Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Đảng chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu (tiểu luận hết môn lịch sử đảng cộng sản việt nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.27 KB, 21 trang )

lOMoARcPSD|15978022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Bộ mơn Lý luận chính trị - Khoa xã hội truyền thông

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN HẾT MƠN:
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:

ĐẢNG CHỦ TRƯƠNG CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC
ĐẶT NHIỆM VỤ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC LÊN HÀNG ĐẦU

Nhóm sinh viên thực hiện:
Lớp:
Tổ: 6
GVHD:

TP.HCM, THÁNG 3 NĂM 2022


lOMoARcPSD|15978022

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài. ...................................................................................... 3
3. Mục đích chọn đề tài.................................................................................................. 4
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 4


5. Ý nghĩa của đề tài. ..................................................................................................... 4
6. Kết cấu của đề tài. ...................................................................................................... 4
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................................... 5
Chương 1: Đảng lãnh đạo chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc tổng khởi nghĩa
giành chính quyền cách mạng (1939-1945) ...................................................................... 5
1.1 Bối cảnh lịch sử thời kỳ 1939-1945......................................................................... 5
1.2 Chủ trương chiến lược mới của Đảng ..................................................................... 6
1.3 Đảng lãnh đạo đẩy mạnh việc chuẩn bị lực lượng cho cuộc tổng khởi nghĩa vũ
trang ............................................................................................................................... 9
Chương 2: Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi ....................................................... 11
2.1 Cao trào kháng Nhật cứu nước. ............................................................................. 11
2.2 Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. ..................................................................... 14
2.3 Ý nghĩa, kinh nghiệm của Cách mạng tháng 8. ..................................................... 16
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 21

2


lOMoARcPSD|15978022

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhóm chúng em có hai lý do để chọn đề tài này.
Lý do đầu tiên là vai trò của Đảng vào năm 1939 – 1945 trước tình hình đầy biến
động của các cuộc tấn cơng của phát xít Đức ở các nước trên thế giới. Đối với tình hình
trong nước Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến tàn bạo để phát xít hóa bộ máy
thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Ngoài ra, phát xít Nhật
vượt biên giới Việt – Trung tấn cơng vào nước ta. Nhật đã dùng thủ đoạn tàn ác bằng cách
thu mua lương thực, chủ yếu là lúa gạo theo lối cưỡng bức với giá rẻ mạt. Chính thủ đoạn

tàn ác này đã gây ra nạn khan hiếm lương thực nghiêm trọng, khiến gần 2 triệu đồng bào
ta chết đói cuối năm 1944 – đầu năm 1945. Trước những tình hình đó đảng ta đã đề ra
những chủ trương hết sức quan trọng để cứu lấy dân tộc và đất nước.
Lý do thứ hai là vai trò lãnh đạo của Đảng trong cao trào kháng Nhật cứu nước. Vào
đầu năm phát xít Đức đang ở bên bờ diệt vong, phát xít Nhật ở vào tình thế khốn quẫn,
hội nghị chủ trương phát động một một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền
đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Ngày 12- 3- 1945, Đảng ra chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta. Cao trào kháng Nhật cứu nước được phát động. Phong trào đấu
tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần diễn ra sôi nổi ở
thượng du, trung du miền Bắc.Cao trào kháng Nhật cứu nước phát triển tới đỉnh cao sau
khi phát xít Đức ký văn bản đầu hàng Liên Xô và Đồng minh đầu tháng 5- 1945 và phát
xít Nhật đầu hàng giữa tháng 8- 1945. Sau sự kiện đó lực lượng cách mạng được tăng
cường, làm cho toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ động, tiến lên chớp thời cơ tổng khởi
nghĩa để hướng đến cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi
Vì vậy, nhóm chúng em nghiên cứu đề tài này để làm rõ vai trò của đảng vào năm
1939 – 1945 và vai trò lãnh đạo của đảng trong cách mạng tháng Tám năm 1945.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nhóm sinh viên chúng em đã căn cứ vào những tài liệu về lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, tài liệu về đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam, tài liệu về tư tưởng Hồ
Chí Minh để hồn thành nghiên cứu đề tài này.

3


lOMoARcPSD|15978022

3. Mục đích chọn đề tài
Để làm rõ vai trị của đảng ta trước tình hình đầy biến động của các cuộc tấn cơng của
phe phát xít trong nước và thế giới trong những năm 1939 – 1945. Đồng thời làm rõ sự
lãnh đạo của đảng để phát động toàn dân đứng lên đấu tranh giành lại chính quyền Việt

