Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Sử dụng phim tài liệu nhằm phát triển năng lực học sinh trong dạy học chương IV lịch sử việt nam từ năm 1954 đến năm 1975 lớp 12 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.62 MB, 62 trang )

PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong xu thế hội nhập tồn cầu hiện nay địi hỏi giáo dục nước ta phải có
sự đổi mới căn bản, tồn diện. Cùng với các bộ mơn khác ở trường phổ thơng,
mơn Lịch sử ngồi việc trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về Lịch
sử thế giới, Lịch sử dân tộc và địa phương cịn góp phần giáo dục tư tưởng,
tình cảm và chú ý phát triển các năng lực chung cũng như năng lực chuyên
biệt cho học sinh. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và
đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển
mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn
diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với
thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội”. [35;
tr.3].
Trong thực tế dạy học ở trường Phổ thông, một bộ phận khơng nhỏ cán bộ
quản lí, giáo viên và học sinh chưa có sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức về
vị trí, vai trị của bộ mơn Lịch sử cũng như sự cấp thiết phải đổi mới phương
pháp dạy học lịch sử từ cách tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực. Tình trạng
dạy học theo lối truyền thụ một chiều “thầy đọc trò chép”, chủ yếu dựa vào tài
liệu sách giáo khoa mà ít quan tâm kết hợp khai thác các phương tiện dạy học
hiện đại có tính trực quan cao nên đã hạn chế việc phát huy tính tích cực học tập
Lịch sử của học sinh.Trong khi đó, đặc trưng của bộ mơn Lịch sử cũng như nhận
thức Lịch sử của học sinh đòi hỏi phải đảm bảo tính trực quan trong q trình
dạy học Lịch sử ở trường Phổ thông. Đây là một trong những nguyên tắc dạy học
hàng đầu trong lý luận và phương pháp dạy học lịch sử.
Ở một số trường Phổ thông được trang bị tốt phương tiện kỹ thuật dạy
học (máy tính, máy chiếu, internet,…) nên giáo viên Lịch sử có điều kiện tiếp
cận và sử dụng các phương tiện hiện đại này để trình chiếu tranh ảnh, phim tài
liệu phục vụ dạy học Lịch sử. Tuy nhiên phần lớn giáo viên sử dụng Phim tài
liệu chỉ ở mức độ minh họa Lịch sử và vẫn còn lúng túng trong việc khai thác
phương tiện trực quan này theo hướng phát triển năng lực của học sinh.


Là một giáo viên giảng dạy Lịch Sử tại trường Phổ thông,Tôi nhận thấy
việc sử dụng phim tài liệu trong giảng dạy là vô cùng cần thiết. Việc khai thác và
sử dụng có hiệu quả Phim tài liệu sẽ góp phần tạo hứng thú trong học tâp, giúp
học sinh lĩnh hội một cách chủ động kiến thức nên sẽ nhớ bài sâu và lâu hơn.
Hiện nay, có nhiều Phim tài liệu của trong và ngoài nước phản ánh về
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 được giới thiệu trên truyền hình, trên
ấn phẩm CD hay trên trang Web YouTube.com. Đây là điều kiện thuận lợi để
giáo viên Lịch sử khai thác, sử dụng một cách hiệu quả trong dạy học Lịch sử
khóa trình Lịch sử Việt Nam từ 1954 - 1975 ở lớp 12 Trung học phổ thông.
6


Từ những lí do trên,Tơi quyết định chọn đề tài “Sử dụng phim tài liệu
nhằm phát triển năng lực học sinh trong dạy học chương IV Lịch Sử Việt Nam
từ năm 1954 đến năm 1975 - lớp 12 THPT” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm
với mong muốn phát triển thêm về năng lực chuyên môn nghiệp vụ của bản
thân và góp phần nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử ở trường Phổ thơng.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa quan trọng của việc sử dụng PTL
nhằm phát triển năng lực HS trong DHLS ở trường THPT.
- Xác định yêu cầu và đề xuất các hình thức, biện pháp khai thác sử dụng
các đoạn PTL trong DHLS nói chung và DHLS Việt Nam giai đoạn 19541975 nói riêng nhằm phát triển năng lực HS.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương pháp sử dụng PTL nhằm phát
triển năng lực học sinh trong dạy học chương IV “ Việt Nam từ 1954 đến năm
1975”- lớp 12 THPT.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc sử dụng PTL trong
DHLS ở trường THPT nhằm phát triển năng lực HS.
- Xác định các yêu cầu trong việc sưu tầm, chọn lọc và biên tập các đoạn

PTL liên quan đến khóa trình Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954-1975, lớp 12
THPT (chương trình chuẩn).
- Xác định yêu cầu và đề xuất các biện pháp sử dụng các đoạn PTL
nhằmphát triển năng lực HS trong DHLS Việt Nam giai đoạn 1954-1975,lớp
12 THPT (chương trình chuẩn).
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm và kiểm tra, đánh giá kết quả thực
nghiệm các biện pháp sử dụng các đoạn PTL mà sáng kiếnđề xuất, nhằm kiểm
nghiệm, khẳng định tính khả thi và hiệu quả của đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát, nghiên cứu thực tiễn sử dụng PTL trong DHLS nhằm phát
triển năng lực HS ở trường THPT thông qua phiếu điều tra, phỏng vấn, dự
giờ,…
- Nghiên cứu các tài liệu, giáo trình về kiến thức thơng sử, sách giáo
khoa liên quan đến khóa trình Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm những biện pháp đã được đề xuất
trong đề tài và xử lí số liệu thống kê, từ đó rút ra kết luận về tính khả thi và
phù hợp của đề tài.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu việc sử dụng các đoạn PTL nhằm phát
triển năng lực HS trong dạy học chương IV“ Việt Nam từ 1954 đến năm
7


1975”- lớp 12 THPT (chương trình chuẩn). Trong quá trình thực hiện đề tài,
Tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm ở các lớp khối 12.
7. Đóng góp mới của đề tài
- Khẳng định tính mới của đề tài từ trước tới nay chưa giáo viên nào thực
hiện đó là xác định các yêu cầu và đề xuất một số biện pháp sử dụng Phim tài
liệu nhằm phát triển năng lực học sinh trong dạy học Lịch sử nói chung và
dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954-1975 nói riêng nhằm góp phần

nâng cao hiệu quả bài học Lịch sử.
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng Phim tài liệu nhằm phát
triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường Phổ thông.
- Sưu tầm, chọn lọc và biên tập hệ thống các đoạn Phim tài liệu cần được
sử dụng trong dạy học chương IV “Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975” lớp 12 THPT.

8


PHẦN II. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm và các loại phim tài liệu
1.1.1. Khái niệm “Phim Tài liệu”
Cho tới nay, giới nghiên cứu có nhiều quan niệm về PTL với những góc độ
khác nhau.
Trong cuốn “Nghệ thuật điện ảnh: Một giới thiệu đại cương”, hai tác giả
David Bordwell và Kristin Thompson, định nghĩa: “Phim tài liệu là một tác
phẩm chứa đựng trong nội dung của nó những thơng tin chân thực về thế giới
bên ngoài” [50]. Định nghĩa này đã nhấn mạnh vào tính chân thực của PTL. Tất
cả những sự kiện, hiện tượng, quá trình con người trong hiện thực đều được coi
là đối tượng phản ánh của PTL, dùng cái chân thực để thuyết phục người xem sự
tồn tại của những sự vật đó.
Trong cuốn “Nghiên cứu điện ảnh đại cương”, Andrew Britton cho rằng:
“Trước hết, một bộ phim tài liệu có giá trị phải phản ánh được những góc cạnh
khác nhau của sự thực, một sự thực khơng đơn giản như chúng ta nhìn thấy mà
là một sự thực được đặt trong bối cảnh lịch sử, xã hội đã tạo ra chúng” [50].
Như vậy, sự thực trong PTL phải được xếp đặt trong bối cảnh đã sinh ra nó, nằm
trong mối quan hệ biện chứng với những sự kiện, hiện tượng khác.
Theo “Thuật ngữ Điện ảnh - Truyền hình” do Hội Điện ảnh Việt Nam xuất

bản năm 2009: Phim Tài liệu (Documentary) là thể loại phim mang tính truyền
thơng về những sự kiện có thật xảy ra trong xã hội và thế giới tự nhiên được con
người quan tâm. Phim tài liệu thường chứa những sự kiện chọn lọc, những chi
tiết chân thực là sức mạnh thuyết phục của người xem. Một số loại hình phim tài
liệu, chẳng hạn như phim tài liệu khoa học, nghệ thuật hoặc chuyên đề có thể có
sự can thiệp, xếp đặt của đạo diễn để phim có tính điện ảnh cao hơn. [38]
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: Phim Tài liệu là phim chuyên ghi lại
những hình ảnh, sự kiện có thật, nhằm phản ánh từng mặt hoạt động trong cuộc
sống. [37]
Từ những quan niệm trên chúng ta có thể hiểu rằng : Phim tài liệu là loại
phim được xây dựng dựa trên những hình ảnh có thật về các sự kiện, hiện tượng,
nhân vật LS được người đương thời ghi lại trong bối cảnh LS nhất định dưới
những góc độ, quan điểm khác nhau. Một bộ PTL thường phản ánh hiện thực
cuộc sống, mang giá trị tư liệu LS.
1.1.2. Các loại phim tài liệu
Tác giả cuốn “Nghệ thuật điện ảnh: một giới thiệu đại cương” [50], chia
thể loại phim tài liệu thành một số dạng như sau:
9


+ Phim tài liệu dựng lại trên cơ sở những nguồn tư liệu lưu trữ (compilation
documentary). Đó là những phim gồm tồn hình ảnh tư liệu được ghép nối lại
với nhau nhằm chuyển tải ý đồ của tác giả. Phim dạng này thường là những
phim về đề tài lịch sử.
+ Phim tài liệu phỏng vấn (interview documentary). Trong dạng phim này,
các nhà làm phim ghi nhận một cách trung thực về sự kiện, hiện tượng, về
những biến động xã hội chủ yếu qua lời kể của các nhân chứng.
+ Phim tài liệu của sự thực (cinema- verite documentary) là dạng phim tài
liệu trong đó các nhà làm phim ghi lại sự kiện như nó diễn ra trên thực tế, khơng
mang dấu ấn chủ quan của tác giả.

