Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản
của ngân hàng thương mại. Đối với hầu hết các ngân hàng dư nợ tín dụng
thường chiếm một nửa tổng tài sản và co thu thập từ tín dụng chiểm khoảng
từ 1/2 đến 3/4 tổng thu nhập của ngân hàng. Và trong quá trình cấp tín dụng
cho khách hàng, các ngân hàng luôn phải đối mặt với nguy cơ xảy ra rủi ro
tín dụng. Vô số các rủi ro tín dụng khác nhau xuất phát từ nhiều yếu tố và
dẫn đến việc không chi trả được nợ khi đến hạn. Để quyết định có chấp nhận
cho vay hay không, người quản trị ngân hàng phải cố gắng ước lượng rủi ro
tín dụng. Rủi ro này có thể được dự đoán trong một quá trình bằng phương
pháp phân tích tín dụng.Chính điều đó đã nói lên tính cấp thiết của đề tài:
“Hoàn thiện quy trình phân tích tín dụng trong hoạt động của các Ngân hàng
Thương mại cổ phần Việt Nam”
Với đề tài này, chúng em mong muốn tìm hiểu, phân tích kĩ hơn về
phân tích tín dụng và hiệu quả của nó bằng những kiến thức đã học; tập cách
tích luỹ tư liệu, xử lý thông tin từ các tư liệu thu thập được;biết cách trinh
bày vấn đề một cách khoa học theo sự nhận thức và hiểu biết của mình, để
rút kinh nghiệm cho quá trình học tập và nghiên cứu tiếp theo. Đồng thời
mong muốn đưa ra những chính kiến của mình về giải pháp hoàn thiện công
tác phân tích tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong
thời gian tới.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Đào Văn Hùng-người
đã giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài này.Do điều kiện kiến thức, kinh
nghiệm cũng như thời gian có hạn cho nên đề tài này không thể tránh khỏi
những thiếu sót, chúng em rất mong được sự chỉ bảo, góp ý của thầy.
- 1 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
Đề tài: Hoàn thiện quy trình phân tích tín dụng
trong hoạt động của các Ngân hàng Thương mại
cổ phần Việt Nam
1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại cổ phần và phân tích tín
dụng trong hoạt động của các Ngân hàng Thương mại cổ phần
1.1.Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1.Khái niệm Ngân hàng thương mại
Trên quan điểm lịch sử, ngân hàng trước hết là những doanh nghiệp
kinh doanh tiền tệ được sự tín nhiệm của khách hàng, thực hiện ba nghiệp vụ
chính: tín dụng, tiền tệ và thanh toán. Các Ngân hàng thương mại huy động
vốn chủ yếu dưới dạng : Tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Sau đó họ
dùng vốn này để thực hiện cho vay; Bảo lãnh, cho thuê tài chính. Ngân hàng
thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp 1 danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán -
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh tài chính nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng nên có liên quan đến tất cả các ngành, các mặt của đời
sống kinh tế xã hội, do vậy Ngân hàng thương mại có vai trò rất to lớn đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói rằng sự hoạt động hiệu quả của
hệ thống ngân hàng gắn liền với sự hưng thịnh của nền kinh tế.
Đối với nước ta thì Tổ chức tín dụng (TCTD) đầu tiên của nước Việt
nam Dân chủ Cộng hoà là Nha tín dụng được thành lập năm 1951. Đây là
tiền thân của Ngân hàng Nhà nước Việt nam (NHNN). NHNN với hệ thống
- 2 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
Chi nhánh các tỉnh và chi điếm huyện đã từng là TCTD lớn nhất và duy nhất
trong hàng chục năm. Chức năng chính của NHNN là huy động tiền gửi của
các doanh nghiệp, các cơ quan đoàn thể các tổ chức kinh tế và dân cư để cho
vay. NHNN vừa là cơ quan quản lý về tiền tệ tín dụng vừa là tổ chức kinh
doanh không vì mục tiêu lợi nhuận.
Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì hệ thống
Ngân hàng Việt nam đã được đổi mới một cách đáng kể. Mô hình tổ chức có
sự thay đổi căn bản đó là tách biệt chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín
dụng với chức năng kinh doanh tiền tệ, đa dạng hoá các loại hình ngân hàng,
từng bước xoá bỏ độc quyền, chuyển sang cạnh tranh có sự quản lý của nhà
nước.
Hệ thống NHNN được tách ra và thành lập 4 Ngân hàng thương mại
(NHTM) lớn đó là Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt nam và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT VN).
Tháng 5/1990, hai pháp lệnh ngân hàng (pháp lệnh NHNN và pháp
lệnh ngân hàng Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính) ra đời khẳng định
hệ thống ngân hàng bao gồm 2 cấp là NHNN và các NHTM, hợp tác xã tín
dụng, công ty tài chính. . . Pháp lệnh cũng khẳng định tính đa hình thức sở
hữu, đa loại hình, đa thành phần và kinh doanh đa năng của hệ thống
NHTM. Pháp lệnh đã mở đường cho quá trình phát triển các loại hình ngân
hàng tại Việt nam bao gồm NHTM Quốc doanh, NHTM cổ phần, ngân hàng
liên doanh giữa Việt nam và nước ngoài, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
tại Việt nam.
Được xây dựng từ năm đầu chuyển đổi cơ chế, Pháp lệnh đã không
thể đáp ứng yêu cầu phát triển của hệ thống tài chính ở Việt nam trong giai
- 3 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
đoạn nửa sau của những năm 90. Trước tình hình đó, Quốc hội đã thông qua
luật về NHNN và luật các TCTD.
