Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

TC418Hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.28 KB, 103 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử hình thành và phát triển của ngành ngân hàng gắn liền với lịch
sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển kinh tế là điều
kiện và đòi hỏi sự phát triển của hệ thống ngân hàng, đến lượt mình sự phát
triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực phát triển kinh tế. Định chế
tài chính trung gian này cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng
nhất trong đó tín dụng là một nội dung quan trọng, chiếm từ 60 – 80% trong
toàn bộ hoạt động kinh doanh ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng chứa
đựng trong nó nhiều rất nhiều rủi ro, do đó rủi ro từ hoạt động tín dụng là điều
không thể tránh khỏi. Rủi ro tín dụng chiếm tới 90% trong số các loại rủi ro
cơ bản và có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngân hàng. Do tác động của rủi
ro tín dụng đến kết quả hoạt động của hệ thống ngân hàng nên quản trị rủi ro
tín dụng là một trong những vấn đề trọng tâm hiện nay, được sự quan tâm chú
ý đặc biệt của các ngân hàng.
Các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế là đối tượng
chủ yếu được các ngân hàng cấp tín dụng. Trong bất kì một nền kinh tế nào,
doanh nghiệp cũng đóng vai trò là chủ thể lớn. Do đó, việc cấp tín dụng cho
khách hàng là doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần có sự quản
lí sát sao.
Xuất phát từ nhận thức trên, nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề
cùng với việc nghiên cứu tình hình quản trị rủi ro tín dụng thực tế tại Sở giao
dịch ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, em xin chọn đề tài “ Hoàn thiện
quản trị rủi ro tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp tại Sở giao
dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam” cho chuyên đề tốt nghiệp của
mình. Chuyên đề tốt nghiệp có kết cấu làm 3 chương:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương I: Lý luận về quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân
hàng.
Chương II: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân


hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng tại Sở
giao dịch ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo –
PGS.TS. Lê Đức Lữ và ban lãnh đạo Sở giao dịch ngân hàng Ngoại Thương
đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thanh Vân

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
1.1.1. Rủi ro.
1.1.1.1. Khái niệm rủi ro.
Trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất kinh doanh có
những sự cố bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra không thể báo trước được, những tình
huống bất ngờ như vậy gọi là rủi ro. Khi nói đến rủi ro người ta thường nghĩ
đến điều không tốt lành hoặc một thiệt hại, tổn thất nào đó về vật chất hữu
hình hoặc vô hình bất ngờ mang đến do những nguyên nhân khách quan hoặc
chủ quan gây nên.
Như vậy: Rủi ro là sự việc xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của con người,
đem lại những hậu quả mà người ta không thể dự đoán được.
Tuy khó tìm được một định nghĩa rủi ro hoàn hảo song có thể biết được
rằng rủi ro thường có hai đặc tính sau: Thứ nhất là biên độ rủi ro, là sự thiệt
hại từ rủi ro gây ra ở mức nào. Thứ hai là tần số xuất hiện của rui ro là nhiều
hay ít. Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thương mại cũng
gánh chịu các rủi ro do các tác động của môi trường vi mô và vĩ mô gây nên
như các doanh nghiệp khác.

1.1.1.2. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Rủi ro của ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác
nhau song đều có bản chất chung đó là khả năng xảy ra tổn thất mà ngân hàng
phải gánh chịu.
* Phân chia rủi ro theo các loại tài sản có:
- Rủi ro trong quản lí và kinh doanh ngân quỹ.
- Rủi ro tín dụng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Rủi ro trong quản lí và kinh doanh chứng khoán.
- Rủi ro trong cho thuê.
- Rủi ro đối với các tài sản khác của ngân hàng.
* Phân chia rủi ro theo nguyên nhân và các yếu tố tác động có:
- Rủi ro tín dụng.
- Rủi ro lãi suất.
- Rủ ro hối đoái.
- Rủi ro do thanh khoản.
- Rủi ro tồn đọng vốn.
- Các loại rủi ro khác.
1.1.2. Rủi ro tín dụng.
1.1.2.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng (hay hoạt động cho vay) là hoạt động chính tạo ta
phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Hoạt động cho vay có thể phân chia làm
nhiều loại khác nhau theo tính chất và đối tượng của hoạt động tín dụng. Tuy
nhiên, hoạt động cho vay phải đảm bảo một số điều kiện cơ bản. Ba điều kiện
cơ bản của một hợp đồng cho vay là:
* Thời hạn, lãi suất và hạn mức hoàn trả hay thời gian đáo hạn của hợp
đồng.
* Vốn vay phải đảm bảo sử dụng đúng mục đích.
* Về nguyên tắc, vốn vay phải được đảm bảo bằng tài sản tương đương.
Hoạt động tín dụng có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí, trong đó có