Ở Việt Nam, các nhà lý luận và nhà làm phim thường quan niệm PTL được
chia theo các loại sau:
+ Phim tài liệu hành trình: Nói về các cuộc hành trình tìm hiểu về những
vấn đề liên quan trong cuộc sống hằng ngày.
+ Phim tài liệu chính luận: Bàn về những vấn đề của xã hội.
+ Dạng phim theo vấn đề: Ở thể loại này được bắt đầu bằng cách xác định
chủ đề với nhịp độ tiến triển của phim khá đơn giản.
+ Dạng phim hùng biện:
+ Phim tài liệu sự kiện: Dạng phim này thường dành cho những sự kiện
tiêu biểu có ý nghĩa và tác động to lớn đối với nhiều người, xã hội, quốc gia
cũng như quốc tế. Ví dụ như Chiến thắng Điện Biên Phủ, Giải phóng Sài Gịn,
Mỹ tun bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam...
1.2. Khái niệm về phát triển năng lực của học sinh trong dạy học
lịch sử 1.2.1. Khái niệm “năng lực” và “phát triển năng lực”
Bàn về khái niệm năng lực có nhiều cách diễn đạt khác nhau. Theo từ điển
tiếng Việt: Năng lực là“khả năng, điều kiện chủ quan tự nhiên sẵn có để thực
hiện một cơng việc nào đó”, hay “phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con
người khả năng hồn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao” [36].
Trong tài liệu “Một số vấn đề về đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo
dục phổ thông” của Bộ Giáo dục và Đào tạo (5-2005) cho rằng “Năng lực là tổ hợp
các kiến thức, kỹ năng và thái độ mà một người với những phẩm chất (giá trị) riêng
của mình, cần vận dụng để thực hiện một nhiệm vụ trong một bối cảnh nhất định.
Để thực hiện một nhiệm vụ, một cơng việc, có thể đòi hỏi nhiều năng lực khác
nhau. Năng lực của cá nhân được đánh giá qua tính chất và kết quả hoạt động của
cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề trong cuộc sống” [4; tr.45].
“Phát triển năng lực” được hiểu là làm cho các thuộc tính tâm lí, những tri
thức, kỹ năng, kinh nghiệm của cá nhân,,… được bộc lộ rõ ràng, được thực
hành, rèn luyện và hoàn thiện ở mức cao hơn so với trước. Sự phát triển năng
lực được thể hiện rõ nét qua các hoạt động vì hoạt động là một phương thức cơ
10



bản để phát triển năng lực. Các năng lực chung và kể cả những năng lực chuyên
biệt được phát triển khi con người tổ chức các hoạt động và hoàn thành nó một
cách xuất sắc.
1.2.2. Các năng lực chung cần hình thành cho học sinh
Các chuyên gia nghiên cứu của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong tài liệu “Tài
liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo hướng phát
triển năng lực học sinh, môn lịch sử cấp THPT” [3; tr.47-48] đã xác định những
năng lực chung cần hình thành và phát triển cho HS trong q trình dạy học của
mỗi mơn học, những năng lực thiết yếu của con người để con người có thể thích
ứng với xã hội. Đó là:
- Năng lực tự học.
- Năng lực giải quyết vấn đề.
- Năng lực tư duy.
- Năng lực giao tiếp.
- Năng lực hợp tác.
- Năng lực sử dụng CNTT- truyền thông.
- Năng lực sử dụng ngơn ngữ.
- Năng lực tính tốn.
1.2.3. Các năng lực cần hình thành và phát triển cho học sinh trong dạy
học lịch sử ở trường THPT
Trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, nền kinh tế tri
thức đang ngày càng chiếm ưu thế, vấn đề chất lượng nguồn nhân lực đang ở vị
trí trung tâm. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào vai trò giáo
dục ở trường PT. Hiện nay, Việt Nam đang trên con đường đổi mới phát triển
kinh tế- xã hội, vậy nên tất yếu dẫn đến sự đòi hỏi cao về nhu cầu nhân lực, đội
ngũ lao động có chất lượng. Do đó, cuộc chạy đua trong giáo dục giữa các quốc
gia luôn hướng đến mục tiêu là đào tạo ra những con người phát triển tồn diện,
có đầy đủ các năng lực để có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội.

Để thực hiện được điều đó, địi hỏi cần phải có những giải pháp tích cực
trong dạy học nói chung và DHLS nói riêng, làm cho HS có thể phát triển khả
năng tự học, tự nghiên cứu vấn đề từ đó chiếm lĩnh tri thức, giải quyết được các
vấn đề trong học tập cũng như trong thực tế cuộc sống đặt ra. HS phải tự mình
chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển năng lực tư duy, năng lực hành
động thông qua hoạt động tự giác, tích cực của người học.
Căn cứ vào các năng lực chung mà Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định, căn
cứ vào nhu cầu của xã hội cũng như mục tiêu, đặc trưng bộ môn, hoạt động
DHLS ở trường PT cần hình thành và phát triển các năng lực sau cho học sinh:

11


Một lànăng lực tái hiện lịch sử, bao gồm hoạt động tri giác tài liệu, đồ dùng
trực quan (xử lí thơng tin); hình dung tưởng tượng lại sự kiện để có biểu tượng
LS; nhớ lại những gì đã tri giác được.
Hai lànăng lực tư duy, bao gồm tư duy biện chứng thể hiện ở các thao tác
phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa,… và tư
duy LS thông qua nội dung các vấn đề quan điểm LS, “chân lý bao giờ cũng cụ
thể”; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,…
Ba là năng lực đánh giá bao gồm việc tìm ra ý nghĩa, rút ra bài học kinh
nghiệm của các sự kiện, hiện tượng LS, đánh giá những đóng góp, mặt tiến bộ
hay phản động của nhân vật LS, vai trò của quần chúng, tác dụng của những cải
tiến trong lao động, sản xuất,…
Bốn là năng lực thực hành, bao gồm thực hành bộ môn như sử dụng bản
đồ, sơ đồ, bản biểu,… vận dụng những kiến thức cũ để hiểu kiến thức mới và
liên hệ và vận dụng kiến thức LS vào thực tiễn cuộc sống.
Năm là năng lực giải quyết vấn đề, bao gồm các hoạt động phát hiện vấn đề
( như hiểu được tình huống học tập, phát hiện và nêu lên được vấn đề cần giải
quyết), giải quyết vấn đề (lựa chọn phương án giải quyết vấn đề phù hợp, tái

hiện kiến thức đã học, lựa chọn sự kiện, nội dung sự kiện cần sử dụng để giải
quyết vấn đề,…); Trình bày vấn đề (biết hình thành dàn ý của vấn đề cần trình
bày, sử dụng ngơn ngữ phù hợp để trình bày, có thể sử dụng các hình thức như
trình bày bằng miệng, hay viết,…),…
Sáu là năng lực tự học lịch sử, đó là những hoạt động độc lập của HS; Khi
rèn luyện các năng lực trên, như tự làm việc với sách giáo khoa ở trên lớp hay ở
nhà, tự làm việc với các tài liệu tham khảo, tự vận dụng các thao tác tư duy, tự
đánh giá sự kiện, hiện tượng, nhân vật LS, tự ghi chép khi nghe giảng, tự học
với đồ dùng trực quan, giải quyết vấn đề và trình bày vấn đề, tự ôn tập, kiểm tra
đánh giá,…
Mỗi một năng lực trên đều hội tụ ba yếu tố là kiến thức, kỹ năng và thái độ
thực hiện. Các năng lực hình thành trong mối quan hệ đan xen và hỗ trợ nhau.
1.3. Cơ sở nhận thức vai trò của việc sử dụng phim tài liệu nhằm phát
triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT
1.3.1. Xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo tính trực quan trong dạy học
Việc sử dụng PTL trong giờ học LS ở trên lớp đảm bảo tính trực quan là
một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học nói chung và DHLS nói
riêng nhằm tạo cho HS những biểu tượng rõ nét và hình thành các khái niệm
trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa
sự vật. Từ rất sớm, J.A Cômenxki (1592-1670), nhà giáo dục người Séc, đã xem
trọng nguyên tắc bảo đảm tính trực quan trong dạy học và xem đây là “quy tắc
vàng ngọc”. J.A Cômenxki đã khẳng định: “khơng có trong trí tuệ những cái
12