Nam trong cách mạng tháng tháng 8 trước phe phát xít Nhật và kháng chiến chống Pháp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân
tích.
5. Ý nghĩa của đề tài.
Nhằm giáo dục cho thế hệ mai sau hiểu biết thêm về truyền thống yêu nước, nâng cao
tinh thần tự hào của nhân dân ta đối với Đảng, tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm,
giúp cho thế hệ mai sau học được thêm nhiều chiến lược đối phó của đảng ta với chủ
nghĩa phát xít và thực dân Pháp.
6. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài chia làm hai chương:
Chương 1: Đảng lãnh đao chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc tổng khởi nghĩa
giành chính quyền cách mạng (1939-1945)
Chương 2: Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi

4


lOMoARcPSD|15978022

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Đảng lãnh đạo chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc tổng khởi nghĩa
giành chính quyền cách mạng (1939-1945)
1.1 Bối cảnh lịch sử thời kỳ 1939-1945
1.1.1 Tình hình thế giới
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Hai ngày sau, Anh và Pháp tuyên chiến
với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, đây là cuộc chiến mang tính chất đế quốc
chủ nghĩa, chiến tranh giữa đế quốc với đế quốc nhằm giành giật nguồn nguyên liệu và
chia lại thị trường thế giới. Phát xít Đức lần lượt chiếm các nước Châu Âu. Đế quốc Pháp
tham chiến. Chính phủ Đalađie thi hành một loạt chính sách thù địch đối với các lực

lượng tiến bộ trong nước và phong trào cách mạng các nước thuộc địa. Mặt trận nhân dân
Pháp tan vỡ, Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngồi vịng pháp luật.
Ngày 5-6-1940, Đức tấn công vào Pari (Pháp), và đến ngày 17-6, chính phủ Pháp đầu
hàng Đức. Chính phủ phản động Pêtanh lên nắm quyền, thi hành tất cả các chính sách
trước đây, kể cả ở chính quốc vào thuộc địa.
Ngày 22-6-1941, không tuyên chiến và cũng không đưa ra yêu sách gì, phát xít Đức
bất ngờ mở cuộc tấn cơng trên khắp biên giới phía Tây của Liên Xơ. Điều này đã làm cho
tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa lực lượng dân chủ do Liên
Xô đứng đầu với lực lượng phátxít do Đức cầm đầu.
1.1.2 Tình hình trong nước
Chiến tranh thế giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến Đông Dương và
Việt Nam. Ngày 28-9-1939, Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định cấm tuyên truyền
Cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản; đặt Đảng Cộng sản Đơng Dương ra
ngồi vịng pháp luật; giải tán các hội ái hữu, nghiệp đoàn, tịch thu tài sản của các tổ chức
đó; đóng cửa các tờ báo, nhà xuất bản; cấm hội họp và tụ tập đơng người.
Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến tàn bạo. Chúng phát xít hóa bộ máy
thống trị; thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta; thủ tiêu các quyền tự
do, dân chủ; tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương; thực hiện hàng

5


lOMoARcPSD|15978022

loạt chính sách nhằm vơ vét sức người, sức của ở Đơng Dương để dốc vào cuộc chiến
tranh. Hàng nghìn cuộc khám xét bất ngờ đã diễn ra khắp nơi. Thực dân Pháp ban bố lệnh
tổng động viên nhằm cung cấp cho “quốc mẫu” tiềm lực tối đa của Đông Dương về quân
sự, nhân lực, các sản phẩm và nguyên liệu, hơn 7 vạn thanh niên đã bị bắt sang Pháp để
làm bia đỡ đạn. Chúng cịn thi hành chính sách “Kinh tế chỉ huy”, thực chất là lợi dụng
thời chiến để nắm độc quyền toàn bộ nền kinh tế Đơng Dương và tăng cường việc đầu cơ

tích trữ để bóc lột nhân dân ta được nhiều hơn. Thực dân Pháp cho tăng mức thuế cũ, đặt
thêm thuế mới, đồng thời sa thải bớt công nhân, viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm,
kiểm soát gắt gao việc sản xuất và phân phối, ấn định giá cả. Chính sách tàn bạo của thực
dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào cảnh sống ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế.
Ngày 22-9-1940, phát xít Nhật vượt biên giới Việt – Trung tấn cơng vào nước ta.
Pháp nhanh chóng ký hiệp định đầu hàng Nhật. Phát xít Nhật giữ nguyên bộ máy thống trị
của thực dân Pháp, dùng nó để vơ vét kinh tế phục vụ cho nhu cầu chiến tranh và đàn áp
phong trào cách mạng. Thủ đoạn tàn ác của Nhật là thu mua lương thực, chủ yếu là lúa
gạo theo lối cưỡng bức với giá rẻ mạt, một phần để cung cấp cho quân đội Nhật, một phần
để tích trữ, chuẩn bị cho chiến tranh. Chính thủ đoạn tàn ác này đã gây ra nạn khan hiếm
lương thực nghiêm trọng, khiến gần 2 triệu đồng bào ta chết đói cuối năm 1944 – đầu
năm 1945. Dưới hai tầng áp bức, bóc lột nặng nề của Nhật – Pháp, đời sống của nhân dân
ta vô cùng khổ cực, điêu đứng. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp và phát xít
Nhật ngày càng trở nên gay gắt hơn.
1.2 Chủ trương chiến lược mới của Đảng
Trước những biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta đã kịp thời đề
ra những chủ trương chiến lược mới giai đoạn 1939-1945 thể hiện qua ba Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng: Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939), Hội nghị Trung
ương lần thứ 7 (11-1940) và Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941). Ban Chấp hành
Trung ương quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
Một là: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nêu cao mục tiêu giành độc
lập, giành chính quyền.
Hội nghị lần thứ 6 đã nhận định rằng: trong điều kiện lịch sử mới, giải phóng dân tộc
là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của cách mạng Đông Dương; và mâu thuẫn chủ
6