một số tiêu chí chủ yếu sau:
* Phân loại tín dụng dựa theo tiêu chí thời gian:
- Cho vay ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu động.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Cho vay trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố
định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng
hao mòn.
- Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm tài trợ cho công trình xây dựng như nhà,
cầu, sân bay, đường,máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử
dụng lâu.
* Phân loại tín dụng dựa trên hình thức tài trợ:
- Cho vay: Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Đây là tài
sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng.
- Chiết khấu thương phiếu: Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ).
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định khách hàng
phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng.
- Bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng của mình.
* Phân loại tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo:
- Tín dụng không cần tài sản đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng không
dựa trên cam kết yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải kí hợp đồng bảo đảm.
- Tín dụng có tài sản đảm bảo: Là hình thức cấp tín dụng dựa trên cam
kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng pahỉ kí hợp đồng bảo đảm.
* Phân loại tín dụng dựa trên rủi ro:
- Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có kảh năng thu hồi cao.
- Tín dụng có vấn đề: Các khảon tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh

như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm…
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Nợ quá hạn có khả năng thu hòi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời gian
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị
lớn…
- Nợ khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế
chấp quá nhỏ hoặc bị giảm giá…
* Phân loại khác:
- Theo ngành kinh tế ( công, nông nghiệp…)
- Theo đối tượng tín dụng ( tài sản lưu động, tài sản cố định)
- Theo mục đích ( sản xuất, tiêu dùng…)
1.1.2.2. Khái niệm rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng, theo
quy định tại Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng
để xử lý rủi ro tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN, “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra
tổn thất trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không
thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
1.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng.
* Các nhân tố thuộc về ngân hàng:
- Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng: Chất
lượng cán bộ tín dụng bao gồm trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.
Đây là những nhân tố đầu tiên, có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý
rủi ro tín dụng của NHTM.
- Các công cụ quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng:
+ Quy trình tín dụng: Quy trình tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc hạn chế sai sót khi cho vay và giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro tín dụng.
Quy trình tín dụng sẽ quy định rõ từng khâu công việc và trách nhiệm cụ thể
của các cán bộ có liên quan.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

+ Chính sách tín dụng: Kinh nghiệm cho thấy, sự hoạt động của một ngân
hàng dựa trên cơ sở chính sách tín dụng thống nhất, hợp lý.. có hiệu quả nhiều
hơn là dựa trên cơ sở kinh nghiệm và trao quyền quyết định cho một cá nhân
điều hành. Vì vậy, mục tiêu, định hướng phát triển trong chính sách tín dụng
của ngân hàng cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản trị rủi ro tín
dụng của NHTM.
+ Mô hình đánh giá rủi ro tín dụng: Mỗi ngân hàng phải hình thành và đưa
vào sử dụng một mô hình đánh giá rủi ro cụ thể để có thể quản lý rủi ro tín
dụng một cách thống nhất và hiệu quả. Mô hình này phải phù hợp với tính
chất, quy mô và độ phức tạp của các hoạt động thuộc ngân hàng đó.
* Các nhân tố thuộc về khách hàng: Khi khách hàng sử dụng vốn vay
ngân hàng không đúng mục đích đã đưa ra trong đơn xin vay vốn như: sử
dụng vốn vay vào kinh doanh không đúng đối tượng; sử dụng vốn ngắn hạn
để đầu tư trung dài hạn, đầu tư vào tài sản cố định;... đều có thể ảnh hưởng
đến việc quản trị rủi ro tín dụng của NHTM. Ngoải ra, rủi ro tín dụng còn có
thể phát sinh từ sự yếu kém về năng lực lãnh đạo và kinh nghiệm quản lý của
người điều hành doanh nghiệp; khả năng cạnh tranh của khách hàng....
* Các nhân tố thuộc về môi trường:
- Môi trường kinh tế xã hội: Môi trường kinh tế xã hội là tổng hoà các mối
quan hệ về kinh tế và xã hội tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế. Xét một cách tổng thể, môi trường kinh tế xã hội ảnh hưởng
đến việc quản trị rủi ro tín dụng từ cả phía ngân hàng và phía khách hàng.
- Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống pháp luật
điều chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và những biện pháp để
thực thi pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều
có quyền tự chủ về hoạt động kinh doanh của mình nhưng phải nằm trong
khuôn khổ pháp luật quy định. Hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt
Website: Email : Tel : 0918.775.368
động tín dụng nói riêng cũng không nằm ngoài vòng kiểm soát đó. Nó cũng
phải tuân theo những quy định có liên quan của Chính phủ và Ngân hàng Nhà