Theo luật các TCTD tại điều 20 quy định ngân hàng là loại hình
TCTD thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên
quan. Cũng theo Luật các TCTD thì hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền
gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán.
Theo nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12 tháng 9 năm 2000 của
chính phủ về tổ chức hoạt động của NHTM thì NHTM là ngân hàng được
thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có
liên quan vì một mục tiêu quan trọng là lợi nhuận.
Với nghị định đó thì hoạt động của các NHTM được mở rộng. Nhằm
nâng cao hiệu qủa hoạt động, các NHTM bỏ dần các cấp trung gian, tách
biệt dần các hoạt động chính sách và hoạt động thương mại, tăng tính độc
lập tương đối cho các Chi nhánh, mạnh dạn đổi mới công nghệ phù hợp với
yêu cầu quản lý kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, bước
đầu tạo lập các công ty con, triển khai các nghiệp vụ mới
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
Trong khi nhiều người tin rằng ngân hàng chỉ đóng một vai trò nhỏ
trong nền kinh tế như nhận tiền gửi và cho vay thì trên thực tế ngân hàng
hiện đã thực hiện nhiều vai trò và chức năng mới để có thể duy trì khả năng
cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Các ngân hàng ngày nay có
những chức năng cơ bản sau.
1.1.2.1.Chức năng trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu
là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và
- 4 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
tổ chức trong nền kinh tế: Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu
tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ trở
thành những người cần bổ sung vốn, và các cá nhân và tổ chức thặng dư
trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho
hàng hoá và dịch vụ do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Do đó ngân hàng là một
tổ chức trung gian chuyển lượng tiền từ nhóm thặng dư sang cho nhóm thâm
hụt.
1.1.2.2.Chức năng tạo phương tiện thanh toán
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng
nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể
chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm
hiện đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận là tiền giấy trong lưu thông và
số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn
của khách hàng tại các ngân hàng.
Khi ngân hàng cho vay số dư trên tài khoản thanh toán của khách
hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hoá, dịch vụ. Do đó,
bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện
thanh toán.
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ
sở cho vay. Toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra một khối lượng tiền
gửi (tạo phuơng tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
1.1.2.3.Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các Quốc gia. Thay mặt khách hàng ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán qua ngân hàng nhanh chóng thuận
tiện và tiết kiệm chi phí ngân hàng đưa ra nhiều hình thức thanh toán như
- 5 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
thanh toán bằng séc, thẻ, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi . . . cung cấp mạng lưới
thanh toán tiện tử và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng
còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương
(NHTW) hoặc thông qua các Trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán
hiện đại qua ngân hàng được mở rộng, nhiều hình thức thanh toán được
chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các
ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới.
Các Trung tâm thanh toán quốc tế được thành lập đã làm tăng hiệu quả của
thanh toán qua ngân hàng biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán
quan trọng và có hiệu quả phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.3.Các hoạt động chính của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trung gian tài chính quan trọng trong nền kinh tế,
đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội đồng thời cũng là nguồn cung
cấp vốn chủ yếu cho các cá nhân, doanh nghiệp và một phần đối với Nhà
nước.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch
vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một
tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Xuất phát từ lịch sử hình thành hệ thống Ngân hàng trên thế giới với
nghiệp vụ đầu tiên là mua bán ngoại tệ đến nay số lượng các dịch vụ mà
ngân hàng cung cấp đã trở nên đa dạng, phong phú, góp phần quan trọng vào
quá trình lưu thông các nguồn vốn trong nền kinh tế. Các dịch vụ ngân hàng
đang có hiện nay bao gồm:
- Mua bán ngoại tệ: Đây được xem là một trong những dịch vụ đầu
tiên được thực hiện tại các ngân hàng, ở đây ngân hàng đóng vai trò là một
- 6 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
trung gian mua, bán các loại ngoại tệ và được hưởng phần chênh lệch giữa
giá mua vào với giá bán ra cùng một khoản phí dịch vụ. Tuy nhiên, nghiệp
vụ này thường mang tính rủi ro cao, chịu tác động của nhiều nhân tố nên chỉ
những ngân hàng lớn nhất mới được phép cung cấp.
- Nhận tiền gửi: Với chức năng là một trung gian tài chính trong nền
kinh tế, các ngân hàng không ngừng tăng lượng tiền cho vay và để thoả mãn
nhu cầu đó các ngân hàng đồng thời cũng phải tìm kiếm các nguồn tiền nhàn
rỗi để thu hút, kêu gọi họ gửi vào ngân hàng. Nguồn tiền nhàn rỗi mà các
ngân hàng nhận được chủ yếu là các khoản tiền gửi tiết kiệm từ dân cư hoặc
khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế.
- Bảo quản vật có giá: Các Ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và
các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản và nhận được các
khoản phí dịch vụ đóng góp vào nguồn thu nhập của Ngân hàng.
- Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Khi các
doanh nhân gửi tiền vào Ngân hàng, họ nhận thấy Ngân hàng không chỉ bảo
quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán
qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người
gửi tiền không cần phải đến Ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi
trả cho khách (còn gọi là séc), khách hàng mang giấy đến Ngân hàng sẽ
nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn,
chính xác, nhanh chóng, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian
kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến
khích các doanh nhân gửi tiền vào Ngân hàng để nhờ Ngân hàng thanh toán
hộ. Như vậy, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài
khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho
việc mua hàng hoá và dịch vụ.
- 7 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
- Quản lý ngân quỹ: Các Ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần
lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, Ngân hàng thường có mối liên hệ
chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ
và khả năng trong việc thu ngân, nhiều Ngân hàng đã cung cấp cho khách
dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi
của công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời
vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng
cần tiền mặt để thanh toán.
- Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: Do nhu cầu chi tiêu lớn và
thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn
tiếp cận với các khoản cho vay của Ngân hàng. Các Ngân hàng được cấp
giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ
nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các Ngân
hàng mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền
gửi mà Ngân hàng huy động được, hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu
đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
- Bảo lãnh: Các Ngân hàng với uy tín và khả năng thanh toán của
mình đã giành được lòng tin của công chúng, vì vậy khi khách hàng có nhu
cầu và thoả mãn được các điều kiện Ngân hàng yêu cầu thì sẽ được Ngân
hàng thực hiện bảo lãnh cho giao dịch như bảo lãnh phát hành chứng khoán,
bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo
lãnh vay vốn nước ngoài…
- Cho thuê thiết bị trung, dài hạn: Trong dịch vụ này, các Ngân hàng
chỉ là trung gian trong việc thoả mãn một nhu cầu sử dụng máy móc, thiết bị
của các doanh nghiệp với các nhà sản xuất các loại thiết bị đó. Ngân hàng sẽ
dùng vốn của mình mua các thiết bị và cho thuê lại các doanh nghiệp thông
- 8 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
qua hợp đồng thuê trung và dài hạn. Để thực hiện hợp đồng này người thuê
phải đảm bảo yêu cầu phải trả tới hơn 2/3 giá trị tài sản cho thuê.
- Cung cấp dịch vụ uỷ thác đầu tư và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh
vực tài chính nên các Ngân hàng thường có rất nhiều chuyên gia về quản lý
tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và các doanh nghiệp đã nhờ Ngân hàng
quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển
sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu
tư… Nhiều Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về
thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
- Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Nhiều Ngân hàng
đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả
mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến cho các Ngân
hàng bắt đầu đưa ra các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách
hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không
phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong điều kiện cho phép các
Ngân hàng sẽ thành lập ra Công ty chứng khoán hoặc Công ty môi giới
chứng khoán có thể hoạt động độc lập với hoạt động ngân hàng nhằm ngăn
ngừa rủi ro.
- Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: Cùng với sự phát triển của ngành
bảo hiểm, các Ngân hàng đã nắm bắt cơ hội kinh doanh thông qua việc chấp
nhận làm đại lý bán bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm lớn, nhờ đó làm tăng
thu nhập cho Ngân hàng bằng các khoản hoa hồng đại lý và phí cung cấp
dịch vụ.
- Cung cấp các dịch vụ đại lý: Nhiều Ngân hàng trong quá trình hoạt
động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Trong
khi đó, các Ngân hàng lớn sẵn sàng cung cấp dịch vụ Ngân hàng đại lý cho
- 9 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
các Ngân hàng có nhu cầu như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ
tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong hoạt động đồng tài trợ.
Tất cả các dịch vụ trên đều mang lại cho Ngân hàng các khoản thu
nhập nhưng cho đến nay nguồn thu nhập chủ yếu của các Ngân hàng vẫn là
từ các khoản cho vay. Vì vậy, cho vay được xem là một trong những nghiệp
vụ chủ yếu và quan trọng nhất của các Ngân hàng thương mại, nó vừa giúp
cho Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh tín dụng, tăng thêm lợi
nhuận, vừa giúp cho các đơn vị vay có đủ vốn để duy trì quá trình sản xuất
kinh doanh.
Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng thương mại không chỉ là quy
luật tất yếu mà còn là yêu cầu khách quan của nền kinh tế bởi nó góp phần
quan trọng trong tiến trình đi lên của quốc gia. Ngành công nghiệp Ngân
hàng cũng đang ra sức tận dụng sự phát triển của ngành công nghệ thông tin
để cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tiện ích, chính xác, an toàn và
nhanh chóng hơn nữa. Cho đến nay các Ngân hàng thương mại vẫn là nơi
cung cấp nguồn vốn đầu tư chủ yếu cho nền kinh tế, vì vậy việc phát triển
hoạt động cho vay của Ngân hàng là một nhân tố quan trọng không chỉ đối
với các doanh nghiệp mà còn mang lại nhiều lợi ích cho bản thân Ngân
hàng.
1.1.4.Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.4.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên
khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc các trung gian
khác) - ví dụ như tín dụng ngân hàng - thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng
cho vay. Việc xác định như thế này là rất cần thiết để định lượng tín dụng
trong các hoạt động kinh tế.
- 10 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
Theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, điều 49 ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá
nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá
khác, bảo lãnh, cho thuế tài chính và các hình thức khác theo qui định của
Ngân hàng Nhà nước
1.4.1.2.Các nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định
nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được
cụ thể hoá trong các qui định của ngân hàng Nhà nước và các NHTM.
• Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian
xác định: Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc
từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay
mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như
đã cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng
phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng
tồn tại và phát triển.
• Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được
thoả thuận với ngân hàng, không trái với các qui định của pháp luật
và các qui định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp qui định
phạm vi hoạt động cho các ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng
có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ
được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ
cho các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ đó là phù hợp với
cương lĩnh của ngân hàng.
• Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả.
Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ
nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng
- 11 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân
hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải găn liền với việc hình
thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an
toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
1.2.Phân tích tín dụng trong hoạt động tín dụng của NHTMCP
1.2.1. Khái niệm, mục tiêu và nội dung của phân tích tín dụng
1.2.1.1.Khái niệm phân tích tín dụng
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho
NHTM… Rủi ro này, có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất,
làm giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể
chiếm phần lớn của vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản. Do vậy các
ngân hàng phải cân nhắc kĩ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi
quyết định tài trợ. Đó chính là quá trình phân tích tín dụng trước và trong khi
tài trợ.
