Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

luận văn:Giải pháp tăng cường nguồn vốn huy động tại NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.4 KB, 95 trang )

1

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: “Giải pháp tăng cường
nguồn vốn huy động tại NHNo&PTNT chi
nhánh Bắc Hà Nội”


2

PHẦN MỞ ĐẦU
*****
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Vốn là cơ sở,
nền tảng để tổ chức mọi hoạt động trong nền kinh tế. Một đất nước có tiềm lực vốn
mạnh sẽ tạo đà phát triển kinh tế bền vững. Hệ thống NHTM ra đời là nơi cung cấp
vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, để đẩy nhanh sự nghiệp CNH – HĐH ở nước ta, đòi
hỏi hệ thống NHTM phải tận dụng, khai thác triệt để mọi nguồn vốn nhàn rỗi ở cả
trong nước và ngoài nước. Ngược lại, vốn lại là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi
hoạt động kinh doanh. Những ngân hàng trường vốn sẽ có nhiều thế mạnh trong
kinh doanh. Do đó, ngồi vốn ban đầu cần thiết, ngân hàng phải thường xuyên chăm
lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình. Việc làm thế
nào để tăng quy mô và chất lượng vốn huy động luôn là vấn đề được quan tâm hàng
đầu của các NHTM Việt Nam.
Tiềm lực về vốn trong nền kinh tế là rất lớn nhưng để thu hút được là điều
không đơn giản, vì trên thị trường ngày càng có nhiều các NHTM, các tổ chức tài
chính (quỹ tiết kiệm bưu điện, quỹ tín dụng, cơng ty bảo hiểm...) cạnh tranh nhau
cùng phát triển, gây khó khăn cho cơng tác huy động vốn của NHNo&PTNT VN
nói chung và của chi nhánh Bắc Hà Nội nói riêng. Mới thành lập năm 2001, cịn gặp
phải rất nhiều khó khăn, trở ngại đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt của các NHTM
khác trên cùng địa bàn, nhưng chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội luôn chú trọng


đến công tác huy động vốn và đã gặt hái được những kết quả rất khả quan. Tuy
nhiên, vẫn cịn một số tồn tại trong cơng tác huy động vốn mà Chi nhánh cần khắc
phục. Do đó, việc đưa ra các giải pháp thiết thực khắc phục những tồn tại trên, góp
phần hồn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Bắc Hà
Nội, tạo đà để Chi nhánh phát triển bền vững là một yêu cầu cấp thiết.
Xuất phát từ thực trạng trên, em đã quyết định chọn đề tài: “ Giải pháp tăng
cường nguồn vốn huy động tại NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội ” làm đề tài
bảo vệ khoá luận của mình.


3

2. Mục đích nghiên cứu
Khái quát những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ huy động vốn của NHTM, phân
tích thực trạng hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội.
Qua đó đưa ra các giải pháp nhằm tăng trưởng nguồn vốn một cách ổn định, vững
chắc, nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế…
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu các vấn đề liên quan trực tiếp đến
nghiệp vụ huy động vốn của NHTM và các hình thức huy động vốn.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu nghiệp vụ huy động vốn tại
NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội từ năm 2005 đến năm 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận này sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp thống kê, phân tích, so
sánh, tổng hợp nhằm giải quyết mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, luận giải các
vấn đề có liên quan đến nội dung đề tài.
5. Kết cấu của đề tài
Tên đề tài: “ Giải pháp tăng cường nguồn vốn huy động tại NHNo&PTNT
Chi nhánh Bắc Hà Nội ”.

Kết cấu của đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài kết cấu làm 3 chương
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của NHTM trong nền
kinh tế thị trường
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT
Bắc Hà Nội
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường NVHĐ tại chi nhánh
NHNo&PTNT Bắc Hà Nội


4

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1 NHTM và vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Các tổ chức trung gian tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống tài chính
trong nền kinh tế thị trường, có chức năng dẫn vốn từ những người có khả năng dẫn
vốn tới những người có nhu cầu về vốn nhằm tạo điều kiện vốn cho đầu tư phát
triển kinh tế xã hội. Ngân hàng thương mại là một bộ phận lớn nhất trong hệ thống
trung gian tài chính. Tại điều I khoản 1 pháp lệnh số 38 ngày 25/05/1990 quy định
về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và cơng ty tài chính quy định: “NHTM là tổ
chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của khách hàng, với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Tại điều 20 Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/10/1998 có quy định: “NHTM là loại hình TCTD được thực hiện tồn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”.
1.1.2 Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế

Hoạt động của NHTM đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi
các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên một vài lĩnh vực hẹp và theo
hướng chuyên sâu. Với đặc điểm kinh doanh cơ bản là đi vay để cho vay, NHTM
giữ vai trò nhất đối với sự phát triển của nền kinh tế:
1.1.2.1 NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế:
Vốn được tạo ra từ q trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và nhà nước trong nền kinh tế. NHTM là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn
cho sản xuất kinh doanh. NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm
thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế và thơng qua hoạt
động tín dụng, NHTM sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các
nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất giúp các doanh nghiệp có


5

điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động,
nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.1.2.2 NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường.
Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, đòi hỏi các doanh
nghiệp phải có một khối lượng lớn vốn đầu tư, nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự
có của doanh nghiệp. Do đó, để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp có thể tìm
đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thơng qua
hoạt động tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị
trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung ứng cho các đã đóng vai trị quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh,
đáp ứng nhu cầu thị trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc
trong cạnh tranh.
1.1.2.3 NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mơ nền kinh tế
Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các
NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thơng. Thơng qua

việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn
dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một
cách có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô: “Nhà nước điều tiết
ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.1.2.4 NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh
toán , nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác, NHTM đã tạo điều kiện thúc đẩy
ngoại thương không ngừng được mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh tốn,
kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các NHTM nước ngoài, hệ thống
NHTM đã thực hiện vai trị điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận
động của nền tài chính quốc tế.
NHTM ra đời, thông qua việc thực hiện các chức năng: trung gian tài chính,
chức năng làm thủ quỹ cho xã hội, làm trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền,
cùng với vai trị của mình đặc biệt là chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã trở
thành một bộ phận quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.


6

1.1.3 Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM:
Kết cấu bảng TKTS của NHTM
Tài Sản

Nguồn Vốn

1.