mà trước đó khơng cảm giác và để có tri thức vững chắc, nhất định phải dùng
phương pháp trực quan” [42;tr.151]. Trong dân gian ta cũng thường nói: “trăm
nghe khơng bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”. Như vậy, phương
pháp trực quan trong DHLS góp phần quan trọng để cụ thể hóa các sự kiện, giúp
HS nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức LS và khắc phục tình

trạng nhầm lẫn hay “hiện đại hóa” lịch sử của HS.
Các thí nghiệm về giáo dục cho thấy: Tri thức thu được qua các giác quan
trong quá trình truyền thông là: Nếm (1%); Sờ (1,5%); Ngửi (3,5%); Nghe (11,0%);
Nhìn (83,0%) [16; tr.21]. Theo số liệu mà UNESCO đã cơng bố thì HS chỉ nhớ
15% thơng tin khi nghe, 25% thơng tin khi nhìn và khi kết hợp nghe- nhìn sẽ nhớ
đến 65% thơng tin. Các số liệu trên cho thấy yếu tố trực quan có ý nghĩa rất lớn đối
với việc phát triển năng lực nhận thức của HS khi sử dụng PTL có kết hợp cả yếu tố
nghe và nhìn. Do đó, đảm bảo tính trực quan cịn có thể phát triển khả năng quan
sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của HS. Bên cạnh đó cịn có ý nghĩa giáo
dục lớn trong việc tạo ra xúc cảm LS cho người học.
Các nhà giáo dục LS nước ta cũng đã khẳng định:
“Đồ dùng trực quan nếu được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia
của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ được hai hệ thống tín hiệu với nhau:
tai nghe, mắt thấy, tạo điều kiện cho HS dễ hiểu, nhớ lâu, gây được những mối
liên hệ thần kinh tạm thời khá phong phú, phát triển ở HS năng lực chú ý, quan
sát, hứng thú.” [27; tr.40].
Với tất cả điều đó cho thấy, việc đảm bảo tính trực quan trong DHLS góp
phần to lớn trong việc nâng cao chất lượng bài học LS, gây hứng thú học tập cho
HS, nó là chiếc “cầu nối” giữa quá khứ và hiện tại.
1.3.2. Xuất phát từ mục tiêu, đặc trưng của môn Lịch sử
Trong dự thảo chương trình giáo dục phổ thơng mơn Lịch sử ở cấp Trung
học phổ thông [5; tr.6] hướng tới các mục tiêu sau:
Thứ nhất, giúp HS phát triển năng lực sử học (năng lực nhận diện và sử
dụng tư liệu LS; năng lực tái hiện và trình bày LS; năng lực giải thích LS; năng
lực đánh giá LS; năng lực vận dụng bài học LS vào thực tiễn) đã được hình
thành ở cấp Trung học cơ sở thơng qua nội dung kiến thức cơ bản và nâng cao
về Lịch sử thế giới, Lịch sử khu vực Đông Nam Á, Lịch sử dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, trên nền tảng đó, môn Lịch sử hướng đến mục tiêu giáo dục nhân
cách, tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại để hình thành phẩm chất cơng dân Việt Nam,

cơng dân tồn cầu phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Thứ ba, giúp HS tiếp cận và nhận thức rõ vai trò, đặc điểm của khoa học
Lịch sử cũng như tạo sự kết nối giữa Sử học với các lĩnh vực khoa học và ngành
nghề khác, tạo cơ sở để HS lựa chọn định hướng nghề nghiệp trong tương lai.
13


Cũng như các môn học khác ở trường PT, môn Lịch sử có những đặc trưng
riêng:
DHLS ở trường PT trước hết là cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản về
q trình phát triển của xã hội lồi người từ nguồn gốc đến nay về kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa, đấu tranh,… Nói đến quá khứ xã hội lồi người đó là một hiện thực
khách quan đã xảy ra, từng tồn tại nhưng khơng hiện có, phát triển không ngừng
theo quy luật từ thấp đến cao song không phát triển theo một đường thẳng mà trải
qua những bước quanh co, khúc khuỷu. Do đó, trong học tập LS, HS không thể trực
tiếp quan sát được các sự kiện, hiện tượng của quá khứ.
Lịch sử là những cái đã xảy ra, khơng lặp lại hoặc có lặp lại nhưng không
nguyên xi như cũ tức là “lặp lại trên cơ sở không lặp lại”. Không như các môn
khoa học tự nhiên, mơn LS khơng thể tiến hành trong phịng thí nghiệm để dựng
lại q khứ và HS cũng khơng thể trực tiếp quan sát những diễn tiến của sự kiện,
hiện tượng LS. Do đó, nhận thức LS bao giờ cũng khó khăn và phức tạp so với
nhận thức các mơn học khác. Nội dung chương trình bộ mơn Lịch sử ở trường
PT lại được cấu tạo từ xa đến gần, tức là từ thời cổ đại đến hiện đại trong khi đặc
điểm tâm lí và khả năng nhận thức của HS thì lại từ gần đến xa. Vậy nên, việc
tìm hiểu LS một cách cụ thể, sinh động với sự hỗ trợ của các phương tiện trực
quan giúp HS có thể hình dung về q khứ một cách chân thực, và qua đó hình
thành, phát triển các năng lực cũng như xúc cảm của HS là một yêu cầu quan
trọng trong DHLS ở trường PT.
Với những đặc trưng đó, GV không thể DHLS theo hướng truyền đạt kiến
thức sẵn có trong sách giáo khoa một cách máy móc mà cần phải đổi mới

phương pháp dạy học mới để vừa đảm bảo việc tái hiện lại quá khứ một cách
chân thực, trực quan sinh động, vừa phát huy tính tích cực nhận thức và hình
thành, phát triển các năng lực học tập của HS. Trong các loại phương tiện dạy
học trực quan, PTL là một trong những phương tiện có giá trị LS cao vì nó phản
ánh chân thực, sinh động các sự kiện, hiện tượng LS, là minh chứng cho sự tồn
tại thực về quá khứ mà HS được học. Do đó, sử dụng PTL theo hướng phát triển
các năng lực của HS là một trong những cách tiếp cận dạy học phù hợp với đặc
trưng bộ môn LS và góp phần đáp ứng mục tiêu của giáo dục hiện đại.
1.3.3. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nhằm
phát triển năng lực học sinh
Nghị quyết 29 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI về đổi mới căn
bản , toàn diện giáo dục và đào tạo khẳng định:“Chuyển mạnh quá trình giáo
dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm
chất người học” [14; tr.120].
Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện cần có nhận thức
đúng đắn về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát
14


triển năng lực HS. GV cần có những biện pháp trong việc ứng dụng phương tiện
kỹ thuật, đặc biệt là sử dụng các đoạn PTL trong DHLS. Trên cơ sở đó, khơng
những tích cực hóa hoạt động nhận thức bằng trí tuệ của HS mà cịn rèn luyện
năng lực tự học, năng lực tái hiện lại sự kiện, hiện tượng LS và đặc biệt là năng
lực thực hành.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực HS trong đó
việc sử dụng PTL trong dạy học đóng một vai trị quan trọng góp phần to lớn
vào hồn thành mục tiêu môn học. Giúp HS nắm được những tri thức khoa học
cơ bản, rèn luyện kỹ năng học tập, nâng cao phẩm chất đạo đức để đáp ứng được
những yêu cầu thực tiễn của cuộc sống. Qua đó, khắc phục tình trạng truyền thụ
tri thức “ một chiều” của GV cũng như hạn chế tình trạng trơng chờ GV “ đọc”

cho ghi chép của HS.
2. Cơ sở thực tiễn
Để có một cái nhìn khách quan, cụ thể về thực tiễn sử dụng PTL trong
DHLS ở trường THPT nói chung và phần Lịch sử Việt Nam từ 1954 - 1975 nói
riêng,Tơi đã tiến hành dự giờ GV và điều tra, khảo sát HS các lớp 12 tại trường
sở tại . Thơng qua xử lí các thơng tin, số liệu từ điều tra, khảo sát, Tôi khái quát
thực tiễn sử dụng PTL trong DHLS ở trường PT như sau:
Đối với GV: Thông qua việc quan sát, trao đổi, dự giờ một số tiết học môn
LS:
+ Hầu hết GV đều cho rằng việc sử dụng PTL trong dạy DHLS là rất cần
thiết. Các GV đều cho rằng, việc sử dụng PTL sẽ góp phần rất lớn trong việc gây
hứng thú cho HS trong học tập bộ môn, đem lại sự mới mẻ trong phương pháp dạy
học của GV, góp phần phát huy tính tích cực, phát triển năng lực của HS.
+ Mặc dù nhận thức được tầm quan trọng cũng như vai trò, ý nghĩa của
việc sử dụng PTL nhưng nhiều GV còn lúng túng trong khai thác, sử dụng PTL
theo hướng phát triển năng lực HS. Thậm chí một số GV ít quan tâm sử dụng
PTL trong dạy học bộ môn do điều kiện thiết bị dạy học và còn gây mất thời
gian khó đảm bảo kế hoạch dạy học.
+ Qua quan sát và dự giờ một số tiết học của các GV bộ mơn Tơi thấy rằng,
các GV rất ít sử dụng PTL trong DHLS. Phần lớn GV vẫn giảng dạy theo kiểu
truyền thống.Một số GV cịn khó khăn trong việc tiếp cận các phần mềm xử lí
phim, để chuyển đổi định dạng phim, cắt, nối, biên tập phim cho phù hợp với
kiến thức cơ bản cũng như thời gian tiến hành của bài học trên lớp. Đây là trở
ngại lớn đối với GV khi sử dụng PTL trên lớp học.
+ Một vài GV có sử dụng PTL trong các hoạt động ngoại khóa và trong
thao giảng.
+ Khi được hỏi về việc sử dụng PTL theo hướng phát triển năng lực HS,
GV còn lúng túng khi đưa ra các biện pháp cụ thể. Các GV được hỏi đều cho
15