Phân tích tín dụng là công việc nghiêm túc, không thể làm chiếu lệ.
Trong môi trường gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng, khách hàng, đòi
hỏi ngân hàng phải thực hiện qui trình phân tích nhanh gọn và tiếp kiệm chi
phí; đây cũng là hoạt động liên quan đến trách nhiệm của nhiều phòng ban
và cán bộ ngân hàng. Do vậy quy trình phân tích tín dụng phải đáp ứng các
yêu cầu sau:
• Được xây và thống nhất trong toàn ngân hàng, tránh tuỳ tiện, duy ý
chí. Quy trình này phải được Ban lãnh đạo ngân hàng quyết định
và phổ biến đến các phòng có liên quan cũng như các cán bộ tín
dụng;
• Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung
chung. Mỗi phòng chức năng trong ngân hàng cũng như cán bộ
ngân hàng cần biết mình phải làm gì, đến mức nào;
- 12 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
• Toàn bộ qui trình phải nhằm thực hiện các nguyên tắc tín dụng
ngân hàng.
1.2.1.2.Mục đích của phân tích tín dụng
Mục đích chính của phân tích tín dụng là xác định khả năng và ý
muốn của người vay trong việc hoàn trả tiền vay, phù hợp với các điều
khoản của hợp đồng tín dụng. Một ngân hàng phải xác định mức độ rủi ro có
thể chấp nhận trong mỗi trường hợp và mức cho vay có thể chấp nhận được,
với mức rủi ro có thể có. Hơn nữa, chỉ có tiến hành cho vay một khi đã xác
định được các điều kiện và thời hạn để qua đó, người cho vay và người vay
đều có thể chấp thuận. Một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của
người vay rất khó đánh giá, nhưng chúng phải được xem xét sát với thực tế,
khi chuẩn bị các dự án tài chính, bao gồm việc xem xét hồ sơ kinh tế của
người đi vay và thực hiện các dự đoán kinh tế, đặt người vay và môi trường
vào tất cả những biến cố có thẻ xảy ra ảnh hưởng trong một thời điểm ở
tương lai để quyết định xem món nợ có có được hoàn trả theo trình tự bình
thường hay không.
Phân tích tín dụng về căn bản giống nhau trong tất cả các ngân hàng,
nhưng ở một số ngân hàng, người ta nhấn mạnh đến một số chức năng này
còn các ngân hàng khác thì lại nhấn mạnh đến một số chức năng khác. Nói
chung, chúng bao gồm việc thu thập thông tin có ý nghĩa đối với việc đánh
giá tín dụng, việc chuẩn bị và phân tích thông tin thu thập được, việc sưu
tầm và lưu thông tin để sử dụng trong tương lai.
1.2.1.3. Nguồn thông tin để phân tích tín dụng
Nhiều nguồn thông tin về tín dụng làm cơ sở để phân tích gồm những
cuộc phỏng vấn với người xin vay, sổ sách của ngân hàng, các nguồn tin
điều tra bên ngoài địa điểm kinh doanh của người xin vay và báo cáo tài
chính của họ.
- 13 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
* Phỏng vấn người xin vay
Qua phỏng vấn người xin vay, nhân viên tín dụng sẽ biết được lý do
và biết các yêu cầu xin vay có đáp ứng các đòi hỏi khác nhau, do chính sách
cho vay của ngân hàng ấn định hay không. Thậm chí nếu như yêu cầu cho
vay không phù hợp với chính sách của ngân hàng thuộc trong một phạm vi
quy định nào đó do luật pháp hoặc cơ quan điều hành ngân hàng án định,
nhân viên tín dụng có thể cho người xin vay lời khuyên, liên quan đến nguồn
vốn khác nhau có thể khai thác. Qua phỏng vấn, nhân viên tín dụng có một ý
niệm nào đó về tính thật thà và khả năng của người vay và có thể có ý kiến
xem có cần thiết phải có vật đảm bảo hay không. Thông tin về lịch sử và sự
phát triển của các ngành kinh doanh, kiến thức của đội ngũ nhân sự chủ
chốt, bản chất của các sản phẩm và các dịch vụ, các nguồn nguyên liệu, lợi
thế cạnh tranh và các kế hoạch cho tương lai có thể có được sau phỏng vấn.
Trong phỏng vấn. Viên chức cho vay cũng xẽ khuyên người xin vay về việc
phảI cần bổ xung các thông tin tài chính để đánh giá khoản vay theo đề nghị.
* Sổ sách của ngân hàng
Một ngân hàng có thể lưu trữ hồ sơ tập trung của cả người ký thác và
người vay, từ đó có thể nhận được thông tin về tín dụng, thậm chí nếu người
xin vay chưa từng là khách hàng của ngân hàng. Ví dụ, sổ sách có thể cho
biết việc chi trả các khoản tín dụng của doanh nghiệp trước đây, số dư tài
khoản tiết kiệm và tài khoản séc, và cũng có thể biết được liệu người xin vay
có thói quen rút quá số dư tài khoản của họ không. Hồ sơ khách hàng cung
cấp gồm có: Hồ sơ pháp lý trình bày những thông tin về tình trạng pháp lý
của doanh nghiệp như quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, điều lệ
doanh nghiệp; Hồ sơ về tình hình tài chính của khách hàng gồm các báo cáo
tài chính trong một số năm (thông thường là bảng cân đối kế toán, báo cáo
kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài
- 14 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
chính) và các bảng kế hoạch về tài chính trong tương lai; Hồ sơ về kế hoạch,
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai; Và cuối cùng là dự
án hoặc phương án vay đi kèm với kế hoạch chi tiết sử dụng tiền vay và kế
hoạch trả nợ.
