Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Hoàn thiện mô hình chấm điểm tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.36 KB, 80 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC VIẾT TẮT
NHCT : Ngân hàng Công thương
NHCV : Ngân hàng cho vay
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
TTTD : Thông tin tín dụng
NSNN : Ngân sách Nhà nước
QLRR : Quản lý rủi ro
CBTD : Cán bộ tín dụng
DNV&N : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
XDCB: Xây dựng cơ bản
XNK : Xuất nhập khẩu
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
1
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cơ chế thị trường, hoạt động Ngân hàng luôn tiềm ẩn nhữn rủi ro, nhất là
hoạt động tín dụng. Các con số thống kê và nhiều nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín
dụng chiếm tới 70% trong tổng rủi ro hoạt động ngân hàng. Thực tế hoạt động tín
dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua là một minh chứng
cho nhận định này: Hiệu quả hoạt động tín dụng chưa cao, chất lượng tín dụng chưa
tốt, thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn còn cao so với khu vực và chưa có khuynh hướng
giảm vững chắc. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tại các NHTM Việt
Nam đang là vấn đề bức xúc trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn. Các nhà khoa
học, các nhà hoạch định chính sách ngân hàng đã đưa ra nhiều giải pháp để giải quyết
vấn đề này. Một trong những giải pháp đang được khuyến khích áp dụng đó là hệ
thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng. Đây là một vấn đề khá mới đối
với các NHTM Việt Nam nói chung và Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt
Nam nói riêng.
Hệ thống chấm điểm tín dụng được áp dụng vào hệ thống NHCT từ năm 2004,


nhưng qua thời gian thực tập, em nhận thấy hệ thống này vẫn còn nhiều những hạn
chế cần khắc phục. Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện mô hình chấm
điểm tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng
công thương Việt Nam”.
Cấu trúc bài viết gồm ba phần:
Chương I : Lý thuyết chung về phương pháp chấm điểm tín dụng
Chương II : Thực trạng công tác chấm điểm tín dụng khách hàng doanh nghiệp
tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam.
Chương III : Hoàn thiện mô hình chấm điểm tín dụng khách hàng doanh nghiệp
tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam
Em xin chân thành cảm ơn ThS. Hoàng Lan Hương cùng toàn bộ cán bộ đang
công tác tại phòng Khách hàng 2 đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này!
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP CHẤM ĐIỂM
TÍN DỤNG
1.1. Tổng quan về xếp hạng tín nhiệm và áp dụng xếp hạng tín nhiệm tại Việt
Nam:
1.1.1. Khái niệm xếp hạng tín nhiệm:
Xếp hạng tín nhiệm (credit ratings) là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Anh
(credit: sự tín nhiệm; ratings: sự xếp hạng) do John Moody đưa ra vào năm 1909
trong cuốn “Cẩm nang chứng khoán đường sắt” khi tiến hành nghiên cứu, phân tích
và công bố bảng xếp hạng tín nhiệm lần đầu tiên cho 1500 loại trái phiếu của 250
công ty theo một hệ thống ký hiệu gồm ba chữ cái ABC được xếp lần lượt từ “Aaa”
đến “C” (hiện nay những ký hiệu này đã trở thành chuẩn mực quốc tế).
Tuy nhiên, xếp hạng tín nhiệm chỉ phát triển nhanh ở Mỹ sau cuộc khủng
hoảng kinh tế 1929 – 1933 khi hàng loạt các nhà phát hành trái phiếu bị phá sản, vỡ
nợ. Thời kỳ này, chính phủ Hoa Kỳ đã có nhiều quy định về việc cấm các định chế
đầu tư (các quỹ hưu trí, các quỹ bảo hiểm, ngân hàng dự trữ) bỏ vốn đầu tư mua lại

các loại trái phiếu có độ tin cậy thấp dưới mức an toàn trong bảng xếp hạng tín
nhiệm. Những quy định này đã làm cho uy tín của các công ty xếp hạng tín nhiệm
ngày một lên cao. Song, trong suốt hơn 50 năm, việc xếp hạng tín nhiệm chỉ được
phổ biến ở Mỹ, chỉ từ đầu những năm 1970 đến nay, dịch vụ xếp hạng tín nhiệm mới
được mở rộng và phát triển khá mạnh ở nhiều nước.
Ngày nay, khái niệm xếp hạng tín nhiệm chưa có được sự nhận thức thống
nhất. Theo Bohn, John A. viết trong cuốn “Phân tích rủi ro trên thị trường đang
chuyển đổi thì “Xếp hạng tín nhiệm là sự đánh giá về khả năng một nhà phát hành có
thể thanh toán đúng hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán nợ trong suốt thời
gian tồn tại của nó”.
Theo định nghĩa của công ty chứng khoán Merrill Lynch, xếp hạng tín nhiệm
là đánh giá hiện thời của công ty xếp hạng tín nhiệm về chất lượng tín dụng của một
nhà phát hành chứng khoán nợ, về một khoản nợ nhất định. Nói cách khác đi, đó là
đánh giá hiện thời về chất lượng tín dụng được xem xét trong hoàn cảnh hướng về
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
3
Chuyên đề tốt nghiệp
tương lai, phản ánh sự sẵn sàng và khả năng nhà phát hành có thể thanh toán gốc và
lãi đúng hạn. Trong kết quả xếp hạng tín nhiệm chứa đựng cả ý kiến chủ quan của
chuyên gia xếp hạng tín nhiệm.
Theo công ty Moody’s, xếp hạng tín nhiệm là ý kiến về khả năng và sự sẵn
sàng của một nhà phát hành trong việc thanh toán đúng hạn cho một khoản nợ nhất
định trong suốt thời hạn tồn tại của khoản nợ.
Như vậy, có thể khái quát, xếp hạng tín nhiệm là sự đánh giá hiện thời về mức
độ sẵn sàng và khả năng trả (gốc và lãi) đối với chứng khoán nợ của một nhà phát
hành trong một thời gian tồn tại của chứng khoán đó. Xếp hạng tín nhiệm là kết quả
của việc đánh giá tổng hợp tất cả các rủi ro về thanh toán gốc và lãi của các khoản nợ
hiện tại và tương lai của nhà phát hành. Kết quả xếp hạng tín nhiệm chứa đựng ý kiến
chủ quan của các chuyên gia xếp hạng tín nhiệm. Về mặt nào đó, xếp hạng tín nhiệm
có thể xem là một hình thức tư vấn đầu tư chứng khoán, song đây không hoàn toàn là