nước ban hành.
1.2. QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Đối với rủi ro tín dụng, trước hết, nên coi đó là một hiện tượng có thể xảy
ra ngoài mong muốn của ngân hàng khi thực hiện cho vay đối với khách
hàng. Với quan niệm như vậy, mỗi khi bắt đầu xem xét một khoản tín dụng,
ngân hàng cần lường trước những rủi ro có thể xảy ra. Đây cũng chính là xuất
phát điểm hình thành nên ý tưởng quản trị rủi ro tín dụng của NHTM. Mặc dù
rủi ro tín dụng là một hiện tượng tiềm ẩn và không phải bao giờ cũng xảy ra
khi ngân hàng cho khách hàng vay vốn, nhưng trong nhiều trường hợp, do
tính lặp lại của rủi ro nên người ta có thể nhận biết được tính quy luật của nó.
Chính vì điều này mà ngân hàng có thể tìm ra những biện pháp quản lý nhằm
hạn chế khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và giảm thiểu tổn thất do rủi ro tín
dụng gây ra.
Như vậy, “quản lý rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản lý
của NHTM bao gồm: nhận biết và đánh giá mức độ rủi ro, thực thi các biện
pháp hạn chế khả năng xảy ra rủi ro và giảm thiểu tổn thất khi rủi ro tín dụng
xảy ra.”
1.2.2. Sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng thương mại.
Rủi ro luôn tồn tại song song với các hoạt động kinh doanh NHTM, vì
vậy việc hạn chế rủi ro đến mức tối thiểu có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với ngân hàng. Tín dụng là một nội dung quan trọng, chiếm khoảng 60-80%
trong toàn bộ hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các rủi ro tín dụng vì thế có
ảnh hưởng rất lớn tới ngân hàng, thông thường các rủi ro tín dụng vào khoảng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
90% các rủi ro cơ bản. Quản trị rủi ro tín dụng là một trong những vấn đề
trọng tâm hiện nay, đang được sự quan tâm chú ý đặc biệt của hệ thống ngân
hàng trên toàn thế giới. Khi ngân hàng kiểm soát tốt được rủi ro tín dụng sẽ
tránh được nhiều điều bất lợi,chủ yếu là các vấn đề như:

1.2.2.1. Đối với ngân hàng.
* Quản trị rủi ro tín dụng tốt sẽ tránh được tình trang giảm lợi nhuận: Khi
rủi ro tín dụng xảy ra sẽ phát sinh các khoản nợ khó thu hồi. Ảnh hưởng trước
mắt của nó đến hoạt động ngân hàng là sự ứ đọng vốn dẫn đến làm giảm vòng
quay vốn của ngân hàng. Mặt khác, khi có quá nhiều các khoản nợ khó hoặc
không thu hồi được sẽ lại phát sinh các khoản chi phí quản lý, giám sát, thu
nợ... Các chi phí này còn cao hơn khoản thu nhập từ việc tăng lãi suất các
khoản nợ quá hạn bởi vì thực ra đây chỉ là những khoản thu nhập ảo, thực tế
ngân hàng rất khó có khả năng thu hồi đầy đủ được chúng. Bên cạnh đó, ngân
hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động được trong khi một bộ phận
tài sản của ngân hàng không thu được lãi cũng như không chuyển được thành
tiền để cho người khác vay và thu lãi. Kết quả là lợi nhuận của ngân hàng sẽ
bị giảm sút. Nếu quản trị rủi ro tín dụng được thực hiện tốt ngân hàng sẽ tránh
được tình trạng trên.
* Quản trị rủi ro tín dụng tốt sẽ tránh được tình trạng giảm khả năng
thanh toán: Ngân hàng thường lập kế hoạch cân đối dòng tiền ra (trả lãi và
gốc tiền gửi, cho vay, đầu tư mới...) và dòng tiền vào (tiền nhận gửi, tiền thu
nợ gốc và lãi cho vay..) tại các thời điểm trong tương lai. Khi các món vay
không được thanh toán đầy đủ và đúng hạn sẽ dẫn đến sự không cân đối giữa
hai dòng tiền. Các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của khách hàng vẫn phải
thanh toán đúng kỳ hạn trong khi các khoản tiền vay của khách hàng lại
không được hoàn trả đúng hẹn. Nếu ngân hàng không đi vay hoặc bán các tài
sản của mình thì khả năng chi trả của ngân hàng sẽ bị suy yếu và hạn chế,
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong khâu thanh toán, do đó quản trị rủi ro tín
dụng là hết sức cần thiết.
* Quản trị rủi ro tín dụng tốt sẽ giúp ngân hàng tránh được tình trạng
giảm uy tín: Do quản trị rủi ro tín dụng tốt nên tình trạng mất khả năng chi trả
khó có thể xảy ra, do đó, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị
giảm sút.

