RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Rủi ro trong hoạt động của các NHTM:
1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Định nghĩa truyền thống: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là những biến
cố không mong đợi xảy ra, gây mất mát, thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân
hàng trong quá trình hoạt động.
Định nghĩa hiện đại: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là khả năng những
sự kiện chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể là các NHTM không
thể đạt được những mục tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động, cũng như chi phí
cơ hội của việc làm mất đi những cơ hội thị trường.
2. Đặc điểm của rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
2.1. Rủi ro có tính chất đa dạng và phức tạp:
Đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng và phức tạp của các nguyên nhân dẫn
đến rủi ro, cũng như các hậu quả do rủi ro gây ra. Nhận thức và vận dụng đặc
điểm này, khi thực hiện phòng ngừa và hạn chế rủi ro cần áp dụng đồng bộ nhiều
biện pháp, không chủ quan với bất cứ một dấu hiệu rủi ro nào. Bên cạnh đó,
trong quá trình xử lý hậu quả rủi ro cần xuất phát từ nguyên nhân, bản chất và
hậu quả của rủi ro để đưa ra biện pháp phù hợp.
2.2. Rủi ro có tính tất yếu:
Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, hoạt động kinh doanh ngân
hàng thực chất là quản lý rủi ro ở mức độ phù hợp để đạt được mức lợi nhuận
tương ứng. Trong từng nghiệp vụ ngân hàng có rất nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan dẫn đến rủi ro. Việc tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đối với từng hoạt
động ngân hàng là điều mang tính tất yếu.
3. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Do đặc thù ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và cung ứng các
dịch vụ ngân hàng theo Luật các TCTD nên tính chất hoạt động và rủi ro có
những khác biệt so với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác. Có
1
thể nói, hoạt động ngân hàng liên quan đến việc chấp nhận rủi ro chứ không phải
né tránh rủi ro. Các NHTM cần đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối
quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng
đáng với mức rủi ro chấp nhận. Các NHTM sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà
ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được, đồng thời nằm trong phạm vi,
khả năng các nguồn lực tài chính và năng lực tín dụng của mình.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM không chỉ bao gồm nghiệp vụ huy
động vốn và cấp tín dụng mà còn rất nhiều lĩnh vực hoạt động khác như bảo
lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ...
Chính vì vậy nên rủi ro trong hoạt động của các NHTM cũng rất đa dạng:
- Rủi ro tín dụng: là rủi ro về sự tổn thất tài chính, phát sinh từ việc
khách hàng đi vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ trả
nợ đúng hạn theo cam kết hoặc việc khách hàng mất khả năng thanh toán. Điều
này có nghĩa là các khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi vay có thể bị
trì hoãn, thậm chí là không được hoàn trả, và hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự luân chuyển tiền tệ và sự bền vững của tính chất trung gian dễ bị
tổn thương trong hoạt động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở
hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng
khác như tài trợ thương mại, thấu chi, bao thanh toán…
- Rủi ro lãi suất: là rủi ro làm giảm lợi nhuận ròng khi lãi suất biến động
theo chiều hướng bất lợi. Rủi ro lãi suất xảy ra khi có sự chênh lệch giữa kỳ hạn
bình quân của các tài sản và các khoản nợ của ngân hàng trong điều kiện lãi suất
thị trường thay đổi ngoài dự kiến của ngân hàng dẫn đến khả năng giảm thu nhập
của ngân hàng so với dự tính.
- Rủi ro thanh khoản: là rủi ro phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các
NHTM là huy động ngắn hạn và cho vay dài hạn, hay nói cách khác là rủi ro khi
các NHTM không đáp ứng được cho các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán
do tài sản của ngân hàng không có khả năng thanh khoản hay không thể huy
động vốn. Trường hợp này thường xảy ra nếu như các khoản huy động về mặt
kỹ thuật sẽ phải hoàn trả theo yêu cầu của người gửi tiền. Đặc biệt, như chúng ta
đã thấy trong bất cứ một cuộc khủng hoảng nào thì người gửi tiền sẽ rút tiền của
mình ra nhanh hơn việc người đi vay sẵn sàng trả nợ.
- Rủi ro ngoại hối: là rủi ro phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn của
các khoản ngoại hối mà các NHTM đang nắm giữ, và vì thế làm cho các NHTM
có thể phải gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động.