lOMoARcPSD|15978022

yếu, gay gắt nhất ở Đông Dương lúc này là mâu thuẫn giữa đế quốc Pháp và các dân tộc

Đông Dương.
Hội nghị lần thứ 7 khẳng định nhiệm vụ trước mắt của Đảng là chuẩn bị lãnh đạo cuộc
“võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”.
Từ hai hội nghị trên, Hội nghị lần thứ 8 đã xác định mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi
hỏi được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc, phát
xít Pháp – Nhật. Quyền lợi của bộ phận giai cấp được đặt dưới sự tồn vong của dân tộc.
Trong lúc này, “nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được
độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc thì chẳng những quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp trâu
ngựa mà quyền lợi giai cấp đến ngàn vạn năm cũng không đạt được”. Hội nghị 8 tiếp tục
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Để tập trung lực lượng chống đế quốc, Hội
nghị tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng các
khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo”, thực
hiện giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công tiến đến dân cày có ruộng.
Hai là: Chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông
Dương, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước
Đông Dương trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc tự quyết nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh
thần dân tộc của nhân dân các nước Đông Dương. Ở Việt Nam, Ban Chấp hành Trung
ương cho thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), thay cho Mặt trận
thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương (thành lập ở Hội nghị lần thứ 6), thay tên các
Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Nông dân cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc, Phụ lão cứu
quốc…). Mặt trận Việt Minh là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc. Mặt trận đã hiệu
triệu nhân dân, đánh thức tinh thần dân tộc, tập hợp và đồn kết rộng rãi mọi người dân
u nước, khơng phân biệt thành phần, lứa tuổi, tơn giáo, giới tính vào thực hiện nhiệm
vụ giải phóng quốc gia, dân tộc.
Ba là: Quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, ra sức phát triển lực
lượng cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng, đi từ khởi nghĩa từng
phần tiến lên tổng khởi nghĩa.

7



lOMoARcPSD|15978022

Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đã nhấn mạnh nhiệm vụ chính trị của quần chúng lúc
này là dự bị điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Đội du kích
Bắc Sơn ra đời, căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai do Thường vụ Trung ương chỉ đạo được
hình thành.
Hội nghị lần thứ 7 tiếp tục duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, xây dựng thành căn cứ
địa cách mạng và thành lập những đội du kích hoạt động phân tán (đội du kích Bắc Sơn,
đội du kích thiếu niên Đình Bảng…), chống địch, bảo vệ dân.
Hội nghị lần thứ 8 đã đặt ra nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân trong giai
đoạn hiện tại là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đi đến
thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng (bao gồm lực lượng chính trị và
lực lượng vũ trang) với hình thức tổ chức thích hợp, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách
mạng, lấy vùng Bắc Sơn – Vũ Nhai làm trung tâm. Ban Chấp hành Trung ương cũng xác
định phương châm và hình thái khởi nghĩa là “lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần trong
từng địa phương giành thắng lợi mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn để giành
chính quyền”.
Bốn là: Chú trọng công tác xây dựng Đảng
Ban chấp hành Trung ương đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng
cao năng lực tổ chức thực tiễn và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đồng thời chủ trương kiện
toàn hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, thống nhất tư tưởng, thống nhất
ý chí và hành động. Đảng mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày nhằm đào tạo cán bộ cho
cách mạng (cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự). Cán bộ bắt
buộc phải chịu huấn luyện theo chương trình phổ thông của Đảng. Đặc biệt, Đảng chú
trọng công tác chống các phần tử phá hoại trong Đảng.
Như vậy, các Nghị quyết của ba Hội nghị Trung ương 6, 7, 8 đã phát triển và hoàn
chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, đồng thời phản ánh sự nhạy bén của Đảng
trước tình hình mới có nhiều thay đổi. Hội nghị lần thứ 6 mở đầu sự chuyển hướng, Hội

nghị lần thứ 7 bổ sung nội dung chuyển hướng và Hội nghị lần thứ 8 hoàn chỉnh sự thay
đổi chiến lược cách mạng. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai đoạn
này là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo; giúp cơng tác chuẩn bị giành chính quyền diễn ra sôi
nổi ở khắp các địa phương trong cả nước, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách
8