* Thông tin lưu trữ tại ngân hàng
Là các thông tin trên nhiều phương diện mà ngân hàng theo dõi và lưu
trữ về những người đi vay khác nhau trong các lĩnh vực kinh doanh khác
nhau. Nếu khách hàng đang có nhu cầu vay vốn của ngân hàng đã từng có
quan hệ với ngân hàng hay có quan hệ làm ăn, quan hệ tín dụng thương mại
với một trong những khách hàng của ngân hàng hoặc kinh doanh trong lĩnh
vực mà ngân hàng thường xuyên tài trợ thì ngân hàng có thể sử dụng những
thông tin lưu trữ của mình để bổ sung cho công tác phân tích tín dụng. Đây
cũng có thể được coi là nguồn thông tin đáng tin cậy nếu như hoạt động xử
lý và tổ chức lưu trữ thông tin tiến hành trước đó được diễn ra chính xác, an
toàn.
* Các nguồn thông tin khác
Ngoài các thông tin kể trên, ngân hàng còn có thể sử dụng một số
nguồn thông tin khác. Đó là thông tin từ các ngân hàng khác mà khách hàng
có quan hệ thanh toán, tiền gửi, tín dụng. Thông tin từ bạn hàng và đối thủ
cạnh tranh của khách hàng; Thông tin từ các tổ chức thông tin chuyên môn
như Trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà nước (CIC); Thông tin
từ báo chí, ấn phẩm của cơ quan chính phủ như niên giám thống kê, báo, tạp
chí chuyên ngành thuộc lĩnh vực kinh doanh của khách hàng.Thông tin từ
các cơ quan quản lý Nhà nước có quan hệ với khách hàng như Bộ chủ quản,
cơ quan thuế, thanh tra, quản lý thị trường, kiểm toán, hải quan...và một số
thông tin khác tuỳ thuộc vào đặc thù của người vay…
- 15 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
Như vậy, nhận thấy rằng có rất nhiều nguồn thông tin mang lại những
dữ liệu khác nhau cho hoạt động phân tích tín dụng. Trong số những thông
tin đó, có cả những thông tin đáng tin cậy và những thông tin không đáng tin
cậy, có những thông tin đưa đến các kết luận mâu thuẫn nhau, vì vậy, hoạt
động phân tích tín dụng đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ chuyên môn
vững vàng, hiểu biết sâu rộng về nhiều vấn đề từ đó biết sàng lọc thông tin,
lựa chọn những thông tin tốt nhất, phản ánh chính xác tình trạng hiện tại của
doanh nghiệp.
Kết quả của quá trình thu thập thông tin từ các nguồn trên, cán bộ tín
dụng có được lượng thông tin phong phú và đa dạng. Một số thông tin chủ
yếu:
* Báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính là những báo cáo được lập dựa trên phương pháp kế
toán tổng hợp số liệu từ các sổ sách kế toán theo các chỉ tiêu tài chính phát
sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Các báo cáo này phản ánh
một cách hệ thống tình hình tài sản của đơn vị tại những thời điểm, kết quả
hoạt động kinh doanh và tính hình sử dụng vốn trong thời kỳ nhất định.
Đồng thời, báo cáo tài chính phải được giải trình giúp cho các đối tượng tiếp
nhận và sử dụng thông tin tài chính nhận biết được rõ ràng thực trạng tài
chính của đơn vị từ đó ra những quyết định phù hợp. Báo cáo tài chính được
coi là nguồn thông tin quan trọng trong việc đánh giá các chỉ số tài chính,
ảnh hưởng lớn đến quyết định tín dụng của NHTM nên nó phải chính xác,
hoàn chỉnh và đặc biệt là đáng tin cậy. Các báo cáo tài chính được sử dụng
chủ yếu là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu
chuyển tiền tệ.
* Bảng cân đối kế toán
- 16 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài
chính của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó (thường là cuối
kỳ, quý hoặc năm). Thông thường, bảng cân đối kế toán được trình bày dưới
dạng bảng cân đối số dư của các tài khoản kế toán, một bên phản ánh tài sản,
một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp. Bên tài sản phản ánh quy
mô và kết cấu các loại tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền
quản lí và sử dụng của đơn vị. Các khoản mục tài sản được sắp xếp theo khả
năng chuyển hoá thành tiền giảm dần. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để
hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo, thể
hiện cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài chính của
đơn vị. Các khoản mục bên nguồn vốn được sắp xếp thành nợ và vốn chủ sở
hữu hoặc theo thời hạn thành nguồn ngắn hạn và nguồn dài hạn. Bảng cân
đối kế toán thường có các khoản mục như sau:
Bảng 1.2 Bảng cân đối kế toán ngày… tháng… năm…
Đơn vị tính:….