* Quản trị rủi ro tín dụng tốt sẽ tránh được tình trạng phá sản ngân hàng:
Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng gặp khó khăn trong việc hoàn trả, nhất
là những món vay lớn thì có thể dẫn đến khủng hoảng trong hoạt động của
chính ngân hàng. Ngân hàng nếu chuẩn bị kịp thời cho những tình huống như
vậy, sẽ nhanh chóng đáp ứng được khả năng thanh toán, tránh được sự sụp đổ
của ngân hàng nếu Ngân hàng Trung Ương không can thiệp kịp thời hoặc
không thể can thiệp.
1.2.2.2. Đối với khách hàng.
Quản trị rủi ro tín dụng tốt sẽ giúp khách hàng tránh được tình trạng
không trả được nợ hoặc phá sản. Lãi vay ngân hàng được hạch toán vào chi
phí sản xuất của doanh nghiệp. Khi để phát sinh nợ quá hạn với lãi suất lớn
hơn (=150%) lãi suất trong hạn thì chi phí của doanh nghiệp sẽ tăng lên.
Doanh nghiệp đã đang gặp khó khăn trong tình hình tài chính, giờ lại càng
thêm khó khăn gấp bội. Nguy cơ không có đủ tiền để trả nợ cho ngân hàng là
điều không thể tránh khỏi, dẫn đến việc phát mại tài sản thế chấp, đôi khi dẫn
đến tình trạng phá sản cho khách hàng.
1.2.2.3. Đối với nền kinh tế.
Quản trị rủi ro tín dụng tốt sẽ tránh được tình trạng khủng hoảng kinh tế.
Khi ngân hàng gặp khó khăn thì việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp, nền
kinh tế bị ngừng trệ. Do một lượng vốn lớn nằm tồn đọng trong các khoản nợ
quá hạn, nợ khó đòi, ngân hàng không có đủ vốn để cho vay các dự án có hiệu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quả, mở rộng và phát triển sản xuất. Trong khi đó, tiền cho vay của ngân hàng
lại hoạt động không có hiệu quả mà ngân hàng lại không thể kiểm soát nổi.
Kết quả là sản xuất đình đốn, nền kinh tế không phát triển, xã hội bị rối loạn.
Quản trị tốt sẽ tránh được rủi ro nói trên.
Như vậy, rủi ro tín dụng xảy ra dù ở mức độ nào cũng gây ảnh hưởng
đến sự phát triển của ngân hàng nói riêng và sự tăng trưởng của nền kinh tế
nói chung. Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng không chỉ là trách nhiệm của riêng
ngân hàng mà là của toàn nền kinh tế.

1.2.3. Công cụ quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
1.2.3.1. Các nguyên tắc chung của ủy ban Giám sát Ngân hàng Basel trong
Quản trị rủi ro tín dụng.
Hiệp định Basel II ra đời thay thế cho Hiệp định vốn ngân hàng quốc tế
(Basel I) được thực hiện từ năm 1988 (thường được biết đến với tỷ số Cook)
do Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel xây dựng nhằm hỗ trợ các ngân hàng
quản lý rủi ro hiệu quả hơn. Các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng của
hiệp định bao gồm:
* Thiết lập một môi trường tín dụng thích hợp:
- Nguyên tắc 1: Phê duyệt và xem xét Chiến lược rủi ro tín dụng theo định
kỳ, xem xét những vấn đề như: mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, mức độ
khả năng sinh lời.
- Nguyên tắc 2: Thực hiện Chiến lược chính sách tín dụng. Xây dựng các
chính sách tín dụng. Xây dựng các quy trình thủ tục cho các khoản vay riêng
lẻ và toàn bộ danh mục tín dụng nhằm xác định, đánh giá, quản lý và kiểm
soát rủi ro tín dụng.
- Nguyên tắc 3: Xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong tất cả các sản
phẩm và các hoạt động. Đảm bảo rằng các sản phẩm và hoạt động mới đều
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trải qua đầy đủ các thủ tục, các quy trình kiểm soát thích hợp và được phê
duyệt đầy đủ.
* Hoạt động theo một quy trình cấp tín dụng hợp lý:
- Nguyên tắc 4: Tiêu chuẩn cấp tín dụng đầy đủ gồm có: Những hiểu biết
về người vay, mục tiêu và cơ cấu tín dụng, nguồn thanh toán.
- Nguyên tắc 5: Thiết lập hạn mức tín dụng tổng quát cho: từng khách
hàng riêng lẻ, nhóm những khách hàng vay có liên quan tới nhau, trong và
ngoài bảng cân đối kế toán.
- Nguyên tắc 6: Có các quy trình rõ ràng được thiết lập cho việc phê duyệt
các khoản tín dụng mới, gia hạn các khoản tín dụng hiện có.
- Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng cần phải dựa trên: Cơ sở giao dịch

thương mại thông thường, quản lý chặt chẽ các khoản vay đối với các doanh
nghiệp và cá nhân có liên quan, làm giảm bớt rủi ro cho vay đối với các bên
có liên quan.
* Duy trì một quy trình quản lý, đánh giá và kiểm soát tín dụng có hiệu
quả:
- Nguyên tắc 8: Áp dụng quy trình quản lý tín dụng có hiệu quả và đầy đủ
đối với các danh mục tín dụng.
- Nguyên tắc 9: Có hệ thống kiểm soát đối với các điều kiện liên quan đến
từng khoản tín dụng riêng lẻ, đánh giá tính đầy đủ của các khoản dự phòng rủi
ro tín dụng.
- Nguyên tắc 10: Xây dựng và sử dụng hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ.
Hệ thống đánh giá cần phải nhất quán với các hoạt động của ngân hàng.
- Nguyên tắc 11: Hệ thống thông tin và kỹ thuật phân tích: giúp Ban quản
lý đánh giá rủi ro tín dụng cho các hoạt động trong và ngoài bảng cân đối kế
toán, cung cấp thông tin về cơ cấu và thành phần danh mục tín dụng, bao gồm
cả việc phát hiện các tập trung rủi ro.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Nguyên tắc 12: Có hệ thống nhằm kiểm soát đối với: Cơ cấu tổng thể
của danh mục tín dụng, chất lượng danh mục tín dụng.
- Nguyên tắc 13: Xem xét ảnh hưởng của những thay đổi về điều kiện
kinh tế có thể xảy ra trong tương lai trong những tình trạng khó khăn khi đánh
giá danh mục tín dụng.
* Đảm bảo quy trình kiểm soát đầy đủ đối với rủi ro tín dụng:
- Nguyên tắc 14: Thiết lập hệ thống xem xét tín dụng độc lập và liên tục,
và cần thông báo kết quả đánh giá cho Hội đồng quản trị và ban quản lý cấp
cao.
- Nguyên tắc 15: Quy trình cấp tín dụng cần phải được theo dõi đầy đủ, cụ
thể: Việc cấp tín dụng phải tuân thủ với các tiêu chuẩn thận trọng, thiết lập và
áp dụng kiểm soát nội bộ, những vi phạm về các chính sách, thủ tục và hạn
mức tín dụng cần được báo cáo kịp thời.