lOMoARcPSD|15978022

mạng của quần chúng nhân dân; trở thành ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên
giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
1.3 Đảng lãnh đạo đẩy mạnh việc chuẩn bị lực lượng cho cuộc tổng khởi nghĩa vũ
trang
1.3.1 Chuẩn bị về lực lượng chính trị:
Để có lực lượng chính trị quần chúng hùng mạnh đủ sức chiến thắng kẻ thù, Đảng chủ
trương thành lập Mặt trận Việt Minh. Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh (Việt Nam
độc lập đồng minh) tuyên bố ra đời. Việt Minh đã công bố tun ngơn, chương trình và
điều lệ chính thức gồm 44 điều cụ thể để thực hiện được hai vấn đề cơ bản là làm cho
nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân Việt Nam được sung sướng, tự do.
Thông qua Mặt trận Việt Minh, Đảng đẩy mạnh thành lập, mở rộng các tổ chức chính
trị quần chúng, xây dựng các Hội cứu quốc: Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu
quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Tự vệ cứu quốc…Các Hội phản đế đều chuyển thành các
Hội cứu quốc. Bên cạnh những đồn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng rõ rệt
như trên thì cịn có những đồn thể khơng có điều lệ, hoạt động công khai và bán công
khai: Hội cứu tế thất nghiệp, Hội tương tế, Hội hiếu hỉ…Ở hầu khắp các vùng nơng thơn
và thành thị Bắc Kỳ, các đồn thể Việt Minh, các hội Cứu quốc quân được xây dựng và
củng cố. Tại các thành phố, thị xã như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, v.v.., các hội Cứu
quốc quân được thành lập trong nhiều nhà máy, trường học. Ở nhiều tỉnh ven biển Trung
Kỳ, phong trào Việt Minh phát triển mạnh trong nông dân, công nhân, dân nghèo thành
thị. Tại Nam Kỳ, tổ chức Việt Minh có cơ sở tại Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh và một số

tỉnh khác. Năm 1944, một số tổ chức chính trị yêu nước ra đời và tham gia làm thành viên
của Mặt trận Việt Minh như Đảng dân chủ Việt Nam, Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam.
Đảng cũng tăng cường cơng tác vận động binh lính người Việt trong quân đội Pháp,
những ngoại kiều ở Đông Dương đấu tranh chống phát xít.
Bên cạnh đó, nhiều sách báo của Đảng, của Mặt trận Việt Minh được xuất bản. Năm
1943, Đảng ban hành “Đề cương văn hóa Việt Nam”, được xem là cương lĩnh văn hóa
đầu tiên của Đảng, nhằm xây dựng nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: “Dân tộc hóa”,
“Khoa học hóa” và “Đại chúng hóa” để định hướng đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn
hóa, lý luận. Đề cương đã trở thành ngọn cờ cổ vũ, động viên giới tri thức, khoa học, văn
9


lOMoARcPSD|15978022

học, nghệ thuật Việt Nam đương thời vào cuộc chiến đấu quyết liệt cho sự toàn thắng của
cách mạng dân tộc, dân chủ.
1.3.2 Chuẩn bị về lực lượng vũ trang:
Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị, cơng tác xây dựng lực lượng vũ trang
cũng được Đảng đặc biệt coi trọng.
Năm 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc quyết định chọn Cao Bằng để xây dựng
căn cứ địa và cho thành lập đội vũ trang ở đây. Người còn tự tay soạn thảo “Mười điều kỷ
luật” và những nguyên tắc cơ bản xây dựng quân đội; cho tổ chức các lớp huấn luyện
chính trị, quân sự, biên soạn các tài liệu về cách đánh du kích, kinh nghiệm của du kích
Nga, Tàu. Cao Bằng trở thành một căn cứ địa cách mạng, một địa bàn điển hình về xây
dựng và phát triển lực lượng. Dưới sự chỉ đạo của Ban thường vụ Trung ương Đảng, đội
du kích Bắc Sơn được duy trì và đổi tên thành Cứu quốc quân. Cứu quốc quân tiến hành
gây dựng cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ. Ngày 22-12-1944, Hồ Chí Minh quyết định
thành lập đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng qn” ở Cao Bằng do đồng chí Võ
Ngun Giáp lãnh đạo. “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” phát triển nhanh chóng,
đẩy mạnh cơng tác tun truyền vũ trang, xây dựng cơ sở cách mạng. Và để phát triển lực

lượng vũ trang lên một bước, tháng 4-1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ quyết
định thống nhất các lực lượng vũ trang của Đảng như Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân thành “Việt Nam giải phóng qn”. Ngày 15-5-1945, “Việt Nam
giải phóng qn” chính thức ra đời, đánh dấu sự trưởng thành mới của tư duy và sự chỉ
đạo công tác quân sự của Đảng ta, đồng thời đẩy mạnh cao trào kháng Nhật cứu nước.

