Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng ĐT&PT Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.54 KB, 84 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
MỤC LỤC
Trang
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
A.LỜI NÓI ĐẦU.
Bước vào thời kỳ đội mới được 20 năm, đất nước ta đang từng bước
khởi sắc, ngày càng gặt hái được nhiều những thành công to lớn. Có thể nói qúa
trình đổi mới đã là bước ngoặt to lớn giúp đất nước đi lên. Trong qúa trình hội
nhập kinh tế với thế giới, bước đầu chúng ta còn tụt hậu, thua kém các nước về
nhiều mặt. Lý do chính đó là xuất phát điểm của nước ta rất thấp, thêm vào đó là
giai đoạn trì trệ, chậm đổi mới làm cho mọi người có cách nghĩ nhìn nhận vấn đề
chưa được chính xác.
Hiện nay nền kinh tế của chúng ta đang đi lên, từng bước bắt kịp dần với
nền kinh tế thế giới. Cùng với quá trình đi lên của nền kinh tế thì hệ thống Tài
chính cũng ngày càng phát triển và lớn mạnh. Bởi vì hệ thống tài chính chính là
mạch máu lưu thông cho nền kinh tế. Các trung gian tài chính như các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng là đầu mối quan trọng để cung ứng, điều phối vốn
giúp cho nền kinh tế vận hành được tốt. Sự lớn mạnh của hệ thống Ngân hàng đã
được ghi nhận qua từng năm và phát triển từng thời kỳ. Trước những năm 90 thì
hệ thống Ngân hàng còn mới chỉ là Ngân hàng 1 cấp, làm ăn theo kiểu bao cấp,
từ đó dẫn đến không đạt hiệu quả kinh tế. Sau những năm 90, cùng với sự đổi
mới của đất nước hệ thống Ngân hàng cũng ngày càng đổi mới, đã thành hệ
thống Ngân hàng 2 cấp, làm ăn, kinh doanh theo cơ chế thị trường, có sự điều
tiết của Ngân hàng Trung ương, của Chính phủ. Chính vì vậy mà hiệu quả kinh
doanh của Ngân hàng cũng như hiệu quả trong nền kinh tế ngày càng tăng dần.
Ngân hàng ĐT&PT Thanh Hóa cũng nằm trong guồng xoáy đó của hệ thống
Ngân hàng, và hiện nay Ngân hàng ĐT&PT Thanh Hóa là một trong những
Ngân hàng Thương mại Nhà nước chính giúp cho sự đi lên của nền kinh tế trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Ngân hàng đã nhiều năm đạt được những thành tích tốt,
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C2


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đã nhiều năm đạt danh hiệu đơn vị lao động giỏi, năm 2003 đạt danh hiệu đơn vị
lao động xuất sắc.
Đề tài này của em nhằm mục tiêu giúp cho Ngân hàng ĐT&PT Thanh
Hoá nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung dần ứng
dụng trong hoạt động tín dụng, ngày càng nâng cao hiệu quả của tín dụng, làm
cho ngân hàng phát triển tốt hơn. Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1:Tổng quan về chất lượng tín dụng của NHTM.
Chương 2: Thực trạng về chất lượng tín dụng tại ngân hàng ĐT&PT
Thanh Hoá.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng
ĐT&PT Thanh Hoá.

Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
B. NỘI DUNG.
CHƯƠNG I.
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NHTM.
1. TỔNG QUAN VỀ NHTM.
1.1. Khái niệm về NHTM.
Ngân hàng thương mại( NHTM) là tổ chức tài chính trung gian có vị trí
quan trọng nhất trong nền kinh tế. Tổng tài sản có của NHTM luôn có khối
lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Mặt khác, khối lượng séc hay
tài khoản gửi không kỳ hạn mà nó có thể tạo ra chiếm một tỷ trọng lớn trong
tổng cung tiền tệ M1 của cả nền kinh tế:
Có nhiều khái niệm khác nhau về NHTM chẳng hạn:
Ở Hoa Kỳ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ
tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở ấn Độ NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay hoạt
động tài trợ và đầu tư.

Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận
của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ
dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Thổ Nhĩ Kỳ : NHTM là một hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm
mục đích nhận tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ hối
phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn hay tín dụng khác.
Ở Việt Nam, theo sắc lệnh 018 CT/LDGCQL/SL này 20/10/1969 của
chính quền Sài Gòn cũ cho rằng NHTM là một xí nghiệp công hay Tư lập, kể cả
chi nhánh hay phân cục Ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động thường xuyên là thi
hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài chính, vói tiền ký thác
của tư nhân hay của xí nghiệp hay cơ quan công quyền.
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Còn theo pháp lênh ngân hàng ngày 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước
xác định: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt dộng chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Qua những khái niệm nêu trên, có thể rút ra một số điểm đặc trưng của
NHTM như sau:
- Thứ nhất, NHTM là một tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng
với trách nhiệm hoàn trả.
-Thứ hai, NHTM là một tổ chức được phếp sử dụng ký thác của công
chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác.
Ở đây chúng tín dụng cũng ohân biệt NHTM với các tổ chức tín dụng
khác.
Vào cuối thập niên 60, điểm đặc thù để phân biệt NHTM với các ngân
hàng trung gian khác là: NHTM là đơn vị duy nhất mở tài khoản, tiền gửi không
kỳ hạn cho công chúng. Điều này có nghĩa là, người tín dụng phân biệ nó dựa
vào các thành phần của tài sản nợ( liabilities). Vào lúc này, tiền gửi không kỳ
hạn bị cấm trả lãi, tuy nhiên vì nhu cầu giao dịch thông qua séc vẫn tăng gấp đôi