rằng cần kết hợp sử dụng PTL với các phương tiện, phương pháp dạy học khác
tùy thuộc vào từng nội dung bài học và phải đảm bảo các nguyên tắc DHLS ở
trường THPT.
Như vậy, hầu hết GV dạy LS ở trường THPT đều thấy được sự cần thiết của
việc sử dụng PTL trong DHLS ở trường THPT nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
của DHLS và phù hợp với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học theo định
hướng phát triển năng lực HS hiện nay. Tuy nhiên, từ thực tiễn cho thấy việc sử
dụng PTL trong DHLS ở trường PT cịn rất hạn chế. Cùng với đó là gặp khó khăn
trong điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu
sử dụng phương tiện để phục vụ việc dạy và học của GV và HS. Ngoài ra, thời
lượng của một tiết học cịn q ít trong khi nội dung kiến thức GV cần truyền tải
nhiều không đủ thời gian để khai thác và sử dụng PTL trong dạy học bộ môn.
Trong khi vấn đề là cần sử dụng PTL theo hướng phát triển năng lực HS nhưng các
GV chỉ chủ yêu sử dụng trong minh họa sự kiện LS. Việc sử dụng phim theo hướng
phát triển năng lực HS không được chú trọng.
Đối với HS: Tơi sử dụng phiếu thăm dị ý kiến để điều tra nhận thức HS về
việc sử dụng PTL trong DHLS ở trường THPT. Tôi đã tiến hành điều tra HS qua
phiếu thăm dò ý kiến tại trường THPT sở tại. Kết quả điều tra được xử lí như
sau:
Có khoảng 92% HS quan niệm rằng việc sử dụng PTL trong DHLS là rất
cần thiết, qua đó, giúp người học nhận biết, ghi nhớ sự kiện LS dễ dàng hơn, góp
phần bổ sung thơng tin tư liệu viết, giúp người học hiểu biết sâu sắc hơn về sự
kiện LS. Ngồi ra các em cịn cho rằng việc xem PTL còn đem lại xúc cảm LS
và đặc biệt gây hứng thú học tập LS cho người học. Khi được hỏi về mức độ sử
dụng PTL trong nhà trường, có khoảng 57% HS cho rằng GV chỉ thỉnh thoảng
sử dụng và khoảng 39% HS cho rằng hiếm khi GV sử dụng PTL trong DHLS.
Nếu có, GV chỉ sử dụng PTL để minh họa sự kiện LS (88% HS). Như vậy, việc
sử dụng PTL theo hướng phát triển năng lực HS rất ít được các GV bộ môn chú
trọng.

Trong vấn đề sử dụng PTL kết hợp với phương tiện dạy học khác, phần lớn
HS cho rằng chủ yếu kết hợp với sách giáo khoa (32% HS) và kết hợp với trình
bày miệng của GV( 51% HS). Điều này cho thấy các biện pháp sử dụng PTL kết
hợp với đồ dùng trực quan như tranh, ảnh tư liệu, bản đồ, sơ đồ, tài liệu văn học,
… của GV còn khá hạn chế. 62% các em HS cho rằng PTL thường được GV sử
dụng chủ yếu trong bài nghiên cứu kiến thức mới của quá trình DHLS. 89% HS
được hỏi cho rằng chỉ GV ít khi hướng dẫn người học chủ động sưu tầm, khai
thác PTL trong quá trình học tập LS.
Qua trao đổi, thăm dò ý kiến GV và HS ở trường PT có thể thấy: Mặc dù
hiện nay điều kiện tiếp cận với PTL lịch sử là khơng q khó khăn như trước
16


đây nhưng GV vẫn chưa thực sự có biện pháp sử dụng PTL một cách khoa học,
phù hợp với đặc trưng bộ môn và theo định hướng phát triển năng lực của học
sinh.Vì thế những vấn đề này sẽ được tìm hiểu và giải quyết trong chương II.
II. XÁC ĐỊNH CÁC ĐOẠN PHIM TÀI LIỆU CẦN SỬ DỤNG THEO
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG
IV “VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975”- LỚP 12 THPT

2.1. Khái quát nội dung chương IV “Việt Nam từ năm 1954 đến năm
1975” Chương trình Lịch sử lớp 12 (Chương trình chuẩn) gồm có 2 phần:
Phần một: Lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000.
Phầnhai: Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 2000. Trong phần này, có
5 chương ứng với các giai đoạn lịch sử Việt Nam từ 1919 – 1930, 1930 – 1945,
1945 – 1954, 1954 – 1975 và 1975 – 2000.
Trong đó, chương IV“Việt Nam từ 1954 đến năm 1975” là chương có vị trí
quan trọng trong chương trình, phản ánh thời kì tiếp theo sau khi cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi .
Chương IV “Việt Nam từ 1954 đến năm 1975” gồm có 3 bài :

Bài 21. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc
Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 – 1965)
Bài 22. Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược.
Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973)
Bài 23. Khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội ở miền Bắc, giải phóng
hồn toàn miền Nam (1973 – 1975)
Các bài trên phản ánh những sự kiện cơ bản của lịch sử Việt Nam giai đoạn
1954-1975 như sau:
Sau Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết, cuộc kháng chiến
chống Pháp kết thúc.Tuy nhiên, với điều khoản trong Hiệp định, nước ta tạm
thời bị chia cắt thành hai miền lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia cắt. Miền Bắc
hồn tồn được giải phóng, tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội, xây dựng hậu
phương vững chắc. Miền Nam tạm thời dưới sự kiểm sốt của Mĩ và chính
quyền Sài Gịn. Nhân dân ta tiếp tục đấu tranh chống Đế quốc Mĩ xâm lược và
tay sai để giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong giai đoạn này, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ chung cho cách mạng cả
nước và nhiệm vụ cụ thể cho cách mạng từng miền. Xác định cách mạng hai
miền có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa
xã hội làm hậu phương vững chắc để chi viện cho tiền tuyến miền Nam chống
Mĩ cứu nước. Miền Nam đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Sài Gịn để bảo vệ
miền Bắcxã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Trong
đó, nhiệm vụ chung cho cách mạng hai miền là “đấu tranh chống Mỹ, cứu
nước”.
17


Ở miền Nam, bắt đầu cuộc đấu tranh chính trị sau đó phát triển lên khởi
nghĩa và tiến hành chiến tranh giải phóng đất nước. Với sự chỉ đạo sáng suốt của
Đảng và sự đoàn kết, quyết tâm chống Mĩ của quân dân miền Nam đã lần lược
đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mĩ và tay sai bao gồm Chiến lược

“Chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965), “Chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968),
Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đơng Dương hóa chiến tranh”
(1969 – 1973). Đặc biệt, thành quả to lớn của cách mạng miền Nam trong cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 với 3 chiến dịch lớn là chiến dịch Tây
Nguyên (từ ngày 4/3 đến ngày 24/3), chiến dịch Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21/3
đến ngày 29/3) và chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26/4 đến ngày 30/4), đã giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Nam-Bắc sum họp một nhà.
Ở miền Bắc, thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế, thực hiện tốt nghĩa vụ hậu
phương vững chắc chi viện cho chiến trường miền Nam. Đồng thời, miền Bắc đã
đánh bại các cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ bao gồm chiến tranh phá họa lần
1 (1965 – 1968) và chiến tranh phá hoại lần 2 (1969 – 1972), làm nên trận
“Điện Biên Phủ trên khơng”, buộc Mĩ phải kí Hiệp định Pari về chấm dứt chiến
tranh,lập lại hịa bình ở Việt Nam, tạo thời cơ thuận cho cách mạng miền Nam
tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
2.2. Xác định nội dung cơ bản của chương IV “Việt Nam từ năm 1954
đến năm 1975” cần được sử dụng phim tài liệu theo hướng phát triển năng
lực học sinh
Căn cứ vào nội dung cơ bản của khóa trình Lịch sử Việt Nam giai đoạn
1954 – 1975, có thể lập bảng thống kê hệ thống các đoạn PTL (Xem phụ lục 2)
cần được sử dụng nhằm phát triển năng lực HS như sau:

Bài
Bài 21.
Xây dựng
chủ nghĩa
xã hội ở
miền
Bắc, đấu
tranh

chống đế
quốc Mĩ

Mục
I. Tình hình
và nhiệm vụ
nước ta sau
Hiệp
định
Giơnevơ năm
1954
về
Đông Dương

Tên đoạn
phim tài
liệu
Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, Quân
dân
ngày 10-10-1954, quân dân ta tiến vào
ta tiến vào tiếp quản Hà Nội tiếp quản
trong khơng khí tưng bừng Thủ
đơ
của ngày hội giải phóng. (1955)
Ngày 1-1-1955, Trung ương
Đảng, Chính phủ và Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra mắt nhân
dân Thủ đô.
Nội dung cần sử dụng
phim tài liệu


18

Phát riển
năng lực HS
Năng lực tái
hiện sự kiện
lịch sử, năng
lực nêu lên
nhận
xét,
đánh giá.


và Chính
quyền Sài
Gịn

miền
Nam
(1954 –
1965)

Ngay sau Hiệp định Giơnevơ
năm 1954 về Đơng Dương
được kí kết, Mĩ liền thay thế
Pháp, dựng lên chính quyền
tay sai Ngơ Đình Diệm ở
miền Nam, thực hiện âm
mưu chia cắt Việt Nam, biến

miền Nam VN thành thuộc
địa kiểu mới và là căn cứ
quân sự ở Đông Dương và
ĐNA

Sự
can
thiệp của

vào
miền Nam
Việt
Nam
sau
Hiệp
định
Giơnevơ
(1954)

Năng lực tái
hiện,
năng
lực trình bày,
năng
lực tư
duy, năng lực
giải
quyết
vấn đề.