2
- Rủi ro hoạt động: là rủi ro liên quan đến công nghệ, cơ sở hạ tầng, quy
trình, con người trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng, hay nói cách
khác rủi ro hoạt động bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức
mà một NHTM điều hành các hoạt động của mình.
- Rủi ro luật pháp: là rủi ro ngân hàng có thể bị khởi kiện vì để xảy ra
những sai sót hoặc sự cố trong quá trình hoạt động kinh doanh gây thiệt hại cho
khách hàng và đối tác. Rủi ro luật pháp mà các NHTM phải đối mặt có thể tiềm
ẩn trong nhiều lĩnh vực kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro luật pháp có thể
là do con người hoặc do công nghệ máy móc. Thậm chí, NHTM có thể gặp phải
rủi ro luật pháp ngay cả khi ngân hàng không phải là bên gây thiệt hại.
- Rủi ro chiến lược: là rủi ro phát sinh từ những thay đổi trong môi
trường hoạt động của các NHTM trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và
tài chính. Rủi ro chiến lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân
các NHTM.
- Rủi ro uy tín: là rủi ro khi các NHTM bị dư luận đánh giá xấu, gây khó
khăn nghiêm trọng cho hoạt động của ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn
hoặc khách hàng rời bỏ ngân hàng.
- Rủi ro thị trường: là loại rủi ro tổn thất tài sản, xảy ra khi lãi suất, tỷ giá
hay giá cả thị trường biến động theo chiều hướng xấu. Nói cách khác, rủi ro thị
trường xảy ra khi có sự thay đổi của các điều kiện thị trường hay những biến
động của thị trường.
II. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các NHTM:
1. Khái niệm về rủi ro tín dụng:
Có nhiều định nghĩa về rủi ro tín dụng:
- Rủi ro tín dụng: là rủi ro về sự tổn thất tài chính, phát sinh từ việc
khách hàng đi vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ trả
nợ đúng hạn theo cam kết hoặc việc khách hàng mất khả năng thanh toán. Điều
này có nghĩa là các khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi vay có thể bị
trì hoãn, thậm chí là không được hoàn trả, và hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự luân chuyển tiền tệ và sự bền vững của tính chất trung gian dễ bị
tổn thương trong hoạt động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở
hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng
khác như tài trợ thương mại, thấu chi, bao thanh toán…
3
- Rủi ro tín dụng: theo Điều 2 “Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng” ban hành kèm theo Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN, rủi ro tín dụng là
khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng
không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
HÌNH 1: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CẦN THỐNG NHẤT
Không có rủi ro
không có lợi nhuận.
Khả năng vốn và tài chính
của ngân hàng có hạn.
Rủi ro tín dụng thường là
nguyên nhân chính dẫn đến
sự đỗ vỡ của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng
xảy ra do nguyên nhân
khác nhau khó lường trước.
Phải chấp nhận rủi ro.
Ngân hàng chỉ có thể
chấp nhận một mức độ
rủi ro nhất định.
Quản lý rủi ro tín dụng
phải được xem là
vấn đề sống còn.
Đòi hỏi trình độ chuyên môn
cao của cán bộ tín dụng.
2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng:
2.1. Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp:
Tính chất đa dạng và phức tạp của rủi ro tín dụng biểu hiện ở sự đa dạng
và phức tạp của các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, cũng như các hậu quả
do rủi ro tín dụng gây ra. Nhận thức và vận dụng đặc điểm này, khi thực hiện
phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng cần áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp,
không chủ quan với bất cứ một dấu hiệu rủi ro nào. Bên cạnh đó, trong quá trình
xử lý hậu quả rủi ro tín dụng cần xuất phát từ nguyên nhân, bản chất và hậu quả
của rủi ro để đưa ra biện pháp phù hợp.
2.2. Rủi ro tín dụng có tính tất yếu:
Các chuyên gia kinh tế đều cho rằng hoạt động kinh doanh ngân hàng thực
chất là quản lý rủi ro (chủ yếu là rủi ro tín dụng) ở mức độ phù hợp để đạt được
mức lợi nhuận tương ứng. Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn
4
đến rủi ro, đặc biệt do không thể có được thông tin cân xứng về việc sử dụng
vốn vay cho hoạt động kinh doanh của khách hàng vay, nên bất cứ khoản cho
vay nào cũng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đối với hoạt động tín dụng của các NHTM.