Ngân Quỹ

1.


Vốn Huy Động

2.

Cho Vay

2.

Vốn Đi Vay

3.

Đầu Tư

3.

Vốn Tự Có

4.

Tài Sản Có Khác

4.

Vốn Khác

∑ TS

∑ NV


1.1.3.1 Nghiệp vụ tài sản có
Đây là nghiệp vụ phản ánh q trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm
đảm bảo an tồn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM. Nội dung của nghiệp
vụ này bao gồm:
- Nghiệp vụ ngân quỹ: phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng vào với
mục đích nhằm đảm bảo an tồn về khả năng thanh tốn và thực hiện quy định về
dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Trung ương đề ra.
- Nghiệp vụ cho vay: là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh
doanh của các NHTM. Bao gồm các khoản đầu tư sinh lời thông qua cho vay ngắn
hạn và trung, dài hạn đối với nền kinh tế.
- Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của
mình qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường.
- Nghiệp vụ khác: kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quý; thực hiện các
dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; và các dịch vụ khác:
dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê két...mà ngân hàng đã thu
được những khoản lợi nhuận đáng kể.
1.1.3.2 Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn tự có của NHTM:


7

- Nghiệp vụ tiền gửi: phản ánh các khoản tiền từ các doanh nghiệp vào ngân
hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó ngân hàng có thể
huy động được vốn và sử dụng vốn đã huy động được vào kinh doanh. Ngoài ra,
ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay hộ gia đình được
gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
- Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM sử dụng nghiệp vụ này để
thu hút các khoản vốn có tính dài hạn, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư các khoản
vốn dài hạn của ngân hàng vào nền kinh tế. Hơn nữa, nghiệp vụ này cịn giúp các

NHTM tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
- Nghiệp vụ đi vay gồm: vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và
vay Ngân hàng trung ương dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo,
nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân ngân hàng khi họ không tự
cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ.
- Nghiệp vụ huy động vốn khác như: làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngồi ra, thơng qua việc sử dụng các phương
tiện thanh tốn, địi hỏi khách hàng phải ký gửi một bộ phận tiền vào ngân hàng về
trên cơ sở đó các ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trên tài khoản để
đưa vào hoạt động kinh doanh. Để mở rộng nghiệp vụ này các NHTM cần chú
trọng đến việc phát triển các dịch vụ và không ngừng nâng cao uy tín của mình.
- Vốn tự có của ngân hàng: là vốn thuộc sở hữu riêng của các ngân hàng.
Trong thực tế khoản vốn này không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh
doanh của bản thân ngân hàng mang lại. Bộ phận vốn này đóng góp một phần đáng
kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, đồng thời góp phần vào
việc nâng cao vị thế của NHTM trên thương trường.
Ngồi ra cịn có các nghiệp vụ ngoài bản tổng kết tài sản (các nghiệp vụ
ngoại bảng): các khoản chi phí và phí thu được liên quan đến mơi giới mua bán
chứng khốn, mua bán nợ, thực hiện kinh doanh hối đoái nhân danh khách
hàng...mặc dù các nghiệp vụ ngoại bảng đã tạo ra cho ngân hàng một lượng thu
nhập nhất định tuy nhiên ngân hàng cũng phải đối mặt với những rủi ro do các hoạt
động này mang lại.


8

1.2 Vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
NHTM là một bộ phận lớn nhất trong hệ thống trung gian tài chính. Các
NHTM có thể được tổ chức theo nhiều loại hình khác nhau: ngân hàng tư nhân,
NHTM cổ phần, NHTM quốc doanh và các ngân hàng liên doanh. Dù dưới bất kỳ

hình thức nào, các NHTM ln đặt lợi nhuận lên hàng đầu. Để đạt được điều đó,
cơng cụ duy nhất mà các NH phải có là vốn.
1.2.1 Khái niệm về vốn
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc được huy
động, dùng để cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất, vốn của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời
nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của
chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác,
họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn tiền tệ cho ngân hàng, để rồi ngân hàng phải
trả lại cho họ một khoản thu nhập. Và như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập
trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân
chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời,
chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết
định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM.
1.2.2 Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng
Trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, vốn có các vai trò sau đây:
1.2.2.1 Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải
có vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh.
Riêng đối với ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
của mình. Nói cách khác, ngân hàng khơng có vốn thì khơng thể thực hiện được các
nghiệp vụ kinh doanh. Bởi lẽ, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không
chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà cịn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của
NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền
tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán ( thị trường vốn dài hạn).
Những ngân hàng trường vốn là những ngân hàng có nhiều thế mạnh trong kinh


9


doanh. Do đó, ngồi vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định, thì
ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình
hoạt động của mình.
1.2.2.2 Vốn quyết định quy mơ hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của
ngân hàng
Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng. Thơng thường, nếu so với các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có khoản
mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay cũng nhỏ
hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay được tại thị trường trong vùng thậm chí
trong nước và cả quốc tế, thì các ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi hẹp,
mà chủ yếu trong từng khu vực nhỏ. Thêm vào đó, do khả năng vốn hạn hẹp nên
các ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy bén được với sự biến động về lãi suất, gây
ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư trong xã hội. Giả sử trên địa bàn nhu
cầu về vốn rất lớn, mà ngân hàng khơng huy động được thì không thể đáp ứng được
nhu cầu cho vay. Nếu khả năng vốn của ngân hàng đó dồi dào, chắc chắn sẽ đáp
ứng được nhu cầu vốn cho vay, có đủ điều kiện mở rộng thị trường tín dụng và các
dịch vụ ngân hàng. Chính vì vậy, càng khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng.
1.2.2.3 Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
trên thương trường.
Thật vậy, trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy
mơ hoạt động địi hỏi các ngân hàng phải coi uy tín lớn trên thị trường là điều trọng
yếu. Uy tín đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả
cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì
vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng
thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn
khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt
động kinh doanh với quy mơ ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh
tranh có hiệu quả nhằm vừa giữ chữ tín, vừa nâng cao thanh thế trên thương trường.

1.2.2.4 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.


