
2,326,850
2,730,977
143,119
666,233
*
79,050
388,946
481,713
233,764
768,424

-18.40
-59.15
-3.02
-40.25
-65.10
99.69
-2.42
732.73
64.08
*
826.18

87.17
60.11
202.91
-25.11

-1.01
-54.64
8.69
-28.40
-56.98
205.62
15.69
829.12
83.11
*
1,135.58
115.54
47.41
181.52
-21.58

Nguồn : Thông tin thương mại Việt Nam.
Do mục tiêu xuất khẩu trong năm 2007 sắp hoàn thành nên số thị trường
cũng như các mặt hàng xuất khẩu gạo trong tháng 11/2007 bị thu hẹp đáng kể.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng 11/07, các doanh
nghiệp Việt Nam chỉ xuất khẩu được gần 130 lô hàng gạo các loại sang 23 thị
trường, giảm 7 thị trường so với tháng 10/07 và giảm 2 thị trường so với tháng
11/06. Hầu hết trong số đó đều giảm về lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu
so với tháng trước, thậm chí đã ngừng xuất khẩu sang một số các thị trường
lớn và quen thuộc như Gana, Cu Ba … do đã hoàn thành hợp đồng ký trước

đó. Xuất khẩu sang 2 thị trường hàng đầu là Phillippin và Inđônêxia cũng
giảm mạnh so với tháng trước. Kim ngạch xuất khẩu sang 2 thị trường này chỉ
đạt lần lượt 1,44 triệu USD và 8,6 triệu USD, giảm 97% và 70% so với tháng
10/07. Trong khi đó, xuất khẩu sang Malaixia lại tăng khá, đạt 29,6 nghìn tấn,
trị giá 9,3 triệu USD, tăng 99% về lượng và 103% về kim ngạch so với tháng
10/07; giảm nhẹ 7,3% về lượng nhưng vẫn tăng 5,7% về kim ngạch so với
tháng 11/06.
Bảng 5: Các thị trường xuất khẩu gạo lớn của Việt Nam trong tháng 11/2007
Thị trường
Tháng 11/07
Tháng 10/07
Tháng 11/06

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

16

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Malaixia
Inđônêxia
Philippin
Đài Loan
Singapore
Trung Quốc
Bờ Biển Ngà
Hà Lan

Cuba
Gabong

Ả rập xê út
UAE
Ixraen
Angiêri
Úc

Lượng
(Tấn)
29,644
27,500
4,050
2,513
1,808
1,818
681
506
500
238
300
300
230
255
176

Trị giá
Lượng Trị giá
Trị giá

Lượng (%)
(USD)
(%)
(%)
(%)
9,313,191
98.75 103.23
-7.25
5.71
8,587,000
-68.45
-70.00
-56.28
-55.88
1,445,625
-97.13
-96.92
174.58
197.30
1,121,040
31.43
44.16
*
*
688,937
-62.18
-54.95
22.74
50.69
643,878

-43.35
-41.52
175.45
187.32
294,533
*
*
*
*
189,750
120.00 120.00
*
*
158,855
*
*
-97.09
-97.57
106,016
*
*
*
*
102,006
-78.17
-78.71
-40.00
-26.35
102,005
-75.21

-74.06
*
*
101,200
-4.56
-24.63
*
*
100,725
*
*
-74.50
-61.56
81,565
9.32
7.22
*
*

Nguồn: Thông tin thương mại Việt Nam.
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy, tổng kim
ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang các nước trong khu vực Mỹ Latinh và
Caribê trong 11 tháng đầu năm 2006 đạt khoảng 441 triệu USD, tăng 21,57%
so với mức 362 triệu USD cùng kỳ năm 2005, hoàn thành 87% kế hoạch xuất
khẩu năm 2006.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường
truyền thống như Arhentina, Brazil, Cuba và Chilê và một số thị trường mới
như Panama, Venezuela đạt xấp xỉ 348 triệu USD, tăng 12,98% so với mức
308 triệu USD đạt được cùng kỳ năm 2005.
Ước tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực này đạt

544,5 triệu USD, hoàn thành kế hoạch xuất khẩu năm 2006
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường khu vực
Mỹ Latinh trong năm 2006 bao gồm giày dép chiếm 26,65%, dệt may 7,55%,

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

17

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

máy vi tính và linh kiện 1,94%, thuỷ hải sản 1,34%, sản phẩm chất dẻo và gỗ
2,17%, các hàng hoá khác chiếm khoảng 19,33% và cao nhất là gạo chiếm
31,25%.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu thì gạo ln là mặt hàng đứng
đầu về trị giá xuất khẩu trong số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang
khu vực Mỹ Latinh, nhất là đối với thị trường truyền thống Cuba.
Năm 2005, Việt Nam đã xuất khẩu được 600.000 tấn gạo sang Cuba,
gồm cả hợp đồng của năm 2004 chuyển sang, tăng 200.000 tấn so với năm
2004, trị giá khoảng 180 triệu USD.
Năm 2006, Tổng công ty Lương thực miền Bắc (Vinafood I) đã ký được
hợp đồng xuất khẩu gạo sang Cuba là 400.000 tấn với tín dụng của Chính phủ
(trả chậm 540 ngày, khơng tính lãi suất) và theo thoả thuận doanh nghiệp.
Theo nhận định của Bộ Công Thương, tiềm năng Việt Nam có thể xuất
tới 1 triệu tấn gạo/năm trong tương lai bởi gạo vẫn là lương thực chính trong
bữa ăn hàng ngày của người dân Mỹ Latinh, thêm nữa gạo của Việt Nam ngày
càng khẳng định được tính cạnh tranh ở thị trường khu vực này do giá cạnh
tranh và chất lượng ổn định. Riêng Cuba mỗi năm có nhu cầu nhập khẩu từ