Tài sản Nguồn vốn
Khoản mục N-1 N Khoản mục N-1 N
I. Tài sản lưu động,
đầu tư tài chính ngắn
hạn
I. Nợ
1. Tiền và tương đương
tiền
1. Nợ ngắn hạn
2. Phải thu 2. Nợ dài hạn
3. Dự trữ 3. Nợ khác
4.Tài sản lưu động khác
II. Tài sản cố định, đầu
tư tài chính dài hạn
II. Vốn chủ sở hữu
1. Tài sản cố định hữu
hình
1. Vốn ban đầu
2. Tài sản cố định vô
hình
2. Quỹ
- 17 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
3. Tài sản tài chính 3. Lợi nhuận chưa phân
phối
Tổng tài sản Tổng nguồn vốn
Trong đó, N là thời điểm lập bảng cân đối kế toán của kỳ nghiên cứu,
N-1 là thời điểm lập bảng cân đối kế toán liền trước đó. Trên bảng cân đối
kế toán, tổng tài sản bao giờ cũng phải bằng tổng nguồn vốn. Ngoài các
khoản mục trong nội bảng như trên còn có một số khoản mục ngoại bảng
như tài sản thuê ngoài, vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận bán hộ…
Bảng cân đối kế toán được sử dụng để tính các chỉ số tài chính sau:
- Chỉ tiêu thanh khoản: Khả năng thanh toán ngắn; Khả năng thanh
toán nhanh.
- Chỉ tiêu “cân nợ”: Nợ phải trả/ Tổng tài sản; Nợ phải trả/ Nguồn vốn
CSH; Nợ phải trả/ Tổng dư nợ Ngân hàng.
* Báo cáo kết quả kinh doanh
Bản báo cáo này phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tình
hình tài chính của trong doanh nghiệp trong một thời gian nhất định (thường
là 1 kỳ kế toán). Báo cáo kết quả kinh doanh thường gồm các khoản mục
sau:
Bảng 1.3 Báo cáo kết quả kinh doanh từ …đến…
Đơn vị tính: ….
ST
T
Chỉ tiêu
Số hiệu TK
Mã số Số tiền
1. Doanh thu bán hàng 511 01
2. Các khoản giảm doanh thu 02
3. Doanh thu thuần 10 = 01 – 02
4. Giá vốn hàng bán 632 11
5. Lợi nhuận gộp 20 = 10 – 11
6. Doanh thu hoạt động tài chính 515 21
7. Chi phí hoạt động tài chính 635 22
8. Chi phí bán hàng 641 24
9. Chi phí quản lí doanh nghiệp 642 25
- 18 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
10. Lợi nhuận thuần từ hoạt động
sản xuất kinh doanh và tài
chính
30
= 20 –
(21+22) –
(24+25)
11. Thu nhập khác 711 31
12. Chi phí khác 811 32
13. Lợi nhuận thuần khác 40 = 31 – 32
14. Tổng thu nhập trước thuế 50 = 30 + 40
15. Thuế thu nhập doanh nghiệp 51
16. Tổng thu nhập sau thuế 60 = 50 – 51
Dựa vào báo cáo, cán bộ tín dụng có thể đánh giá tình hình hoạt động
của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu: Vòng quay hàng tồn kho; Kỳ thu
tiền bình quân; Doanh thu thuần/ Tổng tài sản. Xem xét về các chỉ tiêu thu
nhập: Tổng thu nhập trước thuế/ Doanh thu thuần; Tổng thu nhập trước thuế/
Tổng tài sản; Tổng thu nhập trước thuế/ Vốn chủ sở hữu.
Tuy nhiên, khi phân tích báo cáo kết quả kinh doanh cán bộ tín dụng
phải lưu ý rằng một phần các số liệu phản ánh trên đó là các giá trị kế toán
chứ chưa phải giá trị bằng tiền. Cụ thể, doanh thu được hiểu là số tiền thu
được từ việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ mà khách hàng thanh toán hay chấp
nhận thanh toán cho đơn vị (khác với thu). Còn chi phí được hiểu là số tiền
doanh nghiệp thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho đơn vị khác để phục
vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh (khác với chi). Các khoản này được
ghi nhận ngày tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ kinh tế như doanh nghiệp
tiêu thụ sản phẩm hay mua nguyên liệu vật liệu mặc dầu đơn vị chưa thu tiền
hàng và cũng chưa trả tiền cho nhà cung cấp. Mà trong điều kiện hiện nay,
việc mua bán chịu hay tín dụng thương mại diễn ra rất phổ biến trong các
doanh nghiệp. Điều đó dẫn đến việc có những doanh nghiệp có lợi nhuận kế
toán nhưng vẫn bị phá sản đơn giản vì đơn vị đó đã không có lợi nhuận bằng
tiền, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Vì vậy, cán bộ tín dụng
phải rất lưu ý, phân tích báo cáo kết quả kinh doanh kết hợp với những báo
cáo khác, đặc biệt là báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
- 19 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
* Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh khả năng thanh toán của doanh
nghiệp trong một thời gian nhất định, thường lập cho từng tháng. Trên báo
cáo này thể hiện các luồng tiền vào, ra doanh nghiệp, qua đó thấy được tình
hình tài trợ, đầu tư bằng tiền trong kỳ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể
được lập như sau:
Bảng 1.4 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ…. đến…
Đơn vị tính:…..