10

Thực tế đã chứng minh: quy mơ, trình độ nghiệp vụ, phương diện kỹ thuật
hiện đại của ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng
vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín
dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về
thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách
hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân
hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh
doanh. Đây cũng là điều kiện để bổ sung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường
cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Hơn nữa, vốn lớn sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh
đa năng trên thị trường, khơng chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng các hình
thức liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua (leasing), mua bán nợ (factoring), kinh
doanh trên thị trường chứng khốn, góp phần phân tán rủi ro và tạo thêm vốn cho
ngân hàng đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thương trường...
1.2.3 Nội dung và tính chất vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Vốn của NHTM bao gồm:
- Vốn tự có
- Vốn huy động
- Vốn đi vay
- Vốn khác
Mỗi loại vốn đều có một tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động
của NHTM.
1.2.3.1 Vốn tự có
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân hàng tự tạo
lập nên bằng vốn góp của chủ sở hữu và được bổ xung từ kết quả hoạt động kinh

doanh của ngân hàng.
Vốn tự có chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng
(thường chiếm từ 7 đến 12%), song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập
ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng thuộc sở hữu của ngân hàng, bởi vậy vốn tự có
của ngân hàng có tính chất thường xun và ổn định giúp cho ngân hàng có thể chủ
động sử dụng vào các mục đích khác nhau như: trang bị cơ sở vật chất, mua sắm tài


11

sản cố định (văn phòng, kho tàng, trang thiết bị…) phục vụ cho bản thân ngân hàng,
cho vay và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh.
Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo gây
dựng lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh tốn trong trường hợp
ngân hàng gặp thua lỗ. Nó cịn là một trong những căn cứ quyết định đến khả năng
và khối lượng vốn huy động của ngân hàng. Như vậy, quy mơ sự tăng trưởng của
vốn tự có sẽ quyết định đến năng lực và thế phát triển của NHTM. Về bản chất, vốn
tự có là một bộ phận của tài sản nợ, mà mỗi thành phần của nó gắn liền với một loại
nghiệp vụ nhất định.
Vốn tự có của NHTM được cấu thành bởi 2 bộ phận cơ bản:
Vốn cấp 1 bao gồm: Vốn điều lệ (vốn đã được cấp, vốn đã góp), Quỹ dự trữ
bổ xung vốn điều lệ, Quỹ dự phịng tài chính, Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, Lợi
nhuận không chia. Vốn cấp 1 được dùng để xác định giới hạn mua, đầu tư vào tài
sản cố định của ngân hàng.
Vốn cấp 2 của ngân hàng bao gồm:
- 50% phần giá trị tăng thêm khi định giá lại tài sản cố định.
- 40% phần giá trị tăng thêm các loại chứng khoán đầu tư khi định giá lại.
- Giá trị các trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do ngân hàng phát
hành thoả mãn các điều kiện được quy định tại QĐ 457.
- Các cơng cụ nợ khác như: một số loại chứng khốn ngân hàng phát hành,

một số khoản nợ dài hạn mà ngân hàng vay của các tổ chức tín dụng trong và ngồi
nước có thể được tính như 1 phần vốn tự có của ngân hàng khi thoả mãn các điều
kiện của NHTW.
- Một số khoản nợ khác
- Dự phòng chung tối đa theo một tỷ lệ nhất định trên tổng tài sản có rủi ro
của ngân hàng (ở VN quy định tỷ lệ này là 1.25%)
Quy mô và tốc độ tăng trưởng vốn tự có thể hiện thế và lực của ngân hàng
trên thị trường (dù tăng bằng con đường nào). Nó quyết định khả năng hiện đại hố
của ngân hàng vì mức độ đầu tư phụ thuộc vào vốn tự có. Hơn nữa, quy mơ vốn tự
có quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng (cho vay, đầu tư...) và là cơ sở tổi
thiểu đảm bảo an toàn cho người gửi tiền (tấm nệm an toàn cuối cùng). Do vậy vốn
tự có đóng vai trị rất quan trọng trong quá trình hoạt động của các NHTM.


12

1.2.3.2 Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ
chức kinh tế và cá nhân trong xã hội thông qua q trình thực hiện các nghiệp vụ
tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh
doanh.
Bản chất vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân hàng
chỉ có quyền sử dụng khơng có quyền sở hữu và có trách nhiệm hồn trả cả gốc và
lãi khi đến hạn (tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn (tiền gửi không
kỳ hạn). Vốn huy động đóng vai trị rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh
doanh của NHTM.
Vốn huy động luôn biến động, nên ngân hàng không được phép sử dụng hết
số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng
thanh toán.
Vốn huy động bao gồm:

- Tiền gửi: Tiền gửi không kỳ hạn, Tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm.
- Các nguồn huy động khác: phát hành các công cụ nợ: chứng chỉ tiền gửi,
kỳ phiếu, trái phiếu. Với hình thức huy động này các NHTM phải trả lãi suất cao
hơn so với lãi suất tiền gửi. Nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi ngân hàng thiếu
vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi khơng đủ. Như vậy, khi thực hiện huy
động vốn dưới các hình thức này, các NHTM phải căn cứ vào đầu ra để quyết định
về khối lượng, mức lãi suất và thời hạn huy động, cũng như phương pháp huy động.
Vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định, khi đã huy động đủ khối
lượng vốn theo dự kiến các NHTM sẽ ngừng việc huy động (bán) giấy tờ có giá.
Tóm lại: Vốn huy động là cơng cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của
các NHTM. Nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng (thường trên 80%), giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng. Đồng thời các NHTM phải tôn trọng các giới hạn về mức huy động vốn
theo quy định. Tại VN trước đây là 20 lần so với vốn tự có.
Mặc dù phạm vi sử dụng vốn huy động bị hạn chế so với vốn tự có, song nếu
các ngân hàng sử dụng tốt các nguồn vốn này thì khơng những nguồn lợi của ngân
hàng tăng lên mà cịn tạo cho ngân hàng có được uy tín ngày càng cao. Qua đó, tạo


13

cho ngân hàng mở rộng được vốn và góp phần mở rộng quy mơ hoạt động kinh
doanh của mình.
1.2.3.3 Vốn đi vay
Vốn đi vay là quan hệ vay vốn giữa NHTM và NHTW, hoặc giữa các NHTM
với nhau hay giữa các NHTM với các tổ chức tín dụng khác.
Các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi ngân
hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động, hay nói cách
khác: tạm thiếu vốn khả dụng.
Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay NHTW

được chia thành hai loại: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vốn vay để thanh toán và vay
tái cấp vốn (vay tái chiết khấu, tái cầm cố).
1.2.3.4 Vốn khác
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một khoản
vốn gọi là vốn trong thanh toán. Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài khoản
này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên tạm được coi là nhàn rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng
kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng khác,
nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Do việc phát tiền được
thực hiện theo tiến độ công việc, nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời tồn khoản
đó vào kinh doanh.