Vì vậy trong quá trình cấp tín dụng cho khách hàng, các NHTM cần chủ động có
các biện pháp thích hợp để xác định rủi ro, định lượng rủi ro, quản lý rủi ro và
kiểm soát rủi ro.
2.3. Rủi ro tín dụng có thể dự báo trước hoặc không thể dự báo:
Các rủi ro có thể dự báo trước: danh mục cho vay hay đầu tư của một
NHTM luôn luôn có một số khoản thất thoát tiềm tàng chưa được xác định. Tuy
nhiên, nếu giả định rằng các đặc điểm chung của danh mục cho vay nhìn chung
vẫn giống nhau trong một giai đoạn hợp lý thì các NHTM có thể dự báo các
khoản thất thoát này với một mức độ tương đối chính xác bằng cách nghiên cứu
các đặc điểm diễn biến của danh mục cho vay theo thời gian.
Các rủi ro không thể dự báo trước: có nhiều sự kiện nằm ngoài tầm kiểm
soát của các NHTM, các cú sốc ngoại sinh do các điều kiện chưa phát sinh tại
thời điểm ký kết một thỏa thuận kinh doanh,...là những nguyên nhân có thể dẫn
đến rủi ro mà các NHTM không thể dự báo trước.
3. Biểu hiện của rủi ro tín dụng:
Vì rủi ro tín dụng là khả năng (xác suất) vỡ nợ của khách hàng nên:
- Những khách hàng phá sản, lừa đảo, chây ỳ trong việc trả nợ là biểu
hiện rõ nhất.
- Bên cạnh đó, các khoản nợ không trả được khi đến hạn ở các cấp độ
khác nhau cũng thể hiện các khả năng vỡ nợ khác nhau.
Từ thước đo rủi ro tín dụng cho thấy rủi ro ở độ rộng với những tầng nấc
khác nhau. Vấn đề không phải là ở con số nợ xấu chiếm bao nhiêu % tổng dư
nợ, mà nợ xấu được định lượng ở độ rộng hay hẹp. Dù áp dụng phương pháp
nào, tính chính xác của kết quả phụ thuộc rất nhiều vào việc cán bộ tín dụng các
cấp có thực sự nghiêm túc trong việc nhìn nhận rủi ro tín dụng và chính sách
quản lý rủi ro có nhằm mục tiêu tạo nên tính minh bạch trong việc xác định rủi
ro hay không.
Có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của các NHTM như:
5
- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, trên vốn chủ sở hữu, trên quỹ
dự phòng tổn thất.
- Nợ đáng nghi ngờ (có vấn đề): khả năng chuyển thành nợ xấu cao.
- Nợ không có tài sản bảo đảm.
Hiện tại, nếu áp dụng phân loại nợ theo các chuẩn mực kế toán quốc tế
được thừa nhận (IAS) thì tình hình nợ quá hạn và nợ xấu của các NHTMVN
nghiêm trọng hơn nhiều lần so với báo cáo của từng ngân hàng, vì:
- Nhiều khoản nợ các NHTM đang hạch toán ở tài khoản nợ trong hạn
nhưng thực tế đã là nợ xấu vì khách hàng kinh doanh thua lỗ hoặc đã khó khăn
trong việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
- Không ít khoản vay trong danh mục tín dụng của các NHTM là nợ
trong hạn song đã được ngân hàng gia hạn hoặc đảo nợ do người vay không đủ
khả năng thanh toán.
Do phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro xử lý nợ xấu chưa nhất quán
với thông lệ quốc tế nên hiện nay, việc đánh giá chất lượng tín dụng thực chất
như thế nào là hết sức khó khăn, thậm chí không thể làm được. Đây là trở ngại
rất lớn đối với các NHTMVN khi bước vào cạnh tranh và hội nhập với các ngân
hàng có yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp đánh giá
chất lượng tín dụng, áp dụng dần các chuẩn mực IAS trong phân loại nợ và trích
lập dự phòng rủi ro xử lý nợ xấu là vấn đề hết sức cấp thiết đối với hệ thống các
NHTMVN.
4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng:
4.1. Nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế và các cơ quan
quản lý Nhà Nước:
4.1.1. Xuất phát từ hệ thống thông tin:
Thông tin tín dụng bao gồm thông tin lịch sử, thông tin hiện tại và xu
hướng phát triển của khách hàng trong tương lai (gồm cả thông tin về tài chính
và phi tài chính) và đặc biệt là các thông tin thống kê về các chỉ tiêu trung bình
ngành phục vụ cho việc xếp loại khách hàng vay.