III.2. Phong - Phong trào nổi dậy từ chỗ
trào
“Đồng lẻ tẻ ở từng địa phương như
khởi” (1954– cuộc nổi dậy ở Vĩnh Thạnh
1960)
(Bình Định), Bác Ái (Ninh
Thuận), Trà Bồng (Quảng
Ngãi)
- Tháng 8/1959, phong trào
“Đồng khởi” đã lan rộng ra
khắp miền Nam thành cao
trào cách mạng, tiêu biểu là
cuộc “Đồng khởi” ở Bến
Tre.
V.1. Chiến - Từ cuối năm 1960, hình
lược “Chiến thức thống trị bằng chính
tranh
đặc quyền tay sai độc tài Ngơ
biệt” của đế Đình Diệm bị thất bại, Mĩ
quốc
Mĩ buộc phải chuyển sang chiến
(1961
– lược “Chiến tranh đặc biệt”
1965)
(1961-1965)
- Mỹ đề ra kế hoạnh Xtalay
– Taylo với âm mưu bình
định miền Nam trong vòng
18 tháng, tiến hành dồn dân
lập “ấp chiến lược”, tăng

cường cố vấn và viện trợ cho
Chính quyền Sài Gòn, thực
hiện chiến thuật mới là “trực
thăng vận”, “thiết xa vận”.

Phong trào
“Đồng
khởi”

Bến
Tre(1960)

Năng
lực
trình
bày,
năng
lực tư
duy, năng lực
giải
quyết
vấn đề và nêu
lên vấn đề,
năng
lực
nhận xét.

Qn

tiến

hành
Chiến lược
“Chiến
tranh
đặc
biệt” (1961
– 1965)

Năng
lực
trình
bày,
năng lực giải
quyết vấn đề,
năng
lực
phân
tích,
đánh giá.

19


V.2.
Miền
Nam
chiến
đấu
chống
chiến

lược
“Chiến tranh
đặc biệt” của


- Trong những năm 1961 –
1962, Quân giải phóng đã
đẩy lùi nhiều cuộc tiến cơng
của địch, tiêu diệt nhiều đồn
bốt lẻ của chúng.
- Ngày 2- 1- 1963, quân dân
ta giành thắng lợi mở đầu
vang dội trong trận Ấp Bắc
(Mỹ Tho), đánh bại nhiều
cuộc càng quét của Mĩ và
Chính quyền Sài Gịn. Khắp
miền Nam dấy lên phong
trào “Thi đua Ấp Bắc, giết
giặc lập công”.
Bài 22.
I.1.
Chiến - Sau thất bại ở chiến lược
Nhân dân lược “Chiến “Chiến tranh đặc biệt”, bắt
hai miền tranh cục bộ” đầu từ năm 1965 Mĩ chuyển
của
Mĩ ở sang chiến lược “Chiến tranh
trực tiếp
miền Nam
cục bộ”.
chiến đấu

- “Chiến tranh cục bộ” là loại
chống Đế
hình chiến tranh xâm lược
quốc Mĩ
thực dân mới, được tiến hành
xâm
bằng lực lượng quân Mĩ, quân
lược.
một số nước đồng minh của
Mĩ và qn đội Sài Gịn.
Nhân dân
miền Bắc

Chiến
thắng
Ấp
Bắc (2 – 1
– 1963)

Năng
lực
trình
bày,
năng lực nêu
lên vấn đề,
năng
lực
phân tích.

“Chiến

tranh
cục
bộ” (1965
– 1968)

quyết vấn đề,
năng
lực
phân
tích,
đánh
giá,
năng lực so
sánh,
năng
lực tư duy.

vừa chiến I.2.
Chiến
đấu
vừa
đấu
chống
sản xuất
chiến
lược
(1965 –
“Chiến tranh
1973)
cục bộ” của



Với ý chí quyết chiến quyết

Chiến

Năng

lực

thắng của cả dân tộc, nhân

thắng

Vạn trình

bày,

Quân
Mĩ Năng
lực
tiến
hành trình
bày,
Chiến lược năng lực giải

dân ta chiến đấu chống chiến Tường

năng lực nêu


lược “Chiến tranh cục bộ”
của Mĩ, tiêu biểu là thắng lợi
ở Vạn Tường (Quảng Ngãi)
Sau khi tiến hành các cuộc
hành qn “tìm diệt”, tiếp đó
Mĩ mở liền hai cuộc phản
công chiến lược mùa khô
đông xuân 1965 – 1966 và
1966 – 1967 bằng hàng loạt
cuộc hành quân “tìm diệt” và
“bình định” vào vùng “đất
thánh Việt cộng”

lên vấn
đề,
năng
lực
phân tích.
Năng
lực
trình
bày,
năng lực tư
duy, năng lực
giải
quyết
vấn đề, năng
lực
so
sánh,…


20

(Quảng
Ngãi)
(81965)
Cuộc phản
cơng chiến
lược
mùa
khơ (1966

1967)
của Mĩ


I.3.
Tổng
cơng
dậy
Mậu
1968

Cuộc
tiến
và nổi
Xn
Thân

II.1. Mĩ tiến

hành
chiến
tranh
bằng
khơng
qn
và hải qn
phá
hoại
miền Bắc

III.1.
lược
nam
chiến

Dương
chiến
của Mĩ

Chiến
“Việt
hóa
tranh”
“Đơng
hóa
tranh”

Quần chúng nhân dân được
sự hỗ trợ của lực lượng vũ

trang đã đứng lên đấu tranh
chống ách kìm kẹp của địch,
phá từng mãng lớn “ấp chiến
lược”. Nhân dân Mĩ cũng
biểu tình phản đối chiến
tranh xâm lược Việt Nam ,
đòi quân Mĩ rút về nước (10
– 1967)
Bước vào mùa Xuân năm
1968, ta chủ trương mở cuộc
Tổng tiến cơng và nổi dậy
trên tồn miền Nam. Chủ
yếu tấn công vào trung tâm
đầu não của địch trong các
đô thị, đánh dấu sự thất bại
của chiến lược “Chiến tranh
cục bộ
- Cuối năm 1964 – đầu năm
1965, đồng thời với chiến
tranh xâm lược miền Nam,
Mĩ đẩy mạnh chiến tranh
phá hoại miền Bắc bằng
không quân và hải quân
- Ngày 1-11-1968, Mĩ phải
tuyên bố ngừng ném bom
bắn phá miền Bắc.
Sau thất bại của chiến lược
“Chiến tranh cục bộ”, Mĩ
đẩy mạnh chiến tranh xâm
lược Việt Nam, chuyển sang

chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh” và mở rộng
chiến tranh ra chiến lược
“Đơng Dương hóa chiến
tranh”

21

Nhân
dân

biểu
tình
phản
đối chiến
tranh xâm
lược Việt
Nam

Năng lực tái
hiện sự kiện,
năng
lực
đánh
giá,
năng
lực
nhận thức.

Cuộc tiến

cơng và nổi
dậy ở các
đơ
thị
Xn Mậu
Thân 1968

Năng
lực
trình
bày,
năng lực tư
duy, năng lực
giải
quyết
vấn đề, năng
lực phân tích,
năng
lực
đánh giá.
Năng lực tái
hiện sự kiện
lịch sử, năng
lực tư
duy,
năng lực liên
hệ, năng lực
phân
tích,
nhận xét.



ném
bom
phá
hoại miền
BắcViệt
Nam (1964
– 1965

Thủ
của
trong
Chiến
“Việt
hóa
tranh”

đoạn Năng
lực
Mĩ trình
bày,
năng lực giải
lược quyết vấn đề,
Nam năng
lực
chiến phân
tích,
đánh
giá,

năng lực so
sánh, liên hệ
vấn đề, năng
lực tư duy.


III.2. Chiến
đấu
chống
chiến
lược
“Việt
Nam
hóa
chiến
tranh”

chiến
lược
“Đơng
Dương
hóa
chiến tranh”

III.3.
Cuộc
tiến
cơng
chiến
lược

năm 1972

IV.2.
Miền
Bắc
vừa
chiến
đấu
chống chiến
tranh
phá
hoại, vùa sản
xuất
làm
nghĩa vụ hậu
phương

Năm 1971, quân lực Việt
Nam Cộng hòa dưới sự yểm
trợ của Mĩ đã tổ chức cuộc
hành quân Lam Sơn 719 với
mục đích tiêu diệt quân giải
phóng. Tuy nhiên, từ ngày
12 – 2 đến ngày 23 – 31971, quân đội Việt Nam có
sự phối hợp với quân dân
Lào đập tan cuộc hành quân
mang tên “Lam Sơn 719”
của 4,5 vạn quân Mĩ và quân
đội Sài Gòn.
Ngày 30 – 3 – 1972, quân ta

mở cuộc Tiến công chiến
lược đánh vào Quảng Trị,
lấy Quảng Trị
làm hướng
tiến công chủ yếu, rồi phát
triển rộng khắp chiến trường
miền Nam.
Ngày 16 – 4 – 1972,
Níchxơn chính thức tiến
hành cuộc chiến tranh bằng
không quân và hải quân phá
hoại miền Bắc lần thứ hai.