một lời khuyên nên mua hay nên bán bất kỳ một loại chứng khoán nào. Hầu hết các
công cụ nợ được xếp hạng tín nhiệm là các loại trái phiếu công ty và trái phiếu chính
phủ, các loại trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng. Ở một số nước, xếp hạng tín nhiệm còn
được áp dụng cho cả đối tượng vay vốn ngân hàng.
1.1.2. Xếp hạng tín nhiệm – Một kỹ thuật phòng tránh rủi ro hữu ích đối với
hoạt động ngân hàng:
Hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một trong những hoạt
động kinh tế có nhiều rủi ro hơn hết. Có thể nói rủi ro được xem như một yếu tố
không thể tách rời với quá trình hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) trên
thị trường. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp đôi, bởi vì ngân hàng không
những phải hứng chịu các rủi ro do những nguyên nhân chủ quan của mình, mà còn
gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra. Hơn nữa, rủi ro trong hoạt động ngân
hàng có thể gây ra tai họa to lớn cho nền kinh tế hơn bất cứ rủi ro của các loại hình
doanh nghiệp khác, vì tính chất lây lan của nó có thể làm rung chuyển toàn bộ hệ
thống kinh tế.
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Hoạt động NHTM bao gồm nhiều loại nghiệp vụ, nhưng tập trung lại, đây là
loại hình kinh doanh tiền tệ - tín dụng của một trung gian tài chính dựa trên cơ sở thu
hút tiền của khách hàng (dưới hình thức nhận tiền gửi huy động bằng trái phiếu, kỳ
phiếu và đi vay …) với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay và thực
hiện các nghiệp vụ thanh toán. Như vậy, NHTM tiến hành các hoạt động nghiệp vụ
của mình thông qua việc sử dụng không chỉ bằng vốn tự có, mà chủ yếu bằng vốn
huy động của khách hàng. Nếu NHTM không thu hồi được số nợ mà họ đã cho vay,
thì NHTM không chỉ bị mất vốn tự có của bản thân, mà còn có nguy cơ không thể
hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng. Vì vậy, tính chất trung gian tài
chính đặt ra yêu cầu đầu tiên đối với NHTM là phải thường xuyên thu hồi được số
vốn đã cho vay để duy trì khả năng hoàn trả số tiền huy động của khách hàng và bảo
toàn vốn tự có của bản thân.

Một hệ thống ngân hàng tốt phụ thuộc một phần vào sự điều khiển của
NHTW, và rộng hơn, phụ thuộc vào sự tín nhiệm của khách hàng. Trách nhiệm chính
của các ngân hàng là phải cư xử như những công dân tốt trong kinh doanh: dù khả
năng sinh lời vẫn được coi là mối quan tâm chính, nhưng đôi khi phải gác điều này
lại để ưu tiên cho những nguyên tắc đạo đức có tính đến lợi ích của những người
khác. Mỗi khi Ngân hàng cho vay tiền, họ phải nhớ rằng vốn của họ là tiền gửi của
khách hàng, vì vậy điều quan trọng là họ phải cho vay những noi mà rủi ro do không
trả được nợ là thấp nhất.
Hoạt động kinh doanh tiền tệ ngày càng phức tạp, rủi ro của nó ngày càng một
lớn, đòi hỏi phải có những biện pháp phòng ngừa, hạn chế các rủi ro đó để đảm bảo
an toàn cho hoạt động của NHTM. Trong xu hướng đó, “xếp hạng tín nhiệm” (credit
ratings) là một kỹ thuật ngày càng được chú ý rộng rãi trong hoạt động tín dụng ngân
hàng.
Ở Việt Nam, do thị trường trái phiếu chưa phát triển, có thể áp dụng việc xếp
hạng tín nhiệm cho các khách hàng khi vay vốn ngân hàng nhằm giúp ngân hàng có
thêm căn cứ để xác định đối tượng có thể cho vay được, không được cho vay, lãi suất
cho vay, vấn đề thế chấp, … Trên cơ sở phân tích, đánh giá với xếp hạng tín nhiệm
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
5
Chuyên đề tốt nghiệp
đối với khách hàng xin vay vốn ngân hàng, chúng ta có thể hạn chế rủi ro trong hoạt
động tín dụng.
Trước mắt, ở Việt Nam có thể áp dụng xếp hạng tín nhiệm dưới một hình thức
đơn giản: “chấm điểm tín dụng”.
1.2. Khái niệm hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng:
1.2.1. Chấm điểm tín dụng là gì?
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng của NHCT Việt Nam
là một quy trình đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của một khách
hàng đối với NHCV như trả lãi và gốc nợ vay khi đến hạn nhằm xác định rủi ro trong
hoạt động cấp tín dụng của NHCV. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng khách

hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm, dựa vào các
thông tin tài chính và phi tài chính có sẵn của khách hàng tại thời điểm chấm điểm tín
dụng và xếp hạng khách hàng.
Để đáp ứng yêu cầu về quản trị rủi ro tín dụng của bản thân Ngân hàng Công
thương, đồng thời đảm bảo tuân thủ hướng dẫn của NHNN Việt Nam về chấm điểm
tín dụng và xếp hạng khách hàng và tiến tới phù hợp với phương pháp xếp hạng tín
dụng theo chuẩn mực quốc tế.
1.2.2. Mục đích của việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng:
Mục đích của chấm điểm tín dụng là dựa trên cơ sở các số liệu kiểm tra, phân
tích dữ kiện từ các hồ sơ lưu trữ, báo cáo tài chính và các báo cáo kiểm toán của
doanh nghiệp để nhận xét đánh giá tình hình hoạt động, khả năng sinh lời, khả năng
thanh toán trong hiện tại và tương lai của doanh nghiệp nhằm xác định khả năng thu
hồi vốn của NHCV.
Việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng được thực hiện nhằm hỗ trợ
NHCV trong việc:
- Ra quyết định cấp tín dụng: xác định hạn mức tín dụng của một khách hàng, số tiền
cho vay /bảo lãnh, thời hạn, mức lãi suất /phí, biện pháp bảo đảm cho khoản tín dụng.
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
6
Chuyên đề tốt nghiệp
- Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang còn dư nợ;
Hạng khách hàng cho phép NHCV lường trước những dấu hiệu xấu về chất lượng
khoản cho vay và có những biện pháp đối phó kịp thời.
Xét trên góc độ quản lý toàn bộ danh mục tín dụng, hệ thống chấm điểm tín
dụng và xếp hạng khách hàng còn nhằm mục đích:
- Phát triển chiến lược marketing nhằm hướng tới các khách hàng có ít rủi ro hơn.
- Ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích lập dự phòng rủi ro
tín dụng.
Tóm lại, mục đích của việc chấm điểm tín dụng là giúp lường trước được các
rủi ro có thể xảy ra trong kinh doanh để từ đó có thể tránh được các rủi ro này.