Hiện nay, các NHTM không chỉ quan tâm đến việc hỏi tin về xếp hạng
doanh nghiệp nhằm đánh giá khách hàng có quan hệ tín dụng mà còn sử dụng
6
thông tin vào những mục đích khác như mở rộng đối tượng cho vay, thực hiện
công tác marketing đến khách hàng truyền thống, khách hàng tiềm năng, và mở
rộng thị phần trên thị trường. Tuy nhiên:
- Hệ thống thông tin của Việt Nam hiện nay còn khá nhiều bất cập, Việt
Nam chưa có cơ chế công bố thông tin đầy đủ. Trong thời gian qua, Trung tâm
thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc NHNN hoạt động đã đạt được những kết quả
bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin về tình hình hoạt động
tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp hoạt
động một cách độc lập và hiệu quả.
- Vai trò nối kết các NHTM của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) còn
lỏng lẻo, chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Đây chính là thách thức cho các NHTMVN trong việc mở rộng và kiểm
soát hoạt động tín dụng. Nếu các NHTM cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng
tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin bất cân xứng thì sẽ gia tăng nguy
cơ nợ xấu.
4.1.2. Xuất phát từ hệ thống văn bản luật:
Về cơ bản, hoạt động tín dụng của các NHTM đã được Luật hóa trong các
văn bản Luật và các văn bản pháp quy của Chính Phủ, NHNN. Tuy nhiên, qua
nghiên cứu, phân tích, đồng thời, đúc kết từ những trường hợp rủi ro trong thực
tế hoạt động của các NHTM cho thấy vẫn còn những “lỗ hỏng” khá nguy hiểm,
đó vừa là những nguyên nhân sâu xa, vừa là những nguyên nhân ảnh hưởng trực
tiếp đến rủi ro tín dụng của các NHTM.
- Hoạt động tín dụng của các NHTM hiện nay chịu sự điều chỉnh, chi
phối của khá nhiều luật, văn bản dưới luật chồng chéo, không rõ ràng, không
hợp lý, thiếu tính chặt chẽ và chưa thật sự hoàn chỉnh .
- Chính Phủ thường xuyên ban hành mới các chính sách về thuế, về xuất
nhập khẩu, hoặc các quy định về đất đai, nhà ở…Khi một chính sách bị thay đổi
đột ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, ảnh hưởng đến kế
hoạch, cũng như khả năng dự báo sức tiêu thụ trên thị trường của các doanh
nghiệp. Việc định hướng chiến lược sản xuất, kinh doanh không phù hợp, không
chính xác sẽ dẫn đến sản xuất cung vượt cầu, hàng hóa khó tiêu thụ, giá bán hạ,
thua lỗ, khách hàng sẽ không đảm bảo nguồn tiền trả nợ cho các NHTM.
4.1.3. Xuất phát từ công tác kiểm tra, thanh tra:
7
Hiện nay, bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh
tra, kiểm tra, giám sát của NHNN đối với các NHTM chưa thật sự có hiệu quả:
- Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm
chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra còn chưa nắm bắt
kịp thời.
- Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được
đổi mới, hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có
khả năng ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm.
4.1.4. Xuất phát từ các cơ quan ban ngành liên quan:
Hoạt động của các cơ quan ban ngành có liên quan đến hoạt động tín dụng
của các NHTM hiện nay có thể nói còn nhiều vấn đề cần bàn luận:
- Quản lý doanh nghiệp còn lỏng lẻo, cấp phép tràn lan.
- Công chứng tài sản thế chấp sai pháp luật.
- Cơ quan thi hành án thông đồng với người thi hành án, trung tâm bán
đấu giá tài sản thế chấp tiêu cực.
- Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương: Trong những
năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính Phủ, NHNN và các
cơ quan ban ngành có liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng
dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy luật và các
văn bản hướng dẫn đều đã được ban hành song việc triển khai vào hoạt động
ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc. Các cơ
quan pháp luật lại chậm chạp trong quá trình thực thi chức năng của mình.