hàng năm, do đó khối lượng Séc phát hành từ các khoản tiền gửi không kỳ hạn
tiếp tục là bộ phận mạnh nhất sau tiền mặt pháp định.
Từ những năm 80 sau, sau sau khi tiền gửi không kỳ hạn đã được phép
trả lãi, các ngân hàng tiết kiệm và các tổ chức tín dụng khác NHTM cũng được
quyền và bắt đầu mở tài khoản gửi không kỳ hạn, cho phép công chúng sử dụng
séc một cách linh hoạt, đa dạng dưới nhiều hình thức. Lúc này việc phân biệt
NHTM với các ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng khác dựa trên tài sản
nợ(labilities) không còn phù hợp nữa. Do vậy, các chuyên gia ngân hàng phương
tây bắt đầu phân biệt NHTM với các Ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng
khác dựa trên tài sản có( Assets). Theo tiêu thức này, một NHTM là một trung
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
gian mà tỷ lệ vốn cho vay vào mục đích thương mại và công nghiệp là chiếm đa
số.
1.2. Chức năng của NHTM.
1.2.1.Trung gian thanh toán.
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán NHTM cung cấp các phương
tiện thanh toán cho nèn kinh tế, tiết kiệm chi phí lưu thông và nâng cao khả năng
tín dụng.
Việc mở tài khoản, cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán cho
NHTM trở thành một trung tâm thanh toán cho nền kinh tế. NHTM sẽ thừa lệnh
khách hàng để thực hiện toàn bộ các nghiệp vụ ngân quỹ của khách hàng. Việc
làm này giúp cho khách hàng cũng như nền kinh tế chu chuyển vốn nhanh, an
toà và tiết kiệm. Do đó, tiết kiệm được chi phí lưu thông, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của nền kinh tế.
Với chức năng trung gian thanh toán cũng cho phép NHTM tạo ra bút tệ
để mở rộng quy mô tín dụng đối với nền kinh tế, vừa tiết kiệm được lượng tiền
mặt, vừa đáp ứng được những hoạt động thường xuyên của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế phát triển, quy mô thanh toán và khoảng cách giữa
khách hàng với nhau ngày càng tăng nhanh chóng. Việc thanh toán trực tiếp giữa

các khách hàng với nhau ngày với nhau sẽ không thoả mãn được nhu cầu của
nền kinh tế nếu không có NHTM làm chức năng trung gian thanh toán cho chủ
thể của nền kinh tế.
Việc hệ thống NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán mang
một ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Trước hết, hệ thống NHTM sẽ cung cấp cho chủ thể của nền
kinh tế nhiều công cụ thanh toán mang tiện ích cao như: thẻ thanh toán, thẻ tín
dụng, thẻ rút tiên, ngân phiếu, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu…
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tuỳ theo yêu cầu khách hàng có thể lựa chọn một trong những công
cụ thanh toán thích hợp. Nhờ có các phương thức thanh toán được thực hiện bởi
các NHTM , các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền
đến gặp chủ nợ, gặp người thụ hưởng dù gần hay xa mà họ có thể sử dụng một
phương thức thanh toán nào đó đơn giản, chẳng hạn như một tờ séc, một uỷ
nhiệm chi …để giao cho khách hàng hoặc yêu cầu ngân hàng chi trả hộ, thu hộ
các khoản tiền theo ý muốn của mình.
- Thứ hai, là khi sử dụng các phương tiện thanh toán, bản thân chủ thể
kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí lao động, thời gian, lại an
toàn. Hệ thông NHTM lại tích tụ được một nguồn vốn khổng lồ để có
thể mở rộng khả năng tín dụng của mình.
Ngày nay, có thể nói rằng hoạt động thanh toán của hệ thống NHTM
chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của NHTM nó tạo đều kiện cho
nhiều dịch vụ Ngân hàng khácphát triển dễ dàng hơn, đồng thời nó tiết kiệm một
khối kượng rất lớn tiền mặt trong lưu thông.
Nhìn vào hệ thống thanh toán của NHTM, người ta có thể đánh giá được
ngay hoạt động của hệ thống NHTM có hiệu quả hay không.
Chu chuyển tiền tệ ngày nay chủ yếu thông qua hệ thống NHTM và do
vậy chỉ khi chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện và vai trò của
NHTM sẽ được nâng cao hơn với tư cách là người thủ quỹ của xã hội