1.2.3. Nguyên tắc của việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng:
Trong quá trình chấm điểm tín dụng, cán bộ chấm điểm tín dụng sẽ thu được
điểm ban đầu và điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng.
- Điểm ban đầu là điểm của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng cán bộ chấm điểm tín
dụng xác định được sau khi phân tích tiêu chí đó.
- Điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng bằng điểm ban đầu nhân với trọng số.
- Trọng số là mức độ quan trọng của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng (chỉ số tài
chính hoặc yếu tố phi tài chính) xét trên góc độ tác động rủi ro tín dụng.
Trong quy trình chấm điểm tín dụng, cán bộ chấm điểm tín dụng sử dụng các bảng
tiêu chuẩn để đánh giá các tiêu chí chấm điểm tín dụng theo nguyên tắc:
- Đối với mỗi tiêu chí trên bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí, chỉ số thực tế gần
với trị số nào nhất thì áp dụng cho loại xếp hạng đó, nếu nằm giữa hai trị số thì ưu
tiên nghiêng về phía loại tốt nhất.
- Trong trường hợp khách hàng có bảo lãnh toàn phần (lớn hơn hoặc bằng 100% giá
trị khoản tín dụng) của một tổ chức có năng lực tài chính mạnh hơn, thì có thể sử
dụng kết quả xếp hạng tín dụng của bên bảo lãnh để xác định hạng tín dụng của
khách hàng (nếu bên bảo lãnh cũng được Ngân hàng cho vay chấm điểm). Quy trình
chấm điểm tín dụng của bên bảo lãnh cũng giống như quy trình áp dụng cho khách
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
7
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng. Trường hợp bảo lãnh một phần thì chỉ tiến hành chấm điểm tín dụng và xếp
hạng cho chính khách hàng.
1.2.4. Phân nhóm khách hàng trong chấm điểm tín dụng:
Do tính chất khác nhau giữa các khách hàng, để chấm điểm tín dụng và xếp
hạng khách hàng được chính xác, khoa học, NHCT Việt Nam phân chia khách hàng
vay có đủ điều kiện tiến hành chấm điểm tín dụng thành ba nhóm:
- Nhóm khách hàng là doanh nghiệp
- Nhóm khách hàng cá nhân (bao gồm cá nhân và hộ gia đình)
- Nhóm khách hàng là các tổ chức tín dụng

Những khách hàng không đủ điều kiện tiến hành chấm điểm tín dụng (như các
đơn vị hành chính sự nghiệp có thu, …) sẽ được xem xét theo hướng dẫn cụ thể của
NHCT Việt Nam từng thời kỳ.
1.2.5. Các mô hình chấm điểm tín dụng:
Các mô hình chấm điểm tín dụng thường sử dụng các số liệu phản ánh đặc
điểm của người vay để tính toán xác suất của rủi ro tín dụng hoặc để phân loại khách
hàng căn cứ vào mức độ rủi ro được xác định. Bằng việc lựa chọn và kết hợp các đặc
điểm tài chính và kinh doanh của người vay, các tổ chức tín dụng có thể:
+ Xác định mức ảnh hưởng của các nhân tố đến rủi ro tín dụng.
+ So sánh mức độ quan trọng giữa các nhân tố.
+ Cải thiện việc định giá rủi ro tín dụng.
+ Có căn cứ chính xác hơn trong việc sàng lọc các đơn xin vay.
+ Tính toán chính xác hơn mức dự trữ cần thiết cho các rủi ro tín dụng dự tính.
Để sử dụng các mô hình này, các tổ chức tín dụng phải xác định được các chỉ
tiêu phản ánh các đặc điểm tài chính và kinh doanh có liên quan đến rủi ro tín dụng
cho từng đối tượng vay cụ thể. Đối với cho vay tiêu dùng, các đặc điểm của người
vay trong mô hình chấm điểm tín dụng có thể bao gồm: thu nhập, tài sản, lứa tuổi,
nghề nghiệp và địa điểm. Đối với các khoản tín dụng cấp cho các doanh nghiệp thì tỷ
lệ giữa vốn nợ và vốn tự có thường là chỉ tiêu chủ yếu. Mô hình chấm điểm tín dụng
bao gồm 4 loại sau:
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
8
Chuyên đề tốt nghiệp
 Mô hình xác suất tuyến tính.
 Mô hình logit.
 Mô hình probit.
 Mô hình phân biệt tuyến tính.
Nội dung chủ yếu cũng như những điểm mạnh và điểm yếu của từng kỹ thuật
sẽ được trình bày sau đây:
1.2.5.1. Mô hình xác suất tuyến tính:

Mô hình xác suất tuyến tính sử dụng số liệu quá khứ, chẳng hạn các số liệu kế
toán, làm dữ liệu đầu vào để giải thích quá khứ chi trả cho các khoản đã vay. Mức độ
quan trong tương đối của các yếu tố được sử dụng để giải thích quá trình chi trả trong
quá khứ sẽ được sử dụng để dự đoán xác suất chi trả cho các khoản vay mới (
i
p
).
Giả sử các khoản vay cũ được chia thành hai nhóm: nhóm có rủi ro mất vốn (
i
Z
= 1)
và nhóm không có rủi ro (
i
Z
= 0). Chúng ta thiết lập mối quan hệ giữa các nhóm này
với các nhân tố ảnh hưởng tương ứng (
ij
X
) phản ánh đặc điểm của người vay thứ I
(như cơ cấu vốn hay thu nhập) theo mô hình đường thẳng tuyến tính với công thức
sau:
1
n
i j ij
j
Z X
β
=
= +


sai số
Trong đó,
j
β
phản ánh mức độ quan trọng của chỉ tiêu thứ j (thí dụ cơ cấu
vốn) trong việc giải thích quá khứ chi trả của người vay. Lấy các giá trị của
j
β
nhân
với các nhân tố
ij
X
của một người vay mới chúng ta sẽ dự tính được giá trị của
i
Z
.
Giá trị này phản ánh xác suất bình quân rủi ro mất vốn của người vay E(
i
Z
) = (1 –
i
p
);
i
p
là xác suất trả khoản nợ vay.
Kỹ thuật này thực được hiện một cách đơn giản khi các số liệu phản ánh đặc
điểm của người vay được cung cấp. Tuy nhiên điểm yếu của nó là ở chỗ xác suất rủi
ro mất vốn rất dễ nằm ngoài khoảng từ 0 đến 1. Các mô hình logit và probit sau đây
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B

9
Chuyên đề tốt nghiệp
sẽ khắc phục được nhược điểm này bằng cách giới hạn phạm vi dự tính xác suất rủi
ro nằm trong khoảng từ 0 đến 1.
1.2.5.2. Mô hình logit:
Mô hình logit giới hạn xác suất lũy kế của rủi ro mất vốn đối với một khoản
tín dụng nằm trong khoảng từ 0 đến 1 và giả sử xác suất này được phân bổ theo dạng
hàm số:
( ) 1/(1 )
i
Z
i
F Z e