- Sự can thiệp không chính thức của các cơ quan công quyền trong việc
cho vay, cản trở việc đánh giá khách hàng của các NHTM. Có thể phân tích ở
hai khía cạnh đó là: các NHTM không thể từ chối cho vay nên việc thẩm định
các khoản vay, đánh giá năng lực thật sự của khách hàng chỉ mang tính thủ tục;
và do có sự can thiệp của các cấp chính quyền trong việc cấp tín dụng mà chủ yếu
là các DNNN nên các NHTM có tâm lý ỷ lại, vì khi có rủi ro xảy ra thì nhà nước
cũng có cơ chế xử lý. Tâm lý trên đã làm giảm chất lượng công tác thẩm định,
khoản vay vì vậy mang nhiều rủi ro, làm tăng nợ xấu.
- Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng - Bộ Tài chính (DATC) hoạt
động chưa hiệu quả.
8
4.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía các NHTM:
4.2.1. Xuất phát từ cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng:
Đạo đức của cán bộ tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng để giải
quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ hạn chế về năng lực có thể
được bồi dưỡng thêm để nâng cao trình độ, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo
đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật sự nguy hiểm khi được bố trí trong
công tác tín dụng. Điều này có thể nhận thấy qua các vụ án kinh tế lớn trong thời
gian vừa qua có liên quan đến hoạt động ngân hàng đều có sự tiếp tay của những
cán bộ tín dụng cùng với khách hàng hoặc bản thân cán bộ tín dụng cố ý:
- Thực hiện trái với qui trình tín dụng.
- Trực tiếp thu nợ nhưng không nộp mà dùng cho mục đích cá nhân.
- Lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, nhờ người vay hộ,…
- Tẩy xóa, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền.
- Định giá TSBĐ không đúng giá trị thực do thông đồng với khách hàng.
Bên cạnh vấn đề đạo đức, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận
cán bộ tín dụng hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu công việc. Điều này có thể thấy
trong thực tế qua việc bố trí công việc chưa phù hợp với trình độ chuyên môn,
bản thân từng cán bộ chưa có ý thức tự nâng cao nghiệp vụ. Ngoài ra có thể nhận
thấy rõ nét nhất là công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng của
các NHTM hiện nay không theo chuyên ngành kinh tế, từ đó dẫn đến việc:
- Cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không chuyên sâu vào một
ngành nghề cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành. Khách hàng
khi cung cấp các dự án, có nhiều thông số kỹ thuật máy móc chuyên ngành hoàn
toàn xa lạ với cán bộ tín dụng. Thuê chuyên gia đánh giá đòi hỏi chi phí cao nên
chủ yếu mà các ngân hàng thường làm trong những trường hợp này là tự tìm
hiểu thông tin thông qua sách, báo, tạp chí chuyên ngành, qua mạng internet.
- Nếu cán bộ tín dụng không có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành
cần thẩm định sẽ đưa ra những đánh giá sai, gây bức xúc cho khách hàng hoặc
ngược lại, khách hàng thông tin sai mà không biết, gây ra những quyết định sai
lầm trong cho vay.
9
Ngoài ra, sự gắn bó, nổ lực với công việc của một bộ phận cán bộ tín dụng
cũng chưa được phát huy do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân công, bố trí
công việc và vấn đề đãi ngộ của các NHTM (đặc biệt là các NHTMNN) chưa đủ
sức thu hút. Thực tế hiện nay cho thấy do tác động của quá trình cạnh tranh, rất
nhiều cán bộ tín dụng giỏi, nhiều kinh nghiệm của các NHTMNN đã được các
NHTMCP, các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tuyển dụng vào những vị trí
quan trọng với nhiều đãi ngộ. Nguồn nhân lực của các NHTMNN đã mỏng do
quá trình mở rộng mạng lưới, lại ngày càng bị hao hụt do chính sách tuyển dụng,
sử dụng, phân công, bố trí công việc, và vấn đề đãi ngộ chưa thật sự thu hút.
4.2.2. Xuất phát từ chính sách, quy trình tín dụng và sự vận
dụng chính sách, quy trình tín dụng chưa nghiêm túc:
Nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến chất lượng tín dụng của
các NHTM đó là chính sách tín dụng. Tuy nhiên, chính sách tín dụng chỉ phát huy
tác dụng khi được xây dựng trên cơ sở khách quan và sự nghiêm túc của việc
ban hành và vận dụng. Thực tế, vẫn còn nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến
chính sách tín dụng chưa thật sự hợp lý:
- Chính sách tín dụng của các NHTM hiện nay phần lớn đều chưa đạt
tầm chiến lược, chưa theo nguyên tắc thị trường, thậm chí còn bị cuốn theo các
hội chứng, phong trào, khẩu hiệu phát triển kinh tế và theo chủ nghĩa thành tích.