10


lOMoARcPSD|15978022

Chương 2: Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi
2.1 Cao trào kháng Nhật cứu nước.
Từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945, tình hình thế giới có những chuyển biến lớn.
Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng qn Liên Xơ qt sạch
phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình, giải phóng nhiều nước Đơng Âu và tiến như vũ
bão về phía Béclin. Ở Đơng Dương, phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Lực
lượng Pháp theo phái Đờgôn hoạt động ráo riết chờ quân Đồng minh đổ bộ vào Đông
Dương sẽ nổi lên đánh Nhật, khôi phục lại quyền thống trị của chúng. Mâu thuẫn Nhật –
Pháp đã lên tới đỉnh cao. Để trừ mối nguy cơ từ Pháp, 8 giờ đêm ngày 9-3-1945, phát xít
Nhật nổ súng, lật đổ Pháp trên tồn cõi Đơng Dương. Qn Pháp chống cự yếu ớt rồi
nhanh chóng đầu hàng.
Ngay đêm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng ở làng Đình
Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Ngày 12-3-1945, Đảng ra
chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, chỉ đạo toàn dân tiến hành cao
trào kháng Nhật cứu nước, gấp rút chuẩn bị mọi mặt để tiến tới tổng khởi nghĩa toàn quốc.
Toàn bộ những nhận định cơ bản về tình hình và chủ trương mới của Ban Thường vụ
Trung ương Đảng được thể hiện tập trung trong bản chỉ thị lịch sử đó.
Bản chỉ thị nhận định rằng cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đơng
Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa lại

chưa thực sự chín muồi, vì Pháp tuy tan rã nhưng Nhật chưa hoang mang đến mức cực
điểm, các tầng lớp trung gian chưa ngả hẳn về phía cách mạng. Tuy vậy, hiện đang có
những cơ hội tốt làm cho điều kiện tổng khởi nghĩa mau chóng chín muồi (nạn đói ghê
gớm, chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt…)
Chỉ thị xác định kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đơng
Dương sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật. Vì vậy, khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Pháp –
Nhật” được thay bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật” và đưa ra khẩu hiệu “thành
lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương” để chống lại chính quyền của bọn
tay sai thân Nhật.

11


lOMoARcPSD|15978022

Chỉ thị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ. Mọi hình
thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ
tiền khởi nghĩa. Muốn vậy, phải thực hiện những hình thức tuyên truyền, đấu tranh cao
hơn, mạnh bạo hơn như tuyên truyền xung phong có vũ trang, biểu tình tuần hành thị uy,
bãi cơng chính trị, tổ chức quần chúng đánh phá các kho thóc của Nhật để giải quyết nạn
đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc, tổ chức bộ đội, du kích, thành lập căn cứ
địa cách mạng, phát động du kích chiến tranh ở những nơi có điều kiện nhằm động viên
và tập dượt quần chúng tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền.
Phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng
vùng, mở rộng căn cứ địa. Đây là phương pháp duy nhất để chủ động trong việc đánh
đuổi quân Nhật và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi có đủ điều
kiện.
Chỉ thị cũng dự kiến những hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa: khi
quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản
quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ và chính

quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp
năm 1940, khiến quân đội viễn chinh Nhật bị mất tinh thần, hoang mang dao động. Bản
chỉ thị có giá trị và ý nghĩa như một chương trình hành động, một lời hiệu trệu, dẫn dắt
nhân dân ta tiến hành cao trào kháng Nhật cứu nước. Bản chỉ thị thể hiện sự lãnh đạo sáng
suốt, kiên quyết, kịp thời, nhạy bén của Đảng trong hoàn cảnh lịch sử mới; là kim chỉ nam
cho mọi hành động của các cơ sở Đảng và quần chúng nhân dân; là văn kiện có ý nghĩa
chỉ đạo cụ thể thúc đẩy tình thế cách mạng chín muồi góp phần thắng lợi của cuộc tổng
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Đảng chủ trương đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận. Từ
giữa tháng 3-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sơi nổi, mạnh mẽ và
phong phú về nội dung, hình thức. Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần
diễn ra nhiều nơi ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải
phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang. Ở Bắc Giang, quần chúng nổi dậy thành lập Ủy ban dân tộc giải