500.000 – 600.000 tấn gạo.
1.3. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU GẠO VÀO THỊ
TRƯỜNG CU BA
1.3.1. Những nhân tố tích cực
* Quan hệ hợp tác Việt Nam – Cu Ba:
Trong hơn 45 năm qua, hầu hết các nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam
đều có các chuyến thăm hữu nghị chính thức Cu Ba: Chủ tịch Trần Đức
Lương (các năm 2000, 2004), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (năm 2003),
Thủ tướng Phan Văn Khải (năm 2002). Đặc biệt, năm 2004, Tổng Bí thư
Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

18

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Nông Đức Mạnh đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam
sang thăm hữu nghị chính thức Cu Ba. Thay mặt Đảng Cộng sản Việt Nam,
Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh đã trao tặng 650 bộ máy vi tính cho Đảng Cộng
sản CuBa giúp trang bị cho các cơ quan Đảng của bạn, từ trung ương đến cấp
quận, huyện. Lãnh đạo hai Đảng nhất trí đẩy mạnh hợp tác cùng phát triển,
nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học, cơng nghệ, văn hóa,
giáo dục…, đưa quan hệ truyền thống tốt đẹp Việt Nam – Cu Ba lên tầm cao
mới.
Về phía Cu Ba: Chủ tịch Fidel Castro thăm Việt Nam (các năm 1973,
1995, 2003). Các chuyến thăm này đã đánh dấu bước phát triển mới trong
quan hệ giữa hai nước, là dịp lãnh đạo cấp cao hai nước gặp gỡ trực tiếp,
nhằm tăng cường quan hệ hợp tác tồn diện trên nhiều lĩnh vực. Ngồi ra, cịn

có nhiều chuyến viếng thăm của nhiều bộ, ngành…, tạo điều kiện thúc đẩy
quan hệ hợp tác giữa hai nước.
Việt Nam và Cu Ba thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức ngày
02/12/1960. Hai nước đã ký các điều ước kinh tế - thương mại: Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư (1995); Hiệp định trao đổi thương mại và các
hình thức hợp tác kinh tế khác (1996); Hiệp định về hợp tác du lịch (1999);
Thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực kiểm dịch và bảo vệ thực vật (1999); Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại
thuế thu nhập (2002). Quan hệ kinh tế tuy chưa tương xứng với quan hệ chính
trị đang rất tốt đẹp giữa hai nước, nhưng đã có những bước phát triển đáng
khích lệ. Trong những năm gần đây, trao đổi thương mại giữa Việt Nam – Cu
Ba liên tục tăng, từ 60 triệu USD năm 2002 lên hơn 90 triệu USD năm 2003
và đạt hơn 100 triệu USD trong năm 2006, trong đó, xuất khẩu của Việt Nam
sang Cu Ba đạt khoảng 50 triệu USD/năm, Việt Nam đã trở thành nước cung
cấp gạo chủ yếu và ổn định cho Cu Ba. Hàng năm, Việt Nam xuất khẩu
Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

19

TMQT 46


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

400.000 tấn gạo sang Cu Ba, đồng thời hợp tác có kết quả trong lĩnh vực sản
xuất lúa ở hộ gia đình, nhằm giúp Cu Ba tự túc lúa gạo.
Năm 2004, cuộc họp Phân ban hợp tác kinh tế thương mại giữa hai
nước, đồng thời thành lập nhóm nghiên cứu thị trường của Cu Ba và Việt Nam
đã thúc đẩy quan hệ kinh tế và trao đổi hàng hóa giữa hai nước.
Trong thương mại, trong năm 2008 tới, Việt Nam vẫn tiếp tục cung cấp

cho Cu Ba 200 nghìn tấn gạo theo hợp đồng Chính phủ và 200 nghìn tấn gạo
theo hợp đồng cơng ty với điều kiện như thường lệ.
* Nhu cầu của Cu Ba về nhập khẩu gạo là rất lớn
Bước vào thập kỷ 90, Cu Ba lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội
nghiêm trọng nhất kể từ ngày Cách mạng thành công. Năm 1990, tăng tưởng
kinh tế âm 2,6%. Năm 1993, GDP giảm đến 35% so với 1989. Nợ nước ngoài
11 tỷ USD và 21,5 tỷ Rúp chuyển đổi.
Đời sống người dân Cu Ba gặp rất nhiều khó khăn do tình trạng thiếu hụt
hàng hóa. Các nhu yếu phẩm như quần áo, thực phẩm, đồ dùng gia đình và vật
dụng chăm sóc sức khỏe khan hiếm trầm trọng, đặc biệt là sản phẩm gạo, một
thành phần không thể thiếu trong bữa ăn thường ngày của người dân Cu Ba.
Nhu cầu về nhập khẩu gạo của Cu Ba luôn ở mức cao. Mỗi năm nhu
cầu nhập khẩu gạo của nước này là 500.000 – 600.000 tấn gạo.
* Kinh nghiệm lâu năm trong xuất khẩu gạo vào bạn hàng Cu Ba
Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (2/12/1960), quan
hệ Việt Nam - Cuba liên tục được duy trì và phát triển. Hai nước đã thực hiện
thành công rất nhiều hợp đồng xuất nhập khẩu các sản phẩm nói chung và mặt
hàng gạo nói riêng. Các doanh nghiệp Việt Nam và chính phủ Cuba có sự nhất
trí cao về tăng cường hơn nữa các mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị, hợp tác
anh em, nâng cao hiệu quả của mối quan hệ này, phù hợp với thế mạnh và
tiềm năng của mỗi nước.

Sinh viên: Nguyễn Quang Đệ

20

TMQT 46




×