Khoản mục Mã số Kỳ trước Kỳnày
I. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh
doanh
1. Các khoản thu
2. Các khoản chi
Lưu chuyển thuần từ hoạt động kinh doanh 20
II. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư
1. Các khoản thu
2. Các khoản chi
Lưu chuyển thuần từ hoạt động đầu tư 30
III. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài
chính
1. Các khoản thu
2. Các khoản chi
Lưu chuyển thuần từ hoạt động tài chính 40
Lưu chuyển thuần trong kỳ (20+30+40) 50
Tiền và tương đương tiền đầu kỳ 60
ảnh hưởng của tỷ giá 61
Tiền và tương đương tiền cuối kỳ (50+60+61) 70
Bằng cách so sánh báo cáo lưu chuyển tiền tệ với báo cáo kết quả kinh
doanh, cán bộ tín dụng có thể thấy được tình hình tài chính thực sự của
doanh nghiệp, tính toán được phần chênh lệch giữa doanh thu và thực thu,
chi phí và thực chi, từ đó đánh giá được khả năng chiếm dụng vốn của doanh
nghiệp và phần vốn doanh nghiệp bị đơn vị khác chiếm dụng. Cùng với đó
- 20 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
là chính sách tín dụng mà doanh nghiệp đang áp dụng cho các bạn hàng
cũng như chính sách mà doanh nghiệp được hưởng từ các nhà cung cấp, nó
nói lên phần nào uy tín, mức độ ưu đãi của các đơn vị khác dành cho doanh
nghiệp đang nghiên cứu. Ngoài ra, với hoạt động nghiên cứu các luồng tiền
vào, ra doanh nghiệp, ngân hàng có thể xác định được khi nào doanh nghiệp
có thặng dư ngân quỹ để trả nợ và khi nào có bội chi cần bù đắp. Cùng nghĩa
với việc ngân hàng xác định nhu cầu tài chính và khả năng trả nợ của doanh
nghiệp trong một thời gian nhất định từ đó có những quyết định tín dụng
thích hợp theo hướng duy trì quan hệ lâu dài giữa doanh nghiệp và ngân
hàng.
* Những thông tin khác
Tuy nhiên các báo cáo tài chính chỉ cung cấp những thông tin về tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Để đánh giá khả năng “tín dụng” của khách
hàng thì bên cạnh những thông tin tài chính này, cán bộ tín dụng còn phải
thu thập những thông tin phi tài chính như năng lực và kinh nghiệm của ban
lãnh đạo, vị trí trên thị trường, quan hệ với khách hàng, với ngân hàng…
Những thông tin này không sẵn có, lại khó định lượng nên đòi hỏi cán bộ tín
dụng phải có khả năng thu thập, phân tích và tổng hợp tốt. Những tài liệu
cần thiết mà cán bộ tín dụng cần thu thập:
- Tìm hiểu chung về khách hàng
+ Lịch sử công ty.
+ Những thay đổi về góp vốn.
+ Những thay đổi về cơ chế quản lý.
+ Những thay đổi về công nghệ hoặc thiết bị.
+ Những thay đổi trong sản phẩm.
- 21 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
+ Lịch sử về các quá trình liên kết, hợp tác, giải thể.
+ Khía cạnh chính trị và xã hội đằng sau các hoạt động kinh doanh
này.
+ Điều kiện địa lý.
Những thông tin này được dùng để đánh giá chung về khả năng hiện
tại cũng như tính cạnh tranh của công ty trong tương lai.
- Tìm hiểu về khả năng quản trị điều hành của ban lãnh đạo
+ Danh sách ban lãnh đạo công ty.
+ Trình độ chuyên môn của ban lãnh đạo công ty.
+ Khả năng, kinh nghiệm, cách thức quản lý, đạo đức của người lãnh
đạo cao nhất và ban điều hành. Các kết quả đạt được thể hiện qua: Giá trị
doanh thu gia tăng; Mức độ giảm/ kiềm chế mức tăng chi phí; Mức gia tăng
lợi nhuận; Khả năng quản lý chặt chẽ các khoản nợ của khách hàng;…
- Tìm hiểu về tình hình và uy tín giao dịch với ngân hàng
Đối với khách hàng truyền thống, ngân hàng đã có sẵn những thông
tin về tình hình giao dịch với ngân hàng của doanh nghiệp thông qua các hồ
sơ lưu trữ của cán bộ tín dụng và nhân viên kế toán giao dịch: khách hàng
luôn trả nợ đúng hạn hay phải gia hạn nợ, có nợ quá hạn trong quá khứ
không, đã mất khả năng thanh toán với ngân hàng lần nào chưa, số dư tiền
gửi trung bình tháng tại ngân hàng, số lượng các ngân hàng khác mà doanh
nghiệp đang giao dịch,…Tuy nhiên đối với khách hàng mới, đặt quan hệ tín
dụng lần đầu với ngân hàng thì các thông tin này thu thập phức tạp hơn.
Nguồn thông tin chủ yếu được lấy từ ngân hàng đã có quan hệ với doanh
nghiệp từ trước đó, hoặc từ CIC.
- 22 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
Như vậy qua việc nghiên cứu, phân tích kĩ lưỡng các báo cáo tài chính
kết hợp với những thông tin tham khảo khác và quan sát thực tế của bản
thân, cán bộ tín dụng có thể loại trừ các thông tin kém trung thực để đưa ra
những đánh giá xác đáng về tình hình cơ bản của doanh nghiệp, hỗ trợ đắc
lực cho việc phân tích tín dụng và ra quyết định tín dụng của NHTM.
1.2.3. Các yếu tố xem xét khi phân tích tín dụng
Nhiều yếu tố được các nhân viên tín dụng xem xét khi phân tích yêu
cầu vay tiền. Những yếu tố về khả năng sẵn lòng hoàn trả nợ vay, phù hợp
với các điều khoản của hợp đồng tín dụng là những yếu tố quan trọng, cần
được nhân viên tín dụng xác định. Chúng ta sẽ phân loại những yếu tố chủ
yếu trong phân tích tín dụng như năng lực, uy tín. Khả năng để tạo ra lợi
nhuận, quyền sở hữu tài sản và các điều kiện kinh tế
* Năng lực vay nợ
Các ngân hàng không chỉ quan tâm đến khả năng hoàn trả của người
vay mà cũng còn quan tâm đến năng lực pháp lý của họ khi đi vay. Các ngân
hàng ít khi cho người vị thành niên vay bởi vì họ có thể phủ nhận sau này,
trừ khi tiền vay được ding cho các mục đích cần thiết, và cha mẹ người giám
hộ hoặc người khác đủ uổi trưởng thành được yêu cầu ký tên vào đơn xin
vay
Khi cho một công ty vay, nên xem xét điều lệ và luật địa phương để
khảng định rằng ai có them quyền thay mặt cho công ty vay. Trong nhiều
trường hợp, ngân hàng đòi một bản nghị quyết tập thể, được các thành viên
hội đồng quản trị ký ủy quyền vay vốn và chỉ định người có thêm quyền để
thương lượng vay hoặc thực hiện các phương tiện đi vay.