= +
Trong đó, e là cơ số tự nhiên,
( )
i
F Z
là xác suất lũy kế của mức rủi ro đối với
một khoản vay, và được tính toán theo mô hình đường thẳng tuyến tính tương tự như
mô hình trên. Như vậy, chúng ta có thể xác định giá trị dự tính của
i
Z
theo hàm số
tuyến tính cho một người vay mới, sau đó thay thế giá trị
i
Z
vào bên phải của hàm số
logit để xác định giá trị của F(

i
Z
) – xác suất lũy kế của rủi ro mất vốn được phân bổ
theo một dạng hàm số logit cụ thể.
1.2.5.3. Mô hình Propit:
Mô hình probit cũng hạn chế xác suất rủi ro tín dụng dự tính trong khoảng từ 0
đến 1, nhưng nó khác với mô hình trên khi giả thiết rằng xác suất của rủi ro có dạng
phân bổ chuẩn (normal distribution) chứ không phân bổ theo hàm số logit như đồ thị
4.3. Tuy nhiên, khi được nhân với một yếu tố cố định thì giá trị logit có thể trở thành
giá trị probit gần đúng
1.2.5.4. Mô hình phân biệt tuyến tính:
Trong khi các mô hình xác suất tuyến tính, logit và probit đều dự tính mức xác
suất của rủi ro tín dụng đối với một khoản tín dụng được cấp, thì mô hình này có tác
dụng phân loại những người vay căn cứ vào mức độ rủi ro có liên quan đến các chỉ
tiêu (
j
X
) phản ánh các đặc điểm tài chính và kinh doanh của họ.
Thí dụ sau đây xem xét mô hình phân biệt được xây dựng bởi E.I.Altman
giành cho công ty sản xuất của Mỹ. Chỉ số biến động Z đo lường toàn bộ mức độ rủi
ro của người vay. Chỉ số này phụ thuộc vào giá trị của các chỉ số tài chính phản ánh
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
10
Chuyên đề tốt nghiệp
tình trạng tài chính của người vay (
j
X
) và mức độ quan trọng của các chỉ số này
trong việc quyết định mức độ rủi ro của người vay. Các giá trị này, đến lượt nó được
xác định thông qua kinh nghiệm phân tích và so sánh giữa hai nhóm người vay có rủi

ro và không có rủi ro được rút ra từ một mô hình phân biệt. Hàm số phân biệt của
Altman có dạng sau:
1 2 3 4 5
1,2 1,4 3,3 0,6 1,0Z X X X X X= + + + +
Trong đó:
1
X
= Tỷ lệ giữa vốn lưu động và tổng tài sản có.
2
X
= Tỷ lệ giữa lợi nhuận tích lũy và tổng tài sản có.
3
X
= Tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế và lãi suất trên tổng tài sản có.
4
X
= Tỷ lệ giữa giá trị thị trường của cổ phiếu và giá kế toán của cá khoản nợ
dài hạn.
5
X
= Tỷ lệ giữa doanh thu và tổng tài sản có.
Giá trị của Z càng lớn thì mức độ rủi ro dự tính của người vay càng nhỏ. Giá
trị của Z càng nhỏ hoặc là âm có thể là căn cứ để xếp loại người vay vào nhóm có rủi
ro cao.
Giả sử các chỉ số tài chính của một khách hàng tiềm năng có các giá trị sau:
1
X
= 0,20;
2
X

= 0;
3
X
= - 0,20;
4
X
= 0,10;
5
X
= 2,0.
Chỉ số
2
X
= 0 và
3
X
< 0 cho thấy khách hàng đang bị lỗ trong giai đoạn hiện tại; chỉ
số
4
X
= 10% chứng tỏ tỷ lệ vốn nợ cao. Tuy nhiên, chỉ số phản ánh mức độ thanh
khoản (
1
X
) và tỷ lệ doanh thu (
5
X
) lại tương đối khả quan. Tổng hợp lại, giá trị Z sẽ
cho thấy một chỉ số chung phản ánh mức độ rủi ro tín dụng dự tính của một khách
hàng trên cơ sở kết hợp cả 5 chỉ số, có tính đến mức độ quan trọng của từng chỉ số

trong việc giải thích quá khứ trả nợ của khách hàng. Giá trị chụ thể của Z là:
Z = 1,2(0,2) + 1,4(0) + 3,3(-0,2) + 0,6(0,1) + 1,0(2,0)
Z = 0,24 + 0 – 0,66 + 0,06 + 2,0
Z = 1,64
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
11
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo mô hình của Altman, bất kỳ khách hàng nào có điểm số Z nhỏ hơn 1,81
sẽ bị xếp vào khu vực có rủi ro cao. Trong trường hợp cụ thể này các tổ chức tín
dụng không nên cấp tín dụng cho đến khi khách hàng cải thiện được chỉ số thu nhập
của họ.
Việc sử dụng kỹ thuật đo lường mức độ rủi ro tín dụng này tương đối đơn
giản, tuy nhiên nó chứa đựng một số nhược điểm:
- Thứ nhất, mô hình này chỉ cho phép phân loại hai nhóm người vay có rủi ro
và không có rủi ro. Trong thực tế, mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của mỗi khách
hàng khác nhau từ mức thấp như chậm trả lãi, không trả lãi được cho đến mức hoàn
toàn mất cả vốn và lãi của khoản vay. Điều này chỉ ra rằng việc phân loại các khách
hàng có rủi ro nên chi tiết hơn để kỹ thuật này trở nên chính xác hơn.
- Thứ hai, không có lý do thuyết phục để chứng minh rằng các thông số phản
ánh tầm quan trọng của các chỉ số trong công thức Altman là bất biến, dù trong thời
gian ngắn. Tương tự như vậy, các chỉ số được chọn trong công thức cũng không phải
và không thể là bất biến, đặc biệt khi các điều kiện kinh doanh cũng như điều kiện thị
trường tài chính đang thay đổi liên tục. Các chỉ số tài chính khác phản ánh đặc điểm
cụ thể của người vay có thể trở nên hiệu quả trong việc giải thích các hành vi trả nợ
của khách hàng. Mặt khác, mô hình này phân biệt cũng giả thiết rằng các chỉ số trong
mô hình là hoàn toàn độc lập với nhau.
- Thứ ba, mô hình phân biệt đã không tính đến một số nhân tố khó định lượng
nhưng có thể đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến mức độ rủi ro của các
khoản vay. Chẳng hạn danh tiếng của khách hàng hoặc mối quan hệ lâu dài giữa ngân
hàng và khách hàng hay các yếu tố vĩ mô như sự biến động của chu kỳ kinh tế, trong