1.3 Nghiệp vụ huy động vốn và sự cần thiết tăng cường nguồn vốn huy
động tại NHTM.
1.3.1 Khái niệm.
Nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ mà ngân hàng thông qua uy tín, và
các hoạt động kinh doanh của mình tiến hành huy động các nguồn vốn nhàn rỗi
từ các thành phần kinh tế trong xã hội, tạo ra nguồn vốn kinh doanh cho mình,
góp phần ổn định lưu thơng tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát...
1.3.2 Sự cần thiết phải tăng cường nguồn vốn huy động
Các NHTM cần thiết phải tăng cường nguồn vốn huy động do nghiệp vụ huy
động vốn có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế cũng như với bản thân NHTM.


14

- Đối với nền kinh tế:
Hoạt động huy động vốn của NHTM đã góp phần thực hiện chính sách tiền
tệ, kiềm chế lạm phát. Kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy: để ổn định tiền
tệ, kiềm chế lạm phát, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài

chính, tiền tệ và một trong những bịên pháp khá hữu hiệu là không ngừng tăng
cường vốn trong nền kinh tế nhất là nguồn vốn huy động của hệ thống NHTM.
Thông qua các nghiệp vụ: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, đi vay…ngân
hàng đã huy động được một lượng vốn khá lớn trong nền kinh tế, giúp giảm dần
lượng tiền mặt lưu thông qua đó góp phần giảm áp lực tăng giá cả từ đó giúp ổn
định giá trị đồng nội tệ.
Thơng qua nghiệp vụ huy động vốn sẽ giúp huy động các nguồn vốn nhỏ lẻ
trong xã hội phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế quốc dân,
đóng góp tích cực cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Bởi lẽ, nó khuyến khích dân
cư, tổ chức kinh tế tăng cường tiết kiệm, tích luỹ tiêu dùng từ đó tăng nguồn nội lực
cho quốc gia, tạo đà tăng trưởng kinh tế. Đồng thời mang lại cho họ một khoản thu
nhập từ lãi, qua đó góp phần ổn định, nâng cao đời sống cho người gửi tiền, kích
thích tiêu dùng làm tăng sức mua của xã hội.
Hơn nữa, nguồn vốn huy động là cơ sở cho các khoản vay mà từ đó các dự
án khả thi được thực hiện khiến cho các ngành nghề mới được ra đời, các doanh
nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh tạo thêm công ăn việc làm giúp tăng thu nhập,
cải thiện đời sống cho người lao động.
Ngoài ra, qua nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá NHTM đã tạo thêm hàng
hố cho thị trường vốn, thúc đẩy thị trường tài chính, tiền tệ phát triển.
- Đối với bản thân NHTM:
Hoạt động huy động vốn đã giúp NHTM mở rộng quan hệ với nhiều đối
tượng khách hàng, biết được nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ của từng đối tượng
khách hàng từ đó tìm cách thoả mãn tốt nhất các nhu cầu đó, tạo niềm tin đối với
khách hàng giúp nâng cao uy tín của ngân hàng. Nhờ vậy, hoạt động huy động vốn
của NHTM sẽ trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn. Tạo điều kiện cho NHTM mở rộng
mạng lưới hoạt động, tăng thị phần, tăng sức cạnh tranh trên thương trường.


15


Mặt khác, hoạt động huy động vốn có hiệu quả sẽ giúp hoạt động kinh doanh
của NHTM không bị ngưng trệ. Vì do thiếu vốn ngân hàng sẽ từ chối cho vay, đầu
tư trong khi các khoản cho vay, đầu tư này sẽ mang lại thu nhập cao cho ngân hàng,
như vậy ngân hàng sẽ mất đi cơ hội kinh doanh, mất khách hàng tốt, tệ hơn là nó
làm giảm uy tín của ngân hàng.
Tóm lại: vốn đóng vai trị quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh
của NHTM, vì vậy hoạt động huy động vốn của NHTM sẽ ảnh hưởng tới khả năng
thanh tốn, quy mơ cũng như phạm vi hoạt động của ngân hàng. Huy động vốn là
nghiệp vụ truyền thống của NHTM tồn tại trong quá trình kinh doanh. Do vậy dù
thừa hay thiếu vốn, NHTM vẫn phải duy trì bền vững nghiệp vụ này. Tuy nhiên, tuỳ
từng mục tiêu trong từng thời kỳ khác nhau NHTM cần lựa chọn chiến lược huy
động vốn cho phù hợp và đem lại hiệu quả cao.

1.3.3 Các hình thức huy động vốn
Hoạt động chủ yếu của các NHTM là đi vay để cho vay, do vậy các NHTM
làm nhiệm vụ vay tiền (hầu hết từ những người gửi tiền) và cho vay hoặc đầu tư với
mục đích hưởng lợi qua lãi suất. Đây là công việc của một trung gian tài chính,
đóng vai trị trung gian giữa người có vốn và người cần vốn. Vốn đóng vai trị quan
trọng và là nền tảng giúp ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình.
Do vậy các NHTM phải tìm mọi cách để huy động, thu hút vốn để đáp ứng nhu cầu
cho vay, đầu tư…các hình thức huy động vốn mà các NHTM hay áp dụng bao gồm:
1.3.3.1 Huy động vốn qua hình thức nhận tiền gửi:
Các loại tiền gửi mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng gửi tiền bao gồm:
a) Tiền gửi không kỳ hạn:
Là loại tiền gửi mà khách hàng_người gửi tiền có thể gửi vào và rút ra bất kỳ
lúc nào. Và ngân hàng phải thoả mãn u cầu đó của khách hàng. Chính vì tính
khơng ổn định của tiền gửi khơng kỳ hạn nên với loại tiền gửi này, khách hàng
không được trả lãi hoặc lãi suất rất thấp. Tiền gửi không kỳ hạn gồm 2 loại:



16

- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): là các khoản tiền gửi không kỳ hạn
trước hết được sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hoá,
dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh của người gửi tiền một các thường xuyên,
an toàn và thuận tiện.
Đây là loại tiền gửi chủ yếu của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế. Với
loại tiền gửi này khách hàng được sử dụng các phương tiện thanh tốn khơng dùng
tiền mặt như: séc, uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán...
Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài
khoản: tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản vãng lai. Đối với tài khoản tiền
gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng
séc hay chuyển khoản. Khách hàng mở tài khoản này nhằm mục đích “đảm bảo thế
năng” và sử dụng dễ dàng thuận tiện đồng vốn khi cần. Tài khoản vãng lai là tài
khoản có lúc dư nợ, có lúc dư có. Với tài khoản này, chủ tài khoản cịn có thể được
ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn trong một khoảng thời gian nhất định.
Đứng trên góc độ NHTM tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ mà ngân
hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên, trong
mỗi ngân hàng do có sự khơng khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản hay
giữa các tài khoản làm cho xuất lớn hơn nhập (số tiền gửi vào lớn hơn số tiền rút ra)
tạo nên tồn khoản mà NHTM được phép sử dụng một phần làm vốn kinh doanh.
- Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý (tiền gửi không kỳ phi giao dịch): là khoản
tiền được ký gửi với mục đích an tồn tài sản, khơng mang tính chất phục vụ thanh
tốn. Khi cần khách hàng có thể đến ngân hàng rút tiền để chi tiêu. Cũng như
trường hợp trên, ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu rút tiền của khách hàng bất cứ
khi nào và chỉ được sử dụng tồn khoản khi đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả.
Tại một số nước có cơng nghệ ngân hàng phát triển cao, việc rút tiền từ tài
khoản này phần lớn được thực hiện bằng điện thoại hoặc cũng có thể rút tiền một
cách dễ dàng qua các máy rút tiền tự động_ATM bằng việc sử dụng các thẻ ATM.
Loại tiền gửi này được mệnh danh là tiền gửi theo yêu cầu, không đem lại lãi suất

cụ thể.
Tại Việt Nam, tiền gửi thuộc loại này được thể hiện dưới các hình thức như:
tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và tài khoản tiền gửi cá
nhân. Do tỷ trọng thanh tốn khơng dùng tiền mặt ở VN còn quá thấp, để khuyến


17

khích việc thực hiện thanh tốn qua ngân hàng, các NHTM ở VN đã tiến hành trả
lãi cho loại tiền gửi này. ở các nước phát triển loại tiền gửi này chiếm một vị trí
quan trọng trong kết cấu nguồn vốn của NHTM (ở Mỹ, chiếm 30% tổng tiền gửi).
Vì lẽ đó, để tạo nguồn tiền gửi trên tài khoản thanh toán, việc thu hút và giữ khách
hàng được các ngân hàng rất coi trọng.
Tiền gửi không kỳ hạn là nguồn vốn biến động thường xuyên, giải pháp để
tăng cường nguồn vốn này không phải là yếu tố lãi suất mà là sự an toàn, thuận tiện
cũng như chất lượng các dịch vụ, điển hình là dịch vụ thanh tốn phi tiền mặt.
b) Tiền gửi có kỳ hạn
Là khoản tiền khách hàng gửi vào ngân hàng có sự thoả thuận trước về thời
hạn rút tiền.
Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ và xét về bản chất
chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi. Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được
rút tiền ra khi đến hạn, nhưng trên thực tế, do áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng
nên các ngân hàng thường cho phép khách hàng rút ra trước hạn nếu họ có nhu cầu.
Trong trường hợp này khách hàng sẽ được hưởng một mức lãi suất thấp hơn lãi suất
ban đầu đã thoả thuận (thường là lãi suất tiền gửi không kỳ hạn).
Các NHTM nhận 2 loại tiền gửi có kỳ hạn: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo
rút (khi muốn rút ra phải báo trước). Về cơ bản, các khoản tiền gửi này không được
sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng
lai. Thơng thường, tiền gửi có kỳ hạn có thời hạn dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và TGTK.

Đây là nguồn tiền tương đối ổn định,ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản
vào kinh doanh. Vì vậy, các NHTM ln tìm mọi cách đa dạng hoá loại tiền gửi này
bằng việc áp dụng nhiều kỳ hạn với các mức lãi suất khác nhau...
Ở các nước phát triển, tiền gửi có kỳ hạn khá phổ biến và thường được thể
hiện chủ yếu bằng chứng chỉ tiền gửi_CDs và được ghi rõ hạn định và giá trị thanh
toán. Việc rút tiền trước hạn sẽ bị phạt và có thể vượt quá tiền lãi mà khách hàng
được hưởng. ở Đức, để khắc phục việc rút vốn trước hạn, NHTM thường cấp cho
khách hàng một khoản tín dụng mà coi khoản tiền gửi có kỳ hạn là tài sản đảm bảo
cho khoản vay.


18

Tại VN, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (mà ta
thường gọi là kỳ phiếu ngân hàng có mục đích) đã xuất hiện với các kỳ hạn 3 tháng,
6 tháng...Tuy mới được sử dụng trong vài năm gần đây, song trên thực tế tỷ trọng
huy động vốn bằng hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng cao hơn so với các loại
hình huy động khác.
c) Tiền gửi tiết kiệm (tiền gửi chủ yếu của dân cư)
Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa
sử dụng cho tiêu dùng. TGTK là một dạng đặc biệt để tích luỹ tiền tệ trong lĩnh vực
tiêu dùng cá nhân.
Từ lâu, TGTK đã được coi là công cụ huy động vốn truyền thống của các
NHTM. Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng đáng
kể trong tiền gửi ngân hàng (ở Mỹ chiếm khoảng 25% tổng tiền gửi ngân hàng).
Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường, TGTK được phát triển dưới hai loại hình
tiết kiệm sau:
- TGTK không kỳ hạn: là khoản tiền gửi khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc
nào song khơng được sử dụng các cơng cụ thanh tốn để chi trả cho người khác.
Thực chất đây là khoản TGTK thông thường. Đối với khoản tiền gửi này,