Cuộc hành
qn “Lam
Sơn
719”
của Mĩ và
qn
đội
Sài Gịn.

Năng
lực
trình
bày,
năng
lực
nhận
thức,

năng
lực
phân
tích,
đánh giá.
Năng lực tái
hiện sự kiện
lịch sử, năng
lực trình bày,
năng lực liên
hệ, so sánh,
năng
lực tư
duy, năng lực
nhận thức…
- Để hỗ trợ cho mưu đồ Trận “Điện Năng lực tư
chính trị - ngoại giao mới, Biên Phủ duy, năng lực
Níchxơn phê chuẩn kế hoạch trên
nhận
thức,
mở cuộc tập kích chiến lược khơng”
năng lực liên
đường khơng bằng máy bay (12-1972) hệ, năng lực
B52 vào Hà Nội, Hải Phòng
tự học, năng
và một số thành phố khác
lực
đánh
trong 12 ngày đêm liên tục
giá…

từ ngày 18 đến hết ngày 29 –
12 – 1972.
22

Cuộc Tiến
cơng chiến
lược đánh
vào Quảng
Trị
của
qn
ta
(1972)
Mỹ
ném
bom
rải
thảm ở Hà
Nội
năm
(12-1972).

Năng
lực
nhận
thức,
năng
lực
trình
bày,

năng
lực
nhận
xét,
đánh giá.


V. Hiệp định
Pari
năm
1973
về
chấm
dứt
chiến
tranh,
lập lại hịa
bình ở Việt
Nam

Bài 23.
Khơi
phục

phát triển
kinh tế –
xã hội ở
miền
Bắc, giải
phóng

hồn tồn
miền
Nam
(1973

1975)

II. Miền Nam
đấu
tranh
chống
địch
“bình định –
lấn
chiếm”,
tạo thế và lực
tiến tới giải
phóng
hồn
tồn
III.1.
Chủ
trương,
kế
hoạch
giải
phóng
miền
Nam


- Qn dân miền Bắc đã
đánh trả không quân Mĩ
quyết liệt, làm nên trận
“Điện Biên Phủtrên
không”, buộc Mĩ phải ngừng
hẳn các hoạt động chống phá
miền Bắc (15 – 1 – 1973) và
kí Hiệp định Pari chấm dứt
chiến tranh, lập lại hịa bình
ở Việt Nam (27- 1 – 1973)
Sau thất bại tại cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Xuân
Mậu Thân 1968, Mĩ chấp
nhận ngồi vào bàn đàm phán
với ta. Năm 1972, quân dân
ta đã đập tan cuộc tập kích
chiến lược đường khơng
bằng máy bay B52 của Mĩ,
làm nên trận Điện Biên Phủ
trên khơng”, buộc
Mĩ kí
Hiệp định Pari ngày 27 – 1 –
1973.
- Ngày 29 – 3 – 1973, tốn
lính Mĩ cuối cùng rút khỏi
nước ta, song do “ngụy chưa
nhào”, Mĩ vẫn giữ lại hơn
hai vạn cố vấn quân sự, lập
ra Bộ chỉ huy quân sự, tiếp
tục viện trợ qn sự kinh tế

cho chính quyền Sài Gịn.
Cuối năm 1974 – đầu năm
1975, trong tình hình so sánh
lực lượng ở miền Nam thay
đổi có lợi cho cách mạng,
BCT Trung ương Đảng đã
họp để đề ra kế hoạch giải
phóng miền Nam.

23

Lễ kí kết Năng
lực
Hiệp định trình
bày,
Pari
(1 – năng lực tư
1973)
duy, năng lực
nêu và giải
quyết vấn đề,
năng
lực
đánh
giá,
năng lực liên
hệ, năng lực
so sánh, năng
lực rút ra bài
học lịch sử.

Quân
Mĩ Năng
lực
rút
khỏi nhận
thức,
Việt
Nam năng lực đưa
sau
Hiệp ra nhận xét,
định Pari
đánh giá.

Hội
nghị
Bộ
Chính
trị (1974 –
1975)

Năng lực nhận
thức, năng lực
tư duy, năng
lực phân tích,
đánh giá, năng
lực giải quyết
vấn đề…


III.2. Cuộc

Tổng
tiến
cơng và nổi
dậy
Xn
1975

- Căn cứ vào vị trí của Tây
Qn giải Năng lực tái
Ngun, Bộ Chính trị Trung phóng
hiện sự kiện
ương Đảng ta quyết định
đánh chiếm lịch sử, năng
chọn Tây Nguyên làm hướng Buôn Mê lực tư duy,
tiến công chủ yếu trong năm Thuột (3- năng
lực
1975.
1975)
phân
tích,
- Trận then chốt mở màn ở
năng
lực
Bn Mê Thuột giành thắng
trình bày.
lợi ngày 10 – 3 – 1975.
Ngày 14-3-1975, được lệnh Địch tháo Năng
lực
rút toàn bộ quân khỏi Tây chạy trên quan
sát,

Nguyên nhưng trên đường đường số 7 năng lực đưa
rút chạy, địch bị quân ta truy (3-1975)
ra nhận xét,
kích tiêu diệt. Ngày 24-3đánh
giá,
1975, Tây Ngun hồn tồn
năng
lực
giải phóng.
nhận thức…
- Ngày 21 – 3, quân ta được Quân giải Năng lực tư
lệnh tiến công thọc sâu vào phóng tiến duy, năng lực
căn cứ của đối phương, chặn công cửa liên hệ, năng
các đường rút chạy của chúng biển Thuận lực giải quyết
như đường số 1 đi Đà Nẵng, An
(3- vấn đề…
tấn công cửa biển Thuận An, 1975)
Tư Hiền, hình thành thế bao
vây địch trong thành phố Huế.
- Đà Nẵng bị rơi vào thế bị
bao vây cô lập. Hơn 10 vạn
địch bị dồn về đây trở nên
hỗn loạn, mất hết khả năng
chiến đấu.
- 17h ngày 26 – 4, quân ta Năm cánh Năng lực tư
được lệnh nổ sung mở màn
quân
giải duy, năng lực
chiến dịch. Năm cánh qn phóng Sài quan sát, năng
vượt qua tuyến phịng thủ Gịn (1975) lực nhận xét,

vịng ngồi của địch tiến thẳng
đánh giá, năng
vào trung tâm Sài Gòn, đánh
lực liên hệ, …
chiếm các cơ quan đầu não.

24


11 giờ 30 phút ngày 30 - 4, lá
cờ cách mạng tung bay trên
tịa nhà Phủ tổng thống, Sài
Gịn hồn tồn được giải
phóng. Chiến dịch Hồ Chí
Minh tồn thắng.
V.2. Ý nghĩa Thắng lợi của nhân dân ta, thất
lịch
sử của bại của đế quốc Mĩ, đã tác
cuộc
kháng động mạnh đến tình hình nước
chiến chống Mĩ và thế giới.
Mĩ cứu nước
(1954 – 1975)

Sài
Gịn Năng lực
ngày
giải hiện sự
phóng
lịch sử,

(1975)
lực
giá…
Cảm nhận
của lính Mĩ
khi
tham
gia
chiến
tranh Việt
Nam

tái
kiện
năng
đánh

Năng lực nhận
thức, năng lực
liên hệ
thực
tiễn, …

2.3. Sưu tầm và biên tập các đoạn phim tài liệu phục vụ dạy học
chương IV“Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975” theo hướng phát
triển năng lực học sinh
2.3.1. Yêu cầu của việc sưu tầm và biên tập các đoạn phim tài liệu
- PTL được sử dụng để biên tập phải có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng và phải
đảm bảo tính chân thực của sự kiện LS, tuyệt đối không được sử dụng các đoạn
PTL đã bị xử lý kỹ thuật để chỉnh sửa và làm thay đổi nguyên bản. Nguồn gốc,

xuất xứ của PTL càng rõ ràng, cụ thể, đáng tin cậy thì tính khoa học của các
đoạn PTL cũng như sự thuyết phục đối với HS càng có giá trị.
- PTL được chọn lọc để biên tập phải tiêu biểu, điển hình, đảm bảo chất
lượng hình ảnh và phải dựa trên cơ sở mục tiêu, kiến thức cơ bản của nội dung
bài học LS ở trường PT cũng như tính vừa sức với trình độ nhận thức, xúc cảm
của đối tượng HS cụ thể.
- Nội dung, hình ảnh của PTL phải đảm bảo quan điểm tư tưởng Mác xít và
phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước. PTL về các sự kiện LS
được tìm thấy trên Internet tuy rất phong phú song cũng rất đa dạng và phức tạp,
nhất là về tính chân thực và tính tư tưởng của hình ảnh. Do đó, cần thận trọng
trong việc sưu tầm, chọn lọc PTL vì góc quay các hình ảnh LS thường bị chi
phối bởi các quan điểm giai cấp khác nhau, thậm chí cịn bị xử lý bằng kỹ thuật
số một cách có chủ ý nhằm xuyên tạc, bóp méo sự thật LS.
- Việc xác định bố cục biên tập PTL không được tùy tiện mà phải cụ thể,
mạch lạc về bố cục và thể hiện được nội dung cơ bản của LS cũng như ý tưởng
sư phạm theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất của HS. Thời lượng PTL đã
được biên tập phải phù hợp với kế hoạch dạy học, không nên dài quá một phút.
GV cần quan tâm hướng dẫn, tổ chức HS chủ động sưu tầm, biên tập PTL phục
vụ DHLS dưới dạng các bài tập nhóm để chuẩn bị cho bài nội khóa hay trong
hoạt động ngoại khóa,…
25