nhiều trường hợp, có ý nghĩa quyết định đến mức rủi ro tín dụng. Mặt khác mô hình
này cũng hiếm khi sử dụng các thông tin thị trường như giá cả các tài sản tài chính;
giá các khoản nợ hoặc giá cổ phiếu của công ty khách hàng. Mô hình đánh giá rủi ro
tín dụng sau đây sẽ sử dụng các lý thuyết tài chính và các dữ liệu thị trường tài chính
để xác định xác suất mất vốn.
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Tóm lại, các mô hình vừa nghiên cứu được sử dụng thích hợp nhất trong
trường hợp đánh giá tính an toàn của các khoản tín dụng (kể cả trường hợp mua các
chứng khoán nợ) cấp cho khách hàng lớn thuộc khu vực công ty.
1.2.6. Quy trình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp:
Một quy trình Chấm điểm tín dụng tiêu biểu có thể được tóm tắt như sau:
1.2.6.1. Đánh giá chung về doanh nghiệp:
Xác định loại doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân,
Công ty TNHH, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, …
o Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp;
o Tổng sản lượng doanh nghiệp: Vốn tự có, vốn vay;
o Chất lượng và giá cả sản phẩm;
o Địa thế kinh doanh;
o Đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ lao động của doanh nghiệp;
o Tài sản đảm bảo.
1.2.6.2. Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp
Việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp phải đạt được các mục
tiêu chủ yếu là có được đầy đủ các thông tin hữu ích về nguồn vốn chủ sở hữu, các
khoản nợ, kết quả của các quá trình, sự kiện và hoàn cảnh làm biến đổi các nguồn
vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp.
o Dựa vào các số liệu phản ánh trên bảng cân đối kế toán, xác định và phân tích
kết cấu nguồn vốn qua việc so sánh tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn
giữa /cuối kỳ với đầu kỳ để thấy được quy mô vốn mà doanh nghiệp sử dụng

trong kỳ cũng như khả năng huy động vốn từ các nguồn khác nhau của doanh
nghiệp.
o Phân tích các mối quan hệ giữa các khoản mục của bảng cân đối kế toán hoặc
báo cáo kiểm toán để xác định được doanh nghiệp thuộc trường hợp “Đi
chiếm dụng vốn” (doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn nên sử dụng các nguồn
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
13
Chuyên đề tốt nghiệp
khác để bù đắp) hoặc “Bị chiếm dụng vốn” (doanh nghiệp bị các doanh
nghiệp hoặc đối tượng khác chiếm dụng vốn).
o Xem xét tỷ trọng từng khoản vốn (tài sản) của doanh nghiệp để xác định mức
độ đảm bảo sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
o Xác định tỷ suất đầu tư của doanh nghiệp phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật
chất kỹ thuật, thể hiện năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của
doanh nghiệp.
o Phân tích cơ cấu nguồn vốn, xác định tỷ suất tự tài trợ nhằm đánh giá được
khả năng tự tài trợ về mặt tài chính của doanh nghiệp cũng như mức độ tự
chủ, chủ động trong kinh doanh. Tỷ suất tự tài trợ càng cao thể hiện khả năng
độc lập càng cao về mặt tài chính hay mức độ tài trợ của doanh nghiệp càng
tốt.
o Đánh giá khả năng và tính chắc chắn của các dòng tiền mặt vào ra.
o Phân tích tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.2.6.3. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán của doanh
nghiệp:
Tình hình công nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh chất
lượng công tác tài chính. Khi nguồn bù đắp cho tài sản dự trữ thiếu, doanh nghiệp đi
chiếm dụng vốn, ngược lại khi nguồn bù đắp tài sản dự trữ dư thừa, doanh nghiệp bị
chiếm dụng. Khi phân tích cần phải chỉ ra được những khoản đi chiếm dụng và bị
chiếm dụng hợp lý. Nếu tình hình tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ ít công nợ, khả năng
thanh toán dồi dào; ít đi chiếm dụng vốn.

Ngoài ra còn phải chú ý đến một số chỉ tiêu phản ánh tình hình thanh toán
như:
o Khả năng thanh toán hiện thời.
o Khả năng thanh toán nhanh.
o Tỷ lệ về khả năng thanh toán so với tài sản lưu động.
o Vòng quay các khoản phải thu.
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
14
Chuyên đề tốt nghiệp
o Hệ số vòng quay hàng tồn kho.
o Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
1.2.6.4. Thẩm định phương diện thị trường
 Thị trường và khách hàng tiêu thụ:
o Đối tượng tiêu thụ sản phẩm
o Các khách hàng chủ yếu
o Nhu cầu hiện tại và dự kiến trong tương lai
 Tình hình cạnh tranh trên thị trường:
o Mức sản xuất, uy tín sở trường hoạt động của các đối thủ cạnh tranh
o Tương lai phát triển của các đối thủ cạnh tranh
1.2.6.5. Đánh giá điều kiện kinh tế nói chung:
o Những quy định chính sách của Nhà nước
o Chiến lược phát triển ngành kinh tế trong tương lai
o Vị thế ngành công nghiệp liên quan trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân.
Trong bối cảnh kinh tế có nhiều biến động và luôn thay đổi trên thế giới hiện nay,
mà trong đó có Việt Nam thì việc thẩm định, đánh giá chấm điểm tín dụng và xếp
hạng khách hàng giữ vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ các nhà đầu tư, đảm bảo
cho thị trường hoạt động an toàn và có hiệu quả, giảm bớt rủi ro kinh doanh cho các
ngân hàng khi thực hiện cho vay vốn.
1.3. Các câu hỏi cơ bản trong kỹ thuật chấm điểm tín dụng:
Có một yếu tố biến thiên trong mọi đề nghị cho vay: Đó là khách hàng. Một