chủ tài khoản có thể rút ra bất cứ lúc nào mà khơng phải báo trước. Tuy nhiên, số
dư tài khoản này thường khơng lớn, nhưng có ưu điểm hơn so với các tài khoản tiền
gửi giao dịch ở chỗ: số dư này ít biến động. Chính vì vậy, đối với loại tiền gửi này,
các NHTM thường trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh tốn. Đó là điều kiện để
các NHTM có thể dễ dàng huy động số vốn này.
- TGTK có kỳ hạn: là khoản tiền gửi có sự thoả thuận về thời hạn rút tiền, có
mức lãi suất cao hơn so với TGTK khơng kỳ hạn.
Loại hình tiết kiệm này khá quen thuộc ở VN. Các NHTM ở VN thường huy
động tiết kiệm với kỳ hạn từ ba tháng đến một năm. Nhưng do áp lực cạnh tranh và
do nhu cầu về vốn ngày càng tăng nên các NHTM đã tăng dần lãi suất TGTK và
cũng đa dạng hố thời hạn gửi tiền (tháng, tuần và thậm chí theo ngày...) với các
mức lãi suất khác nhau.
Hơn nữa, về nguyên tắc một khi khách hàng đã gửi tiền vào tài khoản này,
họ sẽ không được rút ra (cả gốc và lãi) trừ khi đã hết hạn gửi tiền. Để tăng sức cạnh
tranh trong thu hút tiền gửi, các NHTM vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước hạn.


19

Tuy nhiên, nhằm tránh việc khách hàng rút tiền trước hạn một phần trong tiền lãi
mà khách hàng được hưởng đã bị khấu trừ (có thể ngân hàng khơng chấp nhận trả
lãi cho một tháng nào đó hoặc cũng có thể khách hàng chỉ được hưởng một mức lãi
suất TGTK không kỳ hạn cho khoảng thời gian gửi tiền).
- Tiết kiệm dài hạn: loại tiết kiệm này rất phổ biến ở một số nước công
nghiệp, nhằm thu hút số tiền nhàn rỗi trong thời hạn dài. So với các loại hình tiết
kiệm khác, đối với loại tiết kiệm này, bất kỳ lúc nào chủ tài khoản cũng có thể gửi
tiền vào tài khoản với số lượng không hạn chế, nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn.
Đây là loại hình tiết kiệm mà ngân hàng cần tận dụng nhằm tạo ra các nguồn vốn có
tính ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn của mình.
Vậy, TGTK là nguồn vốn tương đối ổn định và lâu dài vì vậy NHTM cần có

giải pháp tăng cường huy động nguồn vốn này (đặc biệt là về lãi suất) để phục vụ
hoạt động kinh doanh của mình.
1.3.3.2 Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá
Nguồn vốn truyền thống và chủ yếu tạo lập các quỹ của NHTM là tiền gửi.
Chính những nguồn tiền gửi của cơng chúng (TGTK, tiền gửi thanh toán…) đã
cung cấp cơ sở cho hầu hết các khoản cho vay, đầu tư của ngân hàng, qua đó tạo ra
lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên các nhà quản lý NHTM phải làm gì khi mà số
lượng cũng như sự tăng trưởng tiền gửi không đủ đáp ứng tất cả các yêu cầu xin vay
hay đầu tư mà ngân hàng muốn thực hiện? Đòi hỏi các NHTM phải tìm kiếm và sử
dụng các cơng cụ mới để huy động vốn một cách dễ dàng, đáp ứng nhu cầu vốn của
mình. Đây chính là lý do ra đời kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và chứng chỉ tiền
gửi.
a) Chứng chỉ tiền gửi (CDs):
CDs là công cụ vay nợ do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trên thị
trường với bản chất tương tự như một khoản tiền gửi có kỳ hạn. Người sở hữu CDs
được hưởng lãi định kỳ và được hoàn trả mệnh giá khi đến hạn.
Thời hạn của CDs thường là ngắn hạn từ 1-3 tháng, hoặc 6 tháng…
Sự khác biệt chủ yếu của CDs với các khoản tiền gửi có kỳ hạn là chúng có thể
chuyển nhượng và mệnh giá được thống nhất theo một mức giá chuẩn. Vì vậy nó


20

trở nên hấp dẫn hơn. CDs giúp ngân hàng có thể huy động vốn một cách chủ động
mà không phải phụ thuộc vào tiền gửi của khách hàng.
b) Kỳ phiếu ngân hàng: là giấy nhận nợ của ngân hàng với cam kết trả gốc và lãi
sau một thời gian nhất định.
Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành thường xuyên, có thời hạn khá linh hoạt
và phong phú: ba tháng, sáu tháng…do vậy, kỳ phiếu có tính ổn định rất cao, tính
tập trung cao và có lãi suất cao hơn so với tiền gửi cùng kỳ hạn, lại có thể chuyển

nhượng nên thu hút được khối lượng vốn tương đối lớn. Kỳ phiếu ngân hàng được
sử dụng nhằm mục đích sinh lời và nhằm sử dụng các tài sản tài chính có tính lỏng
cao.
c) Trái phiếu ngân hàng: là một cơng cụ nợ của dài hạn của ngân hàng, với cam kết
thanh toán gốc vào ngày đáo hạn và thanh toán lãi vào những thời gian xác định.
Trái phiếu dùng để huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho những kế
hoạch phát triển kinh doanh có quy mơ lớn và dài hạn với sự ổn định cao về thời
hạn và lãi suất. Trong khi kỳ phiếu được phát hành ở từng chi nhánh với khung lãi
suất, thời gian phát hành riêng biệt thì trái phiếu được phát hành với quy mô lớn,
đồng loạt trong hệ thống mỗi ngân hàng.
Trái phiếu gồm nhiều loại: có ghi tên, khơng ghi tên, trả lãi trước, trả lãi sau,
có thể chuyển nhượng…các loại trái phiếu có đặc trưng là mệnh giá được xác định
trước (đã ghi trên trái phiếu), ngày đáo hạn được công bố khi phát hành.
Như vậy, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng là những hình thức huy động rất tiện
lợi, tuỳ theo tính cân đối nguồn vốn và cho vay từng thời kỳ với mức lãi suất hấp
dẫn NHTM. không những chủ động thu gom một lượng vốn cần thiết đủ để đáp ứng
nhu cầu vốn trong một thời gian ngắn mà cịn có thể kiềm chế làm phát góp phần
phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán một cách hiệu quả.
1.3.3.3 Huy động vốn qua đi vay:
Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của các
NHTM không chỉ về mặt quy mô đơn thuần mà chủ yếu mang ý nghĩa như là một
biện pháp quản lý các khoản mục tài sản nợ. Các NHTM có thể đi vay từ nhiều
nguồn khác nhau:
a) Vay NHTW:


21

- Vốn vay ngắn hạn bổ sung
Là hình thức các NHTM xin vay vốn bổ sung vốn ngắn hạn của mình. Trong

hình thức vay này, các NHTM chỉ được vay khi cịn hạn mức tín dụng và trong hạn
mức tín dụng đã thoả thuận.
- Vốn vay để thanh toán
Các NHTM vay NHTW nhằm thực hiện cơng tác thanh tốn giữa các ngân
hàng nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán (thời hạn vay thường ngắn).
- Tái cấp vốn
NHTW cho NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng từ này phải là
các chứng từ có chất lượng, tức phải thoả mãn những điều kiện: hợp pháp, hợp lệ,
đảm bảo an toàn. Tái cấp vốn bao gồm hai hình thức:
+ Cho vay tái chiết khấu: NHTW nhận các chứng từ có giá mà các NHTM đã
chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như các NHTM đã làm. Tuy
nhiên, việc cho vay tái chiết khấu đối với các NHTM đã được giới hạn trong mức
cho phép (hạn mức tái chiết khấu) để thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước.
+ Cho vay có đảm bảo: là hình thức các NHTM đem các chứng từ có giá đến
NHTW để làm đảm bảo xin vay vốn. Căn cứ trên tổng mệnh giá các chứng từ có giá
làm đảm bảo, NHTW sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo sự quản lý của Nhà
nước.
Trong số đó, hình thức thường gặp là vay tái chiết khấu. Với vai trò là người
cho vay cuối cùng, NHTW luôn cho các NHTM vay với một mức giá nhất định: đó
là lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu được NHTW sử dụng như một công
cụ điều tiết vĩ mô, tuỳ vào yêu cầu điều tiết của nền kinh tế mà lãi suất này có thể
được nâng cao hoặc hạ thấp. Để hạn chế tình trạng các NHTM ồ ạt vay vốn, NHTW
đã sử dụng các công cụ như hạn mức tái chiết khấu hay lãi suất tái chiết khấu. Song
dù sao, đây cũng là sân sau đối với hoạt động huy động vốn nhằm làm gia tăng vốn
khả dụng trong kinh doanh của các NHTM.
b) Vay từ các tổ chức tín dụng khác:
Đó là các khoản vay thông thường mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị
trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ.
Các NHTM thường sử dụng giải pháp đi vay trong các trường hợp sau:



22

+ Thứ nhất: các NHTM thường chỉ vay NHTW khi khơng cịn giải pháp nào
khác nhằm tránh việc sử dụng tối đa hạn mức tái chiết khấu, mà qua đấy có thể gây
sự chú ý của NHTW.
+ Thứ hai: để tránh việc bị mất đi một khách hàng tốt trong khi ngân hàng
đang có khó khăn về vốn.
1.3.3.4 Các hình thức huy động vốn khác
- Các NHTM có thể thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi từ các hoạt động uỷ thác
về các dịch vụ xã hội như: câu lạc bộ giáng sinh, nghỉ hè và các kế hoạch khác được
mệnh danh là “câu lạc bộ tiết kiệm”. Các kế hoạch này được tạo ra để khuyến khích
những người gửi tiền tiết kiệm ký thác mỗi tuần một số tiền nhất định tại ngân hàng.
Số tiền này sau một thời gian sẽ là một số tiền đủ lớn để người giữ tiền trang trải
các chi phí cho các dịch vụ trên. Để mở rộng nguồn vốn này, các NHTM phải
không ngường nâng cao uy tín, phát triển các dịch vụ ngân hàng…
- Vốn trong thanh toán: là nguồn vốn phát sinh trong q trình thanh tốn của
NHTM do có sự chênh lệch về thời điểm hạch toán trên tài khoản của khách hàng.
Thực tế vốn tiền tệ nhàn rỗi được tạo ra thông qua:
+ Do chênh lệch giữa thời điểm trích tài khoản người trả tiền và thời điểm
nhập số tiền đó vào tài khoản người thụ hưởng đã tạo ra một lượng tiền nhàn rỗi
trong một thời gian nhất định. Loại vốn này được tạo ra trong quá trình thanh tốn
khơng dùng tiền mặt giữa các khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại các
NHTM.
+ Do trong một số hình thức thanh tốn: séc bảo chi, thẻ thanh tốn, thẻ tín
dụng…khách hàng phải lưu ký một lượng tiền nhất định để đảm bảo việc thanh toán
với người thụ hưởng, bởi vậy tiền đã trả nhưng thực tế chưa được thanh toán cho
người thụ hưởng nên đã tạo ra một lượng vốn nhàn rỗi nhất định có thể sử dụng làm
vốn kinh doanh cho ngân hàng.
1.3.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến NVHĐ vốn của NHTM:

1.3.4.1 Nhân tố khách quan
a) Hành lang pháp lý
Những bộ luật tác động đến hoạt động kinh doanh của NHTM như: luật các
TCTD, luật Ngân hàng Nhà nước, luật đầu tư nước ngoài...những luật này quy định


23

tỷ lệ huy động vốn so với vốn tự có, quy định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu,
quy định mức cho vay của NHTM đối với một khách hàng...hoặc các NHTM không
được nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng giảm lãi suất, mà phải dựa vào lãi
suất do ngân hàng Nhà nước đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên độ nhất định.
Bên cạnh đó, chính sách tài chính tiền tệ cũng ảnh hưởng đến nghiệp vụ tạo
vốn của NHTM. Nó thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Mục tiêu chính sách tiền tệ: kiểm sốt lạm phát, bình ổn giá cả, ổn định sức
mua đồng tiền, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm. Khi nền kinh tế lạm phát
tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu
hút tiền ngồi xã hội thì lúc đó NHTM sẽ huy động vốn dễ dàng hơn. Hoặc khi Nhà
nước có chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất thì các NHTM khó huy
động hơn vì người có tiền nhàn rỗi sẽ bỏ tiền vào sản xuất có lợi hơn gửi ngân
hàng..
- Việc sử dụng các cơng cụ chính sách tiền tệ:
+ Lãi suất chiết khấu: nếu NHTW tăng lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế các
NHTM đến xin vay, và ngược lại.
+ Dự trữ bắt buộc: tăng cao sẽ làm giảm vốn khả dụng của NHTM, thắt chặt
khả năng tạo tiền của NHTM và ngược lại.
- Chính sách đầu tư của Nhà nước: hợp lý hay không hợp lý sẽ ảnh hưởng
trực tiếp tới môi trường kinh doanh không chỉ đối với khách hàng mà ngay cả với
ngân hàng, qua đó ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn của ngân hàng.
b) Tình hình kinh tế – xã hội trong và ngoài nước