- Nguyên tắc 16: Có hệ thống quản lý đối với các khoản tín dụng có vấn
đề.
1.2.3.2. Các công cụ quản trị rủi ro tín dụng.
Để quản trị rủi ro tín dụng, mỗi ngân hàng phải nghiên cứu và đưa ra
những công cụ quản lý phù hợp với quy mô và tính chất hoạt động của ngân
hàng đó. Sau đây là các công cụ chính để quản lý rủi ro trong hoạt động tín
dụng của một NHTM.
* Quy trình tín dụng: Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay
và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy trình tín dụng.
Đó chính là các bước (hoặc nội dung công việc) mà các bộ tín dụng, các
phòng, ban liên quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tiến hành tài trợ cho
khách hàng. Về cơ bản, một quy trình tín dụng được chia làm ba giai đoạn:
trước, trong và sau khi cho vay.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Giai đoạn trước khi cho vay: Trong giai đoạn này, sau khi tiếp nhận hồ
sơ xin vay cũng như tiến hành điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về
khách hàng và phương án vay vốn; cán bộ tín dụng sẽ tiến hành phân tích
thẩm định khách hàng và phương án xin vay. Nội dung phân tích bao gồm:
năng lực pháp lý của khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, phương
án sử dụng vốn vay và phương án trả nợ, khả năng đảm bảo tiền vay và các
biện pháp quản lý, kiểm soát của ngân hàng.
- Giai đoạn trong khi cho vay: Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết và
vốn vay được giải ngân, ngân hàng sẽ tiến hành kiểm soát khách hàng theo
các nội dung chính như: khách hàng sử dụng tiền vay có đúng mục đích, tiến
độ hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có
dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ hay không.... Công việc này cho phép
ngân hàng thu thập thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản
ánh chiều hướng tốt, điều đó cho thấy chất lượng tín dụng đang được bảo
đảm.
- Giai đoạn sau khi cho vay: Quan hệ tín dụng sẽ kết thúc khi ngân hàng

thu hồi hết gốc và lãi của khoản vay. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả
đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Trong một số trường hợp,
người vay không hoàn trả nợ hoặc hoàn trả không đầy đủ và đúng hạn. Điều
đó có nghĩa là rủi ro tín dụng đã xảy ra. Lúc này cán bộ tín dụng cần xem xét,
tìm ra nguyên nhân dẫn đến việc khách hàng không thanh toán nợ cho ngân
hàng như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Như vậy, để đảm bảo hiệu quả trong công tác quản trị rủi ro tín dụng, các
ngân hàng phải xây dựng một quy trình tín dụng cụ thể và thống nhất. Quy
trình này phải được ban lãnh đạo của ngân hàng thông qua và phổ biến rộng
rãi đến các phòng, ban có liên quan cũng như toàn bộ cán bộ tín dụng trong
ngân hàng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng bao gồm các quy định về cho
vay của ngân hàng. Chính sách này được xây dựng nhằm thực hiện mục tiêu,
chiến lược kinh doanh của ngân hàng, đồng thời hình thành cơ chế để đảm
bảo nâng cao lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Chính sách tín dụng bao gồm các
nội dung chính sau:
- Chính sách khách hàng
- Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng
- Lãi suất và phí suất tín dụng
- Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ
- Các loại bảo đảm tiền vay
- Điều kiện giải ngân và điều kiện thanh toán
- Chính sách đối với các khoản nợ xấu
* Mô hình đánh giá rủi ro tín dụng: Để xác định chính xác mức độ rủi
ro của mỗi khoản vay, các ngân hàng thường áp dụng một số mô hình cụ thể
để đánh giá rủi ro tín dụng. Các mô hình này rất đa dạng, bao gồm cả mô hình
phản ánh về mặt định tính và mô hình phản ánh về mặt định lượng. Đặc điểm
của các mô hình này là không loại trừ lẫn nhau nên một ngân hàng có thể sử
dụng cùng một lúc nhiều mô hình khác nhau để hỗ trợ, bổ sung trong việc