12


lOMoARcPSD|15978022

phóng ở nhiều làng, đội du kích Bắc Giang được thành lập. Ở Hưng Yên, đội tự vệ chiến
đấu đánh chiếm đồn Bần, thu tồn bộ vũ khí của địch. Ở Quảng Ngãi, khởi nghĩa nổ ra ở
Ba Tơ, đội du kích Ba Tơ được thành lập. Hàng ngàn chiến sĩ cách mạng bị địch giam giữ
trong các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hỏa Lò…nhân cơ hội Nhật – Pháp bắn nhau đã vượt
ngục ra ngoài hoạt động.
Giữa lúc cao trào kháng Nhật cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên, ngày 15-4-1945,
Ban Thường vụ Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự Cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa
(Bắc Giang) do Trường Chinh chủ trì. Hội nghị nhận định: tình thế đã đặt nhiệm vụ quân
sự lên trên hết. Cần phải tích cực phát triển chiến tranh du kích; xây dựng căn cứ địa để

chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa; thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam
giải phóng quân, xây dựng bảy chiến khu trong cả nước, chủ trương phát triển hơn nữa
lực lượng vũ trang, nửa vũ trang.
Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc thành lập Ủy ban giải phóng
Việt Nam. Đầu tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào (Tuyên Quang). Ngày 4-6-1945,
theo chỉ thị của Người, “Khu giải phóng” được thành lập gồm Cao Bằng – Bắc Cạn –
Lạng Sơn – Thái Nguyên – Tuyên Quang – Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc Bắc
Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính của cách
mạng cả nước. Ở khu giải phóng và một số địa phương, chính quyền nhân dân hình thành
song song với chính quyền tay sai của Nhật. Các cuộc nổi dậy của quần chúng và các
cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang diễn ra liên tiếp. Cùng với khởi nghĩa từng
phần, giành chính quyền bộ phận, thực hiện chiến tranh du kích ở những nơi có điều kiện
thì phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng cũng phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ.
Trong tồn quốc đã nổ ra nhiều cuộc míttinh, biểu tình, diễn thuyết xung phong ở chợ,
bến đị, xí nghiệp, trường học…Ở nhiều địa phương, quần chúng cách mạng đã cảnh cáo
bọn quan lại, trừng trị bọn Việt gian. Ở nhiều thành phố, các đội danh dự Việt Minh ra
sức hoạt động vũ trang, táo bạo trừ khử một số tên tay sai đắc lực của địch. Giữa lúc
phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh thì nạn đói đã diễn ra nghiêm
trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, khiến hơn 2 triệu đồng bào chết đói. Đảng kịp
thời đề ra khẩu hiệu: “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Phong trào phá kho thóc giải
quyết nạn đói đã lơi cuốn hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng. Một bầu

13


lOMoARcPSD|15978022

khơng khí tiền khởi nghĩa sục sơi trên khắp cả nước. Tình thế cách mạng trực tiếp đang
tới gần.
Thực chất của cao trào kháng Nhật cứu nước là một cuộc khởi nghĩa từng phần và

chiến tranh du kích cục bộ, giành chính quyền ở những nơi có điều kiện. Đây là một cuộc
chiến đấu vĩ đại, làm cho trận địa cách mạng được mở rộng, lực lượng cách mạng được
tăng cường, toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ động tiến lên, chớp thời cơ tổng khởi
nghĩa.
2.2 Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Chiến tranh thế giới thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 2-3-1945, Hồng quân
Liên Xô chiếm Béclin, tiêu diệt phát xít Đức tận hang ổ của chúng. Ngày 9-5-1945, phát
xít Đức đầu hàng khơng điều kiện. Ở Châu Á, phát xít Nhật đang đi gần đến chỗ thất bại
hồn tồn.
Trước sự phát triển hết sức nhanh chóng của tình hình, Trung ương quyết định họp
Hội nghị tồn quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945.
Hội nghị nhận định đây là cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền và quyết định phát động
tồn dân Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi
quân Đồng minh tiến vào Đông Dương.
Hội nghị chỉ rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: “Phản đối xâm lược”, Việt Nam “Hồn
tồn độc lập”, “Chính quyền nhân dân”. Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập
trung, thống nhất và kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể
thành phố hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần
quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh; phải chộp lấy những căn cứ chính trước khi
quân Đồng minh vào, v.v..
Hội nghị còn quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối ngoại
trong tình hình mới. Về đối nội, sẽ lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ
bản của chính quyền cách mạng. Về đối ngoại, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác,
thêm bạn bớt thù; triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp – Anh và Mỹ – Tưởng; hết sức
tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc; tranh thủ sự ủng
hộ của Liên Xô và nhân dân các nước trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và Trung Quốc.