- Các NHTM hầu như chưa xây dựng được chính sách tín dụng khoa
học, phù hợp thể hiện được quan điểm và chiến lược riêng.
- Ngoài ra, các NHTM không có chiến lược phát triển rõ nét hay nói
cách khác chưa quản trị về danh mục cho vay theo lĩnh vực sở trường.
- Chính sách tín dụng với vấn đề lãi suất vẫn còn khá nhiều bất cập.
- Mô hình thích hợp cho việc lượng hóa mức độ rủi ro của khách hàng
để từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn tối đa đối với một
khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi ro hầu như chưa được các
NHTM đầu tư xây dựng.
Quy trình tín dụng thông thường được xác lập trên những quy định chung
của pháp luật về ngân hàng và những đặc thù trong hoạt động của riêng mỗi
ngân hàng. Thông thường, quy trình tín dụng được thống nhất qua các bước sau:
THIẾT LẬP
HỒ SƠ
KHÁCH
HÀNG VAY
THẨM ĐỊNH
HỒ SƠ
KHÁCH
HÀNG VAY
RA QUYẾT
ĐỊNH VÀ KÝ
HỢP ĐỒNG
GIẢI
NGÂN
VÀ THU
NỢ
THANH LÝ HỢP
ĐỒNG VÀ XỬ LÝ
TRANH CHẤP
10
Quy trình tín dụng nếu không phát huy được tác dụng sẽ ảnh hưởng đến
chất lượng quản lý rủi ro tín dụng. Trên thực tế, không phải quy trình tín dụng
của các NHTM luôn đảm bảo tính hợp lý và chặt chẽ, biểu hiện như:
- Thông tin cần phải thực hiện trong các bước của quy trình không được
quy định chi tiết và đầy đủ, cũng như mối quan hệ giữa các bước chưa được
nhận thức đúng đắn.
- Trên thực tế, việc phân định rõ giữa khâu thẩm định và cho vay ở nhiều
NHTM vẫn chưa thật sự tách biệt. Chỉ một vài ngân hàng đang tiến hành triển
khai, áp dụng quy trình tín dụng mới với việc phân chia độc lập giữa ba chức
năng: quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro và quản lý nợ. Tuy vậy, giữa mô hình
phân chia cũ và mới, bên cạnh những ưu điểm vẫn tồn tại những hạn chế chưa
thể khắc phục ảnh hưởng đến công tác quản lý rủi ro tín dụng.
- Do sức ép cạnh tranh trong việc mở rộng thị phần tín dụng, trong quá
trình vận dụng không ít NHTM đã bỏ qua các bước của quy trình, hạ thấp tiêu
chuẩn đánh giá khách hàng, không chú ý đúng mức đến tình hình tài chính, năng
lực sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ của khách hàng vay nên
nảy sinh nhiều sai phạm: về điều kiện vay vốn, về việc lập hồ sơ vay vốn, về
việc kiểm tra, quản lý nợ vay, về cơ cấu lại thời hạn trả nợ (điều chỉnh kỳ hạn trả
nợ, gia hạn nợ gốc và lãi).
Việc nhận thức chưa đầy đủ và vận dụng chưa thật sự nghiêm túc của cán
bộ tín dụng đối với các chính sách và quy trình tín dụng cũng ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng của các NHTM vì nếu nhận thức đầy đủ, thực hiện nghiêm
túc các quy định, nhất là thẩm tra chặt chẽ khả năng tài chính, hiệu quả của
phương án sản xuất kinh doanh, các điều kiện về bảo đảm tiền vay của khách
hàng rồi mới quyết định đầu tư thì khả năng thu hồi vốn là rất lớn. Ngược lại,
nếu buông lỏng quản lý hoặc thẩm tra chưa đầy đủ đã quyết định đầu tư thì mức
độ rủi ro sẽ gia tăng, thậm chí có khi mất vốn.
4.2.3. Xuất phát từ công tác thẩm định:
a. Đánh giá uy tín, năng lực quản trị, năng lực tài chính của khách hàng:
- Đánh giá uy tín của khách hàng là vấn đề thật sự khó khăn đối với các
cán bộ thực hiện công tác thẩm định trong việc tiếp cận thông tin về khách hàng
11