trong những nhiệm vụ của giám đốc chi nhánh ngân hàng là tìm cách hiểu nhu cầu
khách hàng của mình, nhưng ông ta lại chỉ gặp gỡ khách hàng nào muốn vay tiền. Để
hỗ trợ nhiệm vụ hiểu biết khách hàng, các chi nhánh đều lưu giữ các phiếu và hồ sơ
tham chiếu chứa đựng những chi tiết về khoản vay đã qua, bảng tóm tắt các cuộc
phỏng vấn đã thực hiện, người giám đốc phải tham khảo các thông tin này trước khi
phỏng vấn khách hàng, đồng thời cần phải xem xét giá trị các tài khoản của đối
tượng liên quan gửi tại chi nhánh. Với một khách hàng cá nhân, cần đặc biệt xem xét
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
15
Chuyên đề tốt nghiệp
liệu các khoản vay trong quá khứ có hoàn trả đúng thoả thuận hay không. Với khách
hàng doanh nghiệp, bên cạnh việc quan tâm tới lịch sử các tài khoản, người giám đốc
cần phải có đủ căn cứ để tin rằng khách hàng là ngưòi có kinh nghiệm trong công
việc, có trình độ quản lý cần thiết để điều hành doanh nghiệp và tái đầu tư lợi nhuận
vào doanh nghiệp. Phải luôn tìm kiếm một mức độ nhất quán nơi khách hàng và
thường xuyên cảnh giác với những nghi vấn dù nhỏ nhất nơi khách hàng.
Trong danh mục các câu hỏi để chấm điểm tín dụng, tuy nội dung phỏng vấn
nhằm vào các đối tượng riêng biệt, có 4 câu hỏi cơ bản được lưu tâm nhiều nhất. Đó
là:
- Khách hàng muốn vay bao nhiêu?
Bao nhiêu? Ngân hàng cần quan tâm tới vốn tự có của khách hàng và xem liệu
ngân hàng đang được yêu cầu cho vay quá nhiều so với số vốn tự có đó hay không.
Thông thường, nếu khách hàng có sẵn một số tiền hợp lý để đầu tư dự án thì anh ta sẽ
sốt sắng quan tâm sao cho kết quả tốt nhất. Vì vậy, ngân hàng không nên đầu tư vào
một khách hàng kinh doanh hay dự án nhiều hơn mức đầu tư của khách hàng. Tuy
đây không phải là quy tắc cứng nhắc cụ thể, nhưng đó được hầu hết các chi nhánh
ngân hàng tán đồng. Ngân hàng phải xem xét đề nghị, kiểm tra mọi số liệu cung cấp
và cố gắng nhận định xem liệu khoản cho vay của ngân hàng có thích hợp và đủ để
thực hiện dự án hay không. Nếu khoản cho vay chưa phù hợp thì sau này ngân hàng
dễ bị rơi vào tình trạng khó khăn là phải cho vay để bảo vệ khoản cho vay trước

- Vay để làm gì?
Để làm gì? Tất nhiên, người cho vay có quyền được biết mục đích của việc
xin vay. Mục tiêu của các khoản cho vay cá nhân thường dễ hiểu, nhưng với các
doanh nghiệp thì đề nghị xin vay có thể chỉ là một phần của kế hoạch phức tạp mà
ngân hàng cần tìm hiểu và đánh giá. Ngân hàng phải luôn ghi nhớ về chất lượn tín
dụng và mục đích của khoản vay phải nằm trong các điều kiện chính sách của bản
thân ngân hàng đề ra.
- Vay bao lâu?
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Bao lâu? Về ý nghĩa kinh doanh, khi nguồn vốn mà ngân hàng vay của khách
hàng (tiền ký thác, tiền vay, …) phải được hoàn trả đúng hạn thì khoản cho vay của
khách hàng cũng phải được hoàn trả trong thời hạn tương tự. Về mặt kỹ thuật, mọi
khoản cho vay của ngân hàng đều phải được hoàn trả tốt đẹp khi ngân hàng có yêu
cầu. Đây là nguyên tắc kinh doanh tiền tệ của một kinh doanh tài chánh.
- Trả nợ như thế nào?
Việc hoàn trả mọi khoản vay thường lấy từ thu nhập tương lai của khách hàng.
Để đánh giá đề nghị vay của khách hàng, ngân hàng phải đòi hỏi chi tiết về thu nhập
và chi tiêu thông thường của khách hàng, kể cả các khoản trả dần hay mua chịu hiện
có. Những thông tin này là cần thiết, vị khách hàng thường xin vay mà không tính
toán là mình có trả nợ hay không. Đối với các doanh nghiệp, tiền trả nợ chỉ có thể lấy
từ lợi nhuận trong tương lai. Vì vậy, Ngân hàng cần được bảo đảm rằng tiền cho vay
của ngân hàng sẽ làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, sau khi đã giành ra tiền trả lãi
và phí cho khoản vay. Do đó, ngân hàng phải hỏi khách hàng về kế hoạch tiền mặt và
dự kiến tài khoản lỗ lãi và bản tổng kết tài sản cho năm tới. Ngân hàng sẽ phân tích
để biết được khách hàng đó sẽ dự tính nghiêm túc hay chỉ lập kế hoạch để làm vừa
lòng mình.
Trong các câu hỏi trên, chưa câu nào đề cập đến sự bảo đảm cho một khoản
vay. Tuy rằng, mọi đề nghị vay vốn đều phải “tự mình đứng vững”, tức là phải đủ tốt

để không cần đảm bảo nào, nhưng ngân hàng thường yêu cầu khách hàng cung cấp
đảm bảo thích hợp trong trường hợp khoản vay gặp trục trặc. Có nhiều loại bảo đảm
cho một khoản vay ngân hàng, tuy nhiên, có 3 yêu cầu đối với bất kỳ loại bảo đảm
nào để được ngân hàng chấp nhận: a) Dễ được định giá; b) Dễ cho ngân hàng quyền
được sở hữu hợp pháp; c) Dễ tiêu thụ hay thuận lơi. Cần lưu ý, bảo đảm là một vấn
đề phụ. Khi cho vay có tài sản bảo đảm, không bao giờ nên coi đó là nguồn trả nợ mà
chỉ là cái gì đó để dựa vào khi nguồn trả nợ dự kiến không thành.
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
17
Chuyên đề tốt nghiệp
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng
doanh nghiệp:
1.4.1. Yêu cầu về nguồn thông tin:
Việc duy trì thông tin tín dụng (TTTD) trong hệ thống NHCV là vô cùng quan
trọng do TTTD tạo lập cơ sở dữ liệu tập trung về khách hàng để phục vụ cho quá
trình cấp tín dụng, phân tích và quản lý tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng. Hệ thống
TTTD giúp tìm kiếm và phát hiện sớm các khoản tín dụng có vấn đề và đánh giá
đúng mức độ rủi ro của các khoản nợ, đồng thời tiên liệu trước khả năng một khoản
tín dụng có thể chuyển sang nợ xấu.
Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như: Lịch sử hình thành và phát
triển, năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, đội ngũ điều hành là cơ sở hết sức quan
trọng giúp cho công tác chấm điểm tín dụng. Nếu hệ thống này không đầy đủ sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến khả năng đánh giá, xếp loại khách hàng.
Để áp dụng phương pháp chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp, Ngân
hàng phải có một hệ thống thông tin tín dụng hiệu quả để tự thu thập thông tin một
cách chính xác và đầy đủ về khách hàng. Đây là một nhân tố rất quan trọng, quyết
định đến tính chính xác của kết quả chấm điểm tín dụng. Chất lượng nguồn thông tin
được thể hiện qua bốn yếu tố:
- Đầy đủ và kịp thời:
Theo định kỳ hoặc khi có phát sinh, mọi TTTD về khách hàng phải được thu