14



lOMoARcPSD|15978022

Hội nghị cũng quyết định cử Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường Chinh phụ trách và
kiện toàn Ban chấp hành Trung ương.
Đêm 13-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh Tổng khởi nghĩa.
Ngày 16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào đã tán thành chủ trương Tổng
khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh, quyết định thành lập Ủy ban giải
phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả
nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng
dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta…Chúng ta khơng thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên!
Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”. Hưởng ứng chủ trương Tổng
khởi nghĩa của Đảng và lời hiệu triệu của Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã nhất tề nổi dậy,
kiên quyết giành cho được độc lập.
Từ ngày 14-8-1945, các đơn vị Giải phóng quân liên tiếp hạ nhiều đồn Nhật thuộc các
tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Ở hầu hết các tỉnh miền
Bắc, một số tỉnh miền Trung và miền Nam, quần chúng cách mạng đã nổi dậy giành
chính quyền ở cấp xã và huyện. Ngày 18-8, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh,
Quảng Nam giành được chính quyền ở tỉnh lỵ.
Sáng ngày 19-8, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, hàng chục vạn quần chúng
sau khi dự míttinh đã rầm rộ xuống đường biểu tình, tuần hành và mau chóng tỏa đi nhiều
hướng. Trước khí thế áp đảo của quần chúng khởi nghĩa, hơn một vạn quân Nhật ở Hà
Nội tê liệt, không dám chống cự. Tối ngày 19-8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà
Nội thắng lợi.
Ngày 23-8, khởi nghĩa giành được thắng lợi ở Huế.
Ngày 25-8, khởi nghĩa giành được thắng lợi ở Sài Gòn.
Khởi nghĩa giành được thắng lợi ở ba thành phố lớn (Hà Nội, Huế, Sài Gòn) đã tác
động mạnh đến các địa phương trong cả nước. Nhiều nơi, từ rừng núi, nông thôn đến
thành thị nối tiếp nhau khởi nghĩa. Đồng Nai Thượng và Hà Tiên là những địa phương
giành chính quyền muộn nhất, vào ngày 28-8. Như vậy, chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày


15


lOMoARcPSD|15978022

14 đến ngày 28-8-1945), cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành cơng trên cả nước, chính quyền
về tay nhân dân.
Chiều 30-8, trong cuộc míttinh lớn có hàng vạn quần chúng tham gia, vua Bảo Đại
tuyên bố thoái vị, chế độ phong kiến Việt Nam hoàn toàn sụp đổ.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào, với
toàn thể thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
2.3 Ý nghĩa, kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám.
2.3.1 Ý nghĩa của Cách mạng tháng Tám
Cách mạng tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính chất dân
chủ mới và nó đã mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta. Đối với dân tộc Việt
Nam, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã đập tan xiềng xích nơ lệ của thực dân Pháp
hơn 80 năm và ách thống trị của phát xít Nhật gần 5 năm, chấm dứt sự tồn tại của chế độ
qn chủ chun chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ
trở thành người dân độc lập, tự do, người làm chủ vận mệnh của mình. Nước ta từ một
nước thuộc địa trở thành một nước độc lập và tự do. Đảng Cộng sản Việt Nam từ chỗ phải
hoạt động bí mật, khơng hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai.
Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở
ra kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử dân tộc – kỷ nguyên độc lập tự do và hướng tới
chủ nghĩa xã hội
Đối với thế giới, Cách mạng tháng Tám đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của chủ nghĩa
thực dân cũ, góp phần làm phong phú kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về

cách mạng giải phóng dân tộc; đồng thời cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc
của các nước thuộc địa, nửa thuộc địa trên thế giới.
2.3.2. Bài học kinh nghiệm
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã để lại cho Đảng và nhân dân Việt
Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, làm phong phú thêm hệ thống lý luận của cách
16


lOMoARcPSD|15978022

mạng Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn, sáng tạo hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến.
Đường lối của Đảng ta đã xác định hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến
là không thể tách rời nhau. Tuy nhiên, nhiệm cụ chống đế quốc phải đặt lên hàng đầu.
Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ: dù hai nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến không thể tách rời nhưng
chống đế quốc vẫn là chủ yếu nhất. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của
sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến
Hai là: Về xây dựng lực lượng toàn dân nổi dậy: Trên nền tảng khối liên minh công –
nông, khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi tầng lớp yêu
nước trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.
Cách mạng tháng Tám thành công là nhờ cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam.
Nhưng cuộc nổi dậy của tồn dân chỉ có thể thực hiện được khi có đạo quân chủ lực là
giai cấp nông dân và giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dựa trên đạo quân
chủ lực làm nền tảng này, Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn
dân tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Ba là: Về phương pháp cách mạng:
Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp,

đúng lúc; ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang; tiến hành chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng
phần, giành chính quyền từng bộ phận tiến lên nắm thời cơ phát động tổng khởi nghĩa
giành chính quyền tồn quốc. Cách mạng tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các
hình thức đấu tranh vũ trang và chính trị, hợp pháp và khơng hợp pháp, từ vài địa phương
lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước
của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
Bốn là: Xây dựng Đảng vững mạnh

17


lOMoARcPSD|15978022

Chú trọng vai trò lãnh đạo của trung ương, xây dựng một Đảng Mác – Lênin trong
sạch, vững mạnh; xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của nhân dân Việt Nam, tuyệt
đối trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc; một Đảng vững mạnh về tư tưởng, đề
ra đường lối chính trị đúng đắn và liên hệ chặt chẽ với quần chúng. Đồng thời phát huy
tính chủ động sáng tạo của các địa phương, đơn vị trong lãnh đạo, điều hành.