2.3.2. Minh họa việc sưu tầm và biên tập các đoạn phim tài liệu
Trong điều kiện khuôn khổ của sáng kiến có hạn, tơi chỉ trình bày một minh
họa về việc sưu tầm và biên tập các đoạn PTL phục vụ DHLS Việt Nam giai
đoạn 1954 -1975:
* Trong bài 21“Xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, đấu tranh chống đế
quốc Mĩ và Chính quyền Sài Gịn ở miền Nam (1954 – 1965)” (SGK lớp 12 –
chương trình chuẩn), kiến thức cơ bản của mục I.Tình hình và nhiệm vụ nước ta

sau hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dươngđược chọn để sưu tầm và biên
tập PTL là sự kiện Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra
mắt nhân dân Thủ đơ và miền Bắc hồn tồn giải phóng; Mĩ thay chân Pháp,
dựng lên chính quyền tay sai Ngơ Đình Diệm ở miền Nam, âm mưu chia cắt
Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mĩ.
Những nội dung trên được phản ánh khá rõ trong nhiều đoạn khác nhau của
bộ PTL nhiều tập “The Vietnam War”, phụ đề tiếng Việt, tập 1 (1858 - 1961) với
độ dài 1 giờ 24 phút [53] và PTL “Việt Nam: Cuộc trường chinh tới hồ bình”
[51] với độ dài 1 giờ 34 phút. Sau khi xem qua hai bộ phim,tôi
đã sử dụng phần mềm Format Factory để cắt thành các phân đoạn phim nhỏ có
nội dung về: Sơ đồ tập kết chuyển quân từ hai phía (phút 1:00:12); hình ảnh
nhân dân Hà Nội chào đón đồn qn giải phóng vào tiếp quản Thủ đơ (phút
0:24:03); Chính quyền Ngơ Đình Diệm thành lập ở miền Nam và được sự hậu
thuẫn của Mĩ về nhiều mặt (phút 1:07:46); Các hoạt động thi đua sản xuất của
nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam củng cố, chuẩn bị lực lượng sẵn sàng
đánh Mĩ (phút 0:28:40). Các đoạn phim trên cũng được nối bằng phần mềm
Format Factory với tổng thời lượng dài 1 phút 20. Đoạn phim này có thể được
trình chiếu riêng như một phương tiện trực quan hay chèn vào bài giảng điện tử.
Đoạn PTL đã biên tập phản ánh sát hợp trọng tâm kiến thức của mục I, do
đó, khi theo dõi đoạn phim, HS sẽ cảm thấy giờ LS học sinh động, hấp dẫn và có
hiểu biết rõ hơn tình hình hai miền Nam -Bắc Việt Nam sau hiệp định Giơnevơ
với: diễn biến tập kết chuyển qn từ hai phía trên bản đồ; khơng khí tưng bừng,
phấn khởi của nhân dân Hà Nội được đón chào các chiến sĩ giải phóng vào tiếp
quản Thủ đơ; Diệm tun bố xây dựng chính quyền Sài Gịn ở miền Nam Việt
Nam và những hoạt động hậu thuẫn Diệm của chính phủ Mĩ; tinh thần lao động
hăng say của nhân dân miền Bắc trong những ngày đầu được giải phóng và
khơng khí chuẩn bị khẩn trương của các tầng lớp nhân dân miền Nam sẵn sàng
đánh trả mọi âm mưu phá hoại Hiệp định Giơnevơ của Mĩ và chính quyền Diệm.

26



III. PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG CÁC ĐOẠN PHIM TÀI LIỆU THEO
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG
IV “VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975”- LỚP 12 THPT

3.1. Yêu cầu sử dụng phim tài liệu nhằm phát triển năng lực học sinh
trong dạy học lịch sử ở trường THPT
Ở các trường PT có điều kiện trang thiết bị kỹ thuật dạy học thuận lợi thì việc
sử dụng PTL trong DHLS đã được một số GV quan tâm thực hiện. Tuy nhiên, để
PTL được khai thác một cách hiệu quả, không chỉ nhằm minh họa LS mà cịn góp
phần bổ sung thơng tin, đem lại nhiều cảm xúc LS và phát triển các năng lực của
HS, đòi hỏi quá trình sử dụng PTL phải tuân thủ một số yêu cầu sau:
Thứ nhất: Sử dụng phim tài liệu phải hướng đến mục tiêu của bài học. Mục
tiêu của bài học bao gồm các mặt: cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng bộ môn
(các năng lực nhận thức, thực hành, tư duy) và hình thành thái độ (tư tưởng, tình
cảm, đạo đức). Việc xác định mục tiêu của bài học phải đảm bảo sự thống nhất
giữa các mặt về kiến thức, kỹ năng, thái độ của bài học, của tồn bộ chương
trình, khố trình; phù hợp với khả năng nhận thức của HS cũng như điều kiện
dạy học của mỗi địa phương,…Việc xác định đúng mục tiêu của bài học sẽ giúp
cho quá trình khai thác, sử dụng PTL được định hướng không chỉ nhằm minh
họa LS mà chủ yếu là phát triển các năng lực cũng như cảm xúc của HS.
Thứ hai: Giáo viên phải nắm vững nội dung lịch sử được phản ánh trong
phim tài liệu. Hiện nay trênInternet có rất nhiều trang thơng tin cung cấp dịch vụ
tìm kiếm phim, ảnh trong đó có nhiều PTL được xây dựng từ nhiều nguồn. Một
số GV vào Internet tìm kiếm phim ảnh và sử dụng tùy tiện trong dạy học mà
khơng chú ý tìm hiểu thêm về: nguồn PTL, phim phản ánh sự kiện gì, ở đâu, khi
nào, những nhân vật chính trong phim là ai, lời bình, đánh giá trong phim,... Khi
nắm vững nội dung LS được phản ánh trong PTL, GV mới có thể tiến hành tổ
chức các hoạt động tìm hiểu PTL theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực và

phát triển các năng lực của cá nhân, nhóm hay tập thể lớp. Mặt khác, khi GV
hiểu rõ nội dung PTL thì sẽ dễ dàng hơn trong việc kết hợp với nội dung sách
giáo khoa và các phương tiện dạy học khác trong quá trình lên lớp.
Thứ ba: GV cần định hướng cho học sinh trước khi sử dụng phim tài liệu.
Một số HS khi được xem PTL trong giờ học LS thường chỉ chú ý đến những
hình ảnh sinh động, phản ánh mặt bên ngồi của sự kiện gây sự kích thích sự tò
mò hơn là quan tâm đến những điều hàm ý bên trong hay lời thoại/phụ đề cũng
như những biểu hiện tình cảm, thái độ của các nhân vật LS xuất hiện trong PTL.
Các nhà giáo dục xác nhận rằng “Tư duy luôn luôn bắt đầu từ một vấn đề hoặc
một câu hỏi, từ sự ngạc nhiên hay băn khoăn thắc mắc. Sự lơi cuốn cá nhân vào
q trình tư duy được xác định bởi tình huống có vấn đề, q trình này ln
ln hướng tới việc giải quyết một số nhiệm vụ nào đó” [25; tr.55]. Vì vậy, khi
27


sử dụng PTL cần tạo điều kiện cho HS chủ động trong việc xác định những yêu
cầu nhận thức khi xem PTL. Trên cơ sở GV gợi mở những vấn đề trọng tâm sẽ
được truyền tải trong đoạn PTL và nêu yêu cầu nhận thức cho HS sẽ giúp các em
huy động tốt nhất các giác quan kết hợp với các năng lực tư duy có định hướng
trong q trình theo dõi PTL và qua đó sẽ giải quyết được những vấn đề mà GV
đã đặt ra trước đó.
Thứ tư: GV cần chú ý tổ chức học sinh chủ động, tích cực trao đổi, thảo
luận sau khi xem phim tài liệu.Mục đích của việc trình chiếu PTL trong DHLS,
như đã nói, khơng phải để minh họa LS hay gây sự tò mò, hứng thú nhất thời
cho HS mà GV phải biết sử dụng PTL như một phương tiện truyền thông có
nhiều ưu điểm trong việc tổ chức các hoạt động dạy học tích cực nhằm phát triển
tốt các năng lực của HS. Trên cơ sở các yêu cầu đã đặt ra trước khi trình chiếu
PTL, GV có thể tổ chức cá nhân hoặc nhóm HS trao đổi thảo luận với nhau, qua
đó giúp HS nắm được và ghi nhớ những kiến thức cơ bản của bài học, đồng thời
hiểu rõ bản chất, các mối liên hệ của sự kiện cũng như phát triển các năng lực và