Đôi khi các ngân hàng nhận thấy không nên cho vay, trừ khi các chủ
nợ đồng ý ưu tiên quyền đòi nợ của ngân hàng. Điều này thường xảy ra đối
- 23 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
với các công ty nhỏ, khi đó ngân hàng trở thành một chủ nợ và được bảo
đảm có quyền đòi nợ ưu tiên trên các tài sản của hãng kinh doanh.
* Uy tín
Khái niệm về uy tín, có liên quan đến các giao dịch tín dụng, không
chỉ có ý nghĩa là sự sẵn lòng trả nợ mà còn phản ánh ý muốn kiên quyết
nhằm thực hiện tất cả các giao ước trên các điều khoản của hợp đồng. Uy tín
quan trọng nhất của tín dụng là thật thà và liêm chính của một con người và
cũng quan trọng khi thực hiện việc cho vay đối với các hãng kinh doanh
hoặc cá nhân. Hồ sơ quá khứ của một người xin vay trong việc thực hiện các
hợp đồng của họ thường có giá trị khi đánh giá uy tín về tín dụng. Tuy nhiên
đôi khi việc đánh giá một người chủ yếu là phán đoán chứ không thể hiện
trên cơ sở các thông tin thực tế đầy đủ.
* Khả năng tạo ra lợi tức
Nếu khoản vay được trả từ lợi nhuận thì điều quan trọng là phải đánh
giá được khả năng của người vay trong kinh doanh nhằm kiếm đủ số lời để
trả nợ. Một số khoản vay được thực hiện, với hy vọng việc hoàn trả từ việc
bán các tài sản, từ các khoản vay khác hoặc từ việc bán các cổ phần. Tuy
nhiên, nguồn chi trả chính đối với hầu hết các khoản vay là khả năng kiếm
lợi của người vay.
Đối với một hãng kinh doanh, khả năng tạo ra lợi tức tuỳ thuộc vào
tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến giá thành, sản lượng, chi phí. Những yếu tố
này bao gồm địa điểm của hãng, chất lượng hàng hoá, tính hữu hiệu của
quảng cáo, chất lượng cạnh tranh, phẩm chất của lực lượng lao động, khả
năng khai thác, giá thành của nguyên liệu và chất lượng quản lý.
* Quyền sở hữu các tài sản
Quyền sở hữu các tài sản tương tự như vốn và vật thế chấp là một
trong các tiêu chuẩn tín dụng. Các nhà sản xuất phải có máy móc và trang
- 24 -
Ngiên cứu Khoa học Phân tích tín dụng
________________________________________________________________________
thiết bị hiện đại nếu hộ muốn trở thành những nhà sản xuất có sức cạnh
tranh. Giá trị thực của một hãng (vốn tự có) là một tiêu chuẩn đo lường sức
mạnh tài chính của họ, và thường là một trong những yếu tố quyết định khối
lượng tín dụng mà một ngân hàng sẵn lòng thực hiện cho một doanh nghiệp
vay. Khối lượng và chất lượng các tài sản của một hãng khinh doanh nói lên
sự thận trọng và tính tháo vát của nhà quản lý. Một số hoặc tất cả các tài sản
có thể đảm bao cho các khoản vay và như vạy, khẳng định rằng khoản cho
vay sẽ được hoàn trả nếu khả năng thu lợi của người cho vay ko thể thu hồi.
Tuy nhiên ta nên nhấn mạnh rằng, trong khi vật đảm bảo giảm bớt được rủi
ro, nhưng các ngân hàn vẫn mong muốn vốn vay sẽ được hoàn trả từ lợi
nhuận. Các khoản cho vay tiêu dùng tường được bảo đảm bởi cách tín tài
sản hính thành từ vốn vay. Nếu giá trị của các tài sản thế chấp không thấp
hơn số nợ phải trả, người vay vẫn có động cơ tiếp tục trả nợ.
* Các điều kiện kinh tế
Các điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của nợ vay
nhưng chúng thường vượt quá sự kiểm soát của cả người vay lẫn người cho
vay. Các điều kiện kinh tế hình thành môi trường mà trong đó các tổ chức và
cá nhân kinh doanh đang hoạt động. Kỳ hạn của các khoản nợ càng dài thì
việc dự báo kinh tế càng trở nên quan trọng do có nhiều khả năng về một sự
suy thoái kinh tế, trước khi món nợ đã được trả hết. Nền kinh tế lệ thuộc vào
những biến động ngắn hạn và dài hạn khác nhau về cường độ và trường độ.
Những biến động này không bao giờ giống nhau, và có thể ảnh hưởng tới
các ngành khai thác, sản xuất, dịch vụ khác nhau, với những mức độ khác
nhau.
Để cho các nhà kinh doanh được vay tín dụng, ngân hàng quan tâm
đến hoạt động kinh tế mà ngành kinh doanh ấy thực hiện và tầm quan trọng
của nó trong cơ cấu kinh tế. Kiến thức về mọi sự biến đổi đang xảy ra trong
- 25 -