18


lOMoARcPSD|15978022

KẾT LUẬN
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là Nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Đảng.
Nói đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là phải nói đến nghệ thuật nắm bắt thời
cơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tham mưu tối cao của Đảng ta. Thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám không phải là sự “ăn may” mà là một q trình chuẩn bị cơng phu, lâu

dài và khoa học của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì có sự chuẩn bị
trước, nên khi thời cơ đến và Đảng phát động Tổng khởi nghĩa đúng lúc thì mới giành
được thắng lợi này. Thời cơ là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nghệ thuật chỉ
đạo cách mạng của Đảng. Muốn có thời cơ thì phải biết tạo ra thời cơ và khi thời cơ đến
thì phải tận dụng và tranh thủ, không được bỏ lỡ. Xác định mục tiêu đúng mà khơng có
thời cơ, hay khơng biết chủ động tạo ra thời cơ, thì khơng thể tiến hành Tổng khởi nghĩa
thắng lợi.
Nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Hồ Chí Minh trong Cách mạng tháng Tám được thể
hiện trước hết ở việc Người xác định chính xác những dấu hiệu của thời cơ và thời điểm
xuất hiện thời cơ. Gặp thời trong Cách mạng Tháng Tám là lúc cuộc khủng hoảng chính
trị ở trong nước ta đã lên đến điểm đỉnh; đội tiền phong của cách mạng đã quyết tâm
chiến đấu đến cùng; lực lượng hậu bị đã sẵn sàng ủng hộ đội tiền phong; sự hoang mang
dao động, sự bối rối và chia rẽ trong hàng ngũ kẻ thù đã lên đến đỉnh cao. Thời cơ chiến
lược xuất hiện như một tất yếu khách quan, và cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền
đương nhiên phải được đặt ra như một tất yếu.
Nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Hồ Chí Minh cịn được thể hiện ở sự chỉ đạo tích cực,
chủ động để chờ đón thời cơ, thúc đẩy thời cơ nhanh chín muồi. Sự nhạy bén phát hiện
thời cơ và chỉ đạo lực lượng cách mạng nhanh chóng chớp thời cơ khi thời cơ đến cũng
khẳng định năng lực tài tình của Hồ Chủ tịch, bởi thời cơ cũng có thể lướt qua nhanh
chóng, nếu ta khơng lập tức chớp lấy.
Gần hơn bảy mươi bảy năm đã trôi qua nhưng thắng lợi do sự vận dụng sáng tạo nghệ
thuật chuẩn bị và chớp thời cơ của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn là
một dấu mốc lịch sử góp phần quyết định thắng lợi của cách mạng, mãi là niềm tự hào
của nhân dân Việt Nam. Bài học về nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Đảng mãi mang ý
nghĩa thời sự sâu sắc.

19


lOMoARcPSD|15978022


Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
với hình thái khởi nghĩa là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Cách
mạng tháng Tám có sự khác biệt so với Cách mạng tháng Mười Nga và Cách mạng Trung
Quốc (1949). Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính
chất dân chủ mới, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm giành lại độc lập, tự do
cho nhân dân, thốt khỏi ách đơ hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật; đồng thời chấm
dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế; còn Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp vô sản Nga tiến hành để lật đổ chính quyền tư sản
lâm thời Nga; Cách mạng Trung Quốc năm 1949 là cuộc nội chiến giữa Quốc dân Đảng
và Đảng Cộng sản, lập ra nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng độc lập tự do của Hồ
Chí Minh và đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Cách mạng tháng
Tám đã cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước bị chủ nghĩa đế quốc
thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô
sản, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do một đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo
khơng chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của
chủ nghĩa đế quốc mà cịn có thể thành cơng ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến
lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.

20


lOMoARcPSD|15978022

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB
Đại học Sư phạm
2. Ths.gvc Ngô Quang Ty (2020), Tập bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
NXB Đại học Văn Hiến Thành phố Hồ Chí Minh

3. Ths.gvc Ngơ Quang Ty (2020), Tập bài giảng Đường lối Cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam, NXB Đại học Văn Hiến Thành phố Hồ Chí Minh
4. Nguyễn Quang Ngọc (2006), “Chương X: Việt Nam trong những năm 1930 –
1945”, Tiến trình Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo dục, Tr.292-294
5. Nguyên Bình, Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền [online],
10diem.com, đọc từ ngày truy cập 13/3/2022
6. Lê Doan, 02/08/2010, Chủ trương chiến lược mới của Đảng thời kỳ 1939-1945?
[online], ledoan312.com, đọc từ ngày truy cập 13/3/2022

21



×