tạo được cảm xúc LS cho HS
Thứ năm: Cần đảm bảo trình chiếu đúng lúc trong thời lượng cho phép và
tránh những biểu hiện lạm dụng kỹ thuật. Việc sử dụng PTL trong DHLS sẽ đạt
được hiệu quả cao đối với nhận thức của HS khi GV biếtchọn thời điểmtrình
chiếu đúng lúc, phù hợp với nội dung và tiến độ của bài học. Việc trình chiếu
PTL cũng cần chú ý thời lượng cho phép, thông thường chỉ nên giới hạn thời
gian từ 1 đến 2 phút, có như vậy mới khơng ảnh hưởng đến kế hoạch tiến hành
bài học và còn đảm bảo thời gian tổ chức các hoạt động dạy học khác với các
phương tiện, pháp dạy học khác. Các đoạn PTL có thể được trình chiếu đơn lẻ
hoặc chèn vào bài giảng điện tử, do đó, cần hạn chế các hiệu ứng mang tính lạm
dụng kỹ thuật làm cho HS tị mị, mất tập trung khi theo dõi PTL và không nắm
được những nội dung có giá trị đối với nhận thức, cảm xúc LS cũng như việc
phát triển năng lực của HS.
Thứ sáu: Cần kết hợp sử dụng PTL một cách hợp lý với các phương tiện
dạy học khác. Trong quá trình DHLS, GV có thể sử dụng nhiều phương tiện dạy
học khác nhau tùy theo nội dung, yêu cầu của bài học cụ thể và điều kiện trang
thiết bị dạy học của mỗi địa phương. Mỗi phương tiện dạy học đều có những ưu
nhược điểm riêng và mỗi giờ học đều đòi hỏi GV phải biết sử dụng hợp lý các
phương tiện dạy học. Trong điều kiện dạy học hiện nay của nhiều trường THPT,
việc sử dụng PTL trong bài học LS là khá thuận lợi và có tác động tích cực đến
việc nâng cao hiệu quả dạy học, tuy nhiên, không phải nội dung nào của bài học
cũng cần sử dụng PTL mà đòi hỏi GV phải biết kết hợp sử dụng hợp lý với các
phương tiện dạy học khác nhằm phát huy ưu điểm và khắc phục hạn chế của mỗi
loại.
28


3.2. Biện pháp sử dụng phim tài liệu nhằm phát triển năng lực học sinh
trong dạy học chương IV “ Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975”-lớp 12 THPT


3.2.1. Sử dụng phim tài liệu kết hợp với câu hỏi nêu vấn đề
Câu hỏi nêu vấn đề là những câu hỏi mang tính định hướng, có tính chất bài
tập, được GV nêu lên trước khi tiến hành nghiên cứu một kiến thức mới như
trước khi nghiên cứu một chương, một bài học mới hoặc khi bắt đầu vào học
một mục, một phần của bài, nhằm định hướng nhiệm vụ nhận thức cho HS,
hướng HS vào những kiến thức sẽ được học, những vấn đề mà qua bài học, HS
sẽ vận dụng sự hiểu biết kiến thức của bài để giải quyết. Đây là một biện pháp
quan trọng để phát huy tính tích cực học tập của HS trong nhận thức, tức là giúp
HS xác định rõ động cơ học tập. Vì vậy, khi đặt câu hỏi nêu vấn đề, GV cần phải
lựa chọn những câu hỏi mang tính trọng tâm, chứa đựng kiến thức cơ bản mà HS
cần phải nắm.
PTL khi kết hợp với câu hỏi nêu vấn đề vừa tạo hứng thú cho HS trong học
tập, vừa định hướng được nhiệm vụ cho HS, giúp các em xác định rõ mục đích
khi xem phim, tránh tình trạng các em xem phim với tinh thần “giải trí” mà
khơng quan tâm đến nhận thức nội dung cần nhận thức trong phim.
Ví dụ: Trong bài 21“Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh
chống đế quốc Mĩ và Chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 - 1965)” (sách
giáo khoa lớp 12 - chương trình chuẩn). Khi dạy mục V.1. Chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam, GV trước khi cho HS xem đoạn PTL
“Quân Mĩ tiến hànhChiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965)”, đặt câu
hỏi nêu vấn đề nhằm định hướng nhiêm vụ nhận thức cho HS về chiến lược “
Chiến tranh đặc biệt ”như: Cuối năm 1960, hình thức thống trị bằng chính
quyền tay sai độc tài Ngơ Đình Diệm bị thất bại, đế quốc Mĩ buộc phải
chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965). Vậy,
“Chiến tranh đặc biệt” là gì?, Mĩ đã có những âm mưu và thủ đoạn như thế
nào khi thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”?. Các em hãy theo dõi
đoạn PTL sau đây để giải quyết các vấn đề đó.
GV tạo liên kết đoạn phim trong bài, trình chiếu lên màn hình yêu cầu HS
quan sát và trao đổi để giải quyết câu hỏi được nêu trước đó. Trên cơ sở xem
phim kết hợp với câu hỏi nêu vấn đề, một mặt gây được sự chú ý của HS vào nội

dung bài học, mặt khác, qua việc trả lời các câu hỏi HS sẽ nắm được khái niệm
của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, biết được âm mưu, thủ đoạn của Mĩ trong
chiến lược chiến tranh này. Hình dung được về quân số, sự đầu tư của Mĩ vào
cuộc chiến tranh nói chung và “Chiến tranh đặc biệt” nói riêng.
Như vậy, với những câu hỏi nêu vấn đề mang tính chất bài tập cùng kết hợp
với PTL, góp phần phát triển năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề, thông
qua đó cịn làm cho các em tích cực theo dõi, phát triển năng lực quan sát,
29


nhận biết các sự kiện, hiện tượng LS để phục vụ cho việc giải quyết vấn đề được
GV đưa ra lúc đầu.
3.2.2. Sử dụng phim tài liệu kết hợp với bản đồ
Bản đồ được coi là một phương tiện trực quan có ý nghĩa quan trọng trong
việc dạy học mơn Lịch sử. Bản đồ thể hiện những yếu tố về vị trí địa lí, những
đặc điểm về xã hội, địa điểm dân cư, sự phát triển của các hiện tượng kinh tế xã hội. Đặc biệt, đối với bản đồ giáo khoa LS, phản ánh những địa điểm xảy ra
những biến cố LS quan trọng như các cuộc khởi nghĩa, chiến dịch cách mạng,
những sự kiện LS tiêu biểu,… có tính khái quát cao, với hệ thống kí hiệu về biên
giới quốc gia, sự phân bố dân cư, thành phố, các vùng kinh tế. Trong DHLS ở
trường PT có thể sử dụng nhiều loại bản đồ như bản đồ treo tường, bản đồ trong
sách giáo khoa LS, bản đồ câm, bản đồ giáo khoa điện tử,… Bản đồ LS nhằm
xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và khơng gian nhất định. Đồng
thời bản đồ LS cịn giúp HS suy nghĩ và giải thích các hiện tượng LS giúp các
em củng cố, ghi nhớ những kiến thức đã học.
Kết hợp sử dụng PTL với bản đồ, bên cạnh minh họa LS cịn cụ thể hóa
kiến thức LS, HS xem phim sau đó quan sát trên bản đồ giúp các em xác định
được vị trí, địa điểm diễn ra sự kiện LS một cách chính xác nhất, hiểu được nội
dung bài học được truyền tải trong đoạn phim. Khai thác kiến thức bản đồ trên
cơ sở nội dung của đoạn phim được xem, giúp củng cố cho các em về kiến thức
địa lí, giải thích các sự kiện, hiện tượng LS. GV nên lựa chọn những bản đồ

chứa đựng nội dung liên quan trực tiếp đến bài học đặc biệt cụ thể hóa được nội
dung đoạn PTL đó.
Ví dụ. Trong bài 23“Khôi phục và phát triển kinh tế xã hội ở miền Bắc,
giải phóng hồn tồn miền Nam (1973 - 1975)” (lớp 12 - chương trình chuẩn).
Khi dạy mục III.2.a. Chiến dịch Tây Nguyên, GV cho HS xem đoạn PTL “Qn
giải phóng đánh chiếm Bn Mê Thuột (3-1975)” , “Địch tháo chạy trên đường
số 7(3-1975)” trong chiến dịch Tây Nguyên kết hợp với bản đồ điện tử “Chiến
dịch Tây Nguyên”.
GV tạo liên kết giữa các đoạn PTL với bản đồ để trình chiếu lên màn hình,
yêu cầu HS theo dõi, quan sát để giải quyết các yêu cầu của bài học. Sử dụng
bản đồ điện tử “Chiến dịch Tây Nguyên” khi dạy đến nội dung hướng tiến công
chủ yếu của ta trong năm 1975 để nêu câu hỏi nhận thức : Vì sao ta chọn Tây
Nguyên làm hướng tiến cơng chủ yếu trong năm 1975?, GV có thể gợi ý cho
HS về vị trí Tây Nguyên, về lực lượng địch bố trí tại đây, về lực lượng của ta…
để từ đó HS chiếu vào bản đồ trả lời câu hỏi.
GV tiếp tục sử dụng bản đồ để nêu câu hỏi : Tại sao ta quyết định đánh
vào Buôn Mê Thuột và vì sao lấy nơi đây làm điểm tiến công chủ yếu?. Trên
cơ sở quan sát bản đồ đang trình chiếu, HS sẽ xác định được vị trí Bn Mê
30


×