Khi nền kinh tế ở vào thời kỳ tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều
kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo mơi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn của
ngân hàng. Mặt khác, nó cũng tạo ra mơi trường đầu tư cho ngân hàng, từ đó ngân
hàng phải tìm ra biện pháp để huy động vốn sao cho có hiệu quả thiết thực. Khi mơi
trường đầu tư được mở rộng thì thu nhập của ngân hàng sẽ không ngừng tăng lên,
tạo tiền đề cho việc mở rộng vốn tự có của ngân hàng. Ngược lại, nền kinh tế trong
thời kỳ suy thoái sẽ cản trở hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
c) Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người gửi tiền
Nếu ở những vùng dân cư người ta quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình
thức cất trữ (vàng, hàng hố...) là chính thì việc huy động vốn của ngân hàng sẽ gặp


24

khó khăn. Cịn nếu người dân có nhu cầu hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì học
gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn, do đó cơ hội huy động vốn của NHTM sẽ tăng
lên...
Mức thu nhập của người dân là một trong những yếu tố trực tiếp quyết định
đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung, thu nhập của người dân tăng càng
cao, nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên tương đối so với nhu cầu tiêu dùng,
lúc này nhu cầu mở tài khoản cũng như gửi tiền vào ngân hàng sẽ ngày một tăng
lên.
d) Bảo hiểm tiền gửi
Để lấy được niềm tin từ người gửi tiền đồng thời bảo vệ lợi ích cho họ tránh
được những tổn thất, họ có thể được chi trả bảo hiểm tổn thất khi ngân hàng phá
sản. Đối với những người gửi tiền nhỏ, họ sẽ được công ty bảo hiểm hoàn trả hết số
tiền mà họ gửi tiền vào ngân hàng. Còn đối với những người gửi tiền với số lượng
lớn thì phần tiền vượt quá giới hạn bảo hiểm không thuộc trách nhiệm của công ty
bảo hiểm mà phụ thuộc vào giá trị thanh lý tài sản của ngân hàng bị phá sản. Lợi ích
của việc tham gia bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ người gửi tiền, làm cho họ cảm thấy

an toàn, tin tưởng vào ngân hàng, tạo thuận lợi cho công tác huy động vốn của
NHTM.
1.3.4.2 Nhân tố chủ quan
a) Hình thức huy động
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa dạng hố
hình thức huy động. Hình thức huy động càng phong phú thì ngân hàng càng dễ huy
động hơn. Ngân hàng có thể huy động bằng cách phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, huy
động tiền gửi: tiền gửi khơng kỳ hạn, có kỳ hạn, TGTK trong đó đưa ra nhiều thời
hạn khác nhau cho các loại TGTK có kỳ hạn...
b) Lãi suất huy động
Đối với người gửi tiền là các doanh nghiệp thì lãi suất khơng phải là vấn đề
mà họ quan tâm, mà họ quan tâm nhiều nhất đến việc sử dụng các dịch vụ thanh
tốn từ ngân hàng (tiền gửi khơng kỳ hạn). Bên cạnh tiền gửi không kỳ hạn, vốn
huy động của ngân hàng cịn bao gồm: tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và
TGTK của dân cư, họ gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi, vì vậy lãi suất


25

là điều mà họ rất quan tâm, và bộ phận tiền gửi này rất nhạy cảm với lãi suất…để
huy động được nhiều vốn, các NHTM phải có chính sách lãi suất hợp lý, sao cho
vừa đảm bảo kích thích người gửi tiền, vừa phù hợp với lãi suất cho vay để tránh
việc huy động với giá cao mà đầu tư với giá thấp. Các NHTM thường chia nhỏ lãi
suất theo nhiều thời hạn khác nhau, và không để ứ đọng vốn họ lại giảm lãi suất cho
vay, nhưng vẫn phải đảm bảo kinh doanh có lãi.
c) Mạng lưới phục vụ cho công tác huy động vốn
Với những ngân hàng sát địa bàn dân cư hoặc gần trung tâm thương mại thì
sẽ thuận lợi khi thu hút vốn. Mạng lưới huy động thường được biểu hiện qua việc tổ
chức các quỹ tiết kiệm. Khi dân chúng có tiền nhàn rỗi sẽ ra quầy tiết kiệm gần nhà
nhất để gửi tiền nhằm tiết kiệm chi phí và thời gian đi lại. Vì vậy, mạng lưới huy

động cần rộng rãi, tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền. Mạng lưới nên mở ra
cả ở những nơi như: nông thôn, vùng sâu, vùng xa…
d) Các dịch vụ do ngân hàng cung cấp
Nếu một ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt và đa dạng thường có lợi thế hơn
các ngân hàng có dịch vụ giới hạn. Trong điều kiện địa bàn thiếu bãi đậu xe, nếu
ngân hàng có bãi đậu xe, tiện nghi rộng rãi cũng là một lợi thế. Hay như ngân hàng
có quầy thu cạnh đường, dịch vụ ngân hàng qua thư, các hệ thống chi trả tự động,
làm việc suất ngày đêm, và các dịch vụ nhận tiền gửi được cải tiến và tốn ít thời
gian...sẽ là một lợi thế cho ngân hàng trong việc thu hút khách hàng.
e) Công nghệ trong thanh tốn và tin học
Ngày nay, cơng nghệ thanh tốn hiện đại, thanh tốn khơng dùng tiền mặt
càng chiếm ưu thế, thay vì thanh tốn bằng tiền mặt, khách hàng chuyển sang thanh
toán bằng thẻ, séc…Để thực hiện được, khách hàng phải mở tài khoản tiền tại ngân
hàng nên ngân hàng thực hiện được việc huy động vốn trên các tài khoản này.
Nhờ có hệ thống tin học hiện đại ngân hàng có thể thu thập các thơng tin tốt
về khách hàng, về thị trường, qua đó xác định được thị trường đầu tư vốn có hiệu
quả, phát triển nghiệp vụ và các dịch vụ của mình, giúp hạn chế rủi ro, tăng lợi
nhuận, tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng vốn tự có.
f) Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng


×