1.2.2. Chức năng tạo tiền.
NHTM là một tong những tổ chức trung gian tài chính, làm trung gian
cung và cầu vốn tiền tệ, nó huy động tập trung giữa các nơi có nguồn tiền tạm
thời thừa, hay tiết kiệm để điều hoà nhu cầu về vốn, với mục đích đem lại lợi ích
cho các bên: người gửi tiền, ngân hàng và người vay. Nhưng ngoài việc thu hút
tiền gửi và cho vay số tiền gửi đó, NHTM còn tạo tiền khi phát tín dụng.Nghĩa là
vốn phát qua tín dụng không nhất thiết dựa trên vàng hay tiền giấy đã gửi vào
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ngân hàng, tiền vay không trên cơ sở số tiền gửi, mà khoản tín dụng đó do ngân
hàng tạo ra tiền để cho vay, gọi là bút tệ , hay bút toán, hay tiền ghi sổ. Khi hết
hạn vay người vay trả nợ ngân hàng, tiền vay rút khỏi lưu thông, quay trở lại
ngân hàng tiền bị huỷ bỏ. Trong phạm vi một nền kinh tế , hoạt động cho vay và
trả nợ diễn ra thường xuyên. hàng ngày có tiền tạo ra và tiền bị huỷ đi. Khối
lượng tiền tệ trong lưu thông tăng lên khi luồng tiền tạo ra( phát tín dụng) lớn
hơn luồng tiền huỷ đi ( trả nợ ngân hàng).
1.2.3.Chức năng trung gian tài chính.
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian tài chính phi ngân
hàng đứng giữa thu nhận tiền gửi của người gửi tiền để cho vay ngươi cần vay
tiền hoặc làm môi giớ cho ngưòi đầu tư. Điều này có thể được khái quát hoá qua
sơ đồ sau:
Thực hiện chức năng này, NHTM thực sự là “ cầu nối”
giữa những người có tiền muốn cho vay hoặc muốn gửi ở ngân hàng với
những người thiếu vốn cần vay. NHTM góp phần tạo lợi ích công bằng cho cả 3
bên trong mối quan hệ: ngưòi gửi tiền, ngân hàng, và người vay.
- Đối với những người gửi tiền: họ sinh lợi được vốn tạm thời nhàn rỗi
của mình bởi lãi suất tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ hoặc họ dược
ngân hàng tạo ra cho họ cái tiện ích như sự an toàn hoặc cung cấp cho
họ các phương tiện thanh toán .
- Đối với người vay: sự thoả mãn được nhu cầu kinh doanh hoặc chi

tiêu, thanh toán mà khỏi tốn nhiều công sức, thời gian cho việc tìm
kiếm nơi vay tiền tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C8
Cá nhân, doanh
nghiệp
Ngân
hàng
thương
mại
Cá nhân, doanh
nghiệp
Cho vay
đầu tư
Nhận tiền gửi
uỷ thác đầu tư
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Đối với NHTM : sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình dựa
vào chênh lệch giữa lãi suát cho vay, lãi suất tiền hoặc hoa hồng môi
giớ. Lợi nhuận này chính là cơ sở tồn tại và phát triển của cácNHTM.
Thông qua chức năng trung gian tài chính, các NHTM thực sự huy động
được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hoá, thực hiện các dịch vụ tiện ích cho xã hội. Nếu như không có NHTM
việc huy động của cải xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng sẽ
chậm đi rất nhiều. Và vì vậy mà người tín dụng cho rằng ngân hàng là một trong
3 phát minh quan trọng của nhân loại lửa và bánh xe.
Nhờ có NHTM mà tiền tiết kiệm của các cá nhân, đoàn thể, các tổ chức
được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Tiền huy động được này
thông qua các hoạt động của hệ thống NHTM nó trở thành “ chất bôi trơn” cho
bộ máy kinh tế hoạt động. Nó chuyển của cải của xã hội, tài nguyên xã hộivề nơi
chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng nóphục vụ cho phát triển sản

xuất kinh doanh, đời sống ngày càng cao của xã hội.
Ngày nay, có thể nói mọi quan hệ kinh tế xã hội của loài người đều thông
qua quan hệ tiền tệ và chủ yếu là thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng
bên cạnh hoạt động của các tổ chức phi ngân hàng.
1.3. Các nghiệp vụ của NHTM.
1.3.1. Nghiệp vụ nợ.( Nghiệp vụ tạo lập vốn).
Nghiệp vụ tạo nên nguồn vố hoạt động của ngân hàng gọi là nghiệp vụ
nợ, vì những khoản mục nguồn vố do nghiệp vụ này tạo nên khi thể hiện trên
bảng tổng kết tài sản của NHTM sẽ nằm bên tài sản nợ.
Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự phát triển của ngân hàng.
Về sau,khi NHTM đã hình thành ổn định, các nghiệp vụ của nó được xen kẽ lẫn
nhau trong suốt quá trình hoạt động.
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Huy động của các nguồn vốn khác nhau(tài sản nợ) trong xã hội để hoạt
động là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. ở các nước công nghiệp, với sự
phát triển nhanh chóng của thi trường tài chính, đã có rất nhiều loại tài sản có lợi
tức ổn định và thanh khoản cao, tài sản nợ rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm vốn
hoạt động của NHTM trở thành sự cạnh tranh khốc liệt, trước mắt các ngân hàng
ở các nước phát triển luôn luôn xuất hiện vấn đề làm thế nào để có đủ vốn đàu tư
cho môi trường kinh doanh đầy kịch tính> NHTM phải cạnh tranh với những
ngân hàng khác, các tổ chức tài chính khác, với nghiệp vụ thị trường trực tiếp và
với bất cứ các tổ chức nào khác muốn thu hút một khối lượng vốn nào đó.
Cho đến thời gian gần đây, tài sản nợ của các NHTM trên khắp thế giới
vẫn còn tập trung vào năm nhóm phổ biến: 1)vốn pháp định hay vố điều lệ,2)
tiền gửi không kỳ hạn, 3) tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, 4) các khoản vay trên
thị trường tiền tệ, 5)các khoản vay các ngân hàng khác hay ngân hàng trung
ương. Tài sản nợ của NHTM là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Nói theo ngôn ngữ thi trường thì tài sản nợ diễn tả những khoản
nợ mà ngân hàng mắc nợ thị trường, bao gồm những khoản mà nhân dân gửi