thập, ghi chép và xử lý kịp thời để phản ánh chính xác mức độ rủi ro và năng lực của
khách hàng trong việc thực hiện các nghĩa vụ với NHCV, đồng thời giúp NHCV có
quyết định điều chỉnh đúng đắn đối với hoạt động tín dụng cung cấp cho khách hàng.
Thông tin về mọi khách hàng có quan hệ tiền gửi và vay tiền với NHCV hoặc những
khách hàng chưa từng có quan hệ với NHCV nhưng là những doanh nghiệp lớn, có
uy tín trên thị trường đều phải được ghi chép, lưu trữ.
- Trung thực, khách quan:
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
18
Chuyên đề tốt nghiệp
TTTD phải được thu thập từ các nguồn cung cấp có cơ sở pháp lý hoặc cơ sở
thực tiễn để đảm bảo tính trung thực và khách quan. Mọi thông tin có được từ các
nguồn không hợp lệ chỉ sử dụng cho mục đích tham khảo.
- Nhất quán:
TTTD phải được tập hợp, cập nhật, theo dõi liên tục theo thời gian, ít nhất cho
tới khi khách hàng chấm dứt quan hệ với NHCV.
- Bảo mật:
TTTD phải được lưu trữ, quản lý theo chế độ bảo mật như tài sản riêng có của
NHCV; sử dụng an toàn, bí mật, không gây ảnh hưởng đến nguồn cung cấp thông tin
và không cung cấp cho bên thứ 3.
1.4.2. Đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn:
Chấm điểm tín dụng là một mô hình mới được áp dụng tại Việt Nam, các tiêu
chí và quy trình đánh giá được đưa ra phụ thuộc rất lớn vào các chuyên gia có kinh
nghiệm, khả năng phân tích và hiểu biết sâu sắc trong lĩnh vực tín dụng. Ngân hàng
muốn hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng ngoài các cán bộ cao cấp trong nội bộ
còn nên lắng nghe ý kiến tư vấn của các chuyên gia có kinh nghiệm trong việc phát
triển mô hình.
1.4.3. Trình độ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng:
Hệ thống công nghệ của ngân hàng phải đủ hiện đại có thể kết hợp phần mềm
chấm điểm tín dụng và tạo thành một quy trình cho vay và kiểm soát tín dụng thống

nhất Áp dụng công nghệ thông tin vào hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng
khách hàng làm tăng chất lượng lưu trữ, cập nhật và đảm bảo tính bảo mật của thông
tin. Công nghệ ngân hàng còn giúp cho hệ thống chấm điểm tín dụng thực hiện nhanh
và chính xác hơn. Đây là vấn đề không thể thiếu khi Ngân hàng muốn xây dựng được
một hệ thống chấm điểm hoàn chỉnh, chuẩn xác và hướng tới tiêu chuẩn quốc tế.
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
19
Chuyên đề tốt nghiệp
1.4.4. Năng lực và trình độ của cán bộ tín dụng:
Cán bộ chấm điểm tín dụng là người trực tiếp tiến hành thực hiện các bước
trong quy trình chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp.Kết quả đó phụ thuộc
rất nhiều vào năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng phải
là người hiểu biết sâu rộng quy trình chấm điểm tín dụng, phải thực sự có năng lực
để có thể đánh giá được một cách khách quan nhất về khách hàng.
1.4.5. Những thay đổi trong cơ cấu, thủ tục, chính sách:
Trước khi áp dụng mô hình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, Ngân
hàng phải xây dựng quy trình chấm điểm tín dụng bao gồm: các bước thực hiện chấm
điểm, các chỉ tiêu, hệ thống tiêu chuẩn phục vụ cho quá trình chấm điểm, xếp hạng
doanh nghiệp, … Hệ thống chấm điểm tín dụng càng chi tiết, khoa học thì việc đánh
giá các doanh nghiệp càng chính xác. Ngoài ra, khi mô hình chấm điểm tín dụng
được triển khai, Ngân hàng sẽ ban hành các chính sách, thủ tục, quy chế cho vay mới
để hợp thức hóa vai trò của công tác chấm điểm tín dụng trong quy trình cho vay,
đồng thời thành lập một ban kiểm tra độc lập nhằm theo dõi, giám sát những sai sót
khi mô hình được đưa vào áp dụng.
Chấm điểm tín dụng là một mô hình hiện đại và rất hiệu quả trong lĩnh vực
quản lý rủi ro, tuy nhiên, để áp dụng tốt hệ thống này, Ngân hàng sẽ phải đầu tư rất
nhiều thời gian, tiền và công sức để đạt được kết quả tốt nhất.
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
20
Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG
KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP TẠI SỞ GIAO DỊCH I – NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu về Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam:
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển:
Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam có trụ sở chính tại số 10,
đường Lê Lai, Hà Nội, có tên giao dịch quốc tế là Industrial and Comercial Bank of
Viet Nam – Transaction Office No.1, được thành lập theo quyết định số 83/NHCT-
QĐ CTHĐQT vào ngày 30/3/1995.
Ngày 30/12/1998, Chủ tịch HĐQT NHCTVN ký quyết định số 134/QĐ-HĐQT-
NHCT1 sắp xếp tổ chức hoạt động Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt
Nam theo điều lệ tổ chức và hoạt động của NHCTVN.
Ngày 20/10/2003, Chủ tịch Hội đồng quản trị NHCT Việt Nam ban hành quyết
định số 153/QĐ-HĐQT về mô hình tổ chức mới của Sở giao dịch I theo Dự án hiện
đại hóa Ngân hàng và công nghệ thanh toán do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ.
Theo điều lệ của NHCT Việt Nam, Sở giao dịch I là đại diện ủy quyền của
NHCT Việt Nam, có quyền tự chủ trong kinh doanh, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ
và quyền lợi đối với NHCT Việt Nam. Sở giao dịch I có con dấu và mở tài khoản tại
Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác.
2.1.2. Tình hình hoạt động của Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt
Nam trong thời gian qua:
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, NHCT Việt Nam và Sở giao
dịch I nói riêng đã có những bước phát triển khả quan, đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch
về tín dụng, huy động vốn, lợi nhuận, trích lập dự phòng rủi ro. Trong nhiều năm
qua, sở giao dịch I luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống NHCT Việt Nam..
Điều này được thể hiện trong một số chỉ tiêu cơ bản:
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
21
Chuyên đề tốt nghiệp
- Là đơn vị đứng đầu về tỷ lệ huy động vống trong toàn hệ thống Công thương,