phân tích và đánh giá mức độ rủi ro của các khoản vay.
- Mô hình định tính: Hệ thống tiêu chuẩn thường được các ngân hàng sử
dụng trong mô hình định tính là : Tiêu chuẩn 5C
+ Character (Tư cách của người vay): Tiêu chuẩn này thể hiện tinh thần
trách nhiệm, tính trung thực, mục đích rõ ràng và thiện chí trả nợ của người
vay. Khi quyết định cho vay, cán bộ tín dụng phải chắc chắn tin rằng người
xin vay có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi
đến hạn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Capacity (Năng lực của người vay): Cán bộ tín dụng phải chắc chắn
rằng người xin vay phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết
hợp đồng tín dụng. Tương tự, cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người đại
diện cho công ty ký kết hợp đồng tín dụng phải là người được uỷ quyền hợp
pháp của công ty. Một hợp đồng tín dụng được ký kết bởi người không được
uỷ quyền có thể sẽ không thu hồi được nợ, tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng.
+ Cash (Thu nhập của người vay): Tiêu chuẩn thu nhập của người vay tập
trung vào câu hỏi: Người vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ hay không?
Nhìn chung, người vay có ba khả năng để tạo ra tiền, đó là: dòng tiền ròng từ
doanh thu bán hàng, dòng tiền từ phát hành chứng khoán và dòng tiền từ bán
thanh lý tài sản. Bất cứ nguồn thu nào từ ba khả năng trên đều có thể sử dụng
để trả nợ vay cho ngân hàng.
+ Collateral (Tài sản đảm bảo): Một khoản tín dụng nếu được đảm bảo
bằng tài sản cầm cố hay tài sản thế chấp sẽ gắn chặt hơn trách nhiệm và nghĩa
vụ trả nợ của người vay. Nếu xảy ra những rủi ro khách quan, người đi vay
không trả được nợ thì tài sản cầm cố, thế chấp sẽ trở thành nguồn thu nợ thứ
hai của ngân hàng. Tất nhiên tài sản cầm cố thế chấp cũng phải đáp ứng
những yêu cầu và điều kiện nhất định theo quy định của ngân hàng.
+ Conditions (Các điều kiện): Để đánh giá xu hướng ngành và điều kiện
kinh tế có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kinh doanh của khách hàng,
cán bộ tín dụng cần phải biết được thực trạng về ngành nghề và công việc

kinh doanh của khách hàng, cũng như khi các điều kiện kinh tế thay đổi sẽ
ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động của người vay.
- Mô hình điểm số Z (Z - Credit scoring model): Đây là mô hình do
E.I.Altman xây dựng dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp
vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng
đối với người vay và phụ thuộc vào trị số của các chỉ số tài chính của người
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vay. Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ
của người vay trong quá khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình tính điểm
như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó: X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / giá trị hạch
toán của tổng nợ
X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản
Trị số Z càng cao, người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi
trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có
nguy cơ vỡ nợ cao. Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào
có điểm số thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng
cao.
- Mô hình cho điểm theo chỉ tiêu: Mô hình này bao gồm một hệ thống các
chỉ tiêu liên quan đến từng đối tượng khách hàng (doanh nghiệp hay cá nhân),
mỗi chỉ tiêu có điểm số khác nhau phụ thuộc vào tính chất và tầm quan trọng
của chúng. Căn cứ vào tình trạng của khách hàng và thang điểm của ngân
hàng, cán bộ tín dụng sẽ quyết định số điểm tương ứng cho từng chỉ tiêu, sau
đó cộng tổng số điểm. Khi có tổng số điểm, căn cứ vào bảng chuẩn, cán bộ tín
dụng có thể đệ trình quyết định cho vay hoặc từ chối yêu cầu xin vay. Với
tổng số điểm cao hơn mức điểm chuẩn thì khách hàng đó được vay và thấp

hơn mức điểm chuẩn thì ngân hàng từ chối.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, các công cụ tín dụng có thể nói là rất quan trọng trong hoạt
động tín dụng của NHTM. Mục tiêu cuối cùng của các công cụ này là phục vụ
khách hàng trên cơ sở an toàn, giảm thiểu rủi ro tín dụng và nâng cao khả
năng sinh lời của NHTM.
1.2.4. Nội dung của quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
1.2.4.1. Nhận biết rủi ro tín dụng.
Ngân hàng cần có phương pháp nhận ra những dấu hiệu rủi ro tín dụng để
từ chối cho vay (trong trường hợp trước khi cho vay) hoặc để ngăn ngừa xử lý
kịp thời (trong trường hợp đã cho vay). Có thể sắp xếp các dấu hiệu của rủi ro
tín dụng theo các nhóm sau:
* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng:
- Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản
của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu
quan trọng gồm: Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối; khó khăn trong
thanh toán lương; sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư
tài khoản tiền gửi…
- Các hoạt động vay: Mức độ vay thường xuyên gia tăng; thanh toán
chậm các khoản nợ gốc và lãi; thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn;
yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
- Phương thức tài chính: Sử dụng nhiều các khoản tài trợ thương mại cho
các hoạt động phát triển dài hạn; chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt
nhất, ví dụ: thường xuyên sử dụng nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải trả
(factoring); giảm các khoản phải trả và tăng các khoản phải thu; các hệ số
thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu; có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của khách
hàng:
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, quản
trị, điều hành độc đoán hoặc ngược lại quá phân tán.
- Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: Được hoạch định
bởi HĐQT hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có kinh nghiệm; HĐQT
hoặc Giám đốc điều hành các doanh nghiệp lớn tham gia quá sâu vào vấn đề
thường nhật; Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, chủ nợ; Thuyên chuyển
nhân viên diễn ra thường xuyên; lập kế hoạch xác định mục tiêu kém, xuất
hiện các hành động nhất thời, không có khả năng đối phó với những thay đổi.
- Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người
quản lý không thuộc gia đình; cho thành viên của gia đình chưa được đào tạo,
huấn luyện đầy đủ đảm đương cương vị then chốt.
- Có tranh chấp trong quá trình quản lý.
- Có các chi phí quản lý bất hợp lý: Tập trung quá nhiều chi phí để gây ấn
tượng như thiết bị văn phòng quá hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền,
Ban Giám đốc có cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và tài
chính cá nhân.
* Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh:
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Doanh nghiệp bị ám ảnh bởi một
khách hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc; Ban Giám đốc cắt
giảm lợi nhuận nhằm có được những hợp đồng lớn.
- Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: Bị ám ảnh bởi một sản phẩm mà
không chú ý đến các yếu tố khác.
- Sự cấp bách không thích hợp như: Do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung ra
sản phẩm dịch vụ quá sớm, các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không
thực tế, tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc...
* Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật thương mại:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất; thay đổi thị hiếu; cập nhật kỹ
thuật mới; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh.
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.

- Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế.
* Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán:
- Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các
báo cáo tài chính.
- Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy: Sự gia tăng không cân
đối về tỷ lệ nợ thường xuyên; khả năng tiền mặt giảm;tăng doanh số bán
nhưng lãi giảm hoặc không có.số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh
toán của các con nợ được kéo dài; hoạt động lỗ…
- Những dấu hiệu phi tài chính khác: Những vấn đề về đạo đức, dáng vẻ
của nhà kinh doanh; sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh; kho lưu trữ
hàng hoá quá nhiều, hư hỏng và lạc hậu.
1.2.4.2. Đo lường rủi ro tín dụng .
* Một số khái niệm cơ bản: Trước hết cần phải tìm hiểu một số khái niệm
về nợ và nợ quá hạn được quy định trong Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN:
- "Nợ" bao gồm: Các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài
chính; các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá
khác; các khoản bao thanh toán; các hình thức tín dụng khác.Tổ chức tín dụng
thực hiện phân loại nợ như sau:
+ Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ trong hạn mà tổ chức
tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời
hạn; các khoản nợ được trả đầy đủ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ cấu lại
tối thiểu trong vòng một năm đối với các khoản nợ trung dài hạn và ba tháng
đối với các khoản nợ ngắn hạn và được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng trả đầy đủ gốc và lãi đúng hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày;
các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu
lại; các khoản nợ khác theo quy định: do khách hàng có một trong nhiều
khoản nợ với TCTD bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn nên các khoản nợ
khác cũng phải chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng; các khoản nợ

mà TCTD có đủ khả cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị
suy giảm và chủ động phân loại thành các nhóm nợ rủi ro cao hơn.
+ Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90
đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày
theo thời hạn đã cơ cấu lại; các khoản nợ khác theo quy định.
+ Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360
ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; các khoản nợ khác theo quy định.
+ Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên
360 ngày; các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; các khoản nợ đã cơ cấu
lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại; các
khoản nợ khác theo quy định.
- "Nợ quá hạn" là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi
đã quá hạn.
- "Nợ xấu" (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 theo quy
định trên. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín
dụng của tổ chức tín dụng.
- "Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ" là khoản nợ mà tổ chức tín dụng chấp
thuận điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ cho khách hàng do tổ chức tín
dụng đánh giá khách hàng suy giảm khả năng trả nợ gốc hoặc lãi đúng thời
hạn ghi trong hợp đồng tín dụng nhưng tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giá khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ đã cơ
cấu lại.
* Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng:
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan song ngân hàng phải quản lí rủi ro tín
dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những
nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng cụ thể hóa thành những dấu
hiệu chính phát sinh trong hoạt động tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng:
* Nợ quá hạn:

- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Nợ quá hạn là khoản nợ
mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng
tín dụng.
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ: Nợ khó đòi là khoản nợ
quá hạn đã qua một thời kì gia hạn nợ.
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ
rủi ro tín dụng khác nhau. Các quan điểm khác nhau, các tính toán khác nhau
về kì hạn nợ và nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng.
+ Thứ nhất, do kì hạn nợ không đúng: Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho
vay không quan tâm thích đáng đến chu kì kinh doanh của người vay, hoặc do
nguồn ngắn hạn là chủ yếu, họ đặt kì hạn nợ ngắn để hạn chế rủi ro. Kì hạn nợ
không phù hợp với chu kì thu nhập của người vay. Khi đến hạn người vay dĩ
nhiên sẽ không thể trả nợ được, gây nợ quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối
đe dọa tài chính đối với người vay, buộc họ phải trả thêm khoản “ phụ phí ”
để được gia hạn nợ, hoặc phải chịu lãi suất phạt.
+ Thứ hai, do đảo nợ hoặc giãn nợ: Nhiều khoản nợ người vay không có
khả năng hoàn trả có thể được đảo nợ để làm giảm nợ quá hạn so với thực tế.
Để che giấu với ngân hàng cấp trên, hoặc để không phải chịu lãi phạt, khách
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng và nhân viên ngân hàng thỏa thuận vay khoản mới để trả khoản nợ cũ.
Nhân viên ngân hàng cũng có thể thực hiện giãn nợ đối với các khoản nợ mà
chắc chắn người vay không trả được. Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá
hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ rủi ro tín dụng.
+ Thứ ba, do chính sách cho vay: Rất nhiều các khoản vay khó đòi không
thể thu hồi bằng phát mại tài sản ( doanh nghiệp nhà nước, người nghèo, tài
sản không rõ ràng…). Những khoản cho vay này hầu hết là cho vay theo chỉ
thị của chính phủ. Khi chính phủ chưa có biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn
tại trên bảng cân đối của ngân hàng, trở thành tài sản ảo.Việc xử lí các khoản
nợ này là rất phức tạp. Nhiều ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá
hạn và nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh ( khi được chính phủ đồng ý). Tuy