vào( ký thác) cho nó, hay nó đi vay các đối tượng trong nền kinh tế như ngân
hàng trung ương, các ngân hàng hay tổ chức tài chínhkhác, chính quyền, nước
ngoài, các doanh nghiệp, nhân dân…Đứng bên tài sản nợ, NHTM là người đi
vay, là con nợ, còn các đối tượng kia là người cho vay, là chủ nợ của NHTM.
Như vậy, thuật ngữ “Tài sản nợ” phản ánh rằng đó là tài sản của người khác mà
ngân hàng vay.
1.3.2. Nghiệp vụ có( sử dụng vốn).
Những nghiệp vụ sử dụng vốn hình thành nên tài sản của ngân hàng mà
khi lên bảng tổng kết tài sản nó nằm bên phía tài sản có. Như vậy, tài sản chủ
yếu của ngân hàng là các tài sản tài chính hay còn gọi là các hình thức trái
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quyền( như cổ phiếu,trái phiếu và các khoản vay), thay vì tài sản thực như nhà
cửa, công cụ và nguyên vật liệu.
Huy đông được nhàn rỗi, NHTM phải làm thế nào để hiệu quả hoá những
nguồn tài sản này. Hỗu như tất cả các khoản mục bên tài sản nợ của ngân hàng
đeeuf là vốn vay, nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến từng giờ. Do
đó, để khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn phải cho vay hoặc đầu tư ngay số tài
sản ấy vào những dịch vụ sinh lãi. Từ lãi thu được ngân hàng sẽ dùng nó để trả
lãi suất cho vốn đã vay thanh toán chi phí cho các hoạt động, phần còn lại sẽ là
lợi nhuận của ngân hàng. Nói cách khác, nghiệp vụ của ngân hàng là những
nghiệp vụ sử dụng những khoản vốn đã huy động(tập chung vào nghiệp vụ nợ)
nhằm mục đích sinh lợi.
Cho vay hay đầu tư để sinh lợi từ tiền đã huy đông được sẽ là lẽ sống của
NHTM.Cho vay hay đầu tư vào các loại tài sản nào cũng đều là hoạt động kiếm
lợi nhuận. chỉ có một ít khác biệt giữa hai khái niệm, do đó đôi khi người tín
dụng cũng gọi cả hai hoạt động trênvào một từ là “ đầu tư”. Khi ngân hàng đầu
tư tiền vốn vào một thương vụ hoặc cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng vay,
nó trở thành là chủ nợ, các đối tượng kia là vay nợ. Vì thế các khoản đầu tư trên
biến thành tài sản co( assets) của ngân hàng. Nó càng đầu tư nhiều, càng sinh lãi

nhiều từ vốn đã huy động. Nếu không đầu tư được, nó sẽ bị lỗ vì phải trả lãi cho
tài sản nợ. Là một đơn vị kinh doanh tiền tệ bất cứ thành phần nào vay tiền của
nó đều trở thành con nợ của ngân hàng. do vậy con nợ của ngân hàng có thể là
mọi thành phần nhân dân trong và ngoài nước.
Tài sản có cho biết những khoản nợ mà thi trường nợ ngân hàng hoặc là
những khoả mà ngân hàng cho thị trường vay.Nếu chữ “ Nợ” phản ánh rằng đó
là tài sản của người khác mà ngân hàng mượn, thỉ chữ “ Có” phản ánh những tài
sản của ngân hàng đang được các thành phần khác mượn. Đứng trên góc độ tính
chất ngân hàng là chủ nợvà các đối tượng vay tiền của nó là con nợ. Vì mục tiêu
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của ngân hàng là cho vay đẻ kiếm lời nên tài sản có hay các khoản mà ngân hàng
cho thi trưòng vay còn được gọi là đầu tư của ngân hàng( banking investment).
Ngân hàng có rất nhiều cách để đầu tư tiền của nó. Sự khác nhau giữa
các loại đầu tư này hình thành nên sự khác nhau trong tài sản có của NHTM
hoặc có thể nói ngược lại, sự đa dạng của tài sản có phản ánh sự đa dạng trong
các loại đầu tư của ngân hàng. ở các nước trên thế giới tài sản có của mỗi NHTM
thường quy về các nhóm sau đây:
1). Dự trữ tiền mặt, bao gồm: tiền mặt tại kho của ngân hàng; tiền
mặt ký gửi tại NHTW.
2). Đầu tư vào chứng khoán ( trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu…)
3). Cho vay
4). Đầu tư vào các loại tài sản ( như bất động sản, cơ sở hạ tầng…)
1.3.3. Nghiệp vụ trung gian.
Có nhiều loại công cụ ngân hàng. ở đây chỉ đề cập một số thông dụng
như tài khoản ngân hàng ngân hàng và các công cụ thanh toán không dùng tiền
mặt.
Nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau. ở đây chỉ
giới hạn vào các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt với một số nội dung
sau:

- Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoả này sang tài khoản khác cùng ở một
ngân hàng hay ở hai ngân hàng khác nhau thông qua các công cụ như
Séc, lệnh chi, thẻ chi trả…
- Dịch vụ thu hộ và chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh
toán tại ngân hàng. Việc chi hộ ngân hàng chỉ tiến hành khi có lệnh
của chủ tài khoản.
- Dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Đến tháng doanh
nghiệp chỉ cần gửi bản lương cho các ngân hàng, sau đó ngân hàng sẽ
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ghi nợ vào tài khoản donh nghiệp đó và chi lương cho những người có
tên trong danh sách tiền lương.
- Dịch vụ chuyển tiền từ địa phương này sang địa phương khác.
- Dịch vụ khấu trừ tự động cũng là dịch vụ với khách hàng là cá nhân.
Theo đó nếu khách hàng cho phép, ngân hàng sẽ tự động ghi nợ tài
khoản của khách hàng để thanh toán cáchoá đơn đòi tiền cho các đơn
vị dịch vụ gửi đén như: trả tiền điện, nước, thuê nhà ,điẹn thoai…đây
là những khoản chi thường xuyên trong tháng nếu không có dịch vụ
này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái.
-
Quy trình thực hiện dịch vụ khấu trừ tự động:
2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NHTM.
2.1. Khái niệm tín dụng.
Hiện nay, xu thế hội nhập và cạnh tranh ngày càng gay gắt đã đặt ra cho
mỗi chủ thể kinh tế những cơ hội và thách thức mới. Đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế
phảI can sự cải tiến về mọi mặt mỗi bản thân nằhm tạo ra sức cạnh tranh để
chiến thắng trong cạnh tranh. Muốn vậy, họ phải có một lượng vố lớn nhiều khi
vượt quá khả năng vố tự có của doanh nghiệp. Để giải quyết những khó khăn
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C13
Ngân hàng Đơn vị dịch vụ

Khách hàng X
Gởi hoá đơn
Thanh toán
Cung
cấp
dịch vụ
Báo nợ
Tài khoản X
XXX
X
1
X
2
Chi theo
từng hoá
đơn
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
này, họ có thể trực tiếp gặp nhau để thương lượng việc vay vốn hoặc thông qua
thị trường tài chính song chủ yếu là gián tiếp thông qua trung gian tài chính đặc
biệt là NHTM. NHTM là một trung gian tài chính chuyên thực hiện việc đưa
người đi vy và người cho vay trong nền kinh tế gặp nhau hay nói một cách đầy
đủ hơn NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế. Trong đó, hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi
nhuận cho ngân hàng, quyết định chủ yếu đến sự tồn tại và phất triển của ngân
hàng. Song lại rất khó có thể định nghĩa rõ ràng về tín dụng mà tuỳ theo góc độ
nghiên cứu chúng ta có thể xác định thuật ngữ này.
tín dụng ( credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo( tin tưởng, tín nhiệm )
song trong thực tế cuộc sống thuật ngữ nàycó thể được hiểu theo nhiều nghĩa

khác nhau:
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm
sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng đượ coi là phương pháp chuyể dịch
quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Xét một quan hệ tài chính cụ thể,tín dụng là một dao dịch về tài sản
trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân
hàng và các định chế tài chính khác, giữa các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện
dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một
thời hạn nhất định ngưoaì đi vay phải thanh toán gốc và lãi.
tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chê tài
chính cung cấp cho khách hàng.
Theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu là
một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hóa ) giữa bên cho vay ( ngân hàng và
các định chế tài chính) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm
trả vô điều kiện gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng.
2.2.1. Căn cứ vào mục đích.
Căn cứ theo tiêu thức này người ta chia tín dụng thành hai loại:
- tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là hình thức cấp tín dụng để
làm cơ sở để cấp tín dụng lấy đối tượng thực hiện trong quá trình sản
xuất kinh doanh của ngân hàng để làm cơ sở cấp tín dụng như các nhà
doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh tiến hành sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Nó được áp dụng khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh
của các NHTM.
- tín dụng tiêu dùng, là loại cho vay để dáp ứng nhu cầu mua sắm nhà
cửa, các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải các chi
phí thông thường của đời sống thông qua việc phát hành thẻ tín dụng.

Với hình thức cấp tín dụng này ngân hàng chỉ quan tâm đến nguồn trả
và thu nhập của khách hàng mà ít quan tâm đến việc sử dụng khoản
tín dụng có hiệu quả hay không do đó loại tín dụng này có mức độ rủi
ro cao hơn.
2.2.2. Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
Căn cứ theo tiêu thức này người ta chia tín dụng thành 3 loại.
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng và được
sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời về vố lưu động của các doanh
nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đây là loại hình
tín dụng ít rủi ro cho ngân hàng vì trong một thời gian ngắn ít có
những biến động xảy ra và ngân hàng thường luôn dự tính được
những biến động đó. Nó bao gồm tín dụng chiết khấu, tín dụng thấu
chi , tín dụng ứng trước và tín dụng bổ sung vốn lưu động.
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại
tín dụng này cgủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản có định,
cải tiến hoặc đổi mới thiết bi, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi
vốn nhanh. Ngoài ra, tín dụng trung hạn còn là nguồn hình thành vốn
lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp mới thành lập. Nó bao
gồm các hình thức chủ yếu sau: Tín dụng thực hiện theo dự án, tín
dụng hợp vốn, tín dụng cho thuê tài chính.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn > 5 nămđược sưr dụng
để cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí
nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu cống,
bến cảng , sân bay…)., cải tiến và mở rộng với quy mô lớn.
Loại tín dụng này thường có mức độ rủi ro lớn do khó lườg trước được
những biến độngcó thể xảy ra.
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng .

Theo căn cứ này thì nó được chia thành hai loại.
- Cho vay có bảo đảm: Là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người
bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho lhoản nợ vay. Hình thức này áp
dụng đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng,
khi vay vốn phải có đảm bảo. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để
ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ
thứ nhất thiếu chắc chắn. Tuy nhiên, khách hàng vay không có bảo
đảm sẽ nhận được khoản vay khi hội tụ đầy đủ các yếu tố sau:
+ Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay
và trả nợ đúng hạn, đầy đủ gốc và lãi.
+ Có dự án đầu tư, hoặc phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi
có khả năng hoàn trả nợ đúng hạn đầy đủ cả gốc và lãi.
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+ Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của
TCTD nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hoạt động tín dụng, cam
kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm tài sản.
2.2.4. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
Hình thái giá trị của tín dụng là số tiền hay(hạn mức tín dụng) ngân hàng
cam kết cấp cho khách hàng. Giá trị tín dụng có thể được chia nhỏ trong các
khoảng thời gian khác nhau và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau. Tuỳ thuộc
vào từng loại đố tượng khách hàng khác nhau mà ngân hàng có thể cung cấp cho
một lượng tín dụng khác nhau. Sự khác nhau này thể hiện ở nhiều điểm mà trong
hồ sơ của khách hàng mang đến cho ngân hàng để vay tiền. Chẳng hạn như là
phương án kinh doanh, số tài sản đảm bảo, mức độ tín nhiệm đối với khách
hàng…. Cán bộ tín dụng phải phân tích rất kỹ trước khi cho khách hàng vay
vốn. Bởi vì nó có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ rủi ro của tín dụng, đến thu
nhập của ngân hàng.
2.2.5. Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng.

2.2.5.1. Chiết khấu thương phiếu.
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng
hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán(người thụ hưởng) có thể
giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua( hoặc người phải trả) hoặc
mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn.
Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa
ngân hàng và những người kí tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách,
ngân hàng thường ký với khách hợp đồng chiết khấu. Khi cần chiết khấu khách
hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên ngân hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm
tra chất lượng của thương phiếu và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có hai
người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cao( trừ trường hợp ngân hàng ký miễn truy đòi đố với khách hàng) . hơn nữa,
NHTM có thể tái chiết khấu thương phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản với chi phí thấp.
2.2.5.2. Cho vay.
Cho vay là loại hình thông dụng nhất trong hoạt động tín dụng, nó có
nghĩa là ngân hàng cho khách hàng vay tiền để phục vụ cho những mục đích
khác nhau của khách hàng.Cho vay có các loại sau:
- Thấu chi, là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và khoảng thời gian xác định, giới hạn này được gọi là hạn
mức thấu chi.
- Cho vay trực tiếp từng lần, là hình thức cho vay tương đối phổ biến
của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường
xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Một số khách
hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ
khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân
hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất

định của chu kỳ SXKD.
- Cho vay theo hạn mức, là nghiệp vụ theo đó ngân hàng thoả thuận cấp
cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho
cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
- Cho vay luân chuyển, là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có
thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng.
- Cho vay trả góp, là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả làm nhiều lần gốc trong thời hạn tín dụng đã thoả
thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền
trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ.
- Cho vay gián tiếp, là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung
gian. Phần lớn các ngân hàng áp dụng hình thức cho vay tực tiếp. Bên
cạnh đó ngân hàng cũng phát triển thêm hình thức này.
2.2.5.3.Cho thuê tài sản( thuê- mua).
Hoạt động chủ yếu của NHTM là cho vay để khách hàng mua tài sản.
Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, khách hàng không đủ( hoặc chưa đủ điều
kiện) để vay. Để mở rộng tín dụng , NHTM đã mua các tài sản theo yêu cầu của
khách hàng để cho khách hàng thuê. Vì tài sản cho thuê thuộc sở hữu của ngân
hàng nên Ngân hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi người
thuê không trả nợ được. Điều này giảm bớt thiệt hại cho Ngân hàng.
2.2.5.4. Bảo lãnh.
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi
khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
Bảo lãnh có 3 bên: bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo
lãnh . Bảo lãnh của Ngân hàng có nghĩa là Ngân hàng là người bảo lãnh, khách

hàng của Ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ
ba.
2.3. Tín dụng ngân hàng và những vấn đề liên quan.
2.3.1. Những quy định trong hoạt động tín dụng.
2.3.1.1.Nguyên tắc tín dụng.
Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một só nguyên tắc xác định
nhằm bảo đảm tính an toàn và khả năng sinh lời . Các nguyên tắc này được cụ
thể hoá trong các quy định của NHNN và các NHTM.
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác
định : các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các
khoả tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn.
Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi như đã cam kết.
Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện
đúng cam kết này, Đây là điều kiện để nq tồn tại và phát triển.
- Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả
thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các
quy định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi
hoạt động cho các ngân hàng. bên cạnh đó mỗi ngân hàng có thể có
mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong
hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt
động trái luật pháp và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của
ngân hàng.
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án ( hoặc dự án ) có hiệu quả.
Thực hiện nguyên tắc này là điều kiẹn để thực hiện nguyên tắc thứ
nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng
cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng.
Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài
sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân

hàng đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm khi vay.
2.3.1.2. Điều kiện vay vốn.
Việc ngân hàng cho vay được thực hiện theo các quy định chặt chẽ, xuất
phát từ nhiều lý do khác nhau và một trong những lý do đó là để bảo vệ sự an
toàn đối với ngân hàng. mục tiêu của các quy định là để tránh sự tập trung cho
vay quá đáng đối với một người và giảm bớt rủi ro. Trong những năm gần đây,
quốc hội đã thông qua một số đạo luật nhằm bảo vệ người vay và cả người cho
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
vay, kể cả NHTM. Trong các điều luật, có đạo luật công khai khi cho vay (1968)
nhằm bảo đảm rằng người vay sẽ không được thông báo về các chi phí của tín
dụng mà họ đang yêu cầu. Đạo luật báo cáo tín dụng công bằng(1971) mà mục
đích chủ yếu là bảo vệ người xin vay không bị từ chối tín dụng do những thông
tin sai lệch trong hồ sơ. và đạo luật cơ hội tín dụng công bằng (1974) nghiêm
cấm người cho vay phân biệt đố xử trên cơ sở giới tính, tình trạnghôn nhân,
chủng tộc, màu da, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc đang nhận các khoản trợ
cấp.
Nhìn chung thì trong bất kỳ một trường hợp vay vốn nào giữa ngân hàng
và khách hàng cũng có những điều kiện nhất định để đảm bảo quyền lợi cho cả
ngân hàng và khách hàng. những điều kiện này được ghi rõ trong hợp đồng tín
dụng, nếu bên nào không thực hiện đúng những điều kiện đó thì phải chịu trách
nhiệm đối với bên kia và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.3.1.3. Đối tượng cho vay.
Khách hàng nhận tín dụng của ngân hàng rất đa dạng, từ các doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước, cá nhân, người tiêu dùng, các
Ngân hàng, các công ty tài chính… Tuy nhiên luật pháp cũng cấm hoặc tài trợ
đối với một số đối tượng nhất định.
Người đứng tên vay cho một tập thể phải được uỷ quyền của cả tập thể.
Cá nhân vay phải là người đến tuổi thành niên. Người vay phải ghi rõ vay
để làm gì. Ngân hàng đã được quyền chấm dứt quan hệ tín dụng và thu hồi nợ

nếu phát hiện người vay sử dụng vốn sai mục đích đã đăng ký ban đầu mà không
được phép của ngân hàng.
Ngân hàng tiến hành phân loại khách hàng truyền thống và quan trọng,
khách hàng khác. loại khách hàng truyền thống và quan trọng thường được
hưởng chính sách ưu đãi của NHTM. Đây là nội dung liên quan đến chính sách
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
marketing nên thường đựoc các ngân hàng cân nhắc và đưa ra cho khách hàng
biết.
2.3.1.4. Thời hạn cho vay.
Các giới hạn về thời hạn luôn được các nhà quản lý ngân hàng chú ý bởi
vì kỳ hạn liên quan đến thanh khoản và rủi ro ngân hàng cũng như chu kỳ kinh
doanh của người vay. Chính sách tín dụng thể hiện rõ, ngân hàng sẵn sàng cung
ứng tín dụng với thời hạn như thế nào. Chính sách thời hạn phải giải quyết mối
quan hệ thời hạn của nguồn ( chủ yếu là do người gửi và người cho ngân hàng
vay quyết định ) và thời hạn tài trợ( xuất phát từ yêu cầu của người vay do đặc
điểm luân chuyển vốn và quy mô thunhập quyết định). Từ đó ngân hàng xác
định thời hạn nợ cụ thể đảm bảo cân bằng kỳ hạn trung bình.
Thời hạn trung bình càng nhỏ, rủi ro của ngân hàng càng thấp, càng tăng
tính thanh khoản của các khoản tài trợ.
Ngân hàng thường dựa trên kì hạn củ nguồn để quyết định chính sách kì
hạn cho vay nếu khả năng tìm kiếm nguồn và chuyển hoán kì hạn nguồn của
ngân hàng không cao. Việc chuyển hoán kì hạn nguồn sẽ tiềm ẩn rủi ro thanh
khoản và rủi ro lãi suất bởi vì nó tạo ra khe hở lãi suất. Nhiều ngân hàng có khả
năng chuyển hoán nguồn và huy động nguồn trung và dài hạn tốt, chính sách
thời hạn tín dụng và kì hạn nợ nghiêng về đáp ứng kì hạn của người vay.
Kì hạn nợ liên quan đến tính toán các nguồn thu của khách hàng có thể
dùng để trả nợ. Chính sách xác định cụ thể kì hạn nợ và tăng số lần trả nợ trong
kì sẽ tăng mật độ luồng tiền vào, giảm kì hạn tín dụng trung bình, song sẽ tăng
chi phí thu nợ của ngân hàng.