lợi nhuận trung bình trong 3 năm gần đây đạt trên 300 tỷ đồng.
- Dư nợ và đầu tư luôn dẫn đầu trong cả hệ thống.
- Sở giao dịch I luôn là nơi được chọn thực hiện thí điểm các sản phẩm dịch vụ
mới của NHCT Việt Nam. Đây là đầu mối cho các chi nhánh NHCT trên địa bàn để
triển khai các chương trình do NHCT Việt Nam phát động.
Sau đây, chúng ta cùng điểm qua bảng tổng kết kết quả hoạt động của Sở giao
dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam trong 3 năm gần đây (2005 – 2007).
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu 2005
200
6 2007
Lợi nhuận hạch toán nội bộ 347,5 343 331,5
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của SGD I - NHCT VN)
Trong 3 năm qua, hoạt động của Sở giao dịch I đạt kết quả tốt, lợi nhuận cuối
năm luôn vượt kế hoạch đề ra. Trong đó, tổng nguốn vốn huy động cuối năm 2007
nguồn vốn huy động đạt 16.718 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 11% trên tồng nguồn vốn
của toàn hệ thống NHCT; Dư nợ cho vay và đầu tư đến 31/12/2007 đạt 4.360 tỷ
đồng, tăng 11% so với năm 2005 và đạt tốc độ tăng bình quân hàng năm trên 10% ;
đồng thời các hoạt động dịch vụ khác cũng được Sở đẩy mạnh phát triển toàn diện
với nhiều sản phẩm như: Cho thuê két sắt, kiều hối, Eden, dịch vụ du học trọn gói,
dịch vụ điện tử qua mạng, dịch vụ thẻ, giải ngân các dự án ODA, …Doanh số hoạt
động thanh toán năm 2007 đạt 716.000 tỷ đồng, bình quân hàng năm tăng 19%,
doanh số thanh toán XNK 2007 đạt 297 triệu USD, bình quân hàng năm tăng 26%.
2.2. Quy trình công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh
nghiệp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam
2.2.1. Thu thập thông tin
Người thực hiện: Cán bộ chấm điểm tín dụng
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
22
Chuyên đề tốt nghiệp

Sau khi nhận được hồ sơ thông tin khách hàng, tiến hành điều tra, thu thập, xác
minh và sàng lọc để tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án sản xuất kinh
doanh/ dự án đầu tư từ các nguồn:
- Hồ sơ do khách hàng cung cấp: Giấy tờ pháp lý, các báo cáo tài chính và các
tài liệu khác.
- Đi phỏng vấn trực tiếp khách hàng
- Đi thăm thực địa khách hàng
- Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng khác
- Báo cáo nghiên cứu thị trường của các tổ chức chuyên nghiệp
- Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN Việt Nam.
- Các nguồn khác.
Cách thức thu thập thông tin, danh mục câu hỏi điều tra được hướng dẫn chi tiết
tại phụ lục QT.35.02/PL01.
Trường hợp khách hàng có bảo lãnh toàn phần (lớn hơn hoặc bằng 100% giá trị
khoản tín dụng) của một tổ chức có năng lực tài chính mạnh hơn, thì có thể sử dụng
kết quả xếp hạng tín dụng của bên bảo lãnh để xác định hạng tín dụng của khách
hàng (nếu bên bảo lãnh cũng được Ngân hàng cho vay chấm điểm), đưa vào kết quả
chấm điểm xếp hạng (bước 6).
2.2.2. Xác định ngành nghề lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Người thực hiện: Cán bộ chấm điểm tín dụng
Căn cứ vào ngành nghề /lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính đăng ký trên giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp, xác định ngành nghề /lĩnh vực sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm:
- Nông, lâm và ngư nghiệp
- Thương mại và dịch vụ
- Xây dựng
- Công nghiệp
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
23
Chuyên đề tốt nghiệp

Trường hợp doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề thì căn cứ vào ngành nghề
/lĩnh vực nào đem lại tỷ trọng doanh thu lớn nhất cho doanh nghiệp.
CBCĐTD tiến hành phân loại doanh nghiệp theo hướng dẫn trong bảng sau:
Nông, lâm,
ngư nghiệp
- Chăn nuôi
Trồng trọt: cây lương thực, hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp,

- Trồng rừng
- Khai thác lâm sản
- Đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản
- Làm muối
Thương mại,
dịch vụ
- Cảng sông, biển
- Khách sạn, nhà hàng, giải trí, du lịch
- Siêu thị, đại lý phân phối, kinh doanh bán buôn, bán lẻ các loại
nông sản, lâm sản, thủy hải sản, thực phẩm, rượu bia, nước giải
khát, thuốc lá, dược phẩm, thiết bị y tế, mỹ phẩm, văn hóa phẩm,
vật liệu xây dựng, hàng điện tử, máy móc, phương tiện giao thông
vận tải, hóa chất (bao gồm cả phân bón, thuốc trừ sâu), hàng tiêu
dùng, hàng mỹ thuật, mỹ nghệ, điện, khí đốt.
- In ấn, xuất bản sách, báo chí
- Sửa chữa nhà cửa, các loại máy móc, phương tiện giao thông
- Chăm sóc sức khỏe, làm đẹp
- Tư vấn, môi giới
- Thiết kế thời trang, gia công may mặc
- Bưu chính viễn thông
- Vận tải đường bộ, đường sông, đường biển, đường sắt, hàng
không

- Vệ sinh môi trường, văn phòng, …
Xây dựng - Hạ tầng giao thông, khu công nghiệp
- Hạ tầng đô thị và nhà ở
- Xây lắp (xây dựng cơ bản)
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Công nghiệp - Chế biến các loại nông sản, lâm sản, thủy hải sản, thực phẩm,
rượu bia, nước giải khát
- Sản xuất thuốc lá, dược phẩm, thiết bị y tế, mỹ phẩm, văn hóa
phẩm, vật liệu xây dựng, hóa chất (bao gồm cả phân bón, thuốc trừ
sâu), hàng tiêu dùng, hàng mỹ thuật, mỹ nghệ, nguyên vật liệu cho
các ngành khác.
- Sản xuất, lắp ráp hàng điện tử, máy móc, phương tiện giao thông
vận tải
- Sản xuất điện, khí đốt
- Khai thác khoáng sản
- Khai thác than, vật liệu xây dựng (cát, đá, …), dầu khí.
2.2.3. Chấm điểm và xác định quy mô của doanh nghiệp
Người thực hiện: Cán bộ chấm điểm tín dụng
Các tiêu chí sử dụng để chấm điểm và xác định quy mô doanh nghiệp gồm:
nguồn vốn kinh doanh, lao động, doanh thu thuần và giá trị nộp Ngân sách Nhà nước.
Trong đó:
- Lao động: Là số lao động thực tế sử dụng (được nêu tại thuyết minh báo cáo
tài chính) tính bình quân trong 3 năm gần nhất.
- Giá trị nộp NSNN: Lấy theo số thực nộp vào NSNN phát sinh trong kỳ (không
kể số thiếu của kỳ trước nộp kỳ này) bao gồm các loại thuế và các khoản nộp khác
theo quy định của Nhà nước trong năm báo cáo (không tính các khoản thuế xuất nhập
khẩu, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, các khoản tiền phạt,
phụ thu).

Tiến hành chấm điểm quy mô doanh nghiệp theo hướng dẫn trong bảng sau: tại
phụ lục QT.35.02/PL03.
Bảng chấm điểm quy mô doanh nghiệp
Phan Thị Thanh An Tài chính doanh nghiệp 46B
25

×