nhiên chúng thực sự đe dọa thu nhập của các ngân hàng nếu chính phủ không
tìm được nguồn bù đắp.
* Các chỉ tiêu khác: Bên cạnh nợ quá hạn, nhà quản lí ngân hàng còn sử
dụng các hình thức đo rủi ro tín dụng khác, gắn liền với chiến lược đa dạng
hóa tài sản, lập hồ sơ khách hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với các
khoản cho vay…
- Các khoản cho vay có vấn đề: Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là
nợ quá hạn song trong quá trình theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy
nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ
quá hạn. Khoản cho vay có vẫn đề được xây dựng dựa trên quy định của ngân
hàng.
- Điểm của khách hàng: Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực
sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng… ngân
hàng lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại A hoặc
điểm cao, rủi ro tín dụng thấp; khách hàng loại C hoặc điểm thấp, rủi ro cao.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà ngân hàng xây
dựng. Điểm của ngân hàng cho thấy rủi ro tiềm ẩn.
- Mất tính ổn định vĩ mô: Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát
cao, tình hình chính trị mất ổn định, vùng hay bị thiên tai… đều tạo nên mất
ổn định vĩ mô, tác động xấu đến người vay. Do mất ổn định vĩ mô được ngân
hàng xem là một nội dung quan trọng phản ánh rủi ro tín dụng.
- Tính kém đa dạng của tín dụng: Đa dạng hóa là biện pháp hạn chế rủi ro.
Những thay đổi trong chu kì của người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng
tập trung tài trợ cho một nhóm khách hàng, của một ngành, hoặc một vùng
hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng hóa.
1.2.4.3. Thực hiện các biện pháp hạn chế tổn thất nếu rủi ro tín dụng xảy
ra.
* Trích lập quỹ dự phòng rủi ro: là một hình thức dự trữ tài chính chuyên
dùng, thường được trích ra từ lợi nhuận sau thuế, nhằm bù đắp thiệt hại khi có

rủi ro xảy ra. Đây là công việc cần thiết nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động
của ngân hàng. Với quỹ dự phòng rủi ro được lập như một khoản quỹ khấu
hao thì khi rủi ro tín dụng xảy ra, việc loại trừ các khoản mất vốn cho vay sẽ
không gây biến động quá lớn đến kết quả hoạt động tài chính của NHTM.
* Mua bảo hiểm tín dụng: Nếu khoản vay được ngân hàng mua bảo hiểm
thì khi rủi ro tín dụng xảy ra, công ty bảo hiểm có nhiệm vụ bồi thường cho
ngân hàng theo quy định. Ngoài ra, bảo hiểm tín dụng còn phối hợp với các
ngành hữu quan để tổ chức các biện pháp phòng ngừa, hạn chế các tổn thất
xảy ra bảo đảm an toàn cho cả công ty bảo hiểm và cả ngân hàng
* Phân tán rủi ro: Phân tán rủi ro là một biện pháp quan trọng của các
NHTM để hạn chế rủi ro tín dụng theo phương châm “Không để trứng vào
một rỏ”. Cho vay đồng tài trợ là phương thức san sẻ rủi ro chủ yếu giữa các
NHTM. Khi một ngân hàng không đủ khả năng tài trợ cho khách hàng hoặc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khó xác định được mức độ rủi ro dự tính của khoản vay, ngân hàng đó sẽ kết
hợp với một hoặc nhiều ngân hàng khác để tiến hành cho vay.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh doanh bao giờ
cũng gắn liền với rủi ro. Trong các loại rủi ro, rủi ro tín dụng có tác động lớn
nhất đến hoạt động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng thường xuyên xảy ra và
khi xảy ra nó không chỉ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của ngân hàng
mà còn làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường. Vì vậy, các NHTM
cần phải thực hiện công tác quản trị rủi ro tín dụng trên cơ sở phân tích các
nguyên nhân và đưa ra các biện pháp phù hợp. Để tìm hiểu trên thực tế một
NHTM quản trị rủi ro tín dụng như thế nào, chương 2 của chuyên đề sẽ xem
xét thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại
Thương Việt Nam.

×