2.3.1.5. Lãi suất cho vay.
Ngân hàng có các mức lãi suất tín dụng khác nhau tuỳ theo kị hạn, tuỳ
theo các loại tiền và tuỳ theo khách hàng. Ngân hàng khi thoả thuận về lãi suất
tín dụng phải tính đến rủi ro, lãi suất hoà vốn, lãi suất cạnh trnh trên thị trường.
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bên cạnh khung lãi suất định trước, ngân hàng còn cung cấp lãi suất thoả thuận
đối với từng khách hàng cụ thể. Lãi suất coa thể cố định trong suốt kì hạn tín
dụng, hoặc có thể thay đổi tuỳ theo sự biến đổi của lãi suất tham khảo hoặc của
chỉ số làm cơ sở điều chỉnh sau một khoảng thời gian nhất định ( gọi là lãi suất
hỗn hợp). Lãi suất tín dụng có thể bị giới hạn bởi lãi suất trần, bị tác động bởi lãi
suất tái chiết khấu do NHNN quy định, hoặc lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng.
Lãi suát tín dụng do ban giám đốc ngân hàng thông qua và cần được phổ
biến đến mọi cán bộ tín dụng, bao gồm lãi suất cơ bản và lãi suất bình quân đối
với cáckì hạn, các ngành và lĩnh vực chủ yếu. Chính sách này cần khuyến khích
tính linh hoạt, đa dạng trong việc đặt giá trên cơ sở đảm bảo khả năng sinh lời
cũng như khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Nhiều ngân hàng đưa ra chính
sách lãi suất linh hoạt, cho phép cán bộ tín dụng được thay đổi trong giới hạn
nhất định, hoặc cho phép khách hàng được lựa chọ ý thức của lãi suất … Chính
sách lãi suất cần chỉ rõ bộ phận cơ bản cấu thành nên lãi suất tín dụng như lãi
suất nguồn, chi phí khác, rủi ro, thuế và tỉ lệ lợ nhuận tối thiểu … và các nhân tố
chính tác động đến các bộ phận đó.
2.3.1.6. Mức cho vay.
Như đã nêu ở trên ngân hàng có thể cho khách hàng vay theo những hình
thức khác nhau, có thể cho vay theo món, theo hạn mức …Tuỳ thuộc vào từng
đối tượng khách hàng và mục đích của khách hàng. Nhưng trong bất kì một hình
thức nào thì cũng phải quy định rõ về mức cho vay. Đây là một điều kiện mà
giữa ngân hàng và khách hàng phải thống nhất với nhau và được ghi rõ trong
hợp đồng tín dụng. Đối với những mức tín dụng khác nhau thì lãi suất mà ngân

hàng áp dụng đối với khách hàng có thể khác nhau. Mức tín dụng được cả khách
hàng và ngân hàng giữ nó trong suốt quá trình của hợp đồng tín dụng, đối với
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ngân hàng có thể phải lưu giữ để thuận tiện cho việc cho vay về sau đối với
chính khách hàng đó.
2.3.1.7. Giải ngân và thu nợ.
Sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết, ngân hàng phải có trách
nhiệm cấp tiền ( hoặc thanh toán tiền hàng ) cho khách hàng như đã thoả thuận.
Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng kiểm soát khách hàng: sử dụng vốn vay
có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có
những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu thua lỗ hay lừa đảo… Quá trình này cho
phép ngân hàng thu thập thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin
phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo.
Ngược lại, khi chất lượng khoản vay bị đe doạ, ngân hàng cần có các biện pháp
xử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân,
nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng tín dụng. Ngân hàng có thể yêu cầu
khách hàng bổ sung thêm tài sản thế chấp, giảm số tiền vay…khi thấy cần thiết
để bảo đảm an toàn tín dụng. đối với ngân hàng đây là bước đi nguy hiểm, do
vậy tài trợ gắn liền với kiểm soát khách hàng giúp ngân hàng ngăn chạn các ý đồ
sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. Đây cũng là quá trình
ngân hàng thu thập thêm các thông và ra các quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn
kịp thời các khoản tín dụng xấu.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết nợ gốc và lãi. Các
khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an
toàn. Một số trờng hợp , các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn
trả đủ, đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy
các “ trục trặc” trong hoạt động của khách hàng.việc xem xét tìm nguyên nhân là
rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan
đến tính an toàn của khoản tín dụng.

2.3.2. Vai trò của tín dụng.
Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2.3.2.1. Đối với nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng
được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền
kinh tế. Trong nền kinh tế các doanh nghiệp hoạt động SXKD dựa trên nguồn
vốn là vốn tự có và vốn nhận tài trợ từ bên ngoài như: ngân hàng, doanh nghiệp
khác…Song tín dụng ngân hàng vẫn là nguồn tài trợ có hiệu quả hơn cả bởi vì nó
thỏa mãn nhu cầu vốn về số lượngvà thời hạn đồng thời chi phí sử dụng tín dụng
ngân hàng thấp hơn chi phí của các chủ thể khác.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là công cụ để giải quyết mâu thuẫn giữa
người thừa vốn và người thiếu vốn vì tín dụng ngân hàng luôn thu hút tập trung
mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của tổ chức kinh tế, dân cư, để đầu tư cho quá
trình mở rộng sản xuất,tăng trưởng kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vốn đầy đủ, thúc
đẩy sản xuất mở rộng tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trong
quá trình hoạt động đó, ngân hàng thu được lợi tức cho vay để duy trì phát triển
hoạt động của chính bản thân mình. Tuy vậy, trong cơ chế thi trường hiện nay,
huy động và cho vay bao nhiêu, có đáp ứng dược hay không đáp ứng được yêu
cầu của nền kinh tế, thu hồi vốn có đúng hạn hay không là vấn đề được đặt lên
hàng đầu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do vậy, mỗi ngân hàng phải
có nghệ thuật trong kinh doanh, phải tìm mọi biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút
tối đa tiềm tàng nguồn vốn với chi phí thấp nhất để kinh doanh. Có thể nói, tín
dụng ngân hàng góp phần quan trọng vào qua trình vận động liên tục của nguồn
vốn, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tiền tệ trong xã hội.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
Tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ. Trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch
vụ để tái sản xuất mở rộng hoạt động, mọi chu kỳ đều phải bắt đầu bàng tiền và

Sinh viên thực hiện: Phan Xuân Vũ